Luận văn Tư tưởng chính trị cơ bản của Nho giáo và ảnh hưởng của nó đối với sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam hiện nay

Nho giáo đã từng giữ vị trí đặc biệt và có vai trò quan trọng trong đời sống tinh thần của nhân dân ta qua các giai đoạn lịch sử. Nho giáo phát triển trong mối quan hệ với Phật giáo và Lão giáo đã tác động mạnh mẽ và ảnh hưởng sâu sắc đến mọi mặt của đời sống xã hội Việt Nam. Ngày nay, mặc dù cơ sở kinh tế - xã hội của Nho giáo đã bị thủ tiêu, nhưng một số yếu tố của Nho giáo vẫn còn tồn tại. Những yếu tố đó đã và đang ảnh hưởng trực tiếp đến sự nghiệp đổi mới ở nước ta. Để đưa sự nghiệp dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh đến thành công, chúng ta không thể không loại trừ những yếu tố tiêu cực, đồng thời cũng phải kế thừa, phát huy những yếu tố tích cực của Nho giáo trên các lĩnh vực của đời sống xã hội.

pdf91 trang | Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 5635 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Tư tưởng chính trị cơ bản của Nho giáo và ảnh hưởng của nó đối với sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
y không có nghĩa là chúng ta xóa bỏ cả những nhân tố tích cực của nó. Nhiệm vụ của cách mạng văn hóa tư tưởng là kiên quyết quét sạch những tàn dư tư tưởng đang cản trở bước tiến lịch sử của xã hội ta. Nhưng chủ nghĩa Mác hoàn toàn khác với chủ nghĩa hư vô. Nó không gạt bỏ cái cũ một cách mù quáng. Nó đòi hỏi giai cấp công nhân phải tiếp thu những thành tựu của nhân loại và đứng ở đỉnh cao của văn hóa loài người để xây dựng xã hội mới. Chúng ta không quan niệm cái cũ, cái xưa là tất cả những gì đã hoàn toàn mất hẳn trong quá khứ, không để lại điều gì tốt đẹp cho hiện tại và sau này. Mặt khác, chúng ta cũng không quan niệm cái mới, cái hiện nay là hoàn toàn tự phát, không liên quan gì đến quá khứ. Trong cái cũ, có những phần mất đi, cũng có những phần vẫn tồn tại và phát triển. Trong cái mới có phần kế thừa của cái cũ, có phần nảy sinh do những điều kiện hoàn cảnh mới. Mỗi đất nước, xã hội, dân tộc đều có lịch sử, truyền thống, đi từ cái ban đầu xa xưa đến cái mới mẻ hiện đại. Tìm hiểu cái cũ, không phải để quay về với cái cũ muôn đời, cũng không phải để phủ nhận sạch trơn mà để kế thừa. Từ lâu, Đảng ta đã đề ra việc phê phán và kế thừa đối với yếu tố truyền thống của dân tộc, trong đó có vấn đề Nho giáo. Chúng ta đã nhấn mạnh phê phán, kế thừa vì mục đích phát triển xã hội. Chúng ta cũng đã nhấn mạnh tính lịch sử - tức là phương pháp khoa học khi nghiên cứu, phê phán. Tuy nhiên, trên thực tế không phải lúc nào cũng làm được như vậy. Chúng ta sống ở một nước Đông á, trong quá khứ có nhiều vấn đề gắn bó với Nho giáo, thuận lợi của chúng ta là dễ am hiểu, thông thuộc, nhưng cũng có trở ngại là khó khách quan hóa để nhận thức. Vì vậy, dễ dẫn tới tình trạng phê Nho theo cách Nho. Việc phê phán và kế thừa Nho giáo vì thế phải dựa trên cơ sở phương pháp biện chứng mácxít. Học tập phương pháp biện chứng của Hồ Chí Minh khi kế thừa Nho giáo Trên con đường lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Hồ Chí Minh đã kế thừa Nho giáo một cách biện chứng. Nhiều khái niệm của Nho giáo được Người kế thừa và cải biến để những khái niệm ấy chứa đựng một tư tưởng mới với nội dung mới, phục vụ cho sự nghiệp cách mạng. - Năm 1948, Người mở đầu "Mười hai điều răn" cán bộ, bằng câu "nước lấy dân làm gốc" và kết thúc bằng câu "gốc có vững cây mới bền, xây lầu hạnh phúc trên nền nhân dân". Đó là câu "Dân vi bang bản" của Nho giáo. - Người dặn dò các đảng viên cộng sản phải là người "giàu sang không thể quyến rũ, nghèo khổ không thể chuyển lay, uy lực không thể khuất phục". Đó là câu của Mạnh Tử khi nói về phẩm cách của người đại trượng phu: "Phú quý bất năng dâm, bần tiện bất năng di, uy vũ bất năng khuất". - Năm 1953, trong lời bế mạc lớp chỉnh huấn của cán bộ trí thức, Người nói: Chúng ta phải lấy câu "chính tâm tu thân" để "trị quốc bình thiên hạ". - Năm 1955, nói về việc vận động đẩy mạnh sản xuất, Người dẫn câu châm ngôn "dân dĩ thực vi tiên" của nhà Nho [42, tr. 27]. Ngoài ra, Hồ Chí Minh còn sử dụng nhiều câu châm ngôn quen thuộc khác của Nho gia. Những câu "Cần kiệm liêm chính, chí công vô tư", "Trung với nước, hiếu với dân" cũng là rút ra trong kho tàng đạo đức của Nho giáo. ở đây, Người đã gạt bỏ cái cốt lõi nhất của Nho giáo là trung thành tuyệt đối với chế độ phong kiến và ông vua chuyên chế. Sự khác nhau căn bản giữa Khổng Tử và Hồ Chí Minh, giữa học thuyết Nho giáo với mục tiêu của Cách mạng tháng Tám là ở chỗ cái mà Nho giáo tôn thờ chính là cái cách mạng lên án và lật đổ. Hồ Chí Minh không chấp nhận chữ Trung của Nho giáo, không thể chấp nhận lòng trung thành tuyệt đối của nhân dân bị áp bức với chính kẻ áp bức mình. Cách mạng đặt lại vị trí của nhân dân trong sự nghiệp giải phóng dân tộc và tự giải phóng cho bản thân mình. Ngược lại với Nho giáo vốn coi nhân dân là cỏ rác, là đối tượng để sai khiến, Hồ Chí Minh đòi hỏi người cán bộ phải là "đày tớ của nhân dân", phải học hỏi nhân dân, yêu quý nhân dân. Với tinh thần ấy, cách mạng đã xây dựng được khối đại đoàn kết toàn dân, biến nhân dân thành sức mạnh vô địch để chiến thắng kẻ thù. Trong hai cuộc kháng chiến đầy gian lao thử thách, Hồ Chí Minh đã tiếp thu, vận dụng khá nhiều kinh nghiệm của Nho giáo trong việc giáo dục đạo đức và phát động phong trào của nhân dân. Người thường "cách mạng hóa" những lời răn dạy của Nho giáo, hướng vào mục tiêu giải phóng dân tộc. Như vậy, chúng ta cần học tập thái độ của Hồ Chí Minh đối với việc vừa khai thác những nhân tố hợp lý của Nho giáo, vừa lên án những nét tiêu cực của nó. Nắm vững phương pháp biện chứng mácxít và tư tưởng Hồ Chí Minh trong việc nhận thức, đánh giá những giá trị tích cực và tiêu cực của Nho giáo giúp chúng ta có được cái nhìn khách quan, khoa học, tránh những sai lầm đáng tiếc. 3.1.2. Phân biệt rõ những yếu tố tích cực và tiêu cực của Nho giáo với những yếu tố tích cực và tiêu cực mới nảy sinh từ kinh tế thị trường Hiện nay, những yếu tố tích cực và tiêu cực của Nho giáo tiếp tục tồn tại đan xen với những yếu tố tích cực và tiêu cực của kinh tế thị trường. Tuy vậy trong nhận thức, cần có sự phân biệt rõ ràng để chúng ta nhìn nhận rõ hơn những yếu tố tích cực của Nho giáo cần phát triển cũng như những phản giá trị cần gạt bỏ. Quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trường, thực hiện chính sách mở cửa ở nước ta trong thời gian qua cho thấy: Cơ chế thị trường đã phát huy tác dụng tích cực to lớn đến sự phát triển kinh tế - xã hội. Nó chẳng những không đối lập mà còn là một nhân tố khách quan cần thiết của việc xây dựng và phát triển đất nước theo con đường xã hội chủ nghĩa. Mặt khác cơ chế thị trường có những tác động tiêu cực mâu thuẫn với bản chất của chủ nghĩa xã hội [12, tr. 26]. Trước hết có thể thấy, kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta đã góp phần to lớn trong việc giải phóng sức sản xuất xã hội, tăng năng suất lao động, tạo tiền đề vật chất để nâng cao đời sống của nhân dân. Kinh tế thị trường kích thích tính tích cực và tiềm năng sáng tạo của con người, hình thành một cách phổ biến các nhân cách độc lập, phát triển tính tự chủ của cá nhân. Kinh tế thị trường là nơi đánh giá khách quan sản phẩm hàng hóa, tạo sự sàng lọc tự nhiên với hàng hóa và con người, buộc con người phải quan tâm đến chất lượng sản phẩm, hiệu quả công việc nếu muốn tồn tại và phát triển. Đây cũng là nơi buộc các chủ thể kinh tế phải năng động sáng tạo, thường xuyên chú ý cải tiến kỹ thuật, hợp lý hóa phương pháp làm việc để đạt hiệu quả cao, đáp ứng ngày một tốt hơn nhu cầu đa dạng của xã hội. Kinh tế thị trường với việc xóa bỏ chủ nghĩa bình quân, thực hiện phân phối theo lao động sở hữu... đã và đang tạo cơ sở khách quan để thực hiện tự do, bình đẳng, xóa bỏ đặc quyền đặc lợi trong thời bao cấp, đem lại cách nhìn mới về mối quan hệ giữa lợi ích (nhất là lợi ích kinh tế) với đạo đức. Kinh tế thị trường tạo môi trường để mỗi người có thể làm giàu cho mình và đóng góp vào sự phát triển của đất nước, khắc phục nguy cơ tụt hậu về kinh tế so với các nước trong khu vực và trên thế giới. Sự tăng trưởng về kinh tế do cơ chế thị trường đem lại bảo đảm cơ sở kinh tế cho việc thực hiện chính sách xã hội (xóa đói giảm nghèo, giải quyết việc làm, chăm sóc sức khỏe cộng đồng, phát triển giáo dục...) và các phong trào nhân đạo khác. Bên cạnh đó, kinh tế thị trường cũng chứa đựng những khuyết tật, tác động tiêu cực đến đời sống xã hội. Kinh tế thị trường kích thích mạnh mẽ việc tìm kiếm lợi nhuận tối đa nên đã dẫn đến khuynh hướng ít quan tâm đến những nhu cầu cơ bản của xã hội mang lại lợi nhuận thấp. Việc chạy theo lợi nhuận thuần túy có thể gây ra hậu quả xấu về môi trường sinh thái, an ninh quốc gia và những vấn đề văn hóa - xã hội khác. Sự phân hóa giàu nghèo quá mức dẫn tới những bất công xã hội cũng là do mặt trái của kinh tế thị trường gây ra. Các loại tệ nạn xã hội có nguyên nhân từ mặt trái của kinh tế thị trường đã và đang gây nên hậu quả nghiêm trọng trong đời sống xã hội. Tham nhũng - tệ nạn của mọi tệ nạn đã và đang là quốc nạn. Điển hình là vụ Tamexco được coi là một trong những vụ án tham nhũng lớn nhất từ trước đến nay với 22 bị cáo hầu hết là cán bộ nhà nước, làm thiệt hại số tiền của Nhà nước và nhân dân lên đến 466 tỷ đồng. Vụ án FPCO - Minh Phụng là vụ xâm phạm tài sản XHCN cực kỳ nghiêm trọng với tổng số tiền bị chiếm đoạt là 3.547 tỷ 204 triệu đồng và 25 triệu 430 nghìn USD [16, tr. 8]. Hậu quả do nó gây ra không chỉ đặc biệt lớn về tài sản mà còn thiệt hại về con người, ảnh hưởng xấu trên nhiều lĩnh vực: Kinh tế, chính trị, xã hội, nhất là lĩnh vực tiền tệ, ngân hàng. Các hiện tượng buôn lậu, làm hàng giả, tệ nạn ma túy, mại dâm... có chiều hướng gia tăng. Không thể lý giải rằng những hiện tượng tiêu cực trên là tàn dư của Nho giáo còn rơi rớt lại trong đời sống xã hội, mà phải thẳng thắn thừa nhận đó là những hiện tượng tiêu cực nảy sinh từ mặt trái của kinh tế thị trường, từ những sơ hở trong hệ thống pháp luật, trong quản lý kinh tế xã hội. Vì vậy Đảng, Nhà nước cần có chủ trương, đường lối đúng đắn để tạo ra hành lang pháp lý cho cạnh tranh kinh tế lành mạnh, tạo điều kiện, tạo cơ hội cho tất cả mọi người, mọi thành phần kinh tế sao cho họ có thể tham gia vào quá trình kinh tế một cách bình đẳng, đồng thời chú ý đến phát triển xã hội một cách toàn diện theo hướng kết hợp hài hòa tăng trưởng kinh tế với công bằng xã hội, phát triển kinh tế với phát triển văn hóa xã hội để đạt mục tiêu cao nhất là phát triển toàn diện con người. Đây là vấn đề hết sức phức tạp, là một trong những nội dung chủ yếu nhất của đường lối phát triển đất nước theo định hướng XHCN. Để giải pháp vấn đề này có hiệu quả, Đảng, Nhà nước phải phát huy trí tuệ toàn Đảng, toàn dân ở mức cao nhất để nhận thức và vận dụng quy luật của đời sống hiện thực, từ đó xác định những bước đi đúng đắn trong thực tiễn. 3.2. Giải pháp tổ chức thực hiện 3.2.1. Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền XHCN, thực hiện dân chủ hóa trong toàn xã hội Xây dựng, hoàn thiện nhà nước pháp quyền Hơn một ngàn năm Bắc thuộc cùng với ảnh hưởng của tư tưởng Đức trị Nho giáo - đó là quãng thời gian rất dài hình thành nên tập quán sống theo lệ làng chứ không theo pháp luật của người dân Việt Nam. Trong các thế kỷ tiếp theo, khi nước nhà đã giành được độc lập, nhà nước và pháp luật phong kiến ở nhiều giai đoạn trở thành vũ khí áp bức bóc lột nhân dân lao động. Điều đó tạo thêm lòng căm thù, thái độ tiêu cực của đông đảo quần chúng đối với pháp luật. Cho đến hiện nay, nhân dân ta vẫn còn tồn tại thói quen sống theo công thức đạo đức đã trở thành tập quán chứ không sống theo pháp luật. Xây dựng, hoàn thiện nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam là giải pháp nhằm khắc phục triệt để tình trạng đó. Trước mắt cần tập trung vào những vấn đề sau: - Hoàn thiện hệ thống pháp luật Hệ thống pháp luật nước ta vừa phải thể hiện ý chí của đại đa số nhân dân lao động dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản, vừa phải ghi nhận đầy đủ chính xác những giá trị mà xã hội có, xã hội cần và xã hội ủng hộ. đó là các giá trị đạo, những nét đẹp truyền thống, những tập quán tốt đẹp được kết tinh từ hàng ngàn năm lịch sử. Các giá trị đó vừa là lợi ích cá nhân, vừa của dân tộc, vừa là của nhân loại, đồng thời phải "dễ hiểu, dễ thực hiện, bảo đảm tính khả thi cao" [37, tr. 3 - 8]. Hệ thống pháp luật đầy đủ và đồng bộ sẽ khắc phục tình trạng thi hành pháp luật dựa theo những lẽ phải, những đạo lý trừu tượng, sẽ không còn kẽ hở để nhiều kẻ lợi dụng. Từ đó tính hiệu quả và nghiêm minh của pháp luật được tăng lên. - Tiếp tục cải cách nền hành chính nhà nước: Cải cách hành chính được coi là nhiệm vụ trung tâm của cải cách bộ máy nhà nước, bởi hành chính là khâu tổ chức thực hiện đường lối chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Bộ máy hành chính là nơi thể hiện bản chất ưu việt của nhà nước kiểu mới, đồng thời là nơi tập trung nhất, trực tiếp nhất và khuyết tật của hệ thống chính trị nói chung, của bộ máy nhà nước nói riêng. Trên cơ sở bộ máy hành chính đủ mạnh mới thực hiện tốt việc quản lý xã hội, tạo ra môi trường pháp lý lành mạnh để người dân "sống và làm việc theo pháp luật". Cải cách hành chính phải được tiến hành trên cơ sở pháp luật và tiến hành động bộ trên cả ba mặt: thể chế hành chính, tổ chức bộ máy và xây dựng, kiện toàn đội ngũ cán bộ công chức hành chính; trong đó việc kiện toàn đội ngũ cán bộ công chức có ý nghĩa quan trọng. Hiện nay, trong một bộ phận không nhỏ cán bộ viên chức bộ máy Đảng, Nhà nước và Đoàn thể vẫn còn "tệ quan liêu, cửa quyền, tham nhũng, xa dân, trở thành những ông quan cách mạng" [36, tr. 7-8]. Tình trạng đặc quyền, đặc lợi vẫn còn tồn tại dưới nhiều hình thức khác nhau... Đó là tàn dư của tư tưởng Nho giáo còn rơi rớt lại. Vì vậy phải xây dựng đội ngũ cán bộ công chức hành chính có năng lực thực thi công vụ, có phẩm chất đạo đức trong sáng, thanh liêm chính trực để bộ máy đó có khả năng ngăn chặn nạn cửa quyền, tham nhũng, hối lộ, vi phạm pháp luật và đủ sức quản lý, giải quyết kịp thời, đúng thẩm quyền những vấn đề cuộc sống đặt ra và nhân dân đòi hỏi. Để khắc phục tình trạng quan liêu, tham nhũng, khắc phục tình trạng các thủ tục hành chính rườm rà trong bộ máy nhà nước cần phải xóa bỏ cơ chế "xin, cho", quy định rõ quyền hạn và trách nhiệm của các cá nhân, xử lý nghiêm minh những hành vi vi phạm pháp luật, không nên xử phạt theo lối hành chính, thuyên chuyển công tác hoặc cách chức như thường thấy hiện nay. Từ đó, tạo được niềm tin của nhân dân vào tính công minh của pháp luật XHCN, mới nâng cao được ý thức pháp luật cho nhân dân, khắc phục tình trạng coi thường pháp luật, thờ ơ với pháp luật. Chỉ có như vậy, tàn dư của Nho giáo mới được khắc phục triệt để. - Tiếp tục cải cách tổ chức hoạt động tư pháp: Hoạt động của cơ quan tư pháp nhằm bảo đảm cho pháp luật được thực hiện đầy đủ, nghiêm minh, đảm bảo cho mọi công dân bình đẳng trước pháp luật. Tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp trong những năm gần đây đã có những tiến bộ đáng kể. Vị trí vai trò của cơ quan tư pháp ngày càng được khẳng định. Tuy nhiên có thể nói, hiệu quả hoạt động nói chung của cơ quan tư pháp còn hạn chế. Đội ngũ cán bộ tư pháp còn thiếu về số lượng, yếu về chất lượng, sự phối hợp giữa các cơ quan tư pháp còn thiếu chặt chẽ, vai trò của nhân dân và các đoàn thể quần chúng trong hoạt động tư pháp chưa được phát huy đầy đủ. Cải cách cơ quan tư pháp hiện nay đòi hỏi phải gắn với toàn bộ hệ thống chính trị, phải bảo đảm cho các cơ quan tư pháp thực sự độc lập, chỉ tuân theo pháp luật. Điều đó đòi hỏi đội ngũ cán bộ công chức ngành tư pháp phải giỏi về chuyên môn, nghiệp vụ, có phẩm chất đạo đức trong sáng, không bị khuất phục bởi uy quyền tiền bạc, không để tình lấn lý, phải là những người mẫu mực trong việc tuân thủ hiến pháp, pháp luật, đại diện cho công lý. Thực hiện dân chủ hóa trong toàn xã hội Khắc phục ảnh hưởng tiêu cực của Nho giáo đối với lĩnh vực chính trị còn đòi hỏi phải thực hiện dân chủ hóa trong toàn xã hội. Nền dân chủ XHCN vừa là mục tiêu, vừa là động lực phát triển của xã hội ta. Xây dựng nền dân chủ XHCN là đòi hỏi tất yếu khách quan của quá trình cách mạng XHCN, đồng thời nền dân chủ XHCN từng bước được xây dựng, hoàn thiện sẽ tạo điều kiện cho việc đấu tranh khắc phục mọi ảnh hưởng tiêu cực của tư tưởng Nho giáo trong đội ngũ cán bộ cũng như trong toàn xã hội. Thực tiễn xây dựng CNXH ở nước ta trong thời gian qua cho thấy, nước ta chưa thực hiện được một cách đầy đủ quyền dân chủ của nhân dân mà cách mạng xác lập. "Trong xã hội vẫn còn không ít hiện tượng mất dân chủ, dân chủ hình thức, có nơi rất nghiêm trọng. Bệnh quan liêu, tư tưởng phong kiến, gia trưởng còn nặng" [11, tr. 42]. Những khuyết điểm đó cho thấy mất dân chủ đi liền với tư tưởng phong kiến Nho giáo, góp phần tạo nên những hiện tượng tiêu cực, trì trệ trên các mặt đời sống xã hội. Vì vậy, thực hiện dân chủ hóa trong toàn xã hội là giải pháp tích cực nhằm hạn chế những hiện tượng tiêu cực trên. Dân chủ hóa XHCN có nội dung cơ bản là xây dựng nền dân chủ XHCN và xác lập những điều kiện cần thiết để nhân dân thực hiện quyền làm chủ của mình một cách thực sự, đầy đủ, làm cho dân chủ từng bước đi sâu vào mọi mặt đời sống xã hội. Tác dụng của việc thực hiện dân chủ hóa ở chỗ, trước hết nó làm cho nhân dân thực thi được quyền lực của mình. Mọi quyền lực đều xuất phát từ nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; nhân dân kiểm tra, giám sát, phản biện. Quyền lực của nhân dân được thực hiện tập trung thống nhất ở Quốc hội - cơ quan quyền lực cao nhất do dân bầu ra, được nhân dân ủy quyền, gắn liền với sự kiểm tra, giám sát, phản biện của nhân dân. Đây là cơ chế vừa chặt chẽ, vừa linh động, cho phép kết hợp đúng đắn tính tự giác, tính năng động vươn lên của cá nhân dưới sự kiểm tra giám sát, phê phán của nhân dân. Cơ chế này cho phép phát hiện và khắc phục kịp thời mọi biểu hiện tiêu cực ở cán bộ, nhất là các bệnh giáo điều, quan liêu, gia trưởng những căn bệnh có nguồn gốc từ xã hội phong kiến Nho giáo hàng năm về trước. Dân chủ hóa là quá trình phát huy mọi năng lực sáng tạo, tích cực của mọi thành viên trong xã hội nên nó có khả năng chống lại mọi hiện tượng bảo thủ, trì trệ, phá vỡ mọi thành kiến, đố kỵ, bè phái, cục bộ, đẳng cấp, đặc quyền đặc lợi. Dân chủ hóa tiến tới sự thực hiện rộng rãi nền dân chủ XHCN, tự nó tạo ra cơ chế thúc đẩy việc làm chủ của mỗi con người và khả năng đóng góp của họ. Như vậy thực hiện dân chủ hóa XHCN vừa tạo ra môi trường xã hội rộng lớn để thực hiện dân chủ đầy đủ hơn, vừa giáo dục dân chủ cho cán bộ và nhân dân, vừa tạo ra động lực bên trong thúc đẩy mỗi con người suy nghĩ và hành động theo những giá trị văn minh của dân chủ XHCN đồng thời tạo ra cơ chế xã hội năng động, chặt chẽ giúp cán bộ và nhân dân ta vượt lên trên sự ảnh hưởng tiêu cực của tư tưởng Nho giáo. Thực tiễn đất nước sau 15 năm đổi mới đã chứng minh: Cùng với sự nghiệp đổi mới toàn diện, dân chủ hóa XHCN đã đạt những bước phát triển quan trọng, góp phần tạo ra môi trường xã hội tốt đẹp hơn, lành mạnh hơn cho sự phát triển kinh tế, văn hóa... Để nền dân chủ xây dựng chủ nghĩa không ngừng được hoàn thiện và phát huy vai trò của nó về mọi mặt cũng như trong lĩnh vực xóa bỏ ảnh hưởng tiêu cực của tư tưởng Nho giáo, cần tập trung vào những vấn đề cơ bản sau: Thứ nhất: Thực hiện dân chủ hóa toàn diện, từng bước vững chắc phù hợp với yêu cầu tiến bộ của sự phát triển kinh tế - xã hội. - Trước hết là thực hiện dân chủ hóa trong kinh tế. Nội dung cơ bản nhất, thực chất nhất của quá trình này là thể chế hóa về mặt pháp lý các yếu tố của cơ chế kinh tế mới để thực hiện quyền công dân trong hoạt động kinh tế, bảo đảm và tôn trọng các lợi ích chính đáng của người lao động kinh tế, bảo đảm và tôn trọng các lợi ích chính đáng của người lao động và chủ nhân các thành phần kinh tế, nhằm tạo ra động lực phát triển mạnh mẽ và lành mạnh trong kinh tế, làm tiền đề cho mọi cải cách xã hội. Nhiệm vụ cơ bản cần giải quyết là: giải quyết hài hòa các mối quan hệ lợi ích giữa cá nhân, tập thể và xã hội trên cơ sở tôn trọng và đảm bảo lợi ích chính đáng của cá nhân, tránh khuynh hướng đối lập lợi ích cá nhân với lợi ích cộng đồng, bóp nghẹt lợi ích cá nhân, dẫn đến tình trạng thủ tiêu động lực sáng tạo của con người. - Dân chủ hóa trong kinh tế phải gắn với dân chủ hóa trong chính trị, tư tưởng, văn hóa. Để đảm bảo dân chủ trong kinh tế không thể thiếu dân chủ trong chính trị. Chính trị là biểu hiện tập trung của kinh tế. Quyền dân chủ trong kinh tế trước hết được quy định từ chính trị và được triển khai trên thực tế nhờ hàng loạt chính sách của Nhà nước. Không thể có dân chủ trong kinh tế nếu không có dân chủ trong chính trị và ngược lại. Dân chủ hóa đời sống chính trị ở nước ta hiện nay đòi hỏi phải xóa bỏ tình trạng dân chủ hình thức, làm cho mỗi người ý thức được quyền lợi trách nhiệm công dân của mình, từ đó tham gia thực sự vào các hoạt động kinh tế xã hội. Dân chủ hóa phải dẫn đến hiệu quả ngày càng cao hơn trong tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị. Phải xác lập và giữ vững vai trò lãnh đạo tuyệt đối, toàn diện của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với hệ thống chính trị. Chỉ có sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng mới đảm bảo được sự định hướng XHCN. - Dân chủ hóa trong tư tưởng, lý luận thực chất là tạo ra tự do tư tưởng thực sự. Trên cơ sở đó, những quan niệm cũ kỹ, giáo điều, rập khuôn máy móc sẽ bị phá vỡ. Thứ hai: Dân chủ hóa sinh hoạt Đảng Quá trình dân chủ hóa trong sinh hoạt Đảng không chỉ nhằm tạo ra một mẫu hình dân chủ, mà thông qua dân chủ trong sinh hoạt Đảng, Đảng có thể phát huy trí tuệ của đội ngũ cán bộ, đảng viên; bồi dưỡng năng lực phẩm chất cho họ đồng thời thực hiện việc kiểm tra, kiểm soát đối với cán bộ, Đảng viên tốt hơn. Cần nhấn mạnh chức năng kiểm tra, kiểm soát của dân chủ hóa sinh hoạt Đảng. Kiểm tra, kiểm soát hoạt động của cán bộ, đảng viên, nhất là Đảng viên ở cương vị lãnh đạo là khâu yếu trong những năm qua cũng như hiện nay. Lối sinh hoạt Đảng mang nặng tính hình thức, thiếu nội dung sát thực, kém tính phê bình và tự phê bình vẫn còn tồn tại ở nhiều cơ sở Đảng. Trong điều kiện cơ chế quản lý mới đang hình thành pháp luật còn không ít sơ hở, việc kiểm tra giám sát của Nhà nước còn kém hiệu lực, một số cán bộ, Đảng viên đã lợi dụng chức quyền của mình tham nhũng, tiêu cực... gây tôn thất lớn cho đất nước, làm mất uy tín của Đảng. Vì vậy việc kiểm tra, kiểm soát của Đảng phải được tăng cường. Chỉ khi nào dân chủ trong sinh hoạt Đảng được thực hiện một cách đầy đủ thì dân chủ hóa trong xã hội mới có thể đạt được kết quả tốt đẹp. Thứ ba: Chú trọng nâng cao trình độ dân trí, nâng cao ý thức, năng lực làm chủ cho nhân dân và đội ngũ cán bộ lãnh đạo quản lý. Thực tế cho thấy do trình độ văn hóa thấp kém mà một bộ phận không nhỏ cán bộ và nhân dân ta chưa nhận thức được đầy đủ về dân chủ. Do hiểu về dân chủ một cách chung chung, hời hợt nên trong quá trình thực hiện rất lúng túng. Thực hiện dân chủ hóa tất yếu phải bồi dưỡng nâng cao trình độ dân trí, dân chủ cho nhân dân và cán bộ, tạo cho nhân dân và cán bộ những điều kiện và năng lực hiểu đúng bản chất của dân chủ XHCN, có thói quen thực hành các chuẩn mực dân chủ, có văn hóa và nhân cách dân chủ. Cũng cần lưu ý rằng, nâng cao dân trí là yêu cầu khách quan để thực hành dân chủ nhưng chưa đủ. Phải thực hiện quyền dân chủ trong thực tế, phải quan tâm tạo điều kiện cho nhân dân có cuộc sống đảm bảo hơn. Đó chính là những biểu hiện dân chủ đích thực. 3.2.2. Phát triển nhanh và vững chắc nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần định hướng XHCN Phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần định hướng XHCN sẽ tạo ra cơ sở khách quan để khắc phục những ảnh hưởng tiêu cực của Nho giáo, đồng thời phát huy những giá trị tích cực của nó trong giai đoạn hiện nay. Phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần định hướng XHCN sẽ tạo ra tiền đề kinh tế xã hội cho việc xóa bỏ tận gốc tư tưởng cục bộ bản vị, địa phương chủ nghĩa cũng như tư tưởng bảo thủ trong cán bộ và nhân dân. Sản xuất hàng hóa đặt ra nhu cầu trao đổi trên phạm vi rộng lớn, vượt khỏi ranh giới làng xã. Sự trao đổi đó tất yếu phá vỡ tình trạng khép kín tự cung, tự cấp truyền thống, tạo ra thị trường nội địa thống nhất. Ranh giới giữa các địa phương chủ yếu mang ý nghĩa quản lý hành chính. Các địa phương muốn phát triển được không những phải mở rộng trao đổi sản phẩm với các địa phương khác mà còn phải tiến hành hợp tác, liên doanh, liên kết với nhau để tạo ra sức mạnh tổng hợp trong sản xuất, có khả năng sản xuất ra những mặt hàng có thể cạnh tranh trên thị trường. Trong điều kiện đó, tư tưởng cục bộ, tách biệt giữa các địa phương sẽ không còn điều kiện để tồn tại. Sự tác động của cơ chế thị trường làm cho tư tưởng bảo thủ, trì trệ luôn bám vào những giá trị bất biến cũng phải thay đổi. Phát triển nền kinh tế hàng hóa còn tạo ra động lực mạnh mẽ cho quá trình dân chủ hóa XHCN, khắc phục tư tưởng địa vị, gia trưởng. Trong nền kinh tế hàng hóa, mọi người đều có điều kiện lựa chọn nghề nghiệp, tự do kinh doanh theo quy định của luật pháp. Vì vậy, tiêu chuẩn đánh giá con người về căn bản thoát khỏi tình trạng công thức như căn cứ vào thành phần xuất thân, thâm niên công tác. Có thể nói nền kinh tế hàng hóa mở ra cơ hội rộng lớn cho tất cả mọi người phát triển đồng thời cho phép đánh giá con người một cách khách quan hơn, tư tưởng địa vị, gia trưởng - dấu ấn ngàn đời của Nho giáo sẽ dần dần mất đi. Phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng XHCN về thực chất là quá trình đổi mới kinh tế, là quá trình vừa phát triển lực lượng sản xuất, vừa tạo lập quan hệ sản xuất mới. Lĩnh vực phân phối - bộ phận của quan hệ sản xuất phải được coi trọng. Cần "thực hiện nhiều hình thức phân phối, lấy phân phối theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế là chủ yếu, đồng thời phân phối dựa trên mức đóng góp các nguồn lực khác vào kết quả sản xuất kinh doanh và phân phối thông qua phúc lợi xã hội" [12, tr. 92]. Các hình thức phân phối đó, nhất là hình thức phân phối theo lao động sẽ góp phần khắc phục tàn dư tư tưởng của xã hội cũ để lại như chây lười, làm ít hưởng nhiều, so bì giữa cống hiến và hưởng thụ; đồng thời kích thích tính sáng tạo và tích cực của người lao động, hình thành phong cách lao động mới. Như vậy, xây dựng và phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần định hướng XHCN là yếu tố tiên quyết để cải tạo triệt để tồn tại xã hội còn lạc hậu của nước ta hiện nay và do đó cũng là điều kiện để khắc phục các tàn dư tư tưởng Nho giáo, xây dựng tư tưởng XHCN. 3.2.3. Chủ động tham khảo kinh nghiệm khai thác Nho giáo ở một số nước châu á (Nhật Bản, Hàn Quốc, Singapore) và vận dụng có hiệu quả trong quá trình đổi mới ở Việt Nam Trong những thập kỷ gần đây, tại nhiều nước châu á, giới nghiên cứu đã đánh giá lại vai trò của Nho giáo trong sự phát triển của lịch sử, đặc biệt là trong sự phát triển kinh tế và xã hội ngày nay. Bốn nước được mệnh danh là những "Con Rồng châu á": Hàn Quốc, Đài Loan, Hồng Kông, Singapore là những nước có truyền thống Nho giáo đã phát triển với tốc độ chưa từng có. Việt Nam và những nước trên đều có những điểm tương đồng về các mặt kinh tế, chính trị, văn hóa. Với tinh thần chủ động, sáng tạo, chúng ta có thể tham khảo kinh nghiệm khai thác những giá trị tích cực của Nho giáo ở các nước này để phục vụ cho sự nghiệp đổi mới. Chúng ta có thể tham khảo phong trào "Tái sinh văn hóa và chấn hưng đạo đức Nho giáo" ở Singapore. Có thể thấy cùng với việc phát triển kinh tế và du nhập kỹ thuật phương Tây, Singapore đã phải đối phó với những tiêu cực do lối sống phương Tây gây ra như: Tội phạm, trụy lạc, ly hôn... Các tệ nạn đó ngày một gia tăng, trong khi đó truyền thống đạo đức phương Đông đặc biệt là Nho giáo ngày một mất đi. Các nhà lãnh đạo Singapore thấy rằng, cần phải khôi phục lại các giá trị phương Đông, trong đó có Nho giáo. Việc khôi phục các truyền thống tốt đẹp được bắt đầu bằng hàng loạt các phong trào kế tiếp như: - Tháng 6/1976 có phong trào "Một tháng lễ phép". Phong trào này buộc mọi người phải thực hiện thái độ lễ phép theo đúng đạo đức truyền thống. - Tháng 11/1976 có phong trào "Kính trọng người già". Phong trào buộc mọi người phải có thái độ tôn kính đối với người cao tuổi trong xã hội. - Năm 1982, giáo trình về "Lý luận Nho giáo" đã được đưa vào chương trình của học sinh năm thứ ba, thứ tư bậc Trung học. Tất nhiên khi "tái sinh về văn hóa", các nhà cầm quyền Singapore không nhằm khôi phục những tiêu cực trong tư tưởng Nho giáo mà nhằm gắn liền phong trào này với việc phát huy khả năng chuyên môn trong một xã hội có sự phát triển mạnh mẽ về kinh tế, có một đời sống đô thị hóa, một xã hội đa dân tộc và đa ngôn ngữ. Người Nhật lại khai thác Nho giáo dưới một góc độ khác. Đó là việc phát huy chủ nghĩa cộng đồng Nho giáo. Chủ nghĩa cộng đồng đã để lại dấu ấn rõ rệt trong nền kinh tế Nhật Bản. ưu điểm của chủ nghĩa cộng đồng là: Nó quy định các mối liên hệ giữa con người với con người theo bổn phận. Đó là mối liên hệ tự nhiên chứ không phải mối liên hệ dựa theo pháp luật mang dấu ấn rõ rệt của chủ nghĩa cá nhân như ở phương Tây. Chủ nghĩa cộng đồng ấy, theo ông Vandermesch được thể hiện trong cái gọi là tinh thần Nhà ở Nhật Bản. Với tinh thần đó, người công nhân xem xí nghiệp như Nhà của mình, gắn bó hết mực với xí nghiệp; các xí nghiệp cũng có sự liên kết, có trách nhiệm với nhau, kể cả trong lúc khó khăn. Nhật Bản còn khai thác truyền thống học tập, truyền thống tiết kiệm của người dân. ở đây Nho giáo đã phát huy tác dụng trong đời sống hiện đại, không những về mặt văn hóa mà còn về mặt kinh tế - xã hội. ở Hàn Quốc, Nho giáo cũng đóng vai trò tích cực trong việc phát triển kinh tế xã hội. Tinh thần hiếu học, ý thức tiết kiệm của người dân được phát huy với một ý nghĩa mới. Trên đây là kinh nghiệm khai thác Nho giáo ở các nước từng được gọi là "những con Rồng châu á". Chúng ta không quy sự phát triển thần kỳ của những nước này là do nguyên nhân truyền thống Nho giáo, nhưng chúng ta cũng thừa nhận rằng ở những nước này, Nho giáo đã góp phần quan trọng trong việc ổn định trật tự xã hội, tạo tiền đề cho kinh tế phát triển. Tham khảo kinh nghiệm khai thác Nho giáo ở những nước này, đòi hỏi chúng ta phải có tinh thần sáng tạo, bên cạnh đó cũng cần có thái độ thận trọng bởi Nho giáo với tư cách là hệ tư tưởng cũ, đã có không ít những ảnh hưởng tiêu cực đối với xã hội. Trên cơ sở đó, chúng ta có thể khai thác những giá trị tích cực của Nho giáo trên các lĩnh vực của đời sống xã hội, đặc biệt trong lĩnh vực chính trị. Về yêu cầu cơ bản của một bộ máy cai trị thì dù xưa hay nay cũng cần phải đảm bảo là "túc thực, túc binh, dân tín". Đây là mục tiêu của một nhà nước, đồng thời cũng là biện pháp cơ bản của nó. Không có ba điều ấy tất không thể cai trị được. Cũng trong vấn đề trị nước, phải xác định được lực lượng quyết định nhất trong sự thành bại, thịnh suy của một triều đại là Dân. "Dân là gốc nước, gốc bền thì nước yên". Về phẩm chất người làm chính trị, đạo Nho cũng quy định là phải có thái độ nghiêm túc đối với công việc; phải trung thực, tiết kiệm và thương yêu mọi người; khi muốn động viên nhân dân làm việc gì thì phải chú ý thời vụ. Đối với con người phục vụ cho chế độ, Nho giáo cũng đòi hỏi "kính kỳ sự nhi hậu kỳ thực", theo nghĩa hiện đại của chúng ta là hãy lo phục vụ cho tốt, đừng vội đòi hỏi đãi ngộ... Đó là những điều mà chúng ta không thể không suy nghĩ và vận dụng trong đời sống chính trị hôm nay. 3.2.4. Tiếp tục đẩy mạnh xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc Nho giáo là một bộ phận của truyền thống, không những thế còn là một bộ phận quan trọng. Trải qua hàng ngàn năm, nó đã được trao từ thế hệ này sang thế hệ khác; nó đã là cơ sở tư tưởng để xây dựng nhà nước, tổ chức xã hội, đào tạo nhân tài, phát triển văn hóa, đạo đức, phong tục tập quán v.v... Thành bại của dân tộc ta trong lịch sử đều có sự góp phần của Nho giáo. Xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc sẽ góp phần vào việc khai thác những giá trị tinh hoa của Nho giáo, đồng thời hạn chế và loại bỏ những ảnh hưởng tiêu cực của nó trong đời sống xã hội. Nền văn hóa tiên tiến là nền văn hóa thể hiện tinh thần yêu nước tiến bộ, thể hiện tinh thần nhân văn cách mạng, mang tinh thần dân chủ, đồng thời nền văn hóa đó còn phải mang tính hiện đại. Nghĩa là ngoài yếu tố hệ tư tưởng - thành tố quan trọng của nền văn hóa tiên tiến thì các yếu tố khác của nó cũng đòi hỏi ở một trình độ hiện đại: Trình độ dân trí, khoa học, công nghệ v.v... Phải dần dần tiến kịp với trình độ hiện đại của thế giới, phải hướng tới cuộc cách mạng khoa học và công nghệ để CNH, HĐH, đòi hỏi sự vận dụng sáng tạo và làm chủ các tri thức khoa học và công nghệ để xây dựng đất nước. Nâng cao trình độ tư duy khoa học, duy lý trong hoạt động kinh tế - xã hội, trong điều kiện kinh tế thị trường, giải quyết các vấn đề dân tộc đặt ra trên tầm thời đại. Nền văn hóa mới tạo ra những phẩm chất đạo đức, tâm hồn, lối sống của con người Việt Nam hiện đại ngang tầm với sự nghiệp đổi mới đất nước. Từ đó góp phần hình thành bản lĩnh của con người Việt Nam, văn hóa Việt Nam đáp ứng được yêu cầu của sự nghiệp CNH, HĐH đất nước và vững vàng trước những biến động của thời đại, những thách thức trước vận mệnh của dân tộc. Nền văn hóa mang đậm bản sắc dân tộc là nền văn hóa với sắc thái riêng, mang nét độc đáo của truyền thống, tâm hồn, cốt cách, lối sóng của một dân tộc, chứa đựng những tinh hoa của quá khứ kết hợp với những giá trị tốt đẹp của thời đại. Bản sắc văn hóa Việt Nam, theo quan niệm của Hội nghị lần thứ 5 - Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII bao gồm "những giá trị bền vững, những tinh hoa của cộng đồng các dân tộc Việt Nam được vun đắp nên qua lịch sử hàng ngàn năm đấu tranh dựng nước và giữ nước". "Đó là lòng yêu nước nồng nàn, ý chí tự cường dân tộc, tinh thần đoàn kết, ý thức cộng đồng gắn kết cá nhân - gia đình - làng xã - Tổ quốc; lòng nhân ái, khoan dung, trọng tình nghĩa, đạo lý, đức tính cần cù sáng tạo trong kinh doanh, sự tinh tế trong ứng xử, tính giản dị trong lối sống" [15, tr. 56]. Bản sắc đó chi phối toàn bộ đời sống của dân tộc Việt Nam. Trải qua mấy ngàn năm lịch sử, nó được biểu hiện rõ rệt nhất trước những thách thức của lịch sử đối với vận mệnh dân tộc. Bản sắc văn hóa Việt Nam đã bảo tồn dân tộc Việt Nam và giúp cho cộng đồng dân tộc tránh được âm mưu đồng hóa của mọi kẻ thù xâm lược trong lịch sử. Ngày nay, văn hóa Việt Nam đang trở thành nền tảng tinh thần, là mục tiêu và động lực để nhân dân Việt Nam phấn đấu vì mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh". Với tính chất tiến bộ và đậm đà bản sắc dân tộc của nền văn hóa, những giá trị truyền thống của Nho giáo sẽ được nâng lên hiện đại, sẽ được khai thác một cách hiệu quả. Nâng truyền thống lên hiện đại có nghĩa là bổ sung cho truyền thống những yếu tố mới, những tư tưởng mới, là cải tạo truyền thống trên cơ sở mới. Nâng truyền thống lên hiện đại là phát triển truyền thống, là truyền cho truyền thống một sức sống mới làm cho nó hòa nhập với hiện đại. Chỉ có như vậy, những ảnh hưởng tiêu cực của Nho giáo đối với đời sống xã hội mới được đẩy lùi, khắc phục và được loại trừ. Những tư tưởng lạc hậu như "trọng nông ức thương", coi thường khoa học kỹ thuật... sẽ không có lý do tồn tại. Ngược lại, những giá trị tốt đẹp như lòng nhân ái, khoan dung, sự coi trọng nghĩa tình, đạo lý sẽ tiếp tục được phát huy, mang cốt cách của con người Việt Nam hiện đại. 3.2.5. Chú trọng giáo dục đạo đức kết hợp với giáo dục pháp luật Đạo đức và pháp luật là những hình thái ý thức xã hội, có quan hệ kết hợp và hỗ trợ lẫn nhau do có chung một chức năng xã hội. Vì thế trong thực tế, nhiều quy tắc đạo đức được nhà nước thừa nhận đã trở thành quy phạm pháp luật và nhà nước cũng sử dụng pháp luật để bảo vệ đạo đức. Trong xã hội XHCN, pháp luật là nhân tố tác động mạnh mẽ đến sự hình thành, phát triển nền đạo đức mới; còn đạo đức lại giúp cho con người khả năng tự định hướng hành vi phù hợp với yêu cầu, đòi hỏi của pháp luật. Sự sai lệch và biến dạng của các chuẩn mực đạo đức tất yếu kéo theo tình trạng vi phạm pháp luật. Ngược lại, tuân thủ pháp luật trở thành tiêu chuẩn của đạo đức XHCN. ở nước ta, cần chú trọng giáo dục đạo đức kết hợp với giáo dục pháp luật. Cần tránh tình trạng hoặc quá nhấn mạnh giáo dục đạo đức, hoặc quá nhấn mạnh giáo dục pháp luật. Về giáo dục đạo đức: - Cần chú trọng giáo dục đạo đức truyền thống, trong đó bao hàm những giá trị đạo đức tích cực của Nho giáo. Mỗi con người Việt Nam, nhất là thế hệ trẻ đang lớn lên phải được hình thành và củng cố lòng yêu nước, lòng tự hào dân tộc. Từ đó xây dựng ý thức bảo vệ giữ gìn và phát huy các giá trị đạo đức, bản lĩnh đạo đức như là cái thể hiện tập trung nhất bản sắc văn hóa dân tộc. Lòng nhân ái, bao dung là nét đẹp cao quý trong tâm hồn con người Việt Nam, dân tộc Việt Nam. Nó được hình thành trên cơ sở tiếp nối và phát huy giá trị truyền thống đặc sắc của dân tộc, là tinh thần đoàn kết, sự gắn bó cộng đồng, tinh thần tương thân tương ái, giúp đỡ đùm bọc nhau trong lúc khó khăn hoạn nạn. Theo suốt chiều dài lịch sử dân tộc, nó trở thành đặc trưng của nhân cách, lối sống văn hóa ứng xử Việt Nam trong mỗi con người và mỗi thế hệ. Những phẩm chất cao quý khác như cần cù lao động, thông minh sáng tạo, dũng cảm bất khuất trong đấu tranh... đều được nảy sinh từ cội nguồn đó. Đó là những giá trị đạo đức, là văn hóa đạo đức sâu sắc và bền vững của các thế hệ người Việt Nam. Thông qua giáo dục đạo đức, các giá trị đó được nhân lên mãi mãi. Nên chăng trong giáo dục đạo đức hiện nay, cần chắt lọc những mặt tích cực của lễ giáo Nho giáo, đưa vào đó những nội dung mới để nó trở thành quy phạm đạo đức của cuộc sống, làm cho mọi người lễ phép với nhau, kính trên nhường dưới, tôn trọng kỷ cương phép nước. Trong nhà trường cũng nên phát huy những mặt tích cực của Lễ, làm cho truyền thống "tôn sư trọng đạo" được giữ gìn, phát huy, làm cho mọi hành vi của thầy và trò thực hiện theo Lễ, để cho "thầy ra thầy, trò ra trò". Tránh khuynh hướng hiểu Lễ đơn giản là lễ phép nên giáo dục Lễ một cách phiến diện, máy móc. Do vậy, trong nhà trường, giáo dục Lễ phải được xác định là một nội dung của giáo dục công dân, cần đưa những nội dung mới như lòng tôn kính lãnh tụ, biết quý trọng của cải vật chất và những giá trị tinh thần, lòng yêu quê hương đất nước, kính trọng lễ phép với nhân dân, có thái độ kính trọng và biết ơn sự hy sinh của các thế hệ đi trước vì độc lập, tự do của dân tộc, góp phần xây dựng và hoàn thiện nhân cách thế hệ trẻ. - Cùng với việc giáo dục giá trị truyền thống, việc giáo dục các quy tắc ứng xử, các hành vi đạo đức, hình thành văn hóa giao tiếp là một nội dung không thể thiếu của giáo dục đạo đức trong điều kiện đổi mới hiện nay. Việc giáo dục quy tắc ứng xử, các hành vi đạo đức phải hình thành và củng cố trong con người một niềm tin sâu sắc vào những giá trị đích thực và bền vững. Bên cạnh đó, giáo dục ý thức lao động cũng là một nội dung quan trọng của giáo dục đạo đức. Giá trị đạo đức của lao động là ở chỗ, thông qua lao động có ích, con người biết sống và thấy cần phải sống bằng lao động trung thực của mình. Sự thấu hiểu, cảm thông giữa những con người trong lao động là cơ sở hình thành những xúc cảm, tình cảm đạo đức. Những xúc cảm và tình cảm đạo đức đó là động lực thúc đẩy chủ thể thực hiện hành vi đạo đức nhằm sáng tạo ra các giá trị đạo đức. Có thể nói, thái độ yêu lao động là tình cảm đạo đức cơ bản đầu tiên, là cội nguồn của những phẩm chất đạo đức khác của cá nhân như tính trung thực, tính tập thể, tính kỷ luật, khiêm tốn. Vì vậy, giáo dục thái độ yêu lao động là nội dung quan trọng của giáo dục đạo đức. Giáo dục đạo đức phải được gắn liền với giáo dục pháp luật. Về giáo dục pháp luật: Pháp luật là cơ sở và là chỗ dựa cho việc hình thành đạo đức mới. Giáo dục pháp luật tạo ra khả năng thiết lập trong đời sống hàng ngày những nguyên tắc đạo đức, củng cố tình cảm, nghĩa vụ đạo đức cho mỗi con người trong tư cách công dân của mình. Thông qua việc trang bị tri thức pháp luật, hình thành niềm tin và thói quen tuân thủ pháp luật. Giáo dục pháp luật tạo ra khả năng đổi mới các quan hệ xã hội, khắc phục tư tưởng bảo thủ, ích kỷ, cục bộ, khuyến khích các hành vi tích cực và tự giác, hình thành văn hóa pháp luật cho các cá nhân, công dân. Chúng ta tiến lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN cũng có nghĩa là bỏ qua pháp luật tư sản, trong khi đó những tàn dư của tư tưởng Đức trị Nho giáo ngàn đời vẫn còn tồn tại trong nhận thức và hành động của người dân, vì vậy kết hợp giáo dục đạo đức với đào tạo pháp luật là hết sức cần thiết. Việc giáo dục và nâng cao ý thức pháp luật trong nhân dân đòi hỏi phải được thực hiện một cách đồng bộ, bằng sức mạnh tổng hợp của nhiều ngành, nhiều cấp với những phương thức và phương tiện khác nhau. Điều quan trọng trước tiên là thu hút rộng rãi nhân dân tham gia vào các hoạt động xây dựng pháp luật. Với việc tham gia hoàn thiện các văn bản pháp luật, tham gia việc giám sát và thực thi pháp luật, tự mình thực hiện nghiêm chỉnh những quy phạm pháp luật..., ý thức của nhân dân sẽ được nâng lên, không chỉ dừng lại ở mức độ hiểu biết về pháp luật mà còn thể hiện ở hành vi pháp luật. Bên cạnh đó, cần tiến hành tuyên truyền, giải thích pháp luật thông qua các phương tiện thông tin đại chúng. Việc tuyên truyền, phổ biến và giải thích pháp luật bằng các phương tiện thông tin đại chúng càng cụ thể, linh hoạt thì công tác giáo dục pháp luật càng có hiệu quả. Như vậy, chú trọng giáo dục đạo đức kết hợp với giáo dục pháp luật sẽ góp phần khai thác những giá trị đạo đức tích cực của Nho giáo, đồng thời khắc phục những hạn chế do chính tư tưởng Đức trị gây ra. ở nước ta hiện nay, cần phải tiếp tục "quản lý xã hội bằng pháp luật, đồng thời coi trọng giáo dục, nâng cao đạo đức" [12, tr. 129]. Tóm lại, lấy phương pháp biện chứng duy vật mácxít và tư tưởng Hồ Chí Minh làm cơ sở nhận thức, đồng thời phân biệt rõ những yếu tố tích c ực và tiêu cực của Nho giáo với yếu tố tích cực và tiêu cực mới nảy sinh từ cơ chế thị trường - đó là những giải pháp về mặt nhận thức giúp chúng ta có được thái độ khách quan khi đánh giá về ảnh hưởng của Nho giáo đối với đời sống xã hội Việt Nam hiện nay. Bên cạnh đó các giải pháp về tổ chức thực hiện cũng hết sức cần thiết. Tiếp tục xây dựng nhà nước pháp quyền, thực hiện quá trình dân chủ hóa trong toàn xã hội; phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần định hướng XHCN; xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; tham khảo kinh nghiệm khai thác Nho giáo ở một số nước vốn có truyền thống Nho giáo - đó là những giải pháp giúp chúng ta khai thác một cách hiệu quả những giá trị tích cực, đồng thời khắc phục, loại trừ những tàn dư của tư tưởng chính trị Nho giáo. Kết luận 1. Là học thuyết chính trị - đạo đức, Nho giáo đã trở thành hệ tư tưởng chính thống của các triều đại phong kiến Trung Quốc trong suốt hơn 2000 năm lịch sử. Tư tưởng của Nho giáo về nhà nước, quyền lực nhà nước, về đường lối trị nước đã đáp ứng đòi hỏi của thực tiễn lịch sử Trung Quốc thời Xuân Thu - Chiến Quốc là thống nhất đất nước, xây dựng nhà nước Trung ương tập quyền. Tư tưởng đó của Nho giáo đã góp phần quan trọng trong việc xây dựng và duy trì các nhà nước phong kiến vững mạnh. 2. Nho giáo đã từng giữ vị trí đặc biệt và có vai trò quan trọng trong đời sống tinh thần của nhân dân ta qua các giai đoạn lịch sử. Nho giáo phát triển trong mối quan hệ với Phật giáo và Lão giáo đã tác động mạnh mẽ và ảnh hưởng sâu sắc đến mọi mặt của đời sống xã hội Việt Nam. Ngày nay, mặc dù cơ sở kinh tế - xã hội của Nho giáo đã bị thủ tiêu, nhưng một số yếu tố của Nho giáo vẫn còn tồn tại. Những yếu tố đó đã và đang ảnh hưởng trực tiếp đến sự nghiệp đổi mới ở nước ta. Để đưa sự nghiệp dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh đến thành công, chúng ta không thể không loại trừ những yếu tố tiêu cực, đồng thời cũng phải kế thừa, phát huy những yếu tố tích cực của Nho giáo trên các lĩnh vực của đời sống xã hội. Những tàn dư tư tưởng của Nho giáo cần phải loại trừ đó là: tư tưởng địa vị, đẳng cấp, gia trưởng còn tồn tại trong nhận thức và hành động của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân gây nên tình trạng mất dân chủ ở nhiều nơi, nhiều cấp; là tâm lý thờ ơ với pháp luật, coi thường, thậm chí bất chấp pháp luật đang cản trở quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền và phát huy dân chủ XHCN ở nước ta; đó là lối làm việc của một số cán bộ công chức trong bộ máy nhà nước còn mang nặng tính chất quan liêu, cửa quyền, là lối tư duy còn mang nặng tính giáo điều, kinh nghiệm, là tư tưởng bảo thủ... Sự nghiệp đổi mới ở nước ta hiện nay đòi hỏi chúng ta phải kiên quyết khắc phục và loại trừ những ảnh hưởng tiêu cực đó của Nho giáo. Mặt khác, những giá trị tích cực như: chú trọng đến sự "tu thân", sự dấn thân để cải tạo xã hội; tích cực say mê học tập để thực hiện lý tưởng; coi trọng gia đình; ý thức tiết kiệm... cần được tiếp tục khai thác, kế thừa và nâng lên ở một tầm cao mới. Kế thừa ở đây là kế thừa cái cốt lõi, cái nội dung hợp lý của Nho giáo đã được thẩm định qua suốt chiều dài của lịch sử dân tộc. Những giá trị tích cực đó cần được biểu hiện bằng những hình thức phù hợp với xã hội Việt Nam hiện đại. Kế thừa để phát triển là nhiệm vụ của thế hệ hôm nay bởi "không một di sản nào để lại mà không kèm theo một trách nhiệm. Một di sản bao giờ cũng là sự tái khẳng định một món nợ, nhưng là tái khẳng định có phê phán và sàng lọc" [18, tr. 192]. Danh mục tài liệu tham khảo 1. Phan Bội Châu (1998), Khổng học đăng, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội. 2. Ngô Vinh Chính (chủ biên) (1988), Đại cương lịch sử văn hóa Trung Quốc, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội. 3. Đoàn Trung Còn (Dịch giả) (1996), Luận Ngữ, Nxb Thuận Hóa, Huế. 4. Đoàn Trung Còn (Dịch giả) (1996), Đại học Trung dung, Nxb Thuận Hóa, Huế 5. Đoàn Trung Còn (Dịch giả) (1996), Mạnh Tử, Tập Hạ, Nxb Thuận Hóa, Huế. 6. Đoàn Trung Còn (Dịch giả) (1996), Mạnh Tử, Tập Thượng, Nxb Thuận Hóa, Huế. 7. Phan Đại Doãn (chủ biên) (1994), Một số vấn đề về Nho giáo Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 8. Nguyễn Đăng Duy (1997), Nho giáo với văn hóa Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 9. Quang Đạm (1994), Nho giáo xưa và nay, Nxb Văn hóa, Hà Nội. 10. Đảng Cộng sản Việt Nam (1987), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Nxb Sự thật, Hà Nội. 11. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Nxb Sự thật Hà Nội. 12. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 13. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 14. Đảng Cộng sản Việt Nam (1998), Văn kiện Hội nghị lần thứ 4 Ban chấp hành Trung ương khóa VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 15. Đảng Cộng sản Việt Nam (1998), Văn kiện Hội nghị lần thứ 5 Ban chấp hành Trung ương khóa VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 16. Thế Gia (1999), "Thành phố Hồ Chí Minh xét xử vụ án EPCO - Minh Phụng", Báo Nhân dân, ngày 15/5, tr. 8. 17. Trần Văn Giàu (1980), Giá trị tinh thần truyền thống của dân tộc Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 18. Giắccơ Đêriđa (1994), Những bóng ma của chủ nghĩa Mác, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 19. Lý Trường Hải (2002), Khổng Tử, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội. 20. Mai Trung Hậu (1995), "Chữ Hán và Nho giáo đâu phải là truyền thống văn hóa của dân tộc Việt Nam", Thông tin lý luận, (2), tr. 42. 21. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Khoa Văn hóa xã hội chủ nghĩa (1997), Văn hóa xã hội chủ nghĩa (Tập bài giảng), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 22. Trần Đình Hượu (1994), Đến hiện đại từ truyền thống, Chương trình Khoa học công nghệ cấp Nhà nước KX-07, Hà Nội. 23. Vũ Khiêu (chủ biên) (1991), Nho giáo xưa và nay, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 24. Vũ Khiêu (1997), Nho giáo và phát triển ở Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 25. Trần Khuê, Nguyễn Thị Thanh Xuân (1994), "Chớ nhầm lẫn về sự cất cánh của 5 con rồng", Thông tin lý luận, (10), tr. 43. 26. Trần Trọng Kim (1992), Nho giáo, Nxb thành phố Hồ Chí Minh. 27. Phan Huy Lê (1992), "Vấn đề dân chủ trong truyền thống Việt Nam", Thông tin lý luận, (9), tr. 26- 29. 28. Nguyễn Hiến Lê (1996), Khổng Tử, Nxb Văn hóa, Hà Nội. 29. V.I. Lênin (1997), Toàn tập, tập 41, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva. 30. Hầu Ngoại Lư, Triệu Kỷ Bân, Đỗ Quốc Tường (1959), Bàn về tư tưởng cổ đại Trung Quốc, Nxb Sự Thật, Hà Nội. 31. Hồ Chí Minh (1987), Toàn tập, tập 7, Nxb Sự thật, Hà Nội. 32. Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, tập 4, Nxb Chính trị quốc gia Hà Nội. 33. Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, tập 5, Nxb Chính trị quốc gia Hà Nội. 34. Hồ Chí Minh (1999), Sửa đổi lối làm việc, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 35. Đỗ Mười (1991), Xây dựng nhà nước của nhân dân - Thành tựu, kinh nghiệm đổi mới, Nxb Sự thật Hà Nội. 36. Đỗ Mười (1995), "Xây dựng và hoàn thiện chính quyền ngang tầm phát triển đất nước", Tạp chí Cộng sản, (3), tr. 7-8. 37. Đỗ Mười (1997), "Xây dựng Nhà nước và Quốc hội thật sự của dân, do dân, vì dân", Tạp chí Cộng sản, (9), tr. 3-8. 38. Phan Ngọc (1994), "Khổng giáo và môi trường Đông Nam á", Văn hóa và Đời sống, (3), tr. 83. 39. Phan Ngọc (1997), Sử ký Tư Mã Thiên, Nxb Văn học, Hà Nội. 40. Quang Phong, Lâm Duật Thời (1963), Bàn về Khổng Tử, Nxb Sự thật, Hà Nội. 41. Lỗ Tấn (1971), Tuyển tập, Nxb Văn học, Hà Nội. 42. Lê Sỹ Thắng (Chủ biên) (1994), Nho giáo tại Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 43. Lê Sỹ Thắng (Chủ biên) (1997), Lịch sử tư tưởng Việt Nam, tập 2, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 44. Trần Ngọc Thêm (2001), Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam, Nxb thành phố Hồ Chí Minh. 45. Vi Chính Thông (1996), Nho gia với Trung Quốc ngày nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 46. Nguyễn Tài Thư (1997), Nho học và nho học ở Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 47. Nguyễn Tài Thư (chủ biên) (1999), Lịch sử tư tưởng Việt Nam, tập 1, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 48. Khương Lâm Tường, Lý Cảnh Minh (1999), Khổng Tử gia giáo, Nxb Thế giới. 49. Nguyễn Khắc Viện (1993), Bàn về đạo Nho, Nxb Thế giới, Hà Nội. 50. Phan Nãi Việt (1988), Khổng Tử với tư tưởng quản lý và kinh doanh hiện đại. Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội. 51. Lã Trấn Vũ (1964), Lịch sử tư tưởng chính trị Trung Quốc, Nxb Sự thật, Hà Nội.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf192_6499.pdf
Luận văn liên quan