Miền núi phía Bắc có vai trò rất quan trọng đối với sự phát triển kinh 
tế xã hội của đất nước cả về mặt kinh tế (nguồn cung cấp nhiều tài nguyên cần 
thiết) lẫn về mặt môi trường sinh thái. Bởi vậy, cũng như cả nước, miền núi phía 
Bắc phải thực hiện chiến lược phát triển bền vững, trong đó kết hợp chặt chẽ các 
mục tiêu tăng trưởng kinh tế, bảo đảm công bằng xã hội và bảo vệ môi trường 
sinh thái. Trước mắt, cần xóa bỏ dần sự chênh lệch về trình độ phát triển kinh tế -xã hội, mức sống và chất lượng sống của đồng bào các tỉnh miền núi so với miền 
xuôi, tạo tiền đề và điều kiện cần thiết cho việc bảo vệ môi trường.
                
              
                                            
                                
            
 
            
                 79 trang
79 trang | 
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 5271 | Lượt tải: 1 
              
            Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Vấn đề xây dựng ý thức bảo vệ môi trường sinh thái cho đồng bào các dân tộc miền núi phía Bắc nước ta, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
 thái độ đúng đắn và những hành 
động cụ thể, tích cực và tự giác hòa nhập vào phong trào tham gia giữ gìn, bảo vệ 
môi trường. 
Do lối sống truyền thống và cách tư duy trực quan, nhận thức của người 
dân thuộc cộng đồng các dân tộc miền núi phía Bắc về các vấn đề môi trường 
sống chung quanh rất đơn giản, thậm chí còn mang màu sắc tâm linh. Ví dụ như 
người H’mông luôn xem xét, đánh giá các sự vật, con người cùng những mối 
quan hệ giữa con người và tự nhiên theo quan niệm riêng của mình. Họ không 
chặt phá cánh rừng nào đó không phải vì nghĩ tới việc bảo vệ nó theo quy định 
của luật pháp và chính quyền nhà nước, mà chủ yếu bởi họ không muốn phạm 
vào điều ước mà mình và dòng họ đã "ăn ước" với cộng đồng. Người ta không 
chặt một cây nào đó không phải muốn để nó phát triển, mà vì cây đó đã có ký 
hiệu được "nhập ma" hoặc đã có 
chủ [xem: 26, tr. 306]. ở nhiều địa phương, do trình độ dân trí thấp, đời sống kinh 
tế - xã hội kém phát triển... cho nên trong lối sống của mình, một bộ phận đáng 
kể đồng bào các dân tộc miền núi phía Bắc vẫn giữ những lễ nghi, thói quen lạc 
hậu, thiếu văn minh và không phù hợp với quan niệm mới về sự phát triển. Tập 
quán chăn nuôi gia súc, gia cầm dưới sàn hoặc gần nhà còn là một hiện tượng 
phổ biến. Gia súc vẫn được chăn thả rông, không có chuồng trại hợp lý nên 
lượng phân, rác thải bừa bãi cùng với mạng lưới y tế thiếu thốn hoặc xuống cấp, 
điều kiện ăn ở, sinh hoạt không đảm bảo vệ sinh... đã tạo điều kiện thuận lợi cho 
các loại vi khuẩn gây bệnh, truyền bệnh phát triển, làm mất vệ sinh môi trường 
sinh thái, ảnh hưởng xấu tới sức khỏe của cộng đồng, đặc biệt là trẻ em. 
Ngoài ra, ý thức tôn trọng và thực hiện nghiêm chỉnh pháp luật, chính 
sách của Nhà nước còn chưa được quán triệt sâu rộng, chưa thấm nhuần trong 
các cộng đồng dân cư. Sự quan tâm của các cấp chính quyền địa phương, đặc biệt 
là ở cấp cơ sở đối với công tác quản lý và bảo vệ môi trường còn chưa thỏa đáng. 
Thậm chí, vì lợi ích kinh tế trước mắt, có địa phương còn "lãng quên" nhiệm vụ 
bảo vệ môi trường. Thực tế cho thấy, nhiều dự án, quy hoạch đầu tư phát triển 
kinh tế được triển khai trước khi, hoặc không thực hiện nghiêm túc yêu cầu đánh 
giá tác động môi trường. 
Nhìn chung, môi trường tự nhiên khu vực miền núi phía Bắc nước ta 
đang tiếp tục bị suy thoái, ô nhiễm; có nơi, có lúc, vấn đề này đã đến mức báo 
động. Mặc dù Nhà nước đã áp dụng nhiều biện pháp mạnh như tăng cường pháp 
chế bảo vệ tài nguyên môi trường, đóng cửa rừng, cấm săn bắn động vật quý 
hiếm, cấm khai thác tự do các loại khoáng sản..., song sự vi phạm của người dân, 
trong đó có cả một số cán bộ vẫn diễn ra. 
Tóm lại, trong quá trình tồn tại và phát triển, cộng đồng dân cư các dân 
tộc miền núi phía Bắc đã từng trải qua một giai đoạn dài chung sống "hòa hợp", 
"thân thiện" với tự nhiên. Song, sự chinh phục, thống trị của con người đối với tự 
nhiên - "thân thể vô cơ" của mình theo kiểu "tước đoạt" và "bóc lột" ngay lập tức 
đã phải trả giá. Thực tế cho thấy, chất lượng môi trường tự nhiên của khu vực miền 
núi phía Bắc nước ta đang suy giảm nhanh chóng, trong đó có những mặt đã tiệm 
cận mức độ báo động "đỏ". Điều nguy hiểm hơn là khả năng lan tỏa, không gian 
"phát tán" các hiệu ứng môi trường sinh thái rất lớn và có quy mô rộng, bởi miền 
núi phía Bắc là "nóc nhà" của Việt Nam. Sự đa dạng và xu hướng biến đổi theo 
chiều hướng xấu của các vấn đề môi trường sinh thái phản ánh hiện trạng ý thức 
bảo vệ môi trường của con người nơi đây chưa cao, nếu không nói là rất kém. 
Trước đây, các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác đã từng đưa ra lời cảnh báo 
về những nguy cơ, hiểm họa môi trường tự nhiên nảy sinh do tác động thái quá 
của con người, nhất là những hành động có tính tự phát, thiếu sự hướng dẫn của 
tri thức khoa học. Bởi vậy, để khắc phục, sửa chữa và ngăn chặn những hậu quả 
đang đe dọa sự tồn tại và phát triển của con người, vấn đề quan trọng đặt ra là 
cộng đồng các dân tộc miền núi phía Bắc cần phải nhanh chóng thay đổi 
phương thức hoạt động sản xuất, sinh hoạt của mình, nâng cao ý thức giác ngộ 
và trách nhiệm trong việc tham gia bảo vệ môi trường. 
Chương 3 
Phương hướng và giải pháp chủ yếu xây dựng 
ý thức bảo vệ môi trường cho đồng bào 
các dân tộc miền núi phía Bắc 
3.1. Về quan điểm 
3.1.1. Quan điểm phát triển bền vững, kết hợp các mục tiêu tăng 
trưởng kinh tế, công bằng xã hội và bảo vệ môi trường sinh thái trong quá 
trình phát triển 
 Thứ nhất, về phát triển bền vững: 
Đứng trước hàng loạt các vấn đề môi trường sinh thái bức bách, đe dọa 
sự tồn tại và phát triển của con người, các quốc gia trên thế giới nói chung, Việt 
nam nói riêng đã và đang hướng đến một chiến lược phát triển mới - chiến lược 
phát triển bền vững. Phát triển bền vững, theo quan niệm của ủy ban Môi trường 
và Phát triển thế giới, là sự phát triển nhằm đáp ứng các nhu cầu của thế hệ con 
người hiện tại mà không làm hại đến các thế hệ tương lai trong việc thỏa mãn các 
nhu cầu của họ. Tương tự như vậy, trong chiến lược mới của Hiệp hội bảo tồn 
thế giới về "chăm sóc Trái đất", phát triển bền vững được coi là "sự cải thiện chất 
lượng cuộc sống con người đi đôi với nhiệm vụ bảo vệ các hệ sinh thái" [34, tr. 
2]. 
Phát triển bền vững thực chất là thực hiện quá trình phát triển kinh tế - xã 
hội một cách lành mạnh, dựa trên việc sử dụng tiết kiệm và hợp lý các nguồn tài 
nguyên thiên nhiên, kết hợp với bảo vệ môi trường. Nói cách khác, cùng với việc 
khai thác, "chinh phục" tự nhiên để duy trì sự tồn tại và phát triển của mình, con 
người cần phải quan tâm ngày càng nhiều hơn đến sự tồn tại và phát triển của tự 
nhiên và đó cũng chính là bảo vệ sự sống của bản thân con người. Do vậy, có thể 
khẳng định rằng, việc con người tôn trọng tự nhiên, bảo vệ tự nhiên, tìm cách 
chung sống thân thiện với tự nhiên..., suy cho cùng, cũng không nhằm mục đích 
nào khác là bảo đảm và không ngừng nâng cao chất lượng cuộc sống của mình. 
Theo quan niệm mới về sự phát triển thì tăng trưởng kinh tế không phải 
và không thể là tiêu chí duy nhất để đánh giá sự phát triển theo chiều hướng tiến 
bộ, tích cực của xã hội hiện đại. Chính vì chậm nhận ra sai lầm, coi tài nguyên 
thiên nhiên là vô tận và có thể mặc sức khai thác, mà con người đã bóc lột, tàn 
phá thiên nhiên, để rồi phải đối mặt với những vấn đề môi trường sinh thái bức 
bách, trực tiếp đe dọa đến sự tồn tại và phát triển của bản thân mình cũng như 
của toàn xã hội. Sự "trả thù", phản tác động trở lại của tự nhiên khiến con người 
bừng tỉnh, suy nghĩ nghiêm túc hơn và thận trọng hơn trong hành động. Thực tế, 
con người đã nhận ra sự ấu trĩ của mình trong quá khứ và thấy rằng, sự phát triển 
kinh tế phải hướng đến sự phát triển của xã hội, thể hiện qua chất lượng sống và 
môi trường sống của con người. Mà để đạt được mục tiêu đó, sự tăng trưởng kinh 
tế chỉ là một điều kiện cần nhưng chưa đủ. 
Phát triển bền vững có nội dung khá rộng, bao gồm cả các lĩnh vực kinh 
tế - xã hội và môi trường. Do vậy, thay vì chỉ chú ý đến một chiều phát triển kinh 
tế như trước bảo vệ đây, cần phải gắn tăng trưởng kinh tế với khai thác và sử 
dụng hợp lý tài nguyên và bảo vệ môi trường. Đồng thời, sự tăng trưởng kinh tế 
phải gắn với công bằng xã hội, cụ thể là tất cả thành viên trong xã hội đều phải 
được hưởng thụ một cách công bằng những thành quả do việc khai thác, chế biến tài 
nguyên mang lại. Tăng trưởng kinh tế còn nhằm mục đích tối cao là bảo đảm chất 
lượng cuộc sống của con người. Bởi vậy, việc không ngừng nâng cao chỉ số phát 
triển con người (HDI) bao gồm thu nhập quốc dân tính theo đầu người, giáo dục 
- dân trí, sức khỏe - tuổi thọ… ngày nay trở thành mục tiêu cao nhất của sự phát 
triển xã hội. 
So với mặt bằng chung của xã hội trên các phương diện của đời sống 
kinh tế - xã hội, khu vực miền núi phía Bắc nước ta vẫn thấp kém hơn nhiều, mặc 
dù trong những năm qua khoảng cách có được thu hẹp. Điều đó có nghĩa là cuộc 
sống của nhân dân nơi đây vẫn còn rất nhiều khó khăn, thiếu thốn. Nhưng nếu vì 
thế mà tiếp tục duy trì cách thức ứng xử, quan hệ, tác động cũ đối với giới tự 
nhiên thì con người sẽ không tránh khỏi nguy cơ nghèo hơn nữa. Thực tế, những 
cánh rừng giàu có đã bị khai thác cạn, những vùng đất đai thuận lợi cho canh tác 
nông nghiệp đã được sử dụng, những tài nguyên khoáng sản có trữ lượng đáng kể 
và dễ khai thác đang ít dần... Cái kho của cải mà thiên nhiên ban tặng con người 
đang vơi dần đi nhanh chóng. Bởi vậy, chính vì còn nghèo, hơn nữa, lại trong 
hoàn cảnh phải đối mặt với những thách thức về môi trường sinh thái, miền núi 
phía Bắc nước ta lại càng phải thực hiện sự phát triển bền vững, coi đó như một 
sự lựa chọn tối ưu nhất không chỉ vì ngày hôm nay mà cả ngày mai, không chỉ 
cho thế hệ hiện tại mà cả cho thế hệ tương lai. 
Thứ hai, tầm quan trọng của phát triển bền vững vùng miền núi phía Bắc 
đối với sự phát triển chung của cả nước. 
 Sự phân tích một cách khái quát ở chương 2 về các điều kiện tự nhiên, 
kinh tế và xã hội của miền núi phía bắc cho thấy, đây là khu vực có sự đa dạng 
về các điều kiện sinh thái và văn hóa truyền thống. Điều này được xem như một 
lợi thế quan trọng cho việc phát triển kinh tế đa dạng. Tuy nhiên, như vậy không 
có nghĩa là không có những khó khăn, hạn chế về điều kiện tự nhiên, môi trường. 
Hơn nữa, như phần trên đã trình bày, những vấn đề môi trường phức tạp do tác 
động của con người đã và đang nảy sinh; trong khi đó, ý thức bảo vệ tài nguyên 
môi trường của nhân dân trong khu vực còn rất hạn chế. Tất cả những điều đó 
khiến cho việc giải quyết bài toán phát triển miền núi phía Bắc trở nên khó khăn 
hơn, phức tạp hơn nhiều. 
 Xét về mặt tài nguyên, môi trường, miền núi phía Bắc là một khu vực 
chứa đựng nhiều nguồn tài nguyên quan trọng đối với đời sống kinh tế xã hội của 
cả nước, trong đó đặc biệt phải kể đến diện tích tự nhiên khá lớn, nơi tập trung 
chủ yếu tài nguyên rừng và khoáng sản. Hồ chí Minh từng viết "Việt Bắc là nơi 
rừng vàng, núi bạc. Rừng vàng vì rừng Việt Bắc có rất nhiều gỗ và lâm sản có 
thể đổi lấy nhiều máy móc, hàng hóa... Núi bạc vì núi non Việt Bắc có nhiều 
quặng có thể xây dựng công nghiệp để phát triển kinh tế" [21, tr. 456]. Vì thế, về 
phương diện kinh tế, miền núi phía Bắc là nguồn cung cấp tài nguyên rất quan 
trọng cho các hoạt động phát triển kinh tế của đất nước. Nếu các nguồn tài 
nguyên không hoặc ít có khả năng tái tạo như rừng, đai đai bị cạn kiệt, suy giảm 
cả về số lượng lẫn chất lượng... sẽ ảnh hưởng tiêu cực rất lớn đến hoạt động của 
nhiều ngành kinh tế tương ứng và do vậy, làm chậm hoặc giảm tốc độ phát triển 
kinh tế. Về phương diện môi trường sinh thái, miền núi là mái nhà của đất nước, 
đóng một vai trò hết sức quan trọng không chỉ liên quan trực tiếp đến các hoạt 
động kinh tế và dân sinh trên địa bàn, mà còn ảnh hưởng lớn đến đời sống kinh tế 
- xã hội của cả vùng đồng bằng châu thổ sông Hồng, trong đó có Thủ đô Hà Nội. 
Chẳng hạn, việc suy giảm độ che phủ của rừng không những làm đất đai của khu 
vực miền núi phía Bắc trực tiếp bị suy giảm chất lượng do bị rửa trôi, xói mòn..., 
mà còn gây hạn hán về mùa khô, lũ lụt trong mùa mưa, ảnh hưởng đến các công 
trình kinh tế (thủy điện, thủy lợi, giao thông...) cũng như các hoạt động sản xuất 
và sinh hoạt của nhân dân các vùng hạ lưu. Tình trạng đó cũng sẽ làm giảm tính 
đa dạng sinh học, gây xói mòn những nguồn gen động, thực vật quý hiếm, tạo nên 
sự mất cân bằng sinh thái. Sự "che chở" bền vững của miền núi không chỉ dành 
riêng cho miền núi mà còn có ý nghĩa to lớn đối với các vùng lãnh thổ, kinh tế 
khác. Do vậy, có thể khẳng định rằng, phát triển bền vững ở vùng miền núi phía 
Bắc có tầm quan trọng to lớn, nhiều mặt và lâu dài đối với sự nghiệp phát triển 
kinh tế ở nước ta, đặc biệt là trong giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại 
hóa hiện nay. Nói cách khác, phát triển bền vững không chỉ là giải pháp phát 
triển có tính chiến lược của chính khu vực miền núi phía Bắc, mà hơn thế, còn 
tạo cơ sở, điều kiện cho sự phát triển chung của đất nước. 
3.2. Phương hướng và giải pháp 
3.2.1. Phương hướng 
Như trên đã trình bày, trong điều kiện ngày nay, người ta không thể tuyệt 
đối hóa hay coi nhẹ một trong hai mục tiêu tăng trưởng kinh tế và bảo vệ môi 
trường sinh thái. Trái lại cần có sự nhận thức đúng ý nghĩa của các mục tiêu đó 
đối với sự tồn tại và phát triển của con người và xã hội, để trên cơ sở đó, có 
những điều chỉnh hợp lý cả trong quan niệm lẫn hoạt động thực tiễn. Nếu như 
việc thực hiện chiến lược phát triển đó trên phạm vi cả nước là một quá trình khó 
khăn và lâu dài thì đối với miền núi phía bắc, thực hiện yêu cầu đó còn khó khăn 
và lâu dài hơn nhiều. Bởi vì, cả trong quá khứ lẫn hiện tại, sự phát triển của khu 
vực này trên mọi phương diện, đặc biệt là về mặt kinh tế, khoa học công nghệ và 
dân trí, chưa bao giờ được coi là ngang bằng, càng không thể vượt trội so với các 
vùng đồng bằng, đô thị - nơi hội tụ những thuận lợi căn bản và tương đối toàn 
diện hơn. 
Những nguyên nhân căn bản dẫn đến sự nảy sinh và gia tăng mức độ 
nghiêm trọng của các vấn đề môi trường sinh thái, như đã xác định, chủ yếu là do 
sự nghèo đói, do trình độ dân trí thấp và phần nào đó là bởi tác động của cơ chế 
thị trường... Vì vậy, để xây dựng ý thức bảo vệ môi trường sống cần phải khắc 
phục triệt để những tác động đó, tức là tạo nên sự thay đổi tích cực của tồn tại xã 
hội. Trong thời gian trước mắt, cần phải xóa bỏ dần sự chênh lệch về trình độ 
phát triển kinh tế - xã hội cũng như mức sống, chất lượng sống của nhân dân 
giữa các tỉnh miền núi phía Bắc với các tỉnh miền xuôi, nhằm tạo tiền đề cho việc 
bảo vệ môi trường sinh thái. 
Nhưng vấn đề nan giải, khó khăn nhất là làm thế nào để thực hiện được yêu 
cầu đó? Thực tế cho thấy, trong những điều kiện tự nhiên có tính đa dạng cao như ở 
miền núi phía Bắc không thể có một kế hoạch phát triển chung và áp dụng một 
cách rộng rãi cho mọi hệ sinh thái, mọi địa phương. Kiến thức và sự hiểu biết 
hiện có không đủ để đáp ứng nhiệm vụ thiết kế những mô hình đó. Do vậy, xét ở 
tầm vĩ mô và từ phương diện quản lý nhà nước: 
Nên chăng là thay vào việc cố gắng soạn thảo một mô hình duy 
nhất, các nhà làm quy hoạch phát triển phải quan tâm đến việc khuyến 
khích và giúp đỡ nhân dân vùng cao tự vạch ra chiến lược phát triển 
thích hợp ở địa phương của họ. Nếu thành công, cách làm đó sẽ không 
chỉ là một mà có thể có rất nhiều mô hình, mỗi mô hình phù hợp với 
với nhu cầu và nguyện vọng của các hệ sinh thái và xã hội của địa 
phương sinh ra mô hình đó [8, tr. 236]. 
Chúng tôi cho rằng đây là một gợi mở khoa học rất đáng quan tâm. Nó 
không chỉ hướng đến tính sự đa dạng và hiệu quả của các mô hình phát triển kinh 
tế ở khu vực miền núi phía Bắc. Mà hơn thế nữa một khi mục tiêu đó được giải 
quyết, được hiện thực hóa, đương nhiên sẽ có cơ sở kinh tế - xã hội vững chắc để 
xây dựng, củng cố và phát triển ý thức bảo vệ môi trường sinh thái cho đồng bào 
các dân tộc ở đây. 
3.2.2. Một số nhóm giải pháp nhằm xây dựng ý thức bảo vệ môi trường 
cho đồng bào các dân tộc miền núi phía Bắc 
Một là, nhóm giải pháp kinh tế - xã hội 
Quan niệm duy vật về lịch sử cho rằng, tồn tại xã hội là yếu tố đóng vai 
trò quyết định đối với ý thức xã hội và ý thức xã hội chỉ thay đổi khi cơ sở của 
nó, tức tồn tại xã hội đã có sự thay đổi. Nói cách khác, ý thức xã hội mới chỉ hình 
thành và phát triển khi nó dựa trên những điều kiện vật chất mới. Để thực hiện 
chiến lược phát triển bền vững ở khu vực miền núi phía Bắc, một yếu tố quan 
trọng không thể thiếu được là con người phải có ý thức trong việc khai thác, sử 
dụng tài nguyên môi trường, nghĩa là phải có ý thức bảo vệ môi trường sinh thái. 
Nhưng muốn làm được như vậy, điều căn bản phải giải quyết trước tiên là cải 
thiện và nâng cao đời sống của đồng bào các dân tộc trên cơ sở khai thác, sử 
dụng những tiềm năng thế mạnh về con người và tài nguyên thiên nhiên nhưng 
không làm tổn hại đến môi trường sống 
Việc thực hiện các chính sách phát triển kinh tế - xã hội ở miền núi trong 
thời gian qua đã đạt được nhiều kết quả tích cực. Tuy nhiên, như nhận định của 
đồng chí Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh: 
... Bên cạnh những thành tựu đó, cần phải thừa nhận rằng còn 
những việc chưa làm được hoặc làm chưa có hiệu quả. Thế mạnh, 
tiềm năng kinh tế, văn hóa ở miền núi chưa được khai thác tốt. Chúng 
ta chưa tạo ra được những điều kiện cần thiết cho miền núi phát triển 
toàn diện và đồng bộ. Sản xuất ở miền núi vẫn còn lúng túng trong 
việc xác định phương hướng sản xuất, cơ cấu cây trồng, vật nuôi và 
thị trường tiêu thụ sản phẩm... Cơ sở hạ tầng cũng như các hoạt động 
dịch vụ về văn hóa, giáo dục, y tế, nhất là đội ngũ cán bộ cơ sở miền 
núi còn nhiều bất cập [25, tr. 7]. 
Để phát triển kinh tế - xã hội khu vực miền núi phía Bắc cần phải thực 
hiện nhiều biện pháp đồng bộ, cụ thể hóa chương trình, kế hoạch phát triển kinh 
tế xã hội của từng địa phương, từng địa bàn dân cư, tộc người cụ thể phù hợp với 
điều kiện tự nhiên, xã hội nơi họ sinh sống. Đặc biệt, Nhà nước cần tập trung đẩy 
mạnh phát triển cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội nhằm thúc đẩy quá trình chuyển 
đổi cơ cấu kinh tế vùng nông thôn miền núi, vùng dân tộc thiểu số; rà soát lại các 
chương trình, dự án phát triển miền núi để bảo đảm tính hiệu quả cả về mặt kinh 
tế cũng như mặt môi trường sinh thái. Hoạt động của con người đều nhằm đến 
những lợi ích nhất định, vì vậy, cần phải sử dụng cơ chế lợi ích để điều chỉnh các 
hoạt động của con người. Cần phải thể hiện bằng thực tiễn cho đồng bào các dân 
tộc thấy được quyền lợi của họ từ việc khai thác, sử dụng hợp lý và bảo vệ tài 
nguyên môi trường. Có vậy mới phát huy được mặt trách nhiệm của họ trong 
việc bảo vệ tài nguyên môi trường. 
Hoạt động nông nghiệp (trồng lúa, khai thác rừng, chăn nuôi...) là hoạt 
động kinh tế căn bản của đồng bào các dân tộc thiểu số miền núi phía Bắc. Do 
đó, bên cạnh vận động thực hiện chương trình định canh định cư, chấm dứt tình 
trạng di dân tự do, việc chấn chỉnh lại công tác quy hoạch và quản lý đất đai trên 
từng địa phương và phân phối lại ruộng đất canh tác cho đồng bào là rất cần thiết. 
Đây là một vấn đề phức tạp và nhạy cảm, bởi ở một số dân tộc, đồng bào vẫn quan 
niệm rằng, từ bao đời nay, đất đai là của họ. Vì thế, việc giải quyết vấn đề này, đặc 
biệt là tình trạng tranh chấp đất đai, cần phải hợp tình hợp lý. 
Ngoài việc nắm lại dân số và lao động, nắm lại hiện trạng đất đai 
trong ranh giới từng xã, thực hiện kế hoạch hóa dân số, phân bố lại lao 
động cân đối với nhu cầu lương thực, dựa trên nguyên tắc sở hữu đất 
đai của Nhà nước, chúng ta cần hết sức lưu ý tới những hạn chế lịch 
sử trong quan niệm của đồng bào về mối quan hệ sở hữu truyền thống 
về đất đai canh tác... [26, tr. 307]. 
Một vấn đề cực kỳ quan trọng nhằm phát triển kinh tế miền núi phía Bắc 
là đa dạng hóa hoạt động kinh tế với những biện pháp có thể. Cho đến nay, kinh 
tế nương rẫy vẫn là một hình thức tổ chức sản xuất quan trọng của nhiều cộng 
đồng dân cư ở đây. Kinh tế nương rẫy cần được cải tạo biến đổi dần dần trên cơ 
sở kết hợp kinh nghiệm, kiến thức, tập quán địa phương với tiến bộ của khoa học 
công nghệ. Bên cạnh đó, cần nghiên cứu và ứng dụng các tập đoàn cây con phù 
hợp với đặc điểm tự nhiên, sinh thái từng vừng; thực hiện phương thức canh tác 
nông lâm kết hợp, cải tiến kỹ thuật canh tác trên đất dốc, thâm canh lúa nước ở 
các thung lũng; khuyến khích đồng bào các dân tộc trồng rừng, phát triển vườn 
rừng; khôi phục và mở mang thêm những ngành nghề mới để có thể làm tăng thu 
nhập và cải thiện cuộc sống của họ. Tính chất quan trọng của sự đa dạng hóa các 
hoạt động, lĩnh vực kinh tế được quy định bởi: 1- Quan trọng ở mức độ hộ gia 
đình, bảo đảm sự tồn tại của họ cả trong những điều kiện có biến động, rủi ro 
trong sản xuất, 2- Quan trọng ở mức độ hệ sinh thái nông nghiệp, 3- Quan trọng 
ở tất cả các mức độ từ hộ gia đình đến toàn vùng [xem: 8, tr. 238]. 
Tiếp tục thực hiện các chính sách xã hội, đặc biệt là chính sách xóa đói 
giảm nghèo, bảo đảm công bằng và tiến bộ xã hội là một biện pháp quan trọng để 
thu hẹp dần, tiến tới san bằng khoảng cách chênh lệch về các mặt trong đời sống 
kinh tế - xã hội của đồng bào các dân tộc. Tuy nhiên, phải xác định rằng cái gốc 
để giải quyết triệt để vấn đề đó là phát triển sản xuất, tạo việc làm nhằm ổn định 
và cải thiện đời sống của họ. Một trong những khó khăn nhất, nhưng không thể 
không vượt qua khi thực hiện nhiệm vụ này là phải xóa bỏ được tập quán canh 
tác lạc hậu của họ. Tổ chức tốt công tác khuyến nông, khuyến lâm và hướng dẫn 
người nghèo cách làm ăn thông qua các mô hình trình diễn, theo phương thức 
"cầm tay chỉ việc" là những biện pháp thiết thực có thể giúp đỡ người nghèo làm 
quen với phương thức canh tác mới. 
 Để vùng cao nói chung và khu vực miền núi phía Bắc nói riêng có thể 
phát triển một cách hợp lý và bền vững, một biện pháp không thể xem nhẹ là cần 
phải đẩy mạnh chương trình chuyển giao và ứng dụng những tiến khoa học - 
công nghệ phù hợp. Để thực sự đạt được hiệu quả kinh tế - xã hội, quá trình ứng 
dụng và phổ cập các tiến bộ khoa học công nghệ vào khu vực này không thể tiến 
hành theo một phương thức, mô hình chung mà đòi hỏi phải có hình thức tổ 
chức, cơ chế chính sách phù hợp với các điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội cụ 
thể từng vùng cũng như văn hóa truyền thống của từng nhóm dân tộc. Ví dụ, tỉnh 
Thái Nguyên đã áp dụng mô hình chuyển giao công nghệ sản xuất giống chè mới 
bằng phương pháp giâm cành cho nông dân. Kỹ thuật trồng giâm cành không 
phải là mới ở nước ta nhưng phương pháp trồng chè bằng giâm cành là phương 
pháp mới lần đầu tiên được ứng dụng ở xã Bá Xuyên (thị xã Sông Công) và được 
nhân rộng ra toàn tỉnh. Việc áp dụng mô hình chuyển giao công nghệ này có kết 
quả khá tốt. Ưu thế của mô hình đó là có thể trồng xen canh các loại rau màu 
theo phương châm "lấy ngắn nuôi dài", góp phần làm tăng giá trị kinh tế trên một 
đơn vị diện tích; đồng thời, sử dụng hợp lý các tài nguyên đất đai, nước... Nhờ 
vậy, nó đã bước đầu tạo ra thói quen canh tác có kỹ thuật, từng bước thay đổi tập 
quán canh tác lạc hậu trước đây bằng những cách làm có khoa học kỹ thuật, 
mang lại hiệu quả kinh tế cao. Còn ở Cao Bằng, mô hình xưởng chế biến chè 
đắng đã thu hút được sự chú ý của người dân. Thành công của mô hình sản xuất 
chè đắng đã góp phần giải quyết việc làm cho công nhân, nâng cao thu nhập của 
người dân trong vùng, thúc đẩy ngành công nghiệp chế biến của địa phương phát 
triển, tạo nên sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tích cực. Đặc biệt, việc 
phát triển các vùng chè nguyên liệu, ngoài giá trị kinh tế, đã góp phần phủ xanh 
đất rừng đầu nguồn. Thực chất, những mô hình này là hình thức chuyển giao tiến 
bộ khoa học - công nghệ một cách có hệ thống. Những kết quả do các mô hình 
đó đem lại không đơn thuần là những giá trị vật chất, mặc dù nó có ý nghĩa vô 
cùng to lớn, nhưng có lẽ điều quan trọng và căn bản hơn, còn là sự hiểu biết của 
đồng bào các dân tộc miền núi - một trong những điều kiện tiên quyết cho sự xác 
lập thói quen sản xuất dựa vào tri thức khoa học. 
Có thể khẳng định rằng, một trong những tiền đề, điều kiện căn bản để 
xác lập, phát huy vai trò của ý thức bảo vệ môi trường sinh thái chính là tạo nên 
những biến đổi trong đời sống, trước hết là đời sống kinh tế của người dân địa 
phương theo chiều hướng tích cực. 
Hai là, nhóm giải pháp giáo dục và nâng cao nhận thức về môi trường 
Nhiệm vụ bảo vệ môi trường chỉ có thể được thực hiện thành công khi có 
sự hưởng ứng và tham gia tích cực của các cá nhân trong cộng đồng, của mọi 
thành viên trong xã hội. Nhưng để có hành động đúng trong việc bảo vệ, giải 
quyết các vấn đề môi trường, trước hết con người cần phải có nhận thức đúng 
đắn, từ đó, họ mới có thái độ ứng xử phù hợp, có ý thức bảo vệ môi trường và 
tích cực, tự giác trong các hoạt động bảo vệ môi trường. 
Sự hình thành ý thức bảo vệ môi trường của người dân phụ thuộc rất lớn 
vào công tác giáo dục và việc nâng cao nhận thức của họ về môi trường. Giáo 
dục môi trường được coi là một quá trình thường xuyên để tạo cho con người ý 
thức về môi trường, những tri thức, kinh nghiệm và kỹ năng... cho phép họ nhận 
thức và giải quyết các vấn đề môi trường. Mục tiêu cơ bản của công tác này, như 
Hội nghị quốc tế về mục tiêu cơ bản của Giáo dục môi trường tổ chức tại Tbilisi 
năm 1977 đã nêu ra, đó là: 
Làm cho từng người và cộng đồng hiểu được bản chất của 
môi trường tự nhiên và nhân tạo, hiểu được quan hệ tương tác của các 
mặt sinh học, vật lý, hóa học, xã hội kinh tế và văn hóa, có được tri 
thức, thái độ và kỹ năng thực tế để tham gia có hiệu quả và có trách 
nhiệm vào việc tiên đoán và giải quyết các vấn đề môi trường và quản 
lý chất lượng của môi trường [24, tr. 157]. 
 Nhiệm vụ căn bản, đầu tiên của công tác giáo dục môi trường là phải 
làm cho mọi người dân trong cộng đồng các dân tộc thiểu số miền núi phía Bắc 
thấy được tầm quan trọng không thể thay thế của môi trường đối với sự tồn tại và 
phát triển trong hiện tại và tương lai của họ. Thông qua các hình thức, phương 
tiện giáo dục môi trường (ví dụ qua các phương tiện thông tin đại chúng như sách 
báo, đài truyền thanh, ti vi và giáo dục trong nhà trường...) cần làm cho mọi người 
dân có được những tri thức, sự hiểu biết cần thiết về môi trường thiên nhiên, về 
mối liên hệ chặt chẽ và sự tác động qua lại giữa các yếu tố môi trường cũng như 
giữa tự nhiên, con người và xã hội. Người dân phải có và hiểu được những tri 
thức cơ bản về hệ thống tự nhiên - con người - xã hội; hiểu được sự gắn bó, liên 
hoàn của các yếu tố trong tự nhiên. Ví dụ, họ phải thấy là mất rừng sẽ gây xói 
mòn đất đai ảnh hưởng đến sản xuất nông nghiệp; không có khả năng giữ nước 
dẫn đến hạn hán hoặc khan hiếm nước; không có khả năng điều hòa khí hậu... 
Những tri thức, hiểu biết như vậy làm cho con người có sự tính toán, cân nhắc 
thận trọng và lựa chọn giữa cái lợi trước mắt với những hậu quả lâu dài hoặc tức 
thời có thể xảy ra về mặt môi trường sinh thái. Nói cách khác, đó là cơ sở để con 
người tự giác điều chỉnh hành vi tác động vào tự nhiên của mình. 
Hiện tại, phần lớn người dân miền núi phía Bắc, kể cả số học sinh đang 
theo học tại các trường học, còn chưa được cung cấp những tri thức căn bản, 
thiếu thông tin về môi trường... Trong điều kiện như vậy, họ không thể nhận thấy 
những tác hại về mặt môi trường do tác động quá đáng của con người, càng 
không thể tham gia đóng góp ý kiến cũng như giải quyết các vấn đề môi trường 
với tư cách như một chủ thể quản lý. Vì vậy, trước mắt, việc giáo dục và nâng 
cao nhận thức về môi trường cần tập trung trang bị cho con người những tri thức; 
cung cấp cho họ những thông tin dưới dạng phổ biến, dễ hiểu và thường xuyên 
về môi trường để họ có thể vận dụng giải quyết những vấn đề môi trường ngay 
tại địa phương. Khi đó, họ sẽ có ý thức hơn trong việc tự giác hạn chế, loại bỏ 
dần các thói quen, tập tục cũ, đấu tranh ngăn chặn các hành vi có hại cho môi 
trường. 
Nhà trường và gia đình đóng vai trò quan trọng trong việc giáo dục môi 
trường. Vì vậy, cần đưa các nội dung giáo dục môi trường vào trường học. Học 
sinh không chỉ được coi như một bộ phận của đối tượng cần được giáo dục, 
truyền đạt tri thức về môi trường mà phải thấy ở lực lượng đó cái vai trò "khuếch 
tán", "lan tỏa" và quảng bá những tri thức tiếp nhận được từ trong trường học vào 
đời sống xã hội ngay tại nơi sinh sống. Đó là một trong những con đường xã hội 
hóa, phổ biến rộng rãi các tri thức về môi trường - cơ sở cho sự hình thành ý thức 
bảo vệ môi trường, hình thành những phong trào quần chúng tham gia bảo vệ 
môi trường giáo dục. 
Giáo dục và nâng cao nhận thức về môi trường cho nhân dân không chỉ 
giới hạn ở việc cung cấp, phổ cập, truyền bá các tri thức về tự nhiên, về quan hệ 
giữa con người với tự nhiên, mặc dù đây là nội dung quan trọng để hình thành ý 
thức sinh thái. Nó còn bao hàm cả việc giáo dục ý thức chấp hành pháp luật bảo 
vệ môi trường. Luật bảo vệ môi trường đã khẳng định quyền con người được 
sống trong môi trường trong lành, nhưng trên thực tế, việc bảo đảm thực hiện 
quyền đó lại phụ thuộc đáng kể vào chính thái độ tôn trọng và thực thi Luật bảo 
vệ môi trường của mỗi người dân. 
ở đây, điều có tầm quan trọng là ý thức pháp luật của công 
dân. ý thức pháp luật thể hiện sự nhận thức của công dân và thái độ 
của họ đối với các quy định của pháp luật. Cho nên ý thức càng được 
nâng cao thì thái độ tôn trọng pháp luật, tự giác xử sự theo yêu cầu 
của pháp luật càng được bảo đảm. Vì vậy, để cho pháp luật về bảo vệ 
môi trường được thực hiện nghiêm chỉnh cần có những biện pháp bồi 
dưỡng và giáo dục những kiến thức về bảo vệ môi trường nói chung 
và pháp luật về bảo vệ môi trường nói riêng [11, tr. 855]. 
Nói tóm lại, đẩy mạnh giáo dục và nâng cao nhận thức về môi trường là 
biện pháp cơ bản để xây dựng và phát huy ý thức quan tâm thường xuyên tới môi 
trường, củng cố tình cảm trân trọng, lòng yêu thích thiên nhiên trong nhân dân, 
nhen nhóm và nuôi dưỡng trong họ sự tha thiết muốn bảo tồn môi trường sống, 
phong cảnh và các di tích văn hóa lịch sử của địa phương; làm cho ý thức bảo vệ 
môi trường trở thành phong cách, nếp sống văn hóa, văn minh của nhân dân các 
dân tộc miền núi phía Bắc. Việc xây dựng ý thức bảo vệ môi trường sinh thái trên 
cơ sở những tri thức sinh thái mà con người đã tích lũy được và việc vận dụng 
những tri thức đó vào đời sống xã hội mang ý nghĩa hết sức to lớn, có tính chiến 
lược lâu dài vì sự phát triển bền vững của con người. 
Ba là, nhóm giải pháp về văn hóa, tâm lý xã hội 
Miền núi phía Bắc là khu vực sinh sống của nhiều dân tộc khác nhau. Vì 
vậy, ngoài tính đa dạng về các điều kiện tự nhiên và hệ sinh thái, miền núi phía 
Bắc còn chứa đựng sự đa dạng về văn hóa. Mỗi dân tộc đều có những nét đặc 
trưng riêng của mình về văn hóa. Trong quan hệ với tự nhiên, quan niệm, lối 
sống, tập quán... - những biểu hiện của văn hóa truyền thống của đồng bào các 
dân tộc miền núi phía Bắc, đã lưu giữ nhiều giá trị tích cực. Tuy nhiên, trong đó 
cũng còn chứa đựng không ít yếu tố lạc hậu, lỗi thời. Chính những thói quen, tập 
quán, tâm lý lạc hậu như du canh du cư, đốt nương làm rẫy, chăn thả gia súc dưới 
gầm nhà, phóng uế bừa bãi... đã khiến nhiều khi con người hành động một cách 
tùy tiện, được chăng hay chớ... Kết quả là chất lượng môi trường sống của con 
người ngày càng giảm sút. Có thể nói rằng, những cố gắng, nỗ lực của con người 
trong việc bảo vệ tự nhiên và môi trường sẽ khó đạt hiệu quả như mong muốn, 
nếu như con người không tự giác thay đổi, xóa bỏ những thói quen, lối sống, tập 
quán lạc hậu của mình. Theo chúng tôi, để xây dựng và phát huy ý thức bảo vệ 
môi trường của cộng đồng dân cư khu vực miền núi phía Bắc cần đặc biệt chú ý 
đến giải pháp văn hóa và tâm lý xã hội; xây dựng cho con người những tình 
cảm, thái độ, thói quen, cách ứng xử phù hợp, có văn hóa đối với môi trường 
thiên nhiên; xác lập những định hướng hành động mới nhằm không lặp lại 
những sai lầm trước đây và duy trì quan hệ hài hòa thật sự giữa con người và tự 
nhiên. Tuy nhiên, mỗi dân tộc thường có bản sắc, đặc trưng văn hóa riêng, có 
đời sống tâm linh với những niềm tin của mình... Có thể nói, đây là lĩnh vực rất 
nhạy cảm, tế nhị. Vì vậy, sự can thiệp vào đời sống văn hóa của đồng bào các 
dân tộc ở miền núi phía Bắc phải thể hiện sự tôn trọng, bảo đảm tính đa dạng, 
nhiều vẻ vốn có của nó; đồng thời đưa vào những yếu tố mới, hiện đại và tích 
cực, tránh gây ra những bất đồng hoặc sự hiểu lầm không đáng có làm ảnh 
hưởng đến khối đại đoàn kết dân tộc. 
Khi tác động vào đời sống văn hóa, vào thói quen cũng như tâm lý của 
đồng bào các dân tộc miền núi phía Bắc, cần phải có sự thận trọng, không tạo 
nên những mặc cảm dân tộc. Mục đích của sự tác động đó là phải tìm cách làm 
thế nào để giúp người dân thích nghi hoàn toàn được với những sự biến đổi môi 
trường nhanh chóng và phức tạp, cùng nhau nghĩ ra "nhiều con đường nhỏ của sự 
tăng cường" được xây dựng dựa trên những hiểu biết và giá trị của địa phương, 
mang lại cho người dân địa phương một vai trò tích cực trong việc tạo ra những 
chiến lược quản lý tài nguyên lâu dài, và nhấn mạnh đến quá trình nuôi dưỡng 
phát triển hệ quản lý hơn là việc áp đặt những mô hình đã được tạo ra ở một nơi 
nào đó. Một quá trình như vậy đòi hỏi phải được quan tâm nhiều hơn đến sự đa 
dạng về sinh thái và văn hóa. Mỗi nhóm dân tộc thiểu số, mỗi địa phương với 
phạm vi rộng hơn hoặc hẹp hơn căn cứ vào những nét văn hóa và lịch sử riêng 
biệt của mình để có những phạm vi cuốn hút riêng, qua những nét riêng biệt về 
văn hóa và lịch sử để tạo nên và quản lý một dạng cảnh quan riêng trong một môi 
trường vật lý, văn hóa và kinh tế riêng [xem: 8, tr. 238]. 
Như vậy, cần phải có những nghiên cứu cụ thể, sâu sắc và những đánh 
giá đúng đắn về văn hóa của mỗi dân tộc biểu hiện trong quan hệ của con người 
với tự nhiên. Trên thực tế, như đã phân tích ở trên, mỗi cộng đồng dân tộc có một 
đời sống văn hóa đặc trưng với những bản sắc rất riêng của mình được lưu giữ, 
bảo tồn trong lịch sử. Trong điều kiện hiện nay, mối quan hệ cũng như sự giao 
lưu giữa các dân tộc được mở rộng hơn nhiều so với trước đây. Song, ở mỗi dân 
tộc luôn có những giá trị văn hóa đặc thù, cả trong sản xuất lẫn đời sống tinh 
thần, - cái tạo nên sự khác biệt giữa dân tộc này với dân tộc khác. Vì vậy, cần 
phải xuất phát từ truyền thống văn hóa, tâm lý xã hội cụ thể của từng dân tộc để 
xác định, lựa chọn và áp dụng những hình thức, biện pháp tác động một cách phù 
hợp với đặc điểm của họ. Chỉ dựa trên cơ sở đó, chúng ta mới phát huy được 
những giá trị tích cực của truyền thống văn hóa của mỗi dân tộc trong quan hệ 
giữa con người với tự nhiên, bổ sung vào các giá trị đó những yếu tố hiện đại, 
khoa học. Đồng thời, cải tạo và xóa bỏ dần những gì lạc hậu, cổ hủ, không phù 
hợp với xã hội hiện đại. Nói cách khác, chỉ có như vậy, sự tác động vào đời sống 
văn hóa, tâm lý xã hội của các dân tộc nhằm xây dựng những hệ giá trị mới trong 
quan hệ giữa con người và tự nhiên mới có hiệu quả vững chắc. 
Việc xây dựng lối sống, nếp sống văn hóa sinh thái mới phù hợp với điều 
kiện phát triển hiện tại cho đồng bào các dân tộc phải dựa trên nguyên tắc phát 
triển bền vững. Để có và luôn giữ dược mối quan hệ hài hòa với tự nhiên, con 
người cần phải có đạo đức sinh thái. 
Đạo đức sinh thái phải được coi là một phẩm chất cần thiết, 
một tiêu chuẩn đạo đức của con người trong thời đại ngày nay. Đồng 
thời, chú ý sử dụng các yếu tố tâm lý như một công cụ đắc lực trong 
việc bảo vệ môi trường, như tạo dư luận xã hội - ủng hộ, khuyến khích 
những hành động tích cực và phản đối, lên án những hành động tiêu 
cực trong lĩnh vực bảo vệ môi trường. Cùng với việc thực hiện tốt 
Luật bảo vệ môi trường, cần khôi phục và phát huy những giá trị 
truyền thống tốt đẹp qua các luật tục, tập quán bảo vệ môi trường của 
nhân dân [41, tr. 31]. 
Bốn là, nhóm giải pháp về nâng cao ý thức trách nhiệm của các nhà 
quản lý ở các vùng miền núi đối với việc bảo vệ môi trường. 
Sự nghiệp đổi mới, đẩy mạnh công công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất 
nước và thực hiện chiến lược phát triển bền vững là sự nghiệp chung của toàn 
dân. Trong quá trình đó, xét về mặt bảo vệ môi trường, việc đẩy mạnh giáo dục 
nâng cao nhận thức cho mọi tầng lớp nhân dân, cho cộng đồng là cực kỳ quan 
trọng. Song, để giúp người dân có những nhận thức đúng, trên cơ ở đó, có những 
hành động đúng trong việc bảo vệ môi trường, tạo nền tảng cho sự phát triển bền 
vững của cả cộng đồng, cần phải có một đội ngũ những nhà quản lý có trình độ. 
Lực lượng xã hội này chính là những người hoạch định, tổ chức và quản lý việc 
thực hiện các chủ trương, chính sách phát triển kinh tế - xã hội cụ thể của các địa 
phương. Họ là những người chịu trách nhiệm hướng dẫn nhân dân thực hiện các 
kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, thực hiện các quy định của nhà nước về bảo 
vệ môi trường được pháp chế hóa trong các Luật và văn bản dưới luật. 
Do tính phức tạp về điều kiện tự nhiên và đặc điểm phân bố dân cư của 
khu vực miền núi phía Bắc, việc xây dựng đội ngũ cán bộ quản lý và nâng cao 
trình độ nhận thức về môi trường cho họ, đặc biệt là số cán bộ ở các cơ sở thôn, 
bản... là rất quan trọng và cần thiết. Vai trò của những già làng, trưởng bản trong 
đời sống kinh tế, văn hóa và xã hội khá rõ nét và có ảnh hưởng lớn đến hoạt động 
của mọi thành viên trong các dân tộc miền núi phía Bắc. Kinh nghiệm sống và uy 
tín của họ cần được củng cố, bổ sung bằng những nhận thức mới về môi trường. 
Tóm lại, phát triển bền vững là một trong những chiến lược phát triển 
căn bản nhất của các quốc gia, dân tộc trong điều kiện hiện nay. Sự phát triển 
theo khuynh hướng đó vừa đảm bảo thực hiện mục tiêu tăng trưởng kinh tế, vừa 
đáp ứng yêu cầu bảo vệ môi trường sinh thái. Đó cũng chính là sự lựa chọn chiến 
lược của nước ta nói chung và khu vực miền núi phía bắc nói riêng. 
Để thực hiện chiến lược phát triển đó ở miền núi phía Bắc, yêu cầu trước 
mắt đặt ra cho chúng ta là phải rút ngắn và đi đến xóa bỏ sự chênh lệch về các 
mặt kinh tế, văn hóa và xã hội giữa khu vực miền núi phía Bắc với các tỉnh và 
vùng lãnh thổ khác của đất nước. Nhưng, để đạt được mục tiêu đó, yêu cầu trước 
mắt là phải xây dựng ý thức bảo vệ môi trường cho đồng bào các dân tộc ở đây, 
tạo tiền đề cho sự phát triển bền vững. Muốn vậy, chúng ta phải sử dụng một loạt 
biện pháp đồng bộ, trong đó, cải thiện đời sống kinh tế là giải pháp mang tính 
nền tảng và đẩy mạnh giáo dục, nâng cao nhận thức của đồng bào về các vấn đề 
môi trường và bảo vệ môi trường là giải pháp có ý nghĩa quyết định. 
kết luận 
Môi trường sinh thái hiện đang là một trong những thách thức, một vấn 
đề có tính toàn cầu. Mục tiêu hành động của nhân loại là tự giác điều chỉnh tác 
động của mình vào tự nhiên, bảo vệ môi trường sinh thái vì sự phát triển của con 
người và xã hội loài người trong hiện tại, tương lai. Từ những nội dung đã phân 
tích trên đây, chúng tôi rút ra một số kết luận khái quát sau đây: 
1. Môi trường sinh thái là toàn bộ hệ thống tự nhiên và nhân tạo mà dựa 
vào đó, con người và xã hội mới có thể tồn tại và phát triển. Nó đóng vai trò vô 
cùng quan trọng và không thể thay thế đối với cuộc sống của con người, đối với 
sự tồn tại và phát triển của xã hội. Vai trò đó của tự nhiên không phải là bất biến 
mà thay đổi cùng với sự vận động, phát triển của xã hội loài người. Dù trí tuệ của 
con người ngày càng phát triển và có khả năng sáng tạo phi thường, song chắc 
chắn là không bao giờ con người có thể tách mình ra khỏi tự nhiên. 
2. Con người hiện đang hướng đến một quan niệm mới về sự phát triển - 
phát triển bền vững, trong đó để bảo đảm chất lượng sống của mình, con người 
không chỉ quan tâm phát triển kinh tế mà còn chú ý bảo vệ môi trường sinh thái, 
coi đó như là một điều kiện không thể thiếu để tiếp tục tồn tại và phát triển. Từ đó, 
vấn đề xây dựng ý thức bảo vệ môi trường sinh thái - tiền đề để có những hành động 
đúng đắn và hợp lý trong quan hệ với tự nhiên, trở thành một nhiệm vụ quan trọng 
hàng đầu của các quốc gia, cộng đồng. 
3. Miền núi phía Bắc nước ta là một khu vực chứa đựng sự đa dạng, phức 
tạp về các điều kiện tự nhiên, văn hóa và xã hội. Từ lâu, cộng đồng các dân tộc 
thiểu số ở đây đã sống gắn bó, dựa vào tự nhiên để tồn tại và phát triển. Trong 
truyền thống văn hóa, lối sống của mình, đồng bào các dân tộc miền núi phía Bắc 
nước ta đã xây dựng, duy trì và bảo tồn nhiều giá trị, tập quán tốt đẹp trong quan 
hệ với tự nhiên. Song, phải thừa nhận rằng, cho đến nay, họ vẫn chưa thực sự có ý 
thức tự giác trong việc bảo vệ môi trường sinh thái, dẫn đến sự nảy sinh hàng loạt 
các vấn đề môi trường cấp bách, điển hình là nạn phá rừng và sự suy giảm chất 
lượng nguồn tài nguyên vô giá này. Tình trạng đó xuất phát từ nhiều nguyên 
nhân khách quan và chủ quan, trong đó chủ yếu là do sự nghèo đói, tốc độ tăng 
dân số còn cao, những tác động tiêu cực của cơ chế thị trường và đặc biệt là do 
trình độ nhận thức của đồng bào về các vấn đề môi trường và bảo vệ môi trường 
còn rất thấp. 
4. Miền núi phía Bắc có vai trò rất quan trọng đối với sự phát triển kinh 
tế xã hội của đất nước cả về mặt kinh tế (nguồn cung cấp nhiều tài nguyên cần 
thiết) lẫn về mặt môi trường sinh thái. Bởi vậy, cũng như cả nước, miền núi phía 
Bắc phải thực hiện chiến lược phát triển bền vững, trong đó kết hợp chặt chẽ các 
mục tiêu tăng trưởng kinh tế, bảo đảm công bằng xã hội và bảo vệ môi trường 
sinh thái. Trước mắt, cần xóa bỏ dần sự chênh lệch về trình độ phát triển kinh tế - 
xã hội, mức sống và chất lượng sống của đồng bào các tỉnh miền núi so với miền 
xuôi, tạo tiền đề và điều kiện cần thiết cho việc bảo vệ môi trường. 
5. Xây dựng ý thức bảo vệ môi trường cho đồng bào các dân tộc miền 
núi phía Bắc là một nhiệm vụ quan trọng nhưng cũng rất khó khăn và phức tạp. 
Điều đó đòi hỏi chúng ta phải có sự nỗ lực cao, áp dụng đồng thời nhiều biện 
pháp cần thiết. Bảo vệ môi trường là nhiệm vụ chung của toàn xã hội. Ngoài sự 
giúp đỡ của nhà nước, của các cơ quan chuyên môn và tổ chức kinh tế - xã hội..., 
trước hết mỗi người dân thuộc cộng đồng các dân tộc miền núi phía Bắc phải tự 
giác xây dựng và thường xuyên củng cố ý thức bảo vệ môi trường, trên cơ sở đó, 
tích cực tham gia bảo vệ môi trường, giải quyết các vấn đề môi trường đặt ra tại 
chính địa phương thông qua những hành động cụ thể và thiết thực. 
danh mục tài liệu tham khảo 
1. Trần Lê Bảo (chủ biên), (2001), Văn hóa sinh thái nhân văn, Nxb Văn hóa - 
Thông tin, Hà Nội. 
2. Báo Lao Động, ngày 26/4/2003. 
3. Hoàng Hữu Bình (1999), "Các tộc người miền núi phía Bắc Việt Nam với 
môi trường", Trong cuốn: Tuyển tập các báo cáo khoa học tại Hội nghị 
môi trường toàn quốc năm 1998, Nxb Khoa học - Kỹ thuật, Hà Nội. 
4. Phạm Văn Boong (2002), ý thức sinh thái và vấn đề phát triển lâu bền, Nxb 
Chính trị quốc gia, Hà Nội. 
5. Lê Thạc Cán (1999), "Giáo dục môi trường nhân văn và đạo đức môi 
trường", Bảo vệ môi trường, (5). 
6. Nguyễn Vũ Cân (12-2002), "Hệ thống chính trị ở cơ sở và vấn đề xây dựng 
quy chế bảo vệ môi trường miền núi", Dân tộc và Miền núi, (24). 
7. Đinh Ngọc Chung (12-2002), "Bộ đội biên phòng tham gia thực hiện công 
tác định canh định cư ở khu vực biên giới", Dân tộc và Miền núi, (24). 
8. Lê Trọng Cúc (1999), "Hiện trạng và giải pháp phát triển vùng núi phía Bắc 
Việt Nam", Trong cuốn: Tuyển tập các báo cáo khoa học tại Hội nghị 
môi trường toàn quốc năm 1998, Nxb Khoa học và kỹ thuật, Hà Nội. 
9. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần 
thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 
10. Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh. Khoa Triết học (1994), Triết học 
Mác - Lênin, tập 3 (xuất bản lần thứ ba), Nxb Chính trị quốc gia, Hà 
Nội. 
11. Trần Trọng Hựu, Nguyễn Thị Thu Hà (1999), "Luật bảo vệ môi trường 1993 
và vấn đề hoàn thiện hệ thống pháp luật về bảo vệ môi trường". Trong 
cuốn: Tuyển tập các báo cáo khoa học tại Hội nghị môi trường toàn 
quốc năm 1998, Nxb Khoa học và kỹ thuật, Hà Nội. 
12. Nguyễn Hồng Khánh, Đỗ Hoài Dương, Tạ Đăng Toàn (2001), "Tình hình 
suy giảm chất lượng và ô nhiễm môi trường lưu vực sông Cầu", Bảo vệ 
môi trường, (11). 
13. Đỗ Quang Khiểm (2001), "Giáo dục môi trường ở một số trường Đại học và 
phổ thông". Trong cuốn: Hội thảo Quốc gia: Giáo dục môi trường 
trong các trường học, Hà Nội. 
14. Vi Thái Lang (2002), Vấn đề phát triển lực lượng sản xuất ở miền núi phía 
Bắc nước ta hiện nay, Luận án tiến sĩ triết học, Hà Nội. 
15. Trần Thị Hồng Loan (2002), "Một số vấn đề về văn hóa sinh thái ở miền núi 
phía Bắc nước ta hiện nay", Triết học, (6). 
16. C. Mác và Ph. Ăngghen (1993), Toàn tập, tập 13, Nxb Chính trị quốc gia, Hà 
Nội. 
17. C. Mác và Ph. Ăngghen (1993), Toàn tập, tập 20, Nxb Chính trị quốc gia, Hà 
Nội. 
18. C. Mác và Ph. Ăngghen (1993), Toàn tập, tập 23, Nxb Chính trị quốc gia, Hà 
Nội. 
19. C. Mác và Ph. Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 3, Nxb Chính trị quốc gia, Hà 
Nội. 
20. C. Mác, Ph. Ăngghen (2000), Toàn tập, tập 42, Nxb Chính trị quốc gia, Hà 
Nội. 
21. Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, tập 9, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 
22. Ngọc Minh (16/7/2003), "Mười năm, mức sống thực tế của dân tăng 2,3 lần", 
Báo Thanh Niên, (197). 
23. Hoàng Đức Nhuận (2001), "Cơ sở lý luận và thực tiễn của giáo dục môi 
trường". Trong cuốn: Hội thảo quốc gia: Giáo dục môi trường trong 
các trường học, Hà Nội. 
24. Hoàng Đức Nhuận (2001), "Nhìn lại quá trình giáo dục môi trường ở các 
trường phổ thông ở Việt Nam". Trong cuốn: Hội thảo quốc gia: Giáo 
dục môi trường trong các trường học, Hà Nội. 
25. Nguyễn Quốc Phẩm (12-2002), "Tăng cường hơn nữa công tác dân tộc, thực 
hiện tốt chính sách dân tộc trong tình hình mới", Dân tộc và Miền núi, 
(24). 
26. Vương Duy Quang (1999), "Quan hệ xã hội truyền thống của người H’mông 
với vấn đề bảo vệ và phát triển rừng ở vùng núi cao phía Bắc Việt Nam". 
Trong cuốn: Tuyển tập các báo cáo khoa học tại Hội nghị môi trường toàn 
quốc năm 1998, Nxb Khoa học và kỹ thuật, Hà Nội. 
27. Nguyễn Quang (2001), "Gắn kết văn hóa đô thị, văn hóa làng xã với văn hóa 
môi trường", Bảo vệ môi trường, (4). 
28. Võ Quý (1999), "Tăng cường sự tham gia của nhân dân địa phương trong 
việc quản lý các khu bảo tồn và bảo vệ đa dạng sinh học". Trong cuốn: 
Tuyển tập các báo cáo khoa học tại Hội nghị môi trường toàn quốc 
năm 1998, Nxb Khoa học và kỹ thuật, Hà Nội. 
29. Võ Quý (12-2002), "Vấn đề đa dạng sinh học ở miền núi Việt Nam - thực trạng 
và những vấn đề đặt ra", Dân tộc và Miền núi, (24). 
30. Nguyễn Đức Quý (1999), "Về đặc điểm công nghiệp khoáng sản và tác động 
môi trường ở Việt Nam". Trong cuốn: Tuyển tập các báo cáo khoa học 
tại Hội nghị môi trường toàn quốc năm 1998, Nxb Khoa học và kỹ 
thuật, Hà Nội. 
31. Phạm Bình Quyền, Trương Quang Học (1999), "Nghiên cứu những nguyên 
nhân sâu xa về kinh tế - xã hội của sự suy thoái đa dạng sinh học tại 
một số vùng địa - sinh thái của Việt Nam", Trong cuốn: Tuyển tập các 
Báo cáo khoa học tại Hội nghị môi trường toàn quốc năm 1998, Nxb 
Khoa học và kỹ thuật, Hà Nội. 
32. Nguyễn Huyền Sâm (12-2002), "Chương trình xây dựng mô hình ứng dụng 
khoa học công nghệ vào nông thôn miền núi", Dân tộc và Miền núi, 
(24). 
33. Bạch Tân Sinh (2001), "Vai trò của cộng đồng dân cư và tổ chức xã hội trong 
việc thực hiện chính sách môi trường ở Việt Nam", Bảo vệ môi trường, 
(1). 
34. Tạp chí Thông tin chiến lược phát triển khoa học, kỹ thuật, kinh tế (1996), số 
8. 
35. Hà Huy Thành (1999), "Môi trường xã hội - nhân văn với việc sử dụng tài 
nguyên thiên nhiên và bảo vệ môi trường", Bảo vệ môi trường, (5). 
36. Chu Khắc Thuật, Nguyễn Văn Thủ (chủ biên) (1998), Văn hóa, lối sống với 
môi trường, Trung tâm nghiên cứu và tư vấn về phát triển, Nxb Văn 
hóa Thông tin, Hà Nội. 
37. Trần Văn Thuật (12-2002), "Một số vấn đề phát triển miền núi hiện nay", 
Dân tộc và Miền núi, (24). 
38. Trần Hữu Thung (12-2002), "Kết quả xóa đói giảm nghèo ở các tỉnh miền núi 
giai đoạn 1996 - 2000", Dân tộc và Miền núi, (24). 
39. Phạm Thị Ngọc Trầm (1997), Môi trường sinh thái. Vấn đề và giải pháp, Nxb 
Chính trị quốc gia, Hà Nội. 
40. Phạm Thị Ngọc Trầm (2002), "Vấn đề xây dựng đạo đức sinh thái trong điều 
kiện kinh tế thị trường", Triết học, (3). 
41. Phạm Thị Ngọc Trầm (2004), "Về cách tiếp cận triết học - xã hội đối với 
hiện trạng môi trường sinh thái nhân văn ở Việt Nam: các vấn đề, 
nguyên nhân và giải pháp", Triết học, (6). 
42. Nguyễn Hoàng Trí, Nguyễn Thị Cẩm Khuê (2001), "Giáo dục môi trường và 
những trở ngại chính trong việc phát triển, thực hiện và đánh giá". 
Trong cuốn: Hội thảo Quốc gia: Giáo dục môi trường trong các trường 
học, Hà Nội. 
43. Trung tâm Khoa học xã hội và Nhân văn quốc gia. Viện Triết học (2002), 
"Các giải pháp chủ yếu nâng cao ý thức của nhân dân trong việc tham 
gia bảo vệ môi trường", Đề tài cấp Bộ: Quản lý Nhà nước về môi 
trường, Hà Nội. 
44. Trung tâm Kỹ thuật môi trường đô thị và khu công nghiệp - CEETIA. 
Trường Đại học Xây dựng, Chiến lược bảo vệ môi trường tỉnh Lạng 
Sơn đến năm 2010. 
45. Võ Văn Tuấn (1999), "Đánh giá ảnh hưởng của hồ chứa Hòa Bình tới môi 
trường". Trong cuốn: Tuyển tập các báo cáo khoa học tại Hội nghị môi 
trường toàn quốc năm 1998, Nxb Khoa học và kỹ thuật, Hà Nội. 
46. Nguyễn Anh Tường (2001), "Vấn đề môi trường, giáo dục bảo vệ giữ gìn 
bản sắc văn hóa môi trường sư phạm", Trong cuốn: Hội thảo Quốc gia: 
Giáo dục môi trường trong các trường học, Hà Nội. 
47. Nguyễn Văn Tuyên (1997), Sinh thái và môi trường, Nxb Giáo dục, Hà 
Nội. 
48. Minh Viễn (2000), "Dân số với những thách thức mới", Bảo vệ môi trường, 
(7). 
49. Mục Lục 
50. 
 Trang 
 mở đầu 1 
 Chương 1: một số vấn đề lý luận về môi trường và ý thức bảo 
vệ môi trường 
7 
1.1. Môi trường và vai trò của nó đối với cuộc sống của con người 7 
1.2. ý thức bảo vệ môi trường và ý nghĩa của việc xây dựng ý thức bảo 
vệ môi trường 
18 
 Chương 2: thực trạng môi trường và ý thức bảo vệ môi trường 
của đồng bào các dân tộc miền núi phía bắc nước 
ta hiện nay 
32 
2.1. Khái quát một số đặc điểm tự nhiên và xã hội cơ bản của khu vực 
miền núi phía Bắc 
32 
2.2. Truyền thống ứng xử đối với môi trường thiên nhiên của đồng bào 
các dân tộc miền núi phía Bắc 
35 
3.3. Những biến đổi của môi trường miền núi phía Bắc trong điều kiện 
đổi mới hiện nay và thực trạng bảo vệ môi trường của đồng bào 
các dân tộc ở đây 
42 
 Chương 3: phương hướng và giải pháp chủ yếu xây dựng ý thức 
bảo vệ môi trường cho đồng bào các dân tộc miền 
núi phía bắc 
58 
3.1. Về quan điểm 58 
3.2. Phương hướng và giải pháp 62 
 Kết luận 76 
 danh mục tài liệu tham khảo 78 
51. 
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
 LUẬN VĂN- Vấn đề xây dựng ý thức bảo vệ môi trường sinh thái cho đồng bào các dân tộc miền núi phía Bắc nước ta.pdf LUẬN VĂN- Vấn đề xây dựng ý thức bảo vệ môi trường sinh thái cho đồng bào các dân tộc miền núi phía Bắc nước ta.pdf