Luận văn Xây dựng môi trường văn hóa ở thành phố Đà Nẵng trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa hiện nay

Tuy nhiên, xây dựng MTVH còn là vấn đề mới mẻ, có nội dung đa dạng, phong phú và hết sức phức tạp. Do vậy phải biết tìm ra những hình thức, bước đi phù hợp, xây dựng một hệ thống chính sách, giải pháp đồng bộ và hữu hiệu phù hợp với tình hình thực tiễn địa phương. Đà Nẵng cần thiết phải tiến hành điều tra, khảo sát xã hội học để đánh giá đúng đắn và khoa học thực trạng MTVH thời gian qua, trên cơ sở đó xác lập phương hướng, bước đi cho công cuộc xây dựng MTVH trong thời gian tới.

pdf116 trang | Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2270 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Xây dựng môi trường văn hóa ở thành phố Đà Nẵng trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ủa các quan hệ họ hàng, dư luận xã hội, trong lúc trình độ quản lý và trật tự kỷ cương đô thị còn lỏng lẻo nên rất dễ phát sinh các biểu hiện tiêu cực. Do đó, phải hết sức chú trọng các biện pháp xây dựng khu dân cư tự quản, tăng cường vai trò giám sát của các tổ chức quần chúng, sự điều hành của tổ dân phố và Ban chỉ đạo khối phố. Điều hết sức cần thiết là phải tăng cường hiệu quả hoạt động của các Ban chỉ đạo thực hiện cuộc vận động "Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa" ở các cấp cơ sở và phải xây dựng cho được các Bản quy ước riêng của từng khối phố. Những Bản quy ước này phải được cộng đồng dân cư trong khối phố bàn bạc, thảo luận và xây dựng nên, phải thể hiện được ý chí, nguyện vọng... của nhân dân khu vực. Đồng thời phải đảm bảo những nguyên tắc mà Đảng, Nhà nước, các cấp chính quyền quy định, không được tự do, tùy tiện đề ra những chủ trương theo ý muốn chủ quan của một số người. Có như vậy, nó mới thực sự mang đầy đủ ý nghĩa của các yếu tố nhân văn, chống lại những tư tưởng phản văn hóa, bảo thủ, trì trệ, thu hút mọi người đồng tâm hiệp lực thực hiện một cách tự giác và triệt để, làm cho quy ước trở thành một động lực thúc đẩy đơn vị phát triển. Xây dựng thôn, khối phố văn hóa là một yêu cầu cấp thiết từ cơ sở, góp phần ổn định đời sống xã hội, tạo cơ sở tiền đề để tiến tới xây dựng xã, phường văn hóa và thành phố văn hóa. Do đó, vấn đề xây dựng, công nhận phải được thực hiện nhất quán, chặt chẽ, công tâm và khách quan, tránh chủ nghĩa phô trương, hình thức chạy theo thành tích đơn thuần. * Xây dựng cơ quan văn hóa. Xây dựng cơ quan văn hóa chính là xây dựng MTVH trong tất cả các cơ quan Nhà nước, các đơn vị lực lượng vũ trang, công an, trường học, bệnh viện... (gọi chung là công sở), các doanh nghiệp (nơi làm việc, nơi sản xuất, dịch vụ). Đây là nội dung nhiệm vụ hết sức quan trọng. Bởi lẽ, cơ quan, đơn vị, trường học...chính là khâu trung gian chuyển tải tri thức, kiến thức khoa học, chủ trương chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước đến với công chúng địa phương, hoặc có nhiệm vụ thực thi mọi chính sách xã hội, xây dựng cơ sở hạ tầng, thực hiện chính sách an sinh đối với đời sống xã hội. Hơn nữa, mỗi thành viên của cơ quan, đơn vị, trường học phần lớn là những công dân kiểu mẫu của xã hội, có học thức, được đào tạo cơ bản, có tính đại diện cao. Cơ quan, đơn vị, trường học phát triển lành mạnh sẽ trở thành tấm gương kéo theo sự phát triển lành mạnh của xã hội. Vì vậy, yêu cầu xây dựng cơ quan văn hóa phải đảm bảo thực hiện tốt các nội dung sau: - Xây dựng công sở xanh, sạch, đẹp, an toàn. - Sinh hoạt chính trị nề nếp, làm việc có kỷ luật, thực hiện tốt nội quy, quy chế cơ quan. - Ăn mặc gọn gàng, trang nhã. Giao tiếp ứng xử văn minh, nhã nhặn, lịch thiệp với đồng nghiệp, với khách, với nhân dân. - Làm việc có hiệu quả, sáng tạo, hợp tác giúp đỡ lẫn nhau hoàn thành công việc với năng suất cao, có hiệu quả rõ rệt. - Thực hiện dân chủ ở cơ sở. Đoàn kết nội bộ, nghiêm túc tự phê bình và phê bình; đấu tranh có hiệu quả với nạn tham nhũng, lãng phí của công và các hiện tượng tiêu cực khác. - Quan hệ chặt chẽ với cơ sở, với nhân dân; khắc phục các thủ tục phiền hà, thực hiện cải cách hành chính có hiệu quả. - Đẩy mạnh phong trào học tập, lao động sáng tạo, nghiên cứu khoa học, phát huy sáng kiến, cải tiến kỹ thuật, ứng dụng tiến bộ KH&CN vào sản xuất kinh doanh, nâng cao hiệu quả công tác. - Không hút thuốc tại công sở, trong lúc hội họp, làm việc và tiếp khách. Không đặt bàn thờ, bát hương tại cơ quan, công sở. - Thường xuyên có các hoạt động văn hóa, văn nghệ, TDTT góp phần nâng cao ĐSVH và rèn luyện thể chất cho người lao động. - Phấn đấu đến cuối năm 2001, thành phố có 70% cơ quan, đơn vị văn hóa; đến cuối năm 2005 nâng tỷ lệ lên 90% [47, tr. 3]. Xây dựng cơ quan, công sở văn hóa cần phải khắc phục các kiểu quan hệ mang tính họ hàng, thân tộc, xóm giềng, các kiểu quan hệ công tác, sắp xếp bố trí cán bộ "nhất thân nhì quen", "bằng cấp không bằng bằng lòng"... Xây dựng các mối quan hệ công tác lành mạnh, khoa học, củng cố tình đồng chí, đồng nghiệp sâu sắc, chí tình, có tính xây dựng tạo điều kiện cho mỗi cá nhân có thể phát huy hết năng lực, sở trường công tác của mình, hoàn thành nhiệm vụ được giao và không ngừng nâng cao phẩm chất đạo đức, năng lực công tác. Phải xây dựng cho được cơ chế đánh giá năng lực, công trạng của cán bộ để khuyến khích tài năng sáng tạo của họ. Trong những nội dung nhiệm vụ phải nhận thức rõ đâu là những yêu cầu hoàn toàn mang tính bắt buộc, đâu là những nội dung mang tính chất vận động, kêu gọi ý thức trách nhiệm của mọi người. Đây là những công việc rất khó khăn, gặp không ít trở ngại do thói quen, tập quán cũ. Quá trình thực hiện cuộc vận động cần có sự lãnh đạo, chỉ đạo chặt chẽ của các cấp ủy, chính quyền, đoàn thể để biến những nội dung ấy thành những tiêu chí thi đua thích hợp phát huy được tinh thần tự giác, trách nhiệm của cán bộ, công chức, viên chức và các thành viên trong đơn vị. Ngoài ra trong nhóm giải pháp này còn phải hết sức chú trọng giải pháp xây dựng một cơ chế, chính sách phù hợp nhằm tạo ra và đảm bảo sự phối hợp đồng bộ, nhất quán giữa nhiệm vụ xây dựng MTVH với nhiệm vụ xây dựng ĐSVH cơ sở và phong trào "Toàn dân đoàn kết xây dựng ĐSVH" cũng như nhiều phong trào hành động khác đang diễn ra ở địa phương. 3.2. Nhóm giải pháp về lãnh đạo, quản lý 3.2.1. Tăng cường sự lãnh đạo của các cấp ủy Đảng, hiệu lực quản lý của các cấp chính quyền, hoạt động của các ngành chức năng, các đoàn thể, các tổ chức xã hội và nhân dân để thực hiện nhiệm vụ xây dựng MTVH Đây là giải pháp trọng tâm, có vai trò hết sức quan trọng đối với việc nâng cao chất lượng, hiệu quả xây dựng MTVH ở thành phố Đà Nẵng hiện nay. * Trước hết là nâng cao nhận thức của các cấp ủy Đảng, chính quyền, các ngành chức năng, các đoàn thể và nhân dân đối với việc bảo vệ và xây dựng MTVH. Có thể nói, hạn chế lớn nhất ở địa phương hiện nay là chưa thật sự ý thức đầy đủ và coi trọng nhiệm vụ xây dựng MTVH ở cơ sở. Nói tới xây dựng ĐSVH cơ sở, hầu hết các địa phương đều coi trọng hơn các biện pháp xây dựng kinh tế, tạo lập cơ sở hạ tầng (điện, đường, trường, trạm), giữ gìn vệ sinh môi trường. ở cấp vi mô, nội dung xây dựng MTVH phần lớn chỉ chú trọng tới các mặt hình thức bề nổi như sạch, đẹp, an toàn (giữ gìn vệ sinh công cộng, không gây rối trật tự công cộng, ăn mặc sạch sẽ, lịch sự khi ra đường, nhà ở, nơi làm việc ngăn nắp, gọn gàng, sạch đẹp...). Các nội dung chuyên sâu, có vai trò quan trọng nâng cao chất lượng cuộc sống, chất lượng MTVH trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH chưa được nhận thức đầy đủ. Đó là các vấn đề nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài; xây dựng các quan hệ sản xuất mới, xây dựng các chuẩn mực, quy tắc hiện đại trong hành vi, lối sống, phong cách làm việc, giao tiếp, ứng xử, xây dựng NSVM đô thị v,v... chưa được lượng hóa thành các nội dung, chương trình hoạt động cụ thể, thiết thực. ở cấp vĩ mô, chương trình "5 không" của thành phố tuy hết sức cụ thể, thiết thực, có vai trò rất lớn trong việc xây dựng một đô thị văn minh, hiện đại nhưng nếu chỉ dừng lại ở đó thì còn chưa mang tính khái quát, còn thiếu hụt rất nhiều các mục tiêu quan trọng khác cần giải quyết (ô nhiễm MTTN, MTXH; quốc nạn tham nhũng; NSVM đô thị...). Xây dựng MTVH chưa trở thành nội dung cốt lõi, là mục tiêu trọng yếu của công tác xây dựng ĐSVH cơ sở. Dường như vẫn còn tồn tại sự biệt lập hoặc chồng chéo giữa xây dựng MTVH với cuộc vận động "Toàn dân đoàn kết xây dựng cuộc sống mới ở khu dân cư" và gần đây nhất là cuộc vận động "Toàn dân đoàn kết xây dựng ĐSVH". Trong nhận thức của không ít cán bộ đảng viên và nhân dân, vấn đề bảo vệ và xây dựng MTVH vẫn là công việc riêng của ngành Văn hóa thông tin, của sở Khoa học, công nghệ và môi trường, của chính quyền. Họ chưa thấy hết sự tác hại ghê gớm đang diễn ra từng giờ, từng phút, ở mọi nơi, mọi lúc khi MTVH bị tha hóa, hủy hoại và ô nhiễm. Đây là những trở lực rất lớn, vì khi chưa nhận thức đúng thì chưa thể có hành động đúng, thậm chí còn vô tình tiếp tay cho những hành động sai trái, hủy hoại MTVH. Nâng cao nhận thức về bảo vệ và xây dựng MTVH ở Đà Nẵng hiện nay tránh sự thoái hóa, xuống cấp từ bên trong, sự tấn công từ bên ngoài của các thế lực thù địch, tạo lập một phong trào hành động rộng khắp trong xã hội được coi là giải pháp đầu tiên trong hàng loạt các giải pháp khác. Muốn vậy, trong xu hướng phát triển đi lên của thành phố, các cấp ủy Đảng, chính quyền, các ngành và các đoàn thể nhân dân mà trước hết là ngành văn hóa thông tin phải quán triệt sâu sắc, đầy đủ các chỉ thị, nghị quyết của Đảng và văn bản của Chính phủ về công tác văn hóa, nhất là Nghị quyết Trung ương 5 (khóa VIII), nghị quyết Đại hội IX của Đảng; luật Di sản văn hóa, các pháp lệnh, chỉ thị về lập lại trật tự, kỷ cương trên lĩnh vực văn hóa, tư tưởng, thực hiện NSVM trong việc cưới, việc tang, hội hè, đình đám... Nhận thức đúng đắn vai trò của văn hóa nói chung và MTVH nói riêng trong việc bồi dưỡng, phát huy nhân tố con người, xây dựng xã hội mới XHCN. Coi vấn đề bảo vệ và xây dựng MTVH là trách nhiệm của toàn bộ hệ thống chính trị, trong đó ngành Văn hóa thông tin đóng vai trò chủ quản. Phải ý thức đầy đủ MTVH của các cơ sở (các đơn vị, cơ quan, xí nghiệp, lâm trường, nhà trường, bệnh viện... các khu dân cư như làng, bản, ấp, xã phường) có vai trò rất quan trọng trong việc tạo ra MTVH xã hội. Phải đảm bảo MTVH ở cơ sở lành mạnh, có đủ điều kiện đáp ứng nhu cầu học tập, tiếp nhận thông tin, thưởng thức nghệ thuật, vui chơi giải trí cho mọi thành viên. Đẩy mạnh xây dựng GĐVH, làng văn hóa, khối phố văn hóa, nâng cao tính tự quản của các cộng đồng dân cư về NSVM, thu hẹp dần khoảng cách giữa thành thị và nông thôn... chính là những giải pháp thiết thực và cụ thể để nâng cao chất lượng MTVH. Đây còn là cơ sở quan trọng tạo ra sự khai thông, sự phối hợp đồng bộ và thống nhất giữa xây dựng MTVH và cuộc vận động "Toàn dân đoàn kết xây dựng ĐSVH" ở cơ sở, khắc phục những khuyết nhược cố hữu, một chiều khi tiến hành riêng rẽ từng cuộc vận động. Cần khắc phục triệt để từ trong nhận thức cũng như trong hành động coi xây dựng MTVH chỉ đơn thuần là các hoạt động bề nổi, các hoạt động có tính bổ trợ mà không chú trọng đến các hoạt động bề sâu của nó, hoặc những tư tưởng xem nhẹ vai trò của các giải pháp kinh tế, chính trị, xã hội trong việc nâng cao chất lượng MTVH. Xây dựng MTVH hoàn toàn thống nhất với nội dung cuộc vận động "Toàn dân đoàn kết xây dựng ĐSVH" vừa được phát động, là một trong những xương sống cấu thành nhiệm vụ xây dựng ĐSVH ở cơ sở. Nó là cơ sở quan trọng đảm bảo tính thống nhất về hành động và thống nhất về mục tiêu trong các chương trình hành động xây dựng ĐSVH cơ sở. Cùng sử dụng thành quả tổng hợp của nhiều ngành văn hóa, giáo dục, y tế,... bằng nhiều biện pháp, cách thức khác nhau để hướng về cơ sở, nhằm đưa văn hóa thâm nhập vào đời sống trở thành một yếu tố khăng khít của đời sống xã hội và mọi hoạt động của người dân, thành một động lực quan trọng của sự phát triển. Xét đến cùng, xây dựng ĐSVH cơ sở cũng chính là sử dụng đồng bộ các giải pháp, các chính sách, các chương trình... nhằm xây dựng nên một MTVH sôi nổi, phong phú, văn minh, đầy tính nhân văn và thẩm mỹ; vừa tiên tiến, vừa đậm đà bản sắc dân tộc ở mọi cộng đồng dân cư, ở mọi khu vực. Hơn nữa, tạo ra sự thống nhất giữa xây dựng MTVH với xây dựng ĐSVH cơ sở sẽ khắc phục được xu hướng chỉ thu hẹp nội dung xây dựng ĐSVH cơ sở khép kín vào một số hoạt động sự nghiệp thuộc ngành văn hóa, dễ dàng vận dụng linh hoạt vào từng lĩnh vực cụ thể (xây dựng trong cộng đồng nghề nghiệp, cơ quan, công sở, doanh trại bộ đội, các tổ chức tôn giáo...). Chú trọng xây dựng MTVH trong xây dựng ĐSVH cơ sở còn phát huy được nhiều loại hình hoạt động của các cộng đồng dân cư khác nhau, các thiết chế khác nhau, không chỉ bó hẹp trong hoạt động của ngành văn hóa thông tin, hay các ngành chức năng. Ví dụ như hoạt động văn hóa ở các chùa đình, lễ hội, ở các di tích danh thắng... Xây dựng MTVH có sự tác động tương hỗ, đưa nhiệm vụ xây dựng ĐSVH cơ sở vào chiều sâu. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức của cán bộ, đảng viên và nhân dân về mục đích, ý nghĩa của việc xây dựng MTVH. Cần làm cho nhân dân hiểu rõ tác hại ghê gớm của sự xuống cấp, suy thoái của MTVH cũng giống như MTTN bị hủy hoại, ô nhiễm nghiêm trọng, di hại, hậu quả nặng nề của nó không chỉ tác động đến nòi giống, chất lượng cuộc sống mà còn hủy hoại nhân cách con người, nền tảng đạo đức xã hội, là một trong những tác nhân chủ yếu dẫn đến suy thoái kinh tế, khủng hoảng kinh tế - xã hội, mất ổn định chính trị và an ninh quốc gia. Xây dựng MTVH chỉ mang lại hiệu quả thiết thực một khi nhân dân nhận thức đầy đủ, có ý thức tự giác chấp hành và coi đó là quyền lợi là trách nhiệm, nghĩa vụ của chính bản thân mình, làm chuyển biến cuộc vận động thực sự trở thành phong trào hành động cách mạng của toàn xã hội. Kết quả điều tra ở thành phố Đà Nẵng cho thấy do làm tốt công tác tuyên truyền, vận động, đề ra chủ trương "xây dựng MTVH trong các đơn vị quân đội" mà có tới 100% đối tượng là bộ đội có nhận thức đúng đắn coi công tác bảo vệ môi trường là nhiệm vụ của tất cả mọi người (cao hơn cả đối tượng là giáo viên 94,2%; đối tượng là CBCNV 94,3%; đối tượng là học sinh, sinh viên 95,5%...) [32, tr. 11]. Tóm lại, phải làm rõ xây dựng MTVH là trách nhiệm của toàn bộ hệ thống chính trị, là trách nhiệm của toàn dân và phải thông qua những biện pháp tổng thể về chủ trương, chính sách, chương trình hành động, phát huy tác dụng của các thiết chế văn hóa, di sản văn hóa, các phương tiện thông tin đại chúng để tạo ra một đời sống tinh thần lành mạnh, tiến bộ, nhân văn, theo định hướng của Đảng. Đồng thời xây dựng MTVH không chỉ dừng lại ở mục đích tạm thời là tạo ra sức đề kháng với các hiện tượng tiêu cực trong xã hội mà nó cần được xây dựng hoàn thiện và toàn diện như một chỉnh thể bao gồm tất cả các thành tố cấu thành ĐSVH, MTVH. Do đó, không thể thiếu sự lãnh đạo của Đảng và sự can thiệp của các cấp chính quyền vào tất cả các thành tố cấu thành MTVH. * Cùng với việc nâng cao nhận thức là tăng cường sự lãnh đạo của các cấp ủy Đảng, vai trò của các cấp chính quyền, kết hợp chặt chẽ hoạt động của các ngành, các đoàn thể và tổ chức xã hội và nhân dân để thực hiện xây dựng MTVH. Đây chính là cơ sở quan trọng để biến nhận thức thành hành động, đưa chủ trương, nhiệm vụ xây dựng MTVH hội nhập vào đời sống xã hội ở địa phương. - Tăng cường sự lãnh đạo của các cấp ủy Đảng và hiệu lực quản lý của chính quyền các cấp. Các cấp ủy Đảng chính là người lãnh đạo, quán triệt quan điểm, xây dựng đường lối trên cơ sở vận dụng đường lối chung của Đảng phù hợp với tình hình thực tiễn địa phương. Trên cơ sở đó các cấp chính quyền hoạch định thành những chủ trương, chính sách, chương trình hành động cụ thể, đảm trách vai trò chỉ huy, dàn dựng và tổ chức thực hiện ở cơ sở. Xây dựng MTVH là một nhiệm vụ khá mới mẻ và phức tạp nếu không có sự lãnh đạo của các cấp ủy Đảng, sự chỉ đạo sâu sát của chính quyền thì khó có thể thực hiện thành công. Thực tiễn ở Đà Nẵng thời gian qua cho thấy vai trò của các cấp ủy Đảng và chính quyền địa phương ở nhiều cơ sở chưa ngang tầm với yêu cầu nhiệm vụ của tình hình mới. Theo kết quả điều tra của Ban Dân vận thành ủy Đà Nẵng (năm 1997 - 1998) cho thấy, chỉ có 16,43% đối tượng ở khu vực đô thị cho rằng tổ chức cơ sở Đảng "Có vai trò tích cực đối với việc tuyên truyền, phổ biến chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, tạo điều kiện cho nhân dân sinh sống, sản xuất kinh doanh" và cũng chỉ có 26,15% đối tượng là công nhân trong các doanh nghiệp cho rằng tổ chức cơ sở Đảng đã quan tâm đến quyền lợi của họ [39, tr. 53]. Kết quả đề tài "Điều tra đánh giá nhằm nâng cao nhận thức về bảo vệ môi trường cho cộng đồng thành phố Đà Nẵng" cho thấy, kênh tiếp nhận thông tin về vấn đề môi trường và công tác bảo vệ môi trường qua công tác vận động tuyên truyền của các cấp chính quyền, các cơ quan chuyên môn cho những chỉ số rất thấp: nói chuyện tuyên truyền 7,1%; tập huấn 1,6% [32, tr. 13]. Phần lớn việc tuyên truyền và phổ biến các chủ trương, chính sách của chính quyền địa phương là thông qua các phương tiện thông tin đại chúng (truyền hình: 35,3%, radio: 10,2%, sách báo 14,4%), cán bộ chính quyền ít tiếp cận, chưa phát huy được hình thức trao đổi thông tin hai chiều, phổ biến trực tiếp cho người dân, nên hiệu quả trong công tác còn thấp. Hầu hết người dân thành phố chỉ tiếp nhận thông tin bằng hình thức tuyên truyền một chiều (truyền hình, radio,...) nên chưa hiểu sâu sắc về các vấn đề môi trường liên quan nên ý thức về môi trường và vấn đề bảo vệ môi trường còn hạn hẹp và không đồng đều. Khắc phục tình trạng đó, trước hết trong phạm vi quản lý vĩ mô phải xây dựng được những thể chế, chính sách, biện pháp đảm bảo sự phối hợp đồng bộ giữa tổ chức Đảng, Chính quyền, Mặt trận và các đoàn thể từ thành phố đến cơ sở chi bộ đường phố, khu dân cư. Trong đó, Đảng đóng vai trò trung tâm lãnh đạo, chính quyền tổ chức thực hiện, Mặt trận và các đoàn thể vận động, thuyết phục, giải thích, kêu gọi, tổ chức các hình thức thi đua, hành động cách mạng của quần chúng. Các cấp ủy Đảng phải đi sâu, đi sát, nắm chắc tình hình hoạt động trên lĩnh vực tư tưởng và văn hóa; lãnh đạo, chỉ đạo kịp thời, sắc bén giúp cho chính quyền các cấp thể chế hóa các chủ trương, chính sách đó thành các chương trình hành động cụ thể. Nâng cao nhận thức và tầm lãnh đạo của các cấp ủy Đảng, chính quyền đối với các lĩnh vực văn học, nghệ thuật, báo chí đảm bảo phát triển đúng định hướng chính trị, tư tưởng, văn hóa. Đồng thời bảo đảm quyền tự do, dân chủ cá nhân trong sáng tạo nghệ thuật. Để xây dựng MTVH, các cấp ủy, chính quyền địa phương vừa phải đề ra chủ trương, đường lối đúng đắn vừa phải tăng cường công tác giáo dục, tuyên truyền để nhân dân hiểu rõ, nắm vững và thực hiện một cách tự nguyện, có như vậy đường lối của Đảng mới đi vào cuộc sống. Tăng cường công tác truyền thông đại chúng là trách nhiệm của các cấp ủy Đảng, chính quyền, các đoàn thể và mọi cán bộ đảng viên. Trong công tác lãnh đạo, quản lý cần thực hiện đầy đủ các chính sách để điều chỉnh các hoạt động về văn hóa và xây dựng MTVH, đó là: + Chính sách kinh tế trong văn hóa để vừa bảo đảm tính định hướng chính trị, gắn văn hóa với các hoạt động kinh tế vừa có thêm nguồn lực tài chính cho các hoạt động văn hóa. + Chính sách văn hóa trong kinh tế, đảm bảo cho các hoạt động kinh tế, các mục tiêu, giải pháp kinh tế luôn hướng tới, đạt tới các tiêu chí của văn hóa, gắn với các mục tiêu, giải pháp văn hóa, xây dựng con người, nêu cao đạo đức nghề nghiệp trong sản xuất, kinh doanh. Đồng thời các hoạt động kinh tế sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho các hoạt động văn hóa. + Chính sách xã hội hóa hoạt động văn hóa, nhằm động viên mọi nhân tài, vật lực của các tầng lớp nhân dân, các tổ chức xã hội cho các hoạt động văn hóa, thu hút mọi tầng lớp nhân dân vào việc sáng tạo, phổ biến các giá trị văn hóa, góp phần xây dựng MTVH lành mạnh ở địa phương. + Thực hiện tốt các chính sách về bảo tồn, phát huy di sản văn hóa dân tộc; chính sách khuyến khích sáng tạo; chính sách ưu đãi người có công với nước. Chú trọng xây dựng MTVH từ trong tổ chức Đảng, trong bộ máy chính quyền địa phương vừa góp phần nâng cao uy tín, năng lực lãnh đạo của Đảng, hiệu lực quản lý của chính quyền, vừa tạo ra tấm gương sáng cho toàn xã hội noi gương. - Kết hợp chặt chẽ hoạt động của các ngành, các đoàn thể và tổ chức xã hội để thực hiện xây dựng MTVH. Xây dựng MTVH là trách nhiệm của toàn xã hội, vì vậy muốn thực hiện có hiệu quả cần phải huy động và biết kết hợp sức mạnh tổng hợp của các ngành, các cấp, các đoàn thể xã hội và tổ chức xã hội của quần chúng. Trước hết, các tổ chức chính trị xã hội như: Mặt trận, Đoàn TNCS Hồ Chí Minh, Hội Liên hiệp thanh niên, Hội Liên hiệp phụ nữ, Hội Nông dân, Hội Cựu chiến binh... phải làm tốt công tác giáo dục, vận động các đối tượng ở địa bàn hay trong lĩnh vực mình quản lý nghiêm chỉnh, tự giác thực hiện cuộc vận động xây dựng MTVH. Vận động các tầng lớp nhân dân tích cực tham gia phong trào "Toàn dân đoàn kết xây dựng ĐSVH" để xây dựng MTVH tốt đẹp ở cơ sở thông qua việc đẩy mạnh các phong trào hiện có như: người tốt việc tốt, đền ơn đáp nghĩa, xóa đói giảm nghèo, xây dựng GĐVH, làng xã, khối phố văn hóa, công sở văn hóa. Để tránh sự chồng chéo trong việc tổ chức thực hiện, các cơ quan chức năng phải phải xác định được vị trí, vai trò và xây dựng được kế hoạch cụ thể của mình trong việc tham gia hoạch định chủ trương, chính sách, cũng như trong tổ chức thực hiện. Cụ thể là: Sở văn hóa thông tin thành phố phải thể hiện rõ là cơ quan chủ quản, cơ quan thường trực phối hợp chặt chẽ với UBMTTQ thành phố trong việc tham mưu, đề xuất nội dung, biện pháp tổ chức cuộc vận động, chịu trách nhiệm về công tác tuyên truyền, hướng dẫn tổ chức phong trào, trực tiếp theo dõi chỉ đạo phong trào xây dựng GĐVH, thôn văn hóa, khối phố văn hóa. Khuyến khích nhân dân ở các xã, phường, cụm dân cư, các cơ quan, xí nghiệp xây dựng các quy ước về NSVH, giữ gìn trật tự vệ sinh công cộng, mỹ quan đô thị, bảo vệ môi trường. Đồng thời làm tốt công tác quản lý nhà nước về văn hóa theo quy định của Chính phủ, xử lý các hành vi vi phạm, gương mẫu trong quá trình tổ chức thực hiện. Phải xuất phát từ tính đặc thù của địa phương để đề xuất các giải pháp phù hợp với từng địa bàn (nông thôn, thành thị), tìm ra các biện pháp và bước đi sát thực (xây dựng làng xanh, làng sinh thái, tộc họ văn hóa...), thống nhất các phong trào hoạt động hiện có ở địa phương vào mục tiêu xây dựng MTVH lành mạnh cho sự phát triển. Ngành văn hóa thông tin cần sớm tiến hành khảo sát, điều tra xã hội học để tìm ra các luận cứ xác đáng, khoa học đánh giá thật đầy đủ, chuẩn xác thực trạng MTVH ở thành phố Đà Nẵng thời gian qua, để trên cơ sở đó tìm ra các giải pháp thích hợp để nâng cao chất lượng, hiệu quả xây dựng MTVH trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH. Sở giáo dục và đào tạo tiến hành công tác tuyên truyền, vận động sâu rộng cuộc vận động xây dựng MTVH trong đội ngũ giáo viên, phụ huynh và học sinh, chịu trách nhiệm toàn bộ nội dung cuộc vận động trong trường học. Đưa nội dung xây dựng lối sống, NSVH, MTVH vào chương trình giáo dục sức khỏe và giáo dục công dân, nhất là trong các buổi sinh hoạt chủ đề. Xây dựng và ban hành quy chế cụ thể để thực hiện lối sống văn hóa, xây dựng môi trường sư phạm trong học tập, sinh hoạt, trong quan hệ với thầy cô, bạn bè và người thân. Sở giáo dục và đào tạo thành phố cần chỉ đạo các nhà trường rà soát lại, bổ sung hệ thống nội quy, quy chế học tập, sinh hoạt trong các nhà trường. Chấn chỉnh lại các điểm dịch vụ văn hóa, các câu lạc bộ, khu vui chơi giải trí, mua sắm thêm các phương tiện nghe nhìn, các loại sách báo, văn hóa phẩm lành mạnh để qua đó giáo dục đạo đức, thẩm mỹ, nhân cách cho học sinh, sinh viên. Sở Thể dục - thể thao trực tiếp chủ trì thực hiện phong trào toàn dân rèn luyện TDTT theo gương Bác Hồ vĩ đại, tạo thành phong trào thể thao quần chúng sôi nổi, rộng khắp nâng cao sức khỏe người dân. Chú trọng phát triển các bộ môn đạt thành tích cao, góp phần nâng cao thành tích thể thao của thành phố và đất nước ở khu vực. Sở Khoa học, công nghệ và môi trường cần có sự khảo sát và đánh giá toàn diện thực trạng môi trường của thành phố, để trên cơ sở đó đề xuất các biện pháp xây dựng, nâng cao chất lượng môi trường sống, tìm ra các giải pháp hữu hiệu để khắc phục, giảm thiểu tình trạng ô nhiễm môi trường hiện nay. Cần có sự phối hợp, cộng tác với các ngành khác để giáo dục ý thức bảo vệ môi trường sinh thái cho người dân cũng như các tổ chức kinh tế, cơ sở sản xuất. Sở Lao động, thương binh và xã hội chịu trách nhiệm thực hiện và tham mưu cho các đơn vị thực hiện tốt chính sách xã hội, nhất là đối với các đối tượng chính sách, đề xuất một số giải pháp nhằm hạn chế các TNXH, làm lành mạnh MTXH. Sở Y tế chịu trách nhiệm tham mưu và trực tiếp chỉ đạo xây dựng MTVH ở các cơ sở y tế trong thành phố, khắc phục tình trạng ô nhiễm môi trường hiện nay, chăm sóc sức khỏe và tuyên truyền hướng dẫn nhân dân ăn ở vệ sinh, phòng chống dịch bệnh, chống suy dinh dưỡng. Bộ chỉ huy quân sự, công an thành phố trực tiếp chỉ đạo xây dựng MTVH, công sở văn hóa trong các đơn vị của thành phố, đồng thời chịu trách nhiệm trực tiếp phong trào vận động quần chúng bảo vệ an ninh Tổ quốc, phòng chống các hoạt động vi phạm pháp luật, đảm bảo an toàn xã hội, xây dựng khu dân cư lành mạnh, không có TNXH. Các đoàn thể quần chúng của thành phố (Liên đoàn lao động, Thành Đoàn, Hội Liên hiệp thanh niên, Hội phụ nữ...) vận động các hội viên, đoàn viên tích cực tham gia vào các hoạt động xây dựng cơ quan, đơn vị, công sở văn hóa, gắn với việc thực hiện NSVM trong việc cưới, việc tang và lễ hội bằng các biện pháp linh hoạt và phù hợp. Các cơ quan báo chí của thành phố hoặc đóng trên địa bàn thành phố (Đài Truyền hình Đà Nẵng, báo Đà Nẵng, đài Phát thanh và truyền hình Đà Nẵng...) cần mở chuyên mục thường kỳ về xây dựng MTVH, NSVM đô thị để tuyên truyền chủ trương, phản ánh kịp thời tình hình thực hiện; giới thiệu các mô hình, gương người tốt, việc tốt, những đơn vị tiêu biểu, điển hình; phê phán các hành vi lệch chuẩn, các hiện tượng tiêu cực, thiếu trách nhiệm của các cá nhân hoặc tập thể đối với cuộc vận động. Để thực hiện tốt giải pháp này phải đặc biệt chú trọng công tác đào tạo, quy hoạch cán bộ, nhất là đội ngũ cán bộ chuyên trách hoạt động trong lĩnh vực văn hóa, văn nghệ và đổi mới nội dung hoạt động của ngành văn hóa thông tin trong tình hình mới. 3.2.2. Phát huy chủ nghĩa yêu nước, tinh thần đoàn kết dân tộc, tiếp tục triển khai sâu rộng Nghị quyết Trung ương 5 (khóa VIII) đến từng địa phương, cơ sở làm chuyển biến mạnh mẽ cuộc vận động xây dựng MTVH ở địa phương "Việt Nam trong thế kỷ XXI đang trên đường xây dựng một môi trường văn hóa lành mạnh và phong phú, thống nhất trong đa dạng, có lòng nhân ái làm nền tảng, chủ nghĩa yêu nước là trục quy tâm, sự thích ứng là giải pháp, dân giàu nước mạnh xã hội công bằng, dân chủ văn minh là mục tiêu; cái đúng, cái tốt, cái đẹp là chuẩn mực của các giá trị" [17, tr. 29]. Đây là một việc làm hết sức cần thiết nhưng cũng vô cùng khó khăn phức tạp, đòi hỏi phải phát huy cao độ chủ nghĩa yêu nước truyền thống trong tình hình mới, phát huy tinh thần đại đoàn kết dân tộc. ở thành phố Đà Nẵng, chủ nghĩa yêu nước truyền thống, tinh thần đoàn kết dân tộc luôn là cội nguồn sức mạnh xuyên tiến trình lịch sử dân tộc, vững vàng trước bao gian nan thử thách của thời cuộc, lập nên những chiến công hiển hách khắc ghi vào lịch sử dân tộc. Chủ nghĩa yêu nước đã kết thành nền tảng tinh thần xã hội vững chắc, hình thành niềm tin sâu sắc, ý chí quật cường, lòng dũng cảm vô song thúc dục bao lớp người trí dũng, hào kiệt, bao chiến sĩ cách mạng xả thân vì nước, xả thân vì nền độc lập lâu dài và vững chắc của dân tộc. Trong thời đại Hồ Chí Minh lịch sử, chủ nghĩa yêu nước đã biến thành nguồn sức mạnh nội sinh giúp nhân dân Đà Nẵng vượt qua biết bao nhiêu thử thách nghiệt ngã tưởng chừng khó vượt qua được, khắc phục hậu quả nặng nề của cuộc chiến tranh, đối chọi với thiên tai bão lũ liên tiếp xảy ra, xây dựng thành phố ngày càng giàu đẹp, văn minh, cùng cả nước đi lên xây dựng CNXH. Tuy nhiên, trong xu thế phát triển đi lên của thành phố trong tình hình mới, chủ nghĩa yêu nước truyền thống, chủ nghĩa yêu nước trong thời kỳ cách mạng dân tộc - dân chủ nhân dân phải được phát huy, phát triển lên một tầm cao mới - chủ nghĩa yêu nước xã hội chủ nghĩa (XHCN), hình thành chủ nghĩa yêu nước trong thời kỳ xây dựng, phát triển phục hưng đất nước. Chủ nghĩa yêu nước XHCN hiện nay gắn liền với sự chuyển đổi quan trọng từ động lực tinh thần trong đấu tranh giải phóng dân tộc thành động lực tinh thần trong công cuộc kiến thiết phát triển phồn vinh đất nước; phát huy ý chí, nghị lực và trí tuệ của toàn dân để xây dựng CNXH, đẩy mạnh CNH, HĐH để nhanh chóng phát triển vượt qua nghèo nàn, lạc hậu, tiến kịp trào lưu văn minh của nhân loại. Phát huy chủ nghĩa yêu nước trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH trở thành một động lực quan trọng để xây dựng một xã hội, một MTVH lành mạnh, tiến bộ, văn minh. Bởi lẽ mục tiêu của CNH, HĐH là tạo ra những tiềm lực to lớn để xây dựng một xã hội công bằng, dân chủ, văn minh; một cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc cho toàn dân. Đây thực sự là một cuộc vận động chính trị, một phong trào yêu nước lớn nhất trong lịch sử xây dựng đất nước của dân tộc ta; là con đường duy nhất để đưa nước ta thoát khỏi nghèo nàn, lạc hậu, khắc phục nguy cơ tụt hậu về kinh tế. CNH, HĐH là bước đi cụ thể biểu hiện chủ nghĩa yêu nước XHCN trong giai đoạn hiện nay, chính là sự nghiệp của toàn dân, của những người yêu nước chân chính. Do những điều kiện đặc thù của mình, sự nghiệp CNH, HĐH ở Đà Nẵng đang đứng trước những nguy cơ, thử thách lớn. Hơn lúc nào hết, đòi hỏi phải động viên, khích lệ và phát huy cao nhất lòng yêu nước, yêu CNXH của mọi người, mọi nhà, mọi ngành, mọi giới, mọi thành phần kinh tế, coi đây là thời cơ tốt nhất để đem hết sức lực, tài năng và của cải để đầu tư phát triển sản xuất, ứng dụng các thành tựu KH&CN vào sản xuất kinh doanh, phát triển kinh tế làm giàu cho bản thân và xã hội. Phát huy chủ nghĩa yêu nước luôn phải gắn liền với việc giáo dục ý thức tự hào mới, hình thành một phong trào thi đua yêu nước mới. Bởi lẽ, sự nghiệp CNH, HĐH đòi hỏi một quá trình phấn đấu lâu dài, gian khổ; đòi hỏi mỗi con người phải có hoài bão, quyết tâm cao, ý chí và nghị lực phi thường, sẵn sàng chấp nhận mọi khó khăn thử thách, kể cả sự hy sinh cần thiết vì sự phát triển của địa phương và dân tộc. Lòng tự hào dân tộc phải được tôn vinh, coi thua kém các nước trong khu vực và quốc tế là một điều sỉ nhục cũng giống như nỗi nhục mất nước, nỗi nhục nô lệ trước đây. Qua phong trào thi đua yêu nước sẽ khơi dậy lòng tự hào dân tộc, chí tiến thủ, lòng hăng say, sự quả cảm, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm, làm sống động các phong trào thi đua sáng tạo, phát minh sáng kiến, cải tiến kỹ thuật vì lợi ích của bản thân, gia đình và của toàn thành phố. Cùng với việc phát động một phong trào thi đua yêu nước mới sâu rộng trong các tầng lớp nhân dân, thành phố phải tăng cường giáo dục về CNXH, về nhiệm vụ CNH, HĐH, về các giải pháp nhằm thoát khỏi nghèo nàn, lạc hậu; làm cho mọi người hiểu sâu sắc và tự hào về truyền thống lịch sử và cách mạng của dân tộc và địa phương, nâng cao tính tích cực công dân, có những đóng góp xứng đáng vào công cuộc kiến thiết thành phố. Xây dựng, củng cố và mở rộng khối đại đoàn kết dân tộc, phát huy sức mạnh của cả dân tộc luôn là một giá trị chuẩn mực của chủ nghĩa yêu nước Việt Nam. Đây là vấn đề có ý nghĩa hết sức quan trọng trong giai đoạn hiện nay. Một mặt, nó góp phần củng cố nền tảng tinh thần của xã hội, giữ vững ổn định chính trị, huy động sức mạnh đoàn kết, thống nhất toàn dân tộc vào mục tiêu chung vì độc lập dân tộc và CNXH, vì sự phát triển giàu mạnh của đất nước. Một mặt khác nó là cơ sở để giải quyết, điều hòa các mâu thuẫn, bất đồng, bất bình đẳng trong quá trình phát triển, hạn chế sự tác động tiêu cực của cơ chế thị trường, củng cố và lành mạnh hóa các mối quan hệ xã hội. Phát huy chủ nghĩa yêu nước, tinh thần đoàn kết dân tộc là vấn đề cốt yếu của MTNV, tạo động lực cho sự phát triển đất nước. Để đảm bảo sự phát triển bền vững và đúng định hướng trên cơ sở hoạch định được những bước đi và những giải pháp hợp lý, Đà Nẵng cần phải tiếp tục triển khai sâu rộng Nghị quyết Trung ương 5 (khóa VIII) đến từng địa phương, cơ sở làm chuyển biến mạnh mẽ cuộc vận động xây dựng MTVH ở địa phương. Có thể nói Nghị quyết Trung ương 5 (khóa VIII) là một nghị quyết toàn diện và khoa học để xây dựng và phát triển nền văn hóa dân tộc trong tình hình cách mạng mới. Trên cơ sở phân tích, luận giải sâu sắc thực trạng văn hóa nước ta thời gian qua, Nghị quyết đã đề ra phương hướng, các nhiệm vụ cụ thể, hoạch định những giải pháp lớn xây dựng và phát triển văn hóa. Trong đó nhiệm vụ xây dựng con người Việt Nam trong giai đoạn cách mạng mới và xây dựng MTVH được đặt lên vị trí hàng đầu. Đây là những chỉ dẫn cần thiết và quan trọng để các địa phương hoạch định chủ trương, đường lối xây dựng đời sống ở các địa phương. Quán triệt và vận dụng sáng tạo Nghị quyết Trung ương 5 trong thời gian qua, thành phố Đà Nẵng đã tạo ra những biến chuyển tích cực trong lĩnh vực văn hóa, trong ĐSVH - xã hội. Cuộc vận động "Toàn dân đoàn kết xây dựng ĐSVH" được triển khai đều khắp ở các cơ sở đã góp phần quan trọng nâng cao chất lượng MTVH ở địa phương. Tuy nhiên, nếu nghiêm túc nhìn nhận, Nghị quyết vẫn chưa được tuyên truyền, giáo dục một cách sâu rộng trong nhân dân, góp phần làm thay đổi sâu sắc thói quen, nếp nghĩ của mọi người dân. Ngay trong đội ngũ những cán bộ chuyên trách làm công tác văn hóa, việc quán triệt sâu sắc và vận dụng linh hoạt, chính xác tinh thần của Nghị quyết còn nhiều hạn chế. Không ít cán bộ văn hóa, nhất là ở cơ sở còn nắm "lơ mơ", đại khái, không cắt nghĩa, lý giải nổi các nội dung nhiệm vụ, phương hướng, giải pháp đề ra trong Nghị quyết, thậm chí còn một số cách hiểu sai lệch. Một khi "Nghị quyết lớn" của Đảng về lĩnh vực văn hóa chưa trở thành quyển sách "gối đầu giường", chưa trở thành kim chỉ nam, phương pháp luận trong việc hoạch định các chủ trương, đường lối, các chương trình hành động xây dựng ĐSVH cơ sở thì khó có thể nói tới chuyện nâng cao chất lượng, hiệu quả xây dựng MTVH ở địa phương. 3.2.3. Ưu tiên đầu tư ngân sách địa phương để tăng cường nguồn lực và phương tiện cho hoạt động xây dựng MTVH - Trước hết, là cơ cấu tổ chức bộ máy và đội ngũ cán bộ (nguồn lực con người). Hiện nay, đội ngũ cán bộ hoạt động và quản lý văn hóa của thành phố còn thiếu về số lượng, yếu về chất lượng (nhất là ở cơ sở), công tác đào tạo đội ngũ cán bộ quản lý văn hóa chưa đáp ứng yêu cầu phát triển văn hóa ở địa phương. Đầu tư một nguồn kinh phí thỏa đáng cho công tác đào tạo và đào tạo lại đội ngũ cán bộ làm công tác văn hóa từ cấp thành phố cho tới các cơ sở là một giải pháp rất cơ bản xuất phát từ tình hình thực tiễn địa phương. Cán bộ là người trực tiếp đưa đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước vào quần chúng, là người trực tiếp tổ chức, vận động quần chúng thực hiện các phong trào, các chương trình hành động cụ thể ở địa phương. Xây dựng MTVH là việc làm hết sức khó khăn, phức tạp, hiệu quả, lợi ích của nó không thể hiện trực tiếp, tức thời, rất khó thấy. Trong khi đời sống người dân ở cơ sở còn rất nhiều khó khăn, nên mục tiêu quan tâm trước hết là lợi ích kinh tế, là cái ăn, cái mặc, các nhu cầu thiết yếu hàng ngày có tính thực dụng. Do vậy, không có đội ngũ cán bộ giàu tâm huyết, có năng lực trong công tác vận động quần chúng thì phong trào rất khó thành công. Thực tiễn ở Đà Nẵng cho thấy, nơi nào đội ngũ cán bộ văn hóa có trình độ, nhiệt tình, năng động thì các phong trào xây dựng ĐSVH được tổ chức triển khai thực hiện tốt. Nơi nào cán bộ cơ sở yếu kém dẫu có nhiều điều kiện thuận lợi, hiệu quả hoạt động cũng rất yếu kém. Củng cố, hoàn thiện tổ chức bộ máy, cán bộ của các cơ quan lãnh đạo, quản lý, tham mưu, các đoàn thể, các tổ chức của ngành văn hóa thông tin từ thành phố đến cơ sở, là điều kiện tiên quyết đảm bảo xây dựng thành công MTVH theo định hướng của Đảng. Thành phố cần sử dụng và bố trí hợp lý đội ngũ cán bộ hiện có; xây dựng quy hoạch và thực hiện chương trình đào tạo lớp cán bộ mới đủ phẩm chất và năng lực đảm đương nhiệm vụ trong những năm tới, trên cơ sở phối hợp chặt chẽ với các trường đào tạo cán bộ văn hóa nghệ thuật, thông tin, báo chí, thư viện. Triệt để khắc phục tình trạng cán bộ yếu năng lực, khó bố trí sắp xếp ở các ngành khác sang làm công tác văn hóa. Tăng cường nguồn lực cho các hoạt động văn hóa còn phải gắn với việc huy động sự tham gia đầu tư sáng tạo văn hóa nghệ thuật của các tầng lớp công chúng, gắn với việc tham gia phổ biến, chuyển tải các giá trị văn hóa, nghệ thuật tiêu biểu đáp ứng nhu cầu hưởng thụ văn hóa của các tầng lớp nhân dân. Tăng cường các phương tiện và nâng cao chất lượng các chương trình truyền thông đại chúng ở cơ sở, bằng nhiều hình thức phong phú, nội dung đa dạng tuyên truyền sâu rộng cuộc vận động đến toàn dân. - Kế tiếp, ưu tiên đầu tư ngân sách, xây dựng cơ sở vật chất và trang thiết bị hiện đại cho các hoạt động văn hóa. Tăng cường đầu tư kinh phí và đầu tư hợp lý cho việc xây dựng các thiết chế văn hóa, văn nghệ, thông tin, TDTT, phòng đọc sách, phòng truyền thống có vai trò rất lớn trong việc cải thiện, nâng cao chất lượng MTVH cơ sở. Thiết chế văn hóa chính là cơ sở, điều kiện để biến mọi giá trị văn hóa thành tài sản của nhân dân và tạo điều kiện cho nhân dân góp phần sáng tạo ra các giá trị văn hóa mới. Hiện nay, ở các địa phương trong thành phố tuy đã có một số thiết chế văn hóa được xây dựng nhưng nhìn chung còn nghèo nàn, đơn điệu, chức năng của các thiết chế chưa được phát huy hết. Thành phố phải đảm bảo chi ngân sách cho văn hóa tương ứng với nhịp độ tăng trưởng kinh tế. Trước mắt từng bước quy hoạch, xây dựng và phát huy có hiệu quả các thiết chế văn hóa hiện có. Từng bước đầu tư xây dựng các thiết chế văn hóa mới phù hợp với yêu cầu và MTVH của địa phương, tránh tình trạng đầu tư một cách lãng phí, đầu tư không có hoặc kém hiệu quả. Thành phố đã đặt ra mục tiêu phấn đấu trong giai đoạn 2001 - 2005 đạt tỷ lệ xã, phường có thiết chế văn hóa cụ thể như sau: Năm 2001 đạt 30%; năm 2002 đạt 50%; năm 2005 đạt 100% [47, 2]. Điều đó cũng cho thấy các thiết chế văn hóa ở cơ sở còn thiếu hụt nghiêm trọng. Để đạt được mục tiêu này, địa phương phải thực hiện đồng bộ chính sách văn hóa trong kinh tế, chính sách kinh tế trong văn hóa, phát huy lợi thế tiềm năng của địa phương về du lịch và dịch vụ du lịch, tạo nguồn thu hỗ trợ cho các hoạt động văn hóa, bảo tồn và phát huy giá trị nhiều mặt của các di tích lịch sử, văn hóa. Khuyến khích các địa phương, các nhà tài trợ để tăng thêm nguồn đầu tư cho các thiết chế văn hóa, tiến tới mỗi xã, phường có ít nhất 1 thiết chế văn hóa với đội ngũ cán bộ được đào tạo cơ bản. Phát triển mạng lưới truyền thanh, truyền hình đến 100% hộ gia đình. Thực hiện tốt chủ trương xã hội hóa các hoạt động văn hóa, thực hiện phương châm "Nhà nước và nhân dân cùng làm", khuyến khích nhân dân đóng góp xây dựng mạng lưới thiết chế văn hóa, thể thao ở các xã, phường, mua sắm dụng cụ thể thao, lập phòng đọc sách... nhằm phục vụ nhu cầu vui chơi, giải trí, sinh hoạt của người dân, tạo nên cảnh quan văn hóa ở các địa bàn dân cư. Quán triệt đầy đủ và tổ chức tuyên truyền triển khai thực hiện Nghị quyết 90/CP và Nghị định số 73/1999/NĐ-CP của Chính phủ về việc xã hội hóa hoạt động văn hóa, với mục tiêu lấy sức dân chăm lo cho dân để nâng cao chất lượng cuộc sống cho mọi người. Cùng với việc khuyến khích các thành phần kinh tế, các tầng lớp xã hội tham gia hoạt động xây dựng ĐSVH, cần phải ban hành các chính sách ưu đãi về thuế, về đất đai, về vay vốn cho các hoạt động xây dựng ĐSVH; chính sách khuyến khích đầu tư xây dựng các thiết chế văn hóa cơ sở. Ngoài các thiết chế văn hóa do Nhà nước và địa phương đầu tư quản lý cần nghiên cứu, hướng dẫn cách tổ chức, xây dựng và hoạt động ở các công trình tín ngưỡng, tôn giáo (đình, chùa, nhà thờ, hội quán) phục vụ nhu cầu sinh hoạt văn hóa tinh thần của nhân dân. Tóm lại, xây dựng MTVH là một nhiệm vụ mới mẻ, có nội dung đa dạng, phong phú cần có sự thận trọng khoa học đối với các vấn đề đang nảy sinh, vận động và phát triển. Cần phải tìm ra những cơ sở lý luận, tìm ra những phương hướng và bước đi thích hợp phù hợp với thực tiễn của từng địa phương. Bên cạnh việc hoạch định những giải pháp có tính địa phương, còn phải chú trọng các giải pháp mang tính quốc gia, khu vực, cần phải tăng cường mở rộng hợp tác quốc tế về bảo vệ môi trường, phòng chống tội phạm, giao lưu văn hóa rộng mở, tạo ra một môi trường hòa bình, ổn định và lành mạnh để phát triển. Kết luận MTVH mà chúng ta luôn kiên định xây dựng gần một thế kỷ qua và được phát triển tiếp nối trong thế kỷ mới (thế kỷ XXI) là một MTVH giàu bản sắc dân tộc, tiêu biểu cho giá trị tinh hoa của nhân loại, tinh thần tiên tiến của thời đại. Đó là MTVH phát triển theo định hướng XHCN, lấy chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng. Đó là MTVH lành mạnh, phong phú, nhân văn, thống nhất trong đa dạng, hướng tới mục tiêu giải phóng và phát triển toàn diện con người, xóa bỏ mọi sự nô dịch, bất công, phát triển đất nước theo mục tiêu "Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh", tiến vững chắc lên CNXH. Đối với Đà Nẵng, một thành phố đang phát triển đi lên từ một điểm xuất phát thấp, các tiềm năng về kinh tế, chính trị, KH&CN, văn hóa và xã hội... chưa được phát huy một cách đầy đủ, vấn đề xây dựng MTVH có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Đây chính là cơ sở để phát huy cao độ chủ nghĩa yêu nước, tinh thần đại đoàn kết dân tộc, thức dậy các tiềm năng để đẩy nhanh tiến trình CNH, HĐH ở địa phương, xây dựng Đà Nẵng thành một đô thị công nghiệp, hiện đại, văn minh, giàu bản sắc dân tộc, trở thành một trung tâm kinh tế, KH&CN, một trung tâm văn hóa và chính trị của khu vực miền Trung - Tây Nguyên cũng như của cả nước. Tuy nhiên, xây dựng MTVH còn là vấn đề mới mẻ, có nội dung đa dạng, phong phú và hết sức phức tạp. Do vậy phải biết tìm ra những hình thức, bước đi phù hợp, xây dựng một hệ thống chính sách, giải pháp đồng bộ và hữu hiệu phù hợp với tình hình thực tiễn địa phương. Đà Nẵng cần thiết phải tiến hành điều tra, khảo sát xã hội học để đánh giá đúng đắn và khoa học thực trạng MTVH thời gian qua, trên cơ sở đó xác lập phương hướng, bước đi cho công cuộc xây dựng MTVH trong thời gian tới. Đồng thời phải thường xuyên tổng kết thực tiễn, khái quát nhận thức khoa học để tạo lập mối quan hệ tương tác giữa vấn đề xây dựng MTVH với các phong trào hành động cách mạng khác ở địa phương phát triển phù hợp với tiến trình của sự nghiệp CNH, HĐH, phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN. MTVH ở thành phố Đà Nẵng thời gian qua bên cạnh những thành tựu nổi bật, những giá trị tinh hoa tiêu biểu còn tồn tại không ít hạn chế, khuyết nhược cần nhận thức đầy đủ và giải quyết thỏa đáng. Điều đó đang đòi hỏi phải có những công trình nghiên cứu khoa học sâu sắc và xác đáng để định hướng cho cuộc vận động phát triển lành mạnh, đúng hướng, đóng góp vào sự phát triển chung của toàn thành phố và của cả nước. Danh mục tài liệu tham khảo 1. A.I. ác-nôn-đốp (chủ biên) (1981), Cơ sở lý luận văn hóa Mác - Lênin, Người dịch Hoàng Vinh - Nguyễn Văn Hy, Nxb Văn hóa, Hà Nội. 2. Michel Batisse (1990), "Ngôi nhà xanh của chúng ta", Tạp chí Người đưa tin UNESCO, (11), tr. 47-48 3. Ban Tư tưởng - Văn hóa Trung ương, Một số Văn kiện của Đảng về công tác tư tưởng - văn hóa, tập 2 (1986 - 2000), Nxb CTQG, Hà Nội. 4. Báo Đà Nẵng, số 1248, 22-8/2001, tr. 1, 7. 5. Báo Đà Nẵng, số 1255, 30-8/2001, tr. 1. 6. Báo Đà Nẵng, số 1260, 6-9/2001, tr. 1. 7. Báo Đà Nẵng, số 1277, 26-9/2001, tr.1. 8. GS.TS Trần Văn Bính (chủ biên) (1998), Văn hóa trong quá trình đô thị hóa ở nước ta hiện nay, Nxb CTQG, Hà Nội. 9. GS.TS Trần Văn Bính (chủ nhiệm đề tài) (2000), Đề cương bài giảng lý luận văn hóa (cho hệ đào tạo cao học và nghiên cứu sinh), Hà Nội. 10. Đà Nẵng xưa và nay (1998), Nxb Đà Nẵng. 11. Đà Nẵng thành tựu và triển vọng (2000), Nxb Đà Nẵng. 12. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH, Nxb Sự thật, Hà Nội. 13. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb CTQG, Hà Nội. 14. Đảng bộ thành phố Đà Nẵng (2001), Văn kiện Đại hội lần thứ XVIII Đảng bộ thành phố Đà Nẵng. 15. Nguyễn Khắc Hùng (2000), Phương pháp và giải pháp xây dựng MTVH của sinh viên khu vực Đại học Thái Nguyên trong thời kỳ CNH, HĐH đất nước, (Luận văn tốt nghiệp cử nhân chính trị), Hà Nội. 16. GS.TS Đỗ Huy, (9-10/1993), "Cần xây dựng MTVH pháp luật ở nước ta", Người đại biểu nhân dân, tr. 19. 17. GS.TS Đỗ Huy (2001), Xây dựng MTVH ở nước ta hiện nay từ góc nhìn giá trị học, Viện Văn hóa, Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội. 18. Võ Văn Kiệt (1997), "Chấn hưng, bảo tồn và phát triển văn hóa dân tộc là nhiệm vụ trực tiếp của báo chí, xuất bản", Nghiên cứu nghệ thuật, Hà Nội, tr. 13. 19. GS Vũ Khiêu (1993), Mấy vấn đề văn hóa và phát triển ở Việt Nam hiện nay, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 20. PGS Trường Lưu (1999), Văn hóa một số vấn đề lý luận, Nxb CTQG, Hà Nội. 21. Một số khái niệm và sự kiện về môi trường, tư tưởng văn hóa, 10-1992, tr. 25. 22. Đỗ Mười (1993), Chăm sóc, bồi dưỡng, phát huy nhân tố con người vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh, Nxb Sự thật, Hà Nội. 23. Georges Olivier (1992), Sinh thái nhân văn, Nxb Thế giới, Hà Nội. 24. Phân viện Đà Nẵng (2001), Xây dựng nền kinh tế tri thức ở khu vực miền Trung, Tây Nguyên, (Kỷ yếu khoa học), Đà Nẵng. 25. Quản lý hoạt động văn hóa (1998), Nguyễn Văn Hy, TS Phan Văn Tú, Hoàng Sơn Cường..., Nxb Văn hóa - Thông tin, Trường Đại học Văn hóa Hà Nội. 26. Vũ Hào Quang (11/1999), "Giáo dục chủ nghĩa yêu nước truyền thống vấn đề cốt yếu của môi trường nhân văn", Văn hóa nghệ thuật, Hà Nội, tr.3-4. 27. Sở Giáo dục và Đào tạo thành phố Đà Nẵng, Phát biểu khai mạc của Giám đốc Sở tại Hội nghị tổng kết năm học 1999 - 2000, Đà Nẵng. 28. Sở Giáo dục và Đào tạo thành phố Đà Nẵng, Báo cáo sơ kết 2 năm (1999 - 2000) thực hiện công tác phòng, chống tội phạm trong trường học, Đà Nẵng. 29. Sở Giáo dục và Đào tạo thành phố Đà Nẵng (2000), Báo cáo sơ kết 4 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 2 (khóa VIII), Đà Nẵng. 30. Sở Giáo dục và Đào tạo thành phố Đà Nẵng, Báo cáo tổng kết năm học 2000 - 2001, Đà Nẵng. 31. Sở Khoa học, công nghệ và môi trường thành phố Đà Nẵng (2001), Báo cáo tóm tắt hiện trạng môi trường thành phố Đà Nẵng. 32. Sở Khoa học, công nghệ và môi trường thành phố Đà Nẵng (04/2001), Báo cáo kết quả thực hiện đề tài Điều tra đánh giá nhằm nâng cao nhận thức về bảo vệ môi trường cho cộng đồng thành phố Đà Nẵng. 33. Sở Khoa học, công nghệ và môi trường thành phố Đà Nẵng, Kế hoạch khoa học, công nghệ và môi trường 5 năm (2001 - 2005). 34. Sở Lao động - Thương binh xã hội thành phố Đà Nẵng, Báo cáo thành tích chống mại dâm, cai nghiện phục hồi giai đoạn 1994 - 2000. 35. Sở Văn hóa - Thông tin thành phố Đà Nẵng, Báo cáo tổng kết công tác thanh tra năm 2000. 36. Sở Văn hóa - Thông tin thành phố Đà Nẵng, Báo cáo sơ kết công tác thanh tra 6 tháng đầu năm 2001. 37. Sở Văn hóa - Thông tin thành phố Đà Nẵng, Báo cáo công tác văn hóa - thông tin 6 tháng đầu năm 2001. 38. TS Nguyễn Hồng Sơn (chủ nhiệm đề tài) (04/1998), Môi trường văn hóa với việc tạo lập nếp sống văn minh, gia đình văn hóa qua thực tiễn ở Quảng Nam - Đà Nẵng, (Đề tài khoa học cấp cơ sở). 39. Thành ủy Đà Nẵng - Ban dân vận (1999), Thực hiện phương châm dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra - thực trạng và giải pháp góp phần thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở, Nxb Đà Nẵng. 40. Thành ủy Đà Nẵng - ủy ban kiểm tra, Báo cáo tổng kết tình hình thực hiện nhiệm vụ kiểm tra năm 2000. 41. "Tìm hiểu khái niệm môi trường. Bảo vệ môi trường" (1996), Tạp chí Cộng sản, (19), tr. 58. 42. "Tìm hiểu khái niệm về môi trường" (1997), Công tác khoa giáo, (1), tr. 32. 43. Tổng cục chính trị QĐND Việt Nam (1999), Nuôi dưỡng giá trị văn hóa trong nhân cách người chiến sĩ QĐND Việt Nam, Nxb QĐND, Hà Nội. 44. Trung tâm Khoa học xã hội và nhân văn quốc gia, Viện Khoa học xã hội tại thành phố Hồ Chí Minh, Tạp chí khoa học xã hội, số 97II 32  (số chuyên đề về nếp sống văn minh đô thị). 45. Trung tâm Văn hóa - Thông tin thành phố Đà Nẵng, Đặc san chào mừng Đại hội Đảng bộ TP lần thứ XVIII, 2001. 46. Từ điển tiếng Việt (1997), Viện Ngôn ngữ học - Nxb Đà Nẵng. 47. ủy ban nhân dân TP Đà Nẵng (8-12/2000), Kế hoạch triển khai phong trào "Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa". 48. ủy ban quốc gia về Thập kỷ thế giới phát triển văn hóa, Bộ Văn hóa thông tin và thể thao, Hà Nội, 1992. 49. Văn phòng thường trực chống AIDS TP Đà Nẵng, Trang thông tin nội bộ HIV/AIDS, số 6-2001. 50. Viện kiểm sát nhân dân TP Đà Nẵng (20-6/2000), Báo cáo công tác của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân TP Đà Nẵng tại kỳ họp thứ 3 HĐND TP Đà Nẵng, khóa VI. 51. GS.TS Hoàng Vinh (1999), Mấy vấn đề lý luận và thực tiễn xây dựng văn hóa ở nước ta, Viện Văn hóa và Nxb Văn hóa - Thông tin, Hà Nội. Mục lục Trang Mở đầu 1 Chương 1: một số vấn đề lý luận về môi trường văn hóa 6 1.1. Quan niệm về môi trường văn hóa 6 1.2. Xây dựng môi trường văn hóa ở nước ta trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa 27 Chương 2: môi trường văn hóa ở thành phố đà nẵng - thực trạng và những vấn đề đang đặt ra hiện nay 37 2.1. Thực trạng môi trường văn hóa ở thành phố Đà Nẵng thời gian qua 37 2.2. Những vấn đề đang đặt ra đối với nhiệm vụ xây dựng môi trường văn hóa ở Đà Nẵng 63 Chương 3: những giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả xây dựng môi trường văn hóa ở thành phố đà nẵng trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa 76 3.1. Nhóm giải pháp về nội dung 76 3.2. Nhóm giải pháp về lãnh đạo, quản lý 99 Kết luận 116

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfLUẬN VĂN- Xây dựng môi trường văn hóa ở thành phố Đà Nẵng trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa hiện nay 2.pdf
Luận văn liên quan