Mối quan hệ giữa tạo lập thu hút và sử dụng vốn đầu tư

MỤC LỤC Trang LỜI MỞ ĐẦU4 Chương I - Những vấn đề lý luận chung về mối quan hệ giữa tạo lập, thu hút và sử dụng vốn đầu tư. 6 I - Tạo lập vốn đầu tư. 6 1. Khái niệm6 2. Đặc điểm tạo lập vốn đầu tư. 6 3. Vai trò tạo lập vốn đầu tư. 7 II - Thu hút vốn đầu tư. 7 1. Khái niệm7 2. Công cụ và chính sách thu hút vốn đầu tư. 8 2.1. Công cụ thu hút vốn đầu tư. 8 2.1.1. Lãi suất8 2.1.2. Tỷ giá hối đoái9 2.1.3. Thuế. 10 2.2. Chính sách huy động vốn đầu tư. 11 2.2.1. Chính sách tài chính và các khuyến khích tài chính. 12 2.2.2. Chính sách tiền tệ. 13 2.2.3. Chính sách về cơ cấu đầu tư. 13 2.2.4. Chính sách đất đai13 2.2.5. Chính sách lao động. 14 2.2.6. Các chính sách khác. 15 III - Sử dụng vốn đầu tư. 15 1. Khái niệm15 2. Kết quả và hiệu quả của hoạt động đầu tư phát triển. 15 2.1. Kết quả của hoạt động đầu tư phát triển. 15 2.1.1. Khối lượng vốn đầu tư thực hiện. 15 2.1.2. Tài sản cố định huy động. 18 2.2. Hiệu quả của hoạt động đầu tư phát triển. 19 2.2.1. Khái niệm:19 2.2.2. Phân loại19 2.2.3. Nguyên tắc đánh giá hiệu quả hoạt động đầu tư. 20 IV - Mối quan hệ giữa tạo lập, thu hút và sử dụng vốn đầu tư. 21 1. Tính tất yếu khách quan phải tạo lập, thu hút và sử dụng vốn đầu tư. 21 2. Tác động của tạo lập và thu hút vốn đầu tư đến việc sử dụng vốn đầu tư. 22 3. Tác động giữa sử dụng đối với tạo lập và huy động vốn đầu tư. 22 Chương II - Thực trạng tạo lập, thu hút và sử dụng vốn đầu tư ở Việt Nam giai đoạn 2001 đến nay. 23 I - Thực trạng tạo lập vốn đầu tư ở Việt Nam giai đoạn 2001 đến nay. 23 1. Trên góc độ toàn bộ nền kinh tế: Vốn đầu tư trong nước.23 1.1. Vốn nhà nước:23 1.2. Vốn dân cư và tư nhân:23 2. Đối với doanh nghiệp. 24 II - Thực trạng thu hút vốn đầu tư ở Việt Nam giai đoạn 2001 đến nay. 24 1. Những thành tựu đạt được trong thu hút vốn đầu tư ở Việt Nam giai đoạn 2001 đến nay. 24 1.1. Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) tiếp tục tăng khá. 24 1.2. Vốn ODA: Thu hút vốn ODA có chuyển biến tích cực.25 1.3. Nguồn kiều hối26 2. Những hạn chế trong thu hút vốn đầu tư ở Việt Nam giai đoạn 2001 đến nay27 III. Thực trạng sử dụng vốn đầu tư ở Việt Nam giai đoạn 2001 đến nay. 28 1. Nguồn vốn nhà nước. 28 1.1. Ngân sách nhà nước. 28 1.2. Nguồn vốn tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước. 31 2. Nguồn vốn của dân cư và tư nhân. 32 3. Nguồn vốn đầu tư nước ngoài34 3.1. Nguồn ODA. 34 3.2. Nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI38 IV - Thực trạng mối quan hệ tạo lập, thu hút và sử dụng vốn đầu tư ở Việt Nam giai đoạn 2001 đến nay. 43 Chương III - Giải pháp nhằm tạo lập, thu hút và sử dụng vốn đầu tư hiệu quả ở Việt Nam47 I - Tạo lập vốn đầu tư. 47 1. Khuyến khích huy động vốn từ tiết kiệm tư nhân. 47 2. Khai thác các nguồn lực nhàn rỗi47 2.1. Lao động dư thừa. 47 2.2. Năng lực vốn chưa dùng. 47 3. Hoàn thiện hệ thống thuế. 48 3.1. Thuế trực thu. 48 3.2. Thuế gián thu. 48 3.3. Thuế doanh thu. 48 4. Phát triển các tổ chức trung gian tài chính. 49 4.1. Tăng cường cơ hội đầu tư. 49 4.2. Tái phân phối thu nhập. 49 5. Kiểm soát lạm phát và tăng cường đầu tư xã hội49 II. Thu hút vốn đầu tư. 50 1. Nhóm giải pháp về quy hoạch. 50 2. Nhóm giải pháp về luật pháp, chính sách. 50 3. Nhóm giải pháp về xúc tiến đầu tư. 51 4. Nhóm giải pháp về cải thiện cơ sở hạ tầng. 52 5. Nhóm giải pháp về lao động, tiền lương. 52 6. Nhóm giải pháp về cải cách hành chính. 53 III. Giải pháp sử dụng vốn đầu tư. 54 IV - Các giải pháp chung. 54 1. Tạo môi trường khuyến khích và nâng cao hiệu quả vốn đầu tư. 55 2. Phát triển thị trường tài chính. 56 3. Hoàn thiện chính sách tài chính, tiền tệ. 56 KẾT LUẬN58 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO59 LỜI MỞ ĐẦU Bức tranh chung của nền kinh tế thế giới ngày nay là toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế diễn ra sôi động và là xu hướng tất yếu của thời đại. Trong dòng thác kinh tế toàn cầu đó, Đảng và Nhà nước ta chủ trương cải cách kinh tế, đưa ra các chính sách về tự do thương mại - đầu tư và hội nhập kinh tế quốc tế. Song song với việc cải cách kinh tế, Việt Nam tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, đổi mới về mọi mặt đời sống để có thể hoà nhập với thế giới khi mà ta đã gia nhập APTA và WTO, những sân chơi nhiều cơ hội nhưng cũng không ít khó khăn, thử thách. Thực tiễn đặt ra như vậy, đòi hỏi nền kinh tế của Việt Nam trong những năm tiếp theo phải thật sự vững mạnh, thật sự phát triển. Khi đó, đầu tư càng đóng vai trò quan trọng. Trong quá trình này, việc huy động mọi nguồn lực trong nước và tận dụng, thu hút và sử dụng có hiệu quả nguồn lực bên ngoài cho phát triển kinh tế - xã hội là yếu tố quyết định cho sự thành công của Việt Nam. Nhận thấy tầm quan trọng của mối quan hệ tạo lập, thu hút và sử dụng vốn đầu tư, nhóm chúng tôi đã nghiên cứu đề tài: “Mối quan hệ giữa tạo lập thu hút và sử dụng vốn đầu tư. Liên hệ ở Việt Nam.” Đề tài gồm 3 phần: Chương I - Lý luận chung về tạo lập, thu hút và sử dụng vốn đầu tư. Chương II - Thực trạng tạo lập, thu hút và sử dụng vốn đầu tư ở Việt Nam giai đoạn 2001 đến nay. Chương III- Giải pháp nhằm tạo lập, thu hút và sử dụng vốn đầu tư hiệu quả ở Việt Nam. Đây là một vấn đề lớn, quan trọng, liên quan đến nhiều lĩnh vực trong nền kinh tế, những vấn đề trong bài viết chỉ là những nét chính, cơ bản. Trong khuôn khổ hạn hẹp của bài viết, chắc hẳn sẽ khó lòng đề cập đầy đủ các khía cạnh của vấn đề đưa ra, và những sai sót là không thể tránh khỏi. Chính vì vậy nhóm 10 xin chân thành cảm ơn sự đóng góp ý kiến quý báu từ thầy cô cùng các bạn. Chúng em cũng xin gửi lời cảm ơn chân thành nhất tới PGS.TS. Từ Quang Phương và TS. Phạm Văn Hùng đã tận tình hướng dẫn, chỉ bảo chúng em trong suốt quá trình thực hiện đề tài này.

doc59 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 2554 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Mối quan hệ giữa tạo lập thu hút và sử dụng vốn đầu tư, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
sự đơn giản về thủ tục, mà còn cả về số lượng và quyền sử dụng. Lượng kiều hối gia tăng là một trong những thnàh quả của chính sáchđại đoàn kết dân tộc, xoa bỏ ngăn cách và định kiến, hướng sự nỗ lực của cộng đồng người Việt Nam ở trong và ngoài nước vì một nước Việt Nam cường thịnh. 2. Những hạn chế trong thu hút vốn đầu tư ở Việt Nam giai đoạn 2001 đến nay Bên cạnh những thành tựu đã đạt được, việc thu hút vốn đầu tư cũng còn tồn tại một số hạn chế, bất cập. Cụ thể: - Cơ chế chính sách thu hút các nguồn vốn chưa đủ hấp dẫn, cơ sở hạ tầng pháp lý còn nhiều bất cập, môi trường đầu tư còn nhiều rủi ro, còn có sự phân biệt đối xử, làm cho các thành phần kinh tế chưa mạnh dạn bỏ vốn đầu tư, hiệu quả đầu tư thấp. Nguyên nhân chủ yếu là quy hoạch yếu; tình trạng thất thoát, đục khoét vốn đầu tư xây dựng, nhất là nguồn ngân sách, nguồn vốn ODA còn phổ biến và nghiêm trọng; tình trạng thi công kéo dài; chi phí giải phóng mặt bằng lớn; tình trạng đầu tư dàn trải, đầu tư theo phong trào, đầu tư tự phát; cơ chế quản lý đầu tư vừa rườm rà phức tạp, lại vừa lỏng lẻo ở tất cả các khâu; hệ thống chính sách thuế còn rườm rà gây nhiều khó khăn cho các nhà đầu tư khi quyết định bỏ vốn đầu tư… - Nền kinh tế Việt Nam đang phải đối mặt với các khó khăn như lạm phát cao, thâm hụt thương mại lớn, thâm hụt ngân sách gia tăng và nguy cơ về mất ổn định tiền tệ… Tình hình trên khiến hệ số tín nhiệm quốc gia của Việt Nam chuyển từ “ổn định” sang “tiêu cực”. Quy mô nền kinh tế thị trường Việt Nam còn nhỏ so với hầu hết các nước trong khu vực do thu nhập bình quân đầu người thấp. Quy mô thị trường Việt Nam chỉ bằng 50% của Philippin, 40% của Malaixia, 30% của Thái Lan, 23% của Inđônêxia và 3% của Trung Quốc. - Chi phí đầu vào tại Việt Nam vẫn còn cao, cao hơn so với một số nước trong khu vực (như phí cảng biển, cước viễn thông, giá điện, phí đăng kiểm, thuế thu nhập và đặc biệt là chi phí giải phóng mặt bằng). Chi phí đầu tư cao là thách thức lớn cho thu hút và giải ngân FDI. - Nguồn nhân lực của Việt Nam còn có nhiều hạn chế: Thiếu đội ngũ quản lý doanh nghiệp chuyên nghiệp, chất lượng lao động không cao, thể hiện ở chỗ phần lớn số này thiếu kĩ năng chuyên môn như về luật pháp, thị trường trong khi một số khác lại bị hạn chế bởi ngôn ngữ,, sự phân bổ nguồn nhân lực có trình độ không hợp lý… - Việc cung cấp thông tin còn thiếu và yếu so với nhu cầu khiến cho công tác chỉ đạo điều hành hoạt động đầu tư cũng bị động, thiếu chuẩn xác. III - Thực trạng sử dụng vốn đầu tư ở Việt Nam giai đoạn 2001 đến nay 1. Nguồn vốn nhà nước 1.1. Ngân sách nhà nước Trước đây ngân sách nhà nước đã cấp vốn một cách tràn lan cho các ngành, các khu vực kinh tế mà nhất là khu vực kinh tế quốc doanh, nhà nước cung ứng vật tư, tìm vốn cho các doanh nghệp với cơ chế phân phối vốn theo kiểu tập trung bao cấp mọi nhu cầu về vốn đã được nhà nước đáp ứng. Thực tế nền kinh tế này đã hạn chế khả năng tăng trưởng kinh tế, làm cho ngân sách nhà nước luôn căng thẳng ở mức quá sức chịu đựng. Với nền kinh tế thị trường đã dần dần đi đến xoá bỏ chế độ bao cấp vốn. Vốn đầu tư của nhà nước chỉ tập trung vào những khâu xung yếu nhất nhằm ổn định môi trường kinh tế vĩ mô, mở rộng các ngành, các vùng kinh tế trên cơ sở đó giải quyết các vấn đề xã hội và tạo công ăn việc làm, khắc phục nguy cơ bị quá tải khi nền kinh tế có tốc độ tăng trưởng cao. Với mục đích đó vốn đầu tư tập trung của nhà nước chỉ dùng để : - Xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội. - Đầu tư vào các lĩnh vực then chốt của nền kinh tế và các lĩnh vực công nghệ mũi nhọn. - Đầu tư khai thác các loại nguyên, nhiên vật liệu quan trọng. - Đầu tư cho công nghiệp quốc phòng. Đầu tư cho các dự án giải quyết việc làm, phủ xanh đất trống đồi núi trọc đánh bắt hải sản, một số cơ sở công nghiệp chế biến nông, lâm hải sản và dịch vụ xã hội. Việc điều hành ngân sách của nhà nước ta chủ động hơn không những đủ đáp ứng nhu cầu chi thường xuyên, mà còn để dành một tỷ lệ đáng kể chi cho đầu tư phát triển. Việc điều hành ngân sách của nhà nước ta chủ động hơn không những đủ đáp ứng nhu cầu chi thường xuyên, mà còn để dành một tỷ lệ đáng kể chi cho đầu tư phát triển. Tổng thu Ngân sách Nhà nước trong giai đoạn 2001 -2005 tăng bình quân 15%, tỷ lệ huy động vào Ngân sách Nhà nước bình quân hàng năm đạt 23%GDP. Tổng chi ngân sách nhà nước tăng bình quân 14,9%. Tỷ lệ chi Ngân sách bình quân bằng 28% GDP. Trong đó chi cho đầu tư phát triển đạt bình quân 30,2% tổng chi Ngân sách nhà nước. Tính chung cho giai đoạn 2001-2005 tổng số vốn đầu tư từ Ngân sách nhà nước chiếm 22,3% tổng số vốn đầu tư toàn xã hội (đầu tư cho nông, lâm nghiệp và thuỷ sản chiếm 22,2%, giao thông, bưu điện 27%, giáo dục, đào tạo 8,9%, y tế - xã hội 6,9%, văn hoá, thể thao 4,3%; khoa học và công nghệ 3,1%). Nguồn vốn từ ngân sách có một vai trò rất lớn trong việc phát triển đất nước. Đặc biệt, đầu tư công có ý nghĩa xã hội rất lớn trong định hướng phát triển chung. Do đó, nếu chỉ tính hiệu quả kinh tế đơn thuần thì sẽ không chính xác, mà phải tính hiệu quả trong xóa đói giảm nghèo, phát triển giáo dục, an sinh xã hội... Tuy nhiên, nếu phân tích chi tiết thì chúng ta vẫn thấy được một số điều chưa đạt được như ý muốn. Chẳng hạn, trong tổng vốn đầu tư công hiện nay thì có đến 50% là từ ngân sách Nhà nước, còn 50% là từ các nguồn vốn tín dụng, các doanh nghiệp Nhà nước. Trong đó, đối với phần vốn thứ hai thì sự giám sát của Quốc hội, Hội đồng nhân dân chưa cao. Mới đây, chúng ta đã phải cắt giảm tới hơn 30 nghìn tỷ đồng trong tổng vốn đầu tư Nhà nước. Điều này chứng tỏ nhiều đơn vị đã đề ra nhiều dự án không mang tính khả thi, hoặc thiếu hiệu quả trong điều kiện hiện nay. Điều này cũng chứng tỏ trước đây chúng ta kiểm soát chưa tốt. Trên thực tế, việc cắt giảm là đúng nhưng về lâu dài chúng ta phải tính đến những phương án hiệu quả hơn, hoặc phải có cơ chế cụ thể trong phân cấp đầu tư và hình thành vốn cho từng vùng, tránh tình trạng đua tranh giữa các địa phương, dẫn đến giảm tính hiệu quả của đồng vốn. Việc sử dụng vốn chưa hiệu quả cũng có phần do chúng ta còn nhiều vấn đề trong quản lý, như: nghiệp vụ, cơ chế, phối hợp, tổ chức quản lý, giải phóng mặt bằng… Chúng ta đã có cơ chế quản lý (Luật Ngân sách, Luật Phòng chống tham nhũng…) cho nên không thể có chuyện tuỳ tiện trong sử dụng ngân sách mà có chăng chỉ là chưa hiệu quả... Ngoài ra, khâu hậu kiểm của chúng ta còn yếu. Ví dụ, dự toán đầu tư và thực tế đầu tư khác nhau rất lớn, nhưng việc đánh giá kết thúc dự án của chúng ta thường chỉ mang tính nghiệp vụ đơn thuần, cho đủ giấy tờ để thanh toán thôi. Việc đánh giá chất lượng công trình, tính hiệu quả, báo cáo lên để các cấp các ngành cùng phối hợp với nhau trong tương lai. Quản lý và giám sát vốn đầu tư Nhà nước tại các dự án đang bị buông lỏng. Phần lớn các cơ quan đầu mối như các Bộ, ngành, địa phương và tập đoàn kinh tế không có báo cáo hoặc có nhưng không đạt yêu cầu. 1.2. Nguồn vốn tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước Cùng với quá trình đổi mới và mở cửa, tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước ngày càng đóng vai trò đáng kể trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội. Nếu như trước năm 1990, vốn tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước chưa được sử dụng như một công cụ quản lí và điều tiết nền kinh tế thì trong giai đoạn 1991 - 2000 nguồn vốn này đã có mức tăng trưởng đáng kể và bắt đầu có vị trí quan trọng trong chính sách đầu tư của nhà nước. Giai đoạn 1991-1995, nguồn vốn tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước mới chiếm 5,6% tổng vốn đầu tư toàn xã hội thì giai đoạn 2001 - 2005 đã chiếm 14% tổng vốn đầu tư toàn xã hội. Trong những năm tiếp theo, tín dụng đầu tư của nhà nước sẽ có xu hướng cải thiện về mặt chất lượng và phương thức tài trợ nhưng tỷ trọng sẽ không có sự gia tăng đáng kể. Nguồn vốn tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước có tác dụng tích cực trong việc giảm đáng kể bao cấp vốn trực tiếp của nhà nước. Với cơ chế tín dụng, các đơn vị sử dụng nguồn vốn này phải đảm bảo nguyên tắc hoàn trả vốn vay. Chủ đầu tư là người vay vốn phải tính hiệu quả đầu tư, sử dụng vốn tiết kiện hơn. Vốn tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước là một hình thức quá độ chuyển từ phương thức cấp phát vốn ngân sách sang phương thức tín dụng đối với các dự án có khả năng thu hồi vốn trực tiếp. Bên cạnh đó, vốn tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước còn phục vụ công tác quản lý và điều tiết kinh tế vĩ mô. Thông qua nguồn tín dụng đầu tư, nhà nước thực hiện việc khuyến khích phát triển kinh tế xã hội của ngành vùng lĩnh vực theo định hướng chiến lược của mình. Đứng ở khía cạnh là công cụ điều tiết vĩ mô, nguồn vốn này không chỉ thực hiện mục tiêu tăng trưởng kinh tế mà còn thực hiện cả mục tiêu phát triển xã hội. Việc phân bổ và sử dụng vốn tín dụng đầu tư còn khuyến khích phát triển những vụng kinh tế khó khăn, giải quyết các vấn đề xã hội như xoá đói giảm nghèo. Và trên hết, nguồn vốn tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước có tác dụng tích cực trong việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế hướng tới công nghiệp hoá - hiện đại hoá. Nguồn vốn đầu tư của các doanh nghiệp nhà nước: Nguồn vốn chủ yếu bao gồm từ khấu hao tài sản cố định và thu nhập giữ lại tại doanh nghiệp nhà nước. Theo Bộ Kế Hoạch và Đầu tư, thông thường nguồn vốn của doanh nghiệp nhà nước tự đầu tư chiếm 14-15% tổng vốn đầu tư toàn xã hội, chủ yếu là đầu tư chiều sâu, mở rộng sản xuất, đổi mới thiết bị, hiện đại hoá dây chuyền công nghệ của doanh nghiệp. 2. Nguồn vốn của dân cư và tư nhân Nguồn vốn từ khu vực tư nhân bao gồm phần tiết kiệm của dân cư, phần tích luỹ của các doanh nghiệp dân doanh, các hợp tác xã. Theo ước tính của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, tiết kiệm trong dân cư và các doanh nghiệp dân doanh chiếm bình quân khoảng 15% GDP và bằng 33% số tiết kiệm được. Trong giai đoạn 2001-2005, vốn đầu tư của dân cư và tư nhân chiếm khoảng 26% tổng vốn đầu tư toàn xã hội. Trong giai đoạn tiếp theo, nguồn vốn này sẽ tiếp tục gia tăng cả về quy mô và tỷ trọng. Thực tế thời gian qua cho thấy đầu tư của các doanh nghiệp tư nhân và hộ gia đình có vai trò quan trọng đặc biệt trong việc phát triển nông nghiệp và kinh tế nông thôn, mở mang ngành nghề, phát triển công nghiệp tiểu thủ công nghiệp, thương mại, dịch vụ và vận tải trên các địa phương. Trong 20 năm thực hiện chính sách đổi mới, Nhà nước liên tục hoàn thiện các chính sách nhằm tạo điều kiện cho khu vực kinh tế tư bản tư nhân, kinh tế hộ gia đình mạnh dạn bỏ vốn đầu tư và thúc đẩy sự đan xen hỗn hợp giữa các hình thức sở hữu trong nền kinh tế. Với luật Doanh nghiệp thống nhất (2005) chính thức có hiệu lực từ giữa năm 2006, các tầng lớp dân cư và khu vực kinh tế tư nhân sẽ tiếp tục được khuyến khích, động viên đại bộ phận phần tích luỹ cho đầu tư phát triển. Với khoảng vài trăm ngàn doanh nghiệp dân doanh (doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, hợp tác xã) đa dạng và sẽ đi vào hoạt động, phần tích luỹ của các doanh nghiệp này cũng sẽ đóng góp đáng kể vào tổng quy mô vốn của toàn xã hội. Bên cạnh đó, nhiều hộ gia đình cũng đã trở thành các các đơn vị kinh tế năng động trong các lĩnh vực kinh doanh thương mại, dịch vụ, sản xuất nông nghiệp và tiểu thủ công nghiệp. Ở mức độ nhất định, các hộ gia đình cũng sẽ là một trong số những nguồn tập trung và phân phối vốn quan trọng trong nền kinh tế. Nguồn vốn trong dân cư còn phụ thuộc vào thu nhập và chi tiêu của các hộ gia đình. Quy mô của những nguồn tiết kiệm này phụ thuộc vào: Trình độ phát triển của đất nước (ở những nước có trình độ phát triển thấp thường có quy mô và tỷ lệ tiết kiệm thấp); Tập quán tiêu dùng của dân cư; Chính sách động viên của Nhà nước thông qua chính sách thuế thu nhập và các khoản đóng góp của xã hội. 3. Nguồn vốn đầu tư nước ngoài 3.1. Nguồn ODA Những mặt được chủ yếu trong sử dụng ODA từ năm 2001 tới nay là: Nguồn vốn ODA đã bổ sung một phần quan trọng cho ngân sách nhà nước để đầu tư phát triển, chiếm khoảng từ 22% đến 25% tổng vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước (bao gồm cả phần vốn ODA cho vay lại từ ngân sách nhà nước). Những công trình quan trọng được tài trợ bởi ODA đa góp phần cải thiện cơ bản và phát triển một bước cơ sở hạ tầng kinh tế, trước hết là giao thông vận tải và năng lượng điện, góp phần khơi dậy nguồn vốn trong nước và thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, cải thiện đời sống nhân dân. Thông qua các dự án ODA, hệ thống đường bộ được phát triển đáng kể từ quốc lộ 1A, 10, 18, 9, đường xuyên Á (đoạn Thành phố Hồ Chí Minh - Mộc Bài), các cầu lớn (Mỹ Thuận, Cần Thơ, Thanh Trì, Bính...); nâng cấp và mở rộng các cảng biển như Cái Lân (Hải Phòng), Sài Gòn, Tiên Sa (Đà Nẵng), xây dựng cảng hàng không quốc tế Tân Sơn Nhất, phát triển giao thông nông thôn ở hầu hết các tỉnh... Nguồn vốn ODA đã đầu tư phát triển ngành điện bao gồm phát triển nguồn điện (các dự án Phú Mỹ 1, Phú Mỹ 2-1, Ô Môn, Phả Lại 2, Hàm Thuận - Đa My, Đại Ninh, Đa Nhim) và phát triển hệ thống đường dây 500 kV Plâyku - Nhà Bè, gần 50 trạm biến áp của cả nước, cải tạo nâng cấp mạng lưới điện thành thị và nông thôn ở trên 30 tỉnh và thành phố. ODA đã góp phần quan trọng thúc đẩy phát triển nông nghiệp và nông thôn kết hợp xoá đói giảm nghèo. Điều này được thể hiện rõ nét thông qua các dự án phát triển nông nghiệp và nông thôn, kết hợp xoá đói giảm nghèo, trong đó nguồn vốn ODA đã giúp nông dân nghèo tiếp cận nguồn vốn vay để tạo ra các ngành nghề phụ, hỗ trợ phát triển công tác khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư, phát triển giao thông nông thôn, thuỷ lợi, cung cấp nước sạch, phát triển lưới điện sinh hoạt, trạm  y tế, trường học... Nguồn vốn ODA đã hỗ trợ phát triển các tỉnh và thành phố, nhất là hỗ trợ xoá đói giảm nghèo, phát triển hạ tầng quy mô nhỏ ở các vùng nông thông miền núi; hầu hết các tỉnh và thành phố có các dự án hệ thống cấp nước sinh hoạt, trường học, bệnh viện hệ thống thuỷ lợi, một số dự án thoát nước, phát triển cơ sở hạ tầng quy mô nhỏ. ODA đóng góp cho sự phát triển cơ sở hạ tầng xã hội, tác động tích cực đến việc cải thiện chỉ số phát triển con người ở Việt Nam. Tổng nguồn vốn ODA cho giáo dục và đào tạo ước chiếm khoảng 8,5 - 10% tổng kinh phí giáo dục và đào tạo, đã góp phần cải thiện chất lượng và hiệu quả của lĩnh vực này, tăng cường một bước cơ sở vật chất kỹ thuật cho việc nâng cao chất lượng dạy và học, như các dự án ODA hỗ trợ cải cách giáo dục tiểu học, trung học và đại học, tự án tạo nghề... Nguồn vốn ODA đã đóng góp cho sự thành công của một số chương trình quốc gia, ngành có ý nghĩa sâu rộng như chương trình dân số và phát triển, chương trình tiêm chủng mở rộng, chương trình dinh dưỡng trẻ em, chương trình nước sạch nông thôn, chương trình chăm sóc sức khoẻ ban đầu, chương trình xoá đói giảm nghèo... Nhờ vậy, thứ hạng các quốc gia và chỉ số phát triển con người của Liên Hợp quốc đều được cải thiện hàng năm. ODA đã góp phần tăng cường năng lực và thể chế thông qua các chương trình, dự án hỗ trợ công cuộc cải cách pháp luật, cải cách hành chính và xây dựng chính sách quản lý kinh tế theo lịch trình phù hợp với chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước và lộ trình chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, tăng cường năng lực con người... Thông qua các dự án ODA, hàng ngàn cán bộ Việt Nam được đào tạo và đào tạo lại; nhiều công nghệ sản xuất, kỹ năng quản lý hiệnđại được chuyển giao. Quan hệ giữa phía Việt Nam và các nhà tài trợ đã được thiết lập trên cơ sở quan hệ đối tác, đề cao vai trò làm chủ của bên tiếp nhận ODA thông qua các hoạt động hài hoà và tuân thủ các quy trình và thủ tục ODA. Điều này được thể hiện trên nhiều lĩnh vực như phát triển các quan hệ đối tác trong nông nghiệp, lâm nghiệp, hiệu quả viện trợ... nghiên cứu áp dụng các mô hình viện trợ mới (hỗ trợ ngân sách, tiếp cận ngành...), hài hoà quá trình chuẩn bị dự án, thống nhất hệ thống báo cáo, hài hoà hoá quá trình mua sắm, tăng cường năng lực toàn diện về quản lý ODA. Nước ta được lựa chọn là nước điển hình về tiến hành hài hoà quy trình thủ tục ODA, tuân thủ hệ thống quản lý quốc gia về nâng cao hiệ quả viện trợ. Tồn tại cần khắc phục và những bài học rút ra từ việc sử dụng vốn ODA: Bên cạnh những mặt được của ODA hỗ trợ quá trình phát triển, việc sử dụng ODA trong thời gian qua cũng bộc lộ những yếu kém, làm giảm hiệu quả sử dụng nguồn lực này: Chậm trễ trong quá trình giải ngân, làm giảm hiệu quả sử dụng ODA và làm giảm lòng tin của các nhà tài trợ của ta. Nguyên nhân chủ yếu là quy trình và thủ tục trong nước cũng như của các nhà tài trợ còn phức tạp, lại có sự khác biệt giữa các nhà tài trợ và phía Việt Nam; chậm trễ trong việc di dân tái định cư và giải phóng mặt bằng; công tác đấu thầu; năng lực quản lý và giám sát thực hiện dự án của các Ban quản lý còn hạn chế và bất cập. Thiếu quy hoạch vận động và sử dụng ODA; các văn bản pháp quy về quản lý và sử dụng ODA còn thiếu tính đồng bộ, nhất quán, minh bạch, nhất là trong các vấn đề liên quan tới quản lý đầu tư và xây dựng; thực thi các văn bản pháp luật về quản lý ODA chưa nghiêm. Công tác theo dõi và đánh giá dự án buông lỏng. Nhiều cơ quan chủ quản ở Trung ương và các tỉnh chưa quản lý được các dự án của mình. Kỷ luật báo cáo về tình hình thực hiện các chương trình, dự án ODA thực hiện thiếu nghiêm túc. Năng lực cán bộ ở các cấp còn nhiều bất cập và thiếu tính chuyên nghiệp trong quản lý và sử dụng ODA. Những yếu kém nêu trên còn có nguyên nhân sâu xa là cơ quan thụ hưởng ODA chưa phát huy đầy đủ vai trò làm chủ trong việc khai thác nguồn lực này phục vụ sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội phù hợp với đặc thù của ODA. Điều này thể hiện trong nhiều khâu như: Công tác quy hoạch, kế hoạch và điều phối ODA, chuẩn bị và tổ chức thực hiện các chương trình, dự án ODA, công tác huấn luyện và đào tạo về ODA chưa được chú ý đúng mức, cũng như trong việc theo dõi và đánh giá dự án. Từ những kết quả đã đạt được và những yếu kém trong việc sử dụng ODA , có thể rút ra những bài học chủ yếu sau: ODA là một nguồn lực bên ngoài có ý nghĩa quan trọng, song không thể thay thế được nguồn lực trong nước ở cấp độ quốc gia cũng như trong phạm vi một lĩnh vực cụ thể. Do vậy, cần phải coi ODA là một chất xúc tác, một nguồn lực bổ sung cho quá trình phát triển. Cách tiếp cận lựa chọn trong sử dụng ODA phải được đề cao. Để sử dụng có hiệu quả nguồn vốn ODA, cần gắn kết và lồng ghép một cách đồng bộ chiến lược và kế hoạch thu hút và sử dụng ODA với các chiến lược phát triển, các chính sách và quy hoạch phát triển ngành, vùng và quốc gia cũng như các kế hoạch dài hạn và hàng năm. Đây là yêu cầu bảo đảm sự chủ động của ta trong việc sử dụng ODA. ODA nguồn hỗ trợ của Chính phủ, các Tổ chức quốc tế và liên Chính phủ dành cho Chính phủ. Do vậy, Chính phủ nước tiếp nhận phải nhận trách nhiệm điều phối và sử dụng ODA với nhận thức sâu sắc rằng nhân dân sẽ là người gánh chịu cái giá phải trả cho sự thất bại nếu nguồn vốn ODA không được sử dụng có hiệu quả. ODA không phải là nguồn vốn dễ kiếm và không phải là cho không. Cả ODA không hoàn lại và ODA vốn vay đều đòi hỏi trách nhiệm rất cao của Chính phủ nước tiếp nhận trước dư luận trong nước cũng như dư luận nước tài trợ. Các thành tựu về cải cách đổi mới toàn diện, phát triển kinh tế - xã hội và hội nhập kinh tế quốc tế là cơ sở quan trọng tạo dựng niềm tin của cộng đồng quốc tế đối với Việt Nam và là tiền đề bảo đảm cho sự thành công cho việc vận động và thu hút ODA trong giai đoạn tới. ODA gắn với mục tiêu chính trị và lợi ích kinh tế của nhà tài trợ. Đây là bản chất của nguồn vốn này, do vậy, thành hay bại của ODA tuỳ thuộc chủ yếu vào vai trò làm chủ của các cơ quan thực hiện, từ khâu hình thành dự án cho đến quá trình tổ chức thực hiện và duy trì tính bền vững của dự án sau này. Năng lực thể chế, năng lực con người là chìa khoá quyết định sự thành bại của ODA. 3.2. Nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI FDI là nguồn vốn quan trọng bổ sung cho nguồn vốn đầu tư phát triển, là một trong nhũng điều kiện tiên quyết để thực hiện chiến lược CNH - HĐH đất nước. Từ khi ban hành Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam cho đến nay bình quân mỗi năm FDI thực hiện 1112 triệu USD chiếm khoảng 26,5% tổng số vốn đàu tư của toàn xã hội. FDI là nguồn vốn bổ sung quan trọng giúp Việt Nam phát triển nền kinh tế cân đối, bền vững theo hướng CNH - HĐH và là động lực cho việc khai thác và phát huy hiệu quả trong việc sử dụng vốn. FDI góp phần tạo năng lực sản xuất mới ngành nghề mới, sản phẩm mới làm cho nước ta từng bước chuyển biến theo nền kinh tế thị trường góp phần chuyển dịch cơ cấu theo hướng CNH. Khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài luôn có chỉ số cao hơn so chỉ số phát triển các thành phần kinh tế khác và cao hơn so chỉ số phát triển chung cuả cả nước. Tỉ trọng của khu vực FDI trong tổng sản phẩm cả nước cũng có xu hướng tăng lên ổn định qua các năm. Đối với các ngành công nghiệp các doanh nghiệp FDI chiếm tỷ trọng cao và có xu hướng tăng lên đáng kể trong tổng giá trị sản xuất của toàn ngành. Đối với ngành nông nghiệp tính đến nay còn 291 dự án FDI đang hoạt động với tổng số vốn đăng ký gần 2 tỷ USD góp phần đáng kể nâng cao năng lực sản xuất chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp chuyển giao nhiều giống cây với chất lượng cao, nâng cao sức cạnh tranh trên thị trường thế giới. Nhiều công nghệ hiện đại được chuyển giao vào Việt Nam đã tạo bước ngoặt mới cho sự phát triển một số ngành kinh tế mũi nhọn như khai thác dầu khí, viễn thông, công nghệ điện tử, vật liệu xây dựng… FDI đóng góp ngày càng tăng vào hoạt động ngoại thương góp phần cải thiện cán cân thanh toán quốc tế thúc đẩy quá trình hội nhập kinh tế khu vực và thế giới, tham gia có hiệu quả vào phân công lao động quốc tế. Thông qua thực hiện các dự án đầu tư các nhà đầu tư đã trở thành cầu nối tạo diều kiện để Việt Nam nhanh chóng tiếp cận với thị trường thế giới, mở rộng bạn hàng và thị phần ở nước ngoài. Nhờ có lợi thế trong hoạt động thị trường thế giới nên tốc độ tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu của cả nước cao hơn hẳn các doanh nghiệp trong nước. Trong 5 năm 2001 – 2005 khu vực đầu tư nước ngoài đóng góp khoảng 15,5% GDP. Giá trị xuất khẩu của khu vực đầu tư nước ngoài (không kể dầu thô) cũng gia tăng nhanh chóng qua các năm trong năm 2001 – 2005 đạt trên 34 tỷ USD, đóng góp 35% tổng giá trị kim ngạch xuất khẩu của cả nước; tính cả dầu thô tỷ lệ này là 56%. Riêng năm 2006, xuất khẩu đạt 14,6 tỷ USD tăng 30,1% so với năm trước FDI đã giúp Việt Nam phát triển nhiều ngành công nghiệp và sản phẩm. Hiện nay, FDI chiếm 100% về khai thác dầu, sản xuất ô tô, máy giặt, tủ lạnh, máy điều hoà nhiệt độ, thiết bị văn phòng,… FDI cũng chiếm 60% sản lượng thép tấm, 28% xi măng, 33% sản phẩm điện/điện tử, 76% thiết bị y tế. FDI cũng đã giúp Việt Nam có một bước tiến lớn hơn vào các thị trường quốc tế, cải thiện tiềm năng xuất khẩu của Việt nam. FDI chiếm một tỷ lệ đáng kể trong các ngành công nghiệp chủ đạo của Việt Nam, cụ thể là 42% công nghiệp giầy da, 25% trong may mặc và 84% trong điện tử, máy tính và các linh kiện. Đóng góp của FDI cho Ngân sách Nhà nước trong giai đoạn 2001 - 2005 là khoảng 3,67 tỷ đô-la Mỹ, với mức tăng nộp ngân sách năm sau cao hơn năm trước, năm 2006 đạt 1,4 tỷ USD, tăng 36,3% so với năm 2005. Các doanh nghiệp FDI đã góp phần tạo ra một khối lượng lớn chỗ làm việc trực tiếp và gián tiếp, tham gia phát triển nguồn nhân lực, đem lại phương thức quản lý, kinh doanh mới, tạo động lực cạnh tranh, thúc đẩy các doanh nghiệp trong nước hoàn thiện năng lực sản xuất của mình để nâng cao khả năng cạnh tranh trên thị trường thế giới. Tính đến nay, các doanh nghiệp FDI đã tạo việc làm cho khoảng 33 vạn lao động với thu nhập bình quân 70USD/người/tháng, ngoài ra còn tạo ra hàng vạn việc làm gián tiếp. Như vậy số lao động làm việc trong các doanh nghiệp FDI và các bộ phận liên quan bằng khoảng 395 tổng số lao động, bình quân hàng năm trong khu vực nhà nước. Trong số lao động này có khoảng 6000 cán bộ quản lý và 2500 cán bộ kỹ thuật. Một số tồn tại Hệ thống luật pháp, chính sách của chúng ta đang trong quá trình điều chỉnh nên thiếu đồng bộ, chưa cụ thể, các biện pháp khuyến khích cũng như hệ thống cơ chế chính sách tài chính, dặc biệt là lĩnh vực thuế chưa đủ hấp dẫn các nhà đầu tư. Môi trường đầu tư ở Việt Nam còn nhiều rủi ro do chính sách hay thay đổi, thiếu rõ ràng, cơ sở hạ tầng yếu kém, khó khăn trong chuyển đổi ngoại tệ , chi phí đắt đỏ. Hiệu quả kinh tế xã hội của khu vực FDI thời gian qua chưa cao. Các dự án FDI còn tập trung chủ yếu ở các thành phố lớn và các địa phương có nhiều thuận lợi, những ngành thu lợi nhuận lớn, thu hồi vốn đầu tư nhanh. Kim ngạch xuất khẩu gia tăng nhanh nhưng thấp hơn nhiều nước trong khu vực, chính sách khuyến khích xuất khẩu chưa hấp dẫn, hàng xuất khẩu chủ yếu là hàng gia công nên giá trị gia tăng thấp, thiết bị máy móc chuyển giao vào Việt Nam để thực hiện các dự án còn lạc hậu, giá cả cao, nhiều doanh nghiệp FDI hoạt động kinh doanh không có hiệu quả, lao động trong khu vực FDI phổ biến là lao động thủ công. Công tác xây dựng chiến lược và quy hoạch cụ thể trong cả nước cũng như từng vùng, từng địa phương chưa được thực hiện nhằm đảm bảo yêu cầu, điều kiện mới và gắn với quy hoạch tổng thể kinh tế xã hội. Công tác tuyên truyền vận động, xúc tiến đầu tư còn thụ động, nghiên cứu đối với nước ngoài còn nhiều khuyết điểm do thiếu thông tin. Công tác quản lý nhà nước đối với FDI còn yếu kém và sơ hở, vừa buông lỏng, vừa gây phiền hà, can thiệp sâu vào hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp FDI. Thủ tục đầu tư còn phức tạp, còn nhiều tiêu cực gây khó khăn cho quá trình triển khai dự án, tốn kém thời gian, tiền của của nhà đầu tư, ảnh hưởng xấu đến môi trường đầu tư. Năng lực và trình độ cán bộ phía Việt Nam còn hạn chế, đại bộ phận chưa được đào tạo, thiếu kiến thức chuyên môn, không nắm vững pháp luật, thiếu kinh nghiệm kinh doanh quốc tế. Nhận thức về vai trò, vị trí của lĩnh vực FDI chưa thống nhất, thiếu thông tin trong lĩnh vực quản lý FDI, công tác kiểm tra báo cáo chưa đồng bộ, thiếu kịp thời, chất lượng chưa cao nên ảnh hưởng đến quản lý vĩ mô của nhà nước. IV - Thực trạng mối quan hệ tạo lập, thu hút và sử dụng vốn đầu tư ở Việt Nam giai đoạn 2001 đến nay Tổng vốn đầu tư toàn xã hội 2001 - 2007 (tỷ đồng) Tốc độ tăng trưởng kinh tế Việt Nam 2001 – 2007 (%) Nguồn vốn từ quá trình tạo lập và thu hút được sử dụng đầu tư cho các dự án phát triển kinh tế, xã hội, qua đó thúc đẩy kinh tế tăng trưởng. Từ 2 đồ thị trên ta có thể thấy giá trị tổng vốn đầu tư toàn xã hội và tốc độ tăng trưởng kinh tế nhìn chung có mối quan hệ tỷ lệ thuận, lượng vốn huy động được sử dụng hiệu quả sẽ có tác động tích cực tới tăng trưởng kinh tế. Nếu đầu tư không có hiệu quả, thì chẳng những tăng trưởng kinh tế phải tốn nhiều vốn đầu tư hơn, mà còn gây ra lạm phát, xét trên nhiều mặt lạm phát do “chi phí đẩy” và lạm phát do “cầu kéo”. Bản thân vốn đầu tư sẽ làm cho lạm phát 'cầu kéo'; còn đầu tư kém hiệu quả sẽ làm cho lạm phát do 'chi phí đẩy'. Lạm phát do quan hệ cung - cầu, quan hệ tiền - hàng mất cân đối thường có bề nổi, dễ nhận thấy, nhưng lạm phát do đầu tư không có hiệu quả thì thường là lạm phát ngầm, lúc đầu rất khó nhận thấy, nhưng khi nó bộc phát thì rất cao, rất khó trị và việc trị nó thường phải kèm theo cái giá phải trả không nhỏ, thậm chí còn có thể rơi vào cuộc khủng hoảng. Mặc dù tỷ lệ huy động vốn từ các nguồn là tốt nhưng ở Việt Nam hiện nay vẫn tồn tại nhiều vấn đề trong việc sử dụng vốn nếu không muốn nói là lãng phí đó là đối với những dự án có vốn đầu tư của nhà nước. Chúng ta chưa quan tâm đầy đủ việc sử dụng hiệu quả các nguồn vốn đầu tư kể cả ngân sách, nguồn đầu tư trong nước cũng như nước ngoài và ODA. Việc thất thoát ngân sách đã được Chính phủ thừa nhận, Quốc hội bàn thảo, và khiến người dân xót xa. Còn đối với những dự án của tư nhân họ có lợi ích,vốn do họ bỏ ra nên họ có động lực thúc đẩy hiệu quả sử dụng vốn tốt hơn. Tuy nhiên hiệu quả sử dụng vốn trong nước vẫn bị hạn chế do tác động chung của các nguồn lực khác: Cơ chế chính sách, vấn đề cơ sở hạ tầng và cả những ưu đãi lớn dành cho doanh nghiệp nhà nước. Đáng ra, tư nhân có thể sử dụng nguồn vốn hiệu quả hơn rất nhiều. Tất nhiên, không phủ nhận sự yếu kém của doanh nghiệp tư nhân trong nước, nhưng một yếu tố quan trọng chính là môi trường kinh doanh còn quá nhiều nhân tố bất ổn, do chính nhà nước tạo ra. Về vốn bên ngoài, chúng ta đã nhận được rất nhiều cam kết, nhưng tốc độ giải ngân còn quá thấp. Cam kết FDI 10-16 tỷ USD nhưng thực tế tỉ lệ giải ngân thấp hơn đáng kể, chỉ 4,1 tỷ USD năm ngoái. Các nhà đầu tư vào nhưng chưa đưa được tiền vào. Về cơ sở hạ tầng, nhiều nhà đầu tư nước ngoài mong đầu tư nhưng bản thân Việt Nam lại chưa tạo điều kiện đầy đủ. Hình thức BOT đã được luật hóa nhưng chưa có hướng dẫn thực sự để DN nước ngoài tham gia. Cách đây chưa lâu, Phần Lan đã mất 5-7 năm để đàm phán tham gia xây dựng hạ tầng, đạt đến kí kết. Họ lại phải mất thêm 2 năm đàm phán về giá cung cấp điện nhưng không có kết quả. Nước này đã rút dự án khỏi Việt Nam. Đối với vốn ODA, Việt Nam chưa thực hiện tốt tất cả các công việc cần thiết để giải ngân tốt hơn. Một phần do phức tạp thủ tục, một phần do quy định khác nhau giữa nhà tài trợ và chính phủ Việt Nam nên khó thống nhất  Sau khi chọn được dự án ODA đã khó, việc chuẩn bị của Việt Nam khi có vốn ODA còn chậm, rõ nhất là chuẩn bị mặt bằng, và không có sẵn vốn đối ứng trong các dự án. Điều kiện con người và kinh tế kỹ thuật đã làm chậm quá trình giải ngân. Trong khi đó, mỗi nguồn ODA có thời gian ân hạn nhất định. Nếu không làm việc, chúng ta đã tự tước bỏ đi thời gian ưu đãi ấy. Ví dụ, một dự án ODA quy định trong 10 năm được hưởng lãi suất thấp, hoặc không phải trả lãi. Nhưng vì quá trình giải ngân chậm, khi dự án bắt đầu đi vào sử dụng chỉ còn 2-3 năm. Chúng ta đã tự đánh mất 7 - 8 năm quý giá. Và cái giá của ODA trở nên đắt đỏ hơn. Chưa kể nó sẽ kìm hãm sự phát triển của khu vực, lĩnh vực đưa ODA vào. Đây là lãng phí kép: tiền của, gánh nợ, thời gian cho phát triển. Đặc biệt, mất thời gian đồng nghĩa với mất đi các cơ hội. Tạo lập, huy động vốn vượt quá nhu cầu hiện tại sẽ dẫn đến lãng phí thất thoát: Sai phạm về TC (tỷ đồng) Năm Số DA đã thanh tra Tổng vốn ĐT (tỷ đồng) Tỷ lệ (%) 871 2002 17 9.385 13.6 1235 2003 14 8.193 19 1134 2004 64 6.000 18.9 402 2005 84 2054.2 19.6 (Nguồn: Báo cáo của Chính phủ về đầu tư xây dựng cơ bản trước QH 16/11/2005) Chương III - Giải pháp nhằm tạo lập, thu hút và sử dụng vốn đầu tư hiệu quả ở Việt Nam I - Tạo lập vốn đầu tư 1. Khuyến khích huy động vốn từ tiết kiệm tư nhân Thực tế thời gian qua cho thấy đầu tư của hộ gia đình có vai trò quan trọng đặc biệt trong việc phát triển nông nghiệp và kinh tế nông thôn, mở mang ngành nghề, phát triển công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, thương mại, dịch vụ và vận tải trên các địa phương. Vì thế, Nhà nước cần khuyến khích huy động vốn từ tiết kiệm tư nhân, hoàn thiện các chính sách tạo điều kiện để các hộ gia đình bỏ vốn đầu tư và thúc đẩy sự đan xen, hỗn hợp các hình thức sở hữu trong nền kinh tế. 2. Khai thác các nguồn lực nhàn rỗi 2.1. Lao động dư thừa Chính phủ nên sử dụng số lao động dư thừa trong nông nghiệp để thực hiện các dự án đầu tư cơ bản như các công trình giao thông công cộng, các cơ sở bệnh viện, trường học, nhà ở… Công nhân ở các công trình này có thể vẫn dựa vào những người ruột thịt để có lương thực thực phẩm. Như vậy sự hình thành vốn mới, hay tiết kiệm được tạo lập mà thật sự không phải chi phí hoặc chi phí thấp. 2.2. Năng lực vốn chưa dùng Trên thực tế việc sử dụng vốn ở nước ta còn kém hiệu quả. Các phương tiện vận chuyển bị bỏ quên do thiếu sửa chữa hoặc thiếu phụ tùng thay thế, các công trình nhà cửa bỏ trống, các mương tưới tiêu khô nước, các nhà máy sử dụng dưới công suất do hư hỏng về mặt cơ khí, thiếu vật tư hoặc thiếu thị trường tiêu thụ. Có thể lý giải cho vấn đề này bởi nhiều lý do: vì công nghệ do các nước phát triển chuyển giao không thích hợp với nhu cầu; qui mô nhỏ của ngành xây dựng, giao thông, dịch vụ kém; nước ta còn thiếu lao động lành nghề, là những hạn chế đối với việc sử dụng vốn có hiệu quả ở nước ta hiện nay. Để khắc phục tình trạng này Nhà nước cần mở rộng các cơ sở giáo dục và đào tạo, giao thông và truyền thông, các cơ sở hạ tầng. 3. Hoàn thiện hệ thống thuế 3.1. Thuế trực thu Là loại thuế mà người nộp thuế đồng thời là người thực sự chịu thuế, thuế này đánh vào thu nhập cá nhân, bất động sản, của cải, vật thừa kế và thuế lợi tức. 3.2. Thuế gián thu Là loại thuế mà người trực tiếp nộp thuế không phải thực sự là người chịu thuế. Trong thuế gián thu có nhiểu loại như thuế hàng xa xỉ, thuế doanh thu, thuế hàng hóa… Thông qua thuế hàng xa xỉ, Chính phủ có thể can thiệp, khống chế và điều chỉnh tiêu dùng. Thuế tiêu thụ đặc biệt đánh vào việc sản xuất và buôn bán hàng xa xỉ cá nhân là loại thuế hàng xa xỉ phổ biến nhất. Tuy vậy, cần tránh khuynh hướng đánh thuế quá cao và tràn lan đối với hàng không thiết yếu có thể gây ra trốn thuế và buôn lậu hay kích thích tiêu cực. Thuế nhập khẩu hàng xa xỉ không nên áp dụng vì nó có thể kích thích đầu tư trong nước vào hàng xa xỉ. 3.3. Thuế doanh thu Là loại thuế đánh vào tổng doanh thu của các tổ chức, cá nhân thuộc mọi thành phần kinh tế có hoạt động sản xuất, kinh doanh. Tùy thuộc vào đặc điểm từng ngành, từng lĩnh vực khác nhau mà có thể có những mức thuế suất khác nhau. Tuy vậy những hoạt động sau đây không thuộc diện chịu thuế doanh thu như sản xuất nông nghiệp, sản xuất các loại hàng hóa chịu thuế tiêu thụ đặc biệt và sản xuất hàng hóa xuất khẩu. Hiện nay chúng ta đã sử dụng loại thuế giá trị gia tăng - VAT thay cho thuế doanh thu. Một chương trình thuế được xây dựng tốt có thể giúp Chính phủ tạo nguồn vốn, hạn chế các trở ngại của việc tích lũy cá nhân. Tuy nhiên, việc hoàn thiện hệ thống thuế như vậy là một quá trình lâu dài và phức tạp. 4. Phát triển các tổ chức trung gian tài chính Các trung gian tài chính gồm có các ngân hàng thương mại, ngân hàng tiết kiệm, các quỹ tiết kiệm cộng đồng, ngân hàng phát triển, thị trường chứng khoán, các quỹ an sinh xã hội, các công cụ thuộc về nợ của Chính phủ như công trái, trái phiếu… Các trung gian tài chính này có thể hướng dẫn cung, tạo thuận lợi cho giới chủ doanh nghiệp. 4.1. Tăng cường cơ hội đầu tư Trong nhiều trường hợp. một cơ hội đầu tư sẽ tạo ra tiết kiệm. Việc chính phủ giảm thuế, cho vay, xây dựng cơ sở hạ tầng, trợ giúp kỹ thuật và quản lý, có thể sẽ dẫn tới tăng tiết kiệm vì các chủ doanh nghiệp tiềm năng thấy lợi tức đầu tư cao hơn. 4.2. Tái phân phối thu nhập Chính phủ có thể khuyến khích các lĩnh vực hay các tập đoàn kinh tế riêng biệt bằng giảm thuế và chính sách ngành nghề. Có thể phân phối lại thu nhập cho những người có xu hướng tiết kiệm cao hoặc tăng sản lượng trong các ngành có tiềm năng tăng trưởng cao, ở các lĩnh vực có tiết kiệm lớn. 5. Kiểm soát lạm phát và tăng cường đầu tư xã hội Hệ thống ngân hàng có thể cấp tín dụng và Bộ Tài chính có thể in tiền để cho những người có tỷ lệ tiết kiệm cao vay. Việc tao ra tiền mới, mặc dầu gây ra lạm phát, nhưng làm tăng tỷ lệ các nguồn lực dành cho những người tiết kiệm lớn, nên tăng sự hình thành vốn thực tế. Chính quyền địa phương có thể đánh những khoản thuế mà Chính phủ Trung ương không đánh được nếu tiền thu thuế đó được dùng để tài trợ cho trường học, đường sá, hay những dự án xã hội quan trọng khác thật sự có lợi cho dân cư địa phương. Một số dịch vụ đô thị mới như đường sá, cấp thoát nước, đèn đường, công viên cây xanh có thể được tài trợ nhờ những khoản thu đặc biệt từ các doanh nghiệp, chủ sở hữu bất động sản, các cá nhân hưởng lợi nhiều nhất từ việc xây dựng các công trình đó. II. Thu hút vốn đầu tư 1. Nhóm giải pháp về quy hoạch - Đẩy nhanh tiến độ xây dựng và phê duyệt các quy hoạch còn thiếu, rà soát để định kỳ bổ sung, điều chỉnh các quy hoạch đã lạc hậu nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho nhà đầu tư trong việc xác định và xây dựng dự án. - Quán triệt và thực hiện thống nhất các quy định mới của Luật đầu tư trong công tác quy hoạch đảm bảo việc xây dựng các quy hoạch ngành, lĩnh vực, sản phẩm phù hợp với các cam kết quốc tế. - Hoàn chỉnh quy hoạch sử dụng đất, công bố rộng rãi quy hoạch, tạo điều kiện để đẩy nhanh tiến độ giải phóng mặt bằng cho các dự án đầu tư. 2. Nhóm giải pháp về luật pháp, chính sách - Tiếp tục rà soát pháp luật, chính sách để sửa đổi hoặc loại bỏ các điều kiện áp dụng ưu đãi đầu tư không phù hợp với cam kết của Việt Nam với WTO và có giải pháp đảm bảo quyền lợi của nhà đầu tư liên quan. - Xây dựng văn bản hướng dẫn các địa phương và doanh nghiệp về lộ trình cam kết mở cửa đầu tư nước ngoài làm cơ sở xem xét cấp giấy chứng nhận đầu tư. - Theo dõi, giám sát việc thi hành pháp luật về đầu tư và doanh nghiệp để kịp thời phát hiệ và xử lý các vướng mắc phát sinh. Khẩn trương ban hành các văn bản hướng dẫn các luật mới. - Ban hành các ưu đãi khuyến khích đầu tư đối với các dự án xây dựng các công trình phúc lợi (nhà ở, bệnh viện, trường học, văn hoá, thể thao) cho người lao động là việc trong các khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao, khu kinh tế, đảm bảo sự tương thích với các luật pháp hiện hành. - Nghiên cứu đề xuất chính sách vận động, thu hút đầu tư đối với các tập đoàn đa quốc gia cũng như có chính sách riêng đối với từng tập đoàn và mỗi nước thành viên EU, Hoa Kỳ... - Chấn chỉnh tình trạng ban hành và áp dụng các ưu đãi, hỗ trợ đầu tư trái với quy định của pháp luật. Tăng cường tập huấn, phổ biến nội dung và lộ trình thực hiện các cam kết quốc tế của Việt Nam. 3. Nhóm giải pháp về xúc tiến đầu tư - Các Bộ, ngành và Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh tiếp tục rà soát, cập nhật, bổ sung danh mục kêu gọi đầu tư phù hợp với nhu cầu đầu tư phát triển và quy hoạch phát triển ngành, địa phương. - Triển khai nhanh việc thành lập bộ phận xúc tiến đầu tư tại một số địa bàn trọng điểm. Xây dựng quy chế phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan xúc tiến đầu tư, xúc tiến thương mại và xúc tiến du lịch các cấp, bao gồm cả trong nước lẫn đại diện ở nước ngoài nhằm tạo sự đồng bộ và phối hợp nâng cao hiệu quả giữa các hoạt động này. Đồng thời, thực hiện tốt chương trình xúc tiến đầu tư để đảm bảo kinh phí cho vận động thu hút vốn đầu tư nước ngoài nhằm đẩy mạnh tuyên truyền, quảng bá hình ảnh Việt Nam, kết hợp chặt chẽ các chuyến công tác của lãnh đạo cấp cao Đảng và Nhà nước với các hoạt động xúc tiến đầu tư-thương mại-du lịch. - Tổ chức hiệu quả các cuộc hội thảo ở trong nước và nước ngoài. Nâng cấp trang thông tin điện tử về đầu tư nước ngoài cập nhật và chất lượng tài liệu xúc tiến đầu tư bàng một số ngôn ngữ đáp ứng nhu cầu của số đông nhà đầu tư (tiếng Anh, tiếng Trung, tiếng Hàn, tiếng Nga). - Tăng cường các đoàn vận động đầu tư theo phương thức làm việc trực tiếp với các tập đoàn lớn, tại các địa bàn trọng điẻm (Nhật Bản, Mỹ, EU) để kêu gọi đầu tư vào các dự án lớn, quan trọng. Chủ động tiếp cận và hỗ trợ các nhà đầu tư tiềm năng có nhu cầu đầu tư vào Việt Nam. 4. Nhóm giải pháp về cải thiện cơ sở hạ tầng - Tiến hành tổng rà soát, điều chỉnh, phê duyệt và công bố các quy hoạch về kết cấu hạ tầng làm cơ sở thu hút vốn đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng. Tăng cường công tác quy hoạch, thực thi các quy hoạch cũng như thu hút đầu tư vào các công trình giao thông, năng lượng. - Khẩn trương xây dựng và ban hành cơ chế khuyến khích các thành phần kinh tế ngoài nhà nước tham gia phát triển các công trình kết cấu hạ tầng trong đó có các công trình giao thông, cảng biển, các nhà máy điện độc lập. - Tập trung thu hút vốn đầu tư vào một số dự án thuộc lĩnh vực bưu chính - viễn thông và công nghệ thông tin để phát triển các dịch vụ mới và phát triển hạ tầng mạng. 5. Nhóm giải pháp về lao động, tiền lương - Đẩy mạnh việc triển khai kế hoạch tổng thể về đào tạo nhằm nâng tỷ lệ lao động qua đào tạo lên 40% vào năm 2010. - Tiếp tục hoàn thiện luật pháp, chính sách về lao động, tiền lương phù hợp trong tình hình mới; tăng cường công tác kiểm tra, giám sát việc chấp hành pháp luật về lao động đối với người sử dụng lao động nhằm đảm bảo điều kiện làm việc và đời sống cho người lao động. - Nâng cao hiểu biết pháp luật về lao động phổ thông qua phổ biến, tuyên truyền và giáo dục pháp luật cho người lao động, người sử dụng lao động trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài để đảm bảo chính sách, pháp luật về lao động và tiền lương được thực hiện đầy đủ, nghiêm túc. 6. Nhóm giải pháp về cải cách hành chính - Thực hiện tốt việc phân cấp quản lý nhà nước đối với đầu tư nước ngoài, đặc biệt trong việc phê duyệt, cấp Giấy chứng nhận đầu tư, quản lý tốt các dự án đầu tư nước ngoài, gắn với việc tăng cường hợp tác, hỗ trợ, phối hợp hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát việc thi hành pháp luật về đầu tư. - Đảm bảo minh bạch, đơn giản, nhất quán trong thu hút vốn đầu tư theo hướng tạo điều kiện để các nhà đầu tư tiếp cận thuận lợi nhất với khách hàng, thực hiện đúng đắn các quy định của pháp luật, tiết kiệm thời gian và công sức trong việc lập dự án đầu tư, cũng như thực hiện các dự án đó. Tăng cường hợp tác, phân công và phân cấp; Thiết lập hệ thống thông tin quản lý Nhà nước đối với đầu tư nước ngoài; Hợp lý hoá bộ máy Nhà nước về đầu tư nước ngoài. Hoàn thiện cơ chế “liên thông-một cửa” ở các cơ quan cấp giấy chứng nhận đầu tư và quản lý đầu tư nhằm tạo thuận lợi cho hoạt động đầu tư nước ngoài, qua đó tăng thêm sức hấp dẫn của môi trường đầu tư Việt Nam. - Đơn giản hoá thủ tục cấp phép đầu tư đối với đầu tư nước ngoài; thu hẹp các lĩnh vực không cho phép đầu tư và những lĩnh vực đầu tư có điều kiện, mở rộng lĩnh vực đăng ký đầu tư. Tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư phát triển các lĩnh vực dịch vụ theo các cam kết quốc tế của nước ta. - Nâng cao trình độ của đội ngũ cán bộ, công chức. III. Giải pháp sử dụng vốn đầu tư Cần đẩy mạnh công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát hoạt động đâu tư, phát hiện và xử lý kịp thời các sai phạm. Cần có nhận thức và hiểu đúng đắn về vốn ODA, không nên coi đó là nguồn viện trợ thuần túy, dẫn đến sử dụng lãng phí, kém hiệu quả. Xây dựng hệ thống luật pháp chặt chẽ, không có các kẽ hở dẫn tới việc tham ô, tham nhũng, vụ lợi cá nhân. Đầu tư theo trọng tâm, phù hợp với chiến lược phát triển của ngành, của địa phương. Tránh đầu tư dàn trải gây lãng phí nguồn lực. Phải triển khai các dự án nhanh chóng theo đúng tiến độ đề ra. Tránh để kéo dài quá thời hạn, làm tăng chi phí đầu tư. Hoàn thiện quy chế đấu thầu trong các dự án. Phải đảm bảo việc đấu thầu được tổ chức công khai, minh bạch, đúng đắn. Tránh xảy ra tình trạng đấu thầu khép kín, thông thầu, chỉ định thầu. IV - Các giải pháp chung Trong phương hướng, nhiệm vụ, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2001 - 2005 xác định tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm là 7.5%, dự kiến tỷ lệ đầu tư so với GDP khoảng 31 - 32% tương đương 59 - 61 tỷ USD, trong đó nguồn vốn trong nước chiếm 2/3. Để đạt được các mục tiêu trên, việc phát huy cao độ nguồn vốn trong nước, đồng thời tranh thủ các nguồn vốn bên ngoài và sử dụng chúng có hiệu quả là hết sức cần thiết. Trên cơ sở định hướng phát triển kinh tế - xã hội một cách phù hợp, để huy động, phân bổ và sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn, cần đề xuất và thực hiện các giải pháp cụ thể, đồng bộ. 1. Tạo môi trường khuyến khích và nâng cao hiệu quả vốn đầu tư Sự ổn định về kinh tế, chính trị, xã hội là yêu cầu trước hết để các nhà kinh doanh yên tâm bỏ vốn đầu tư, có thể dự kiến và thực thi những dự án đầu tư dài hạn, giảm bớt rủi ro trong quá trình đầu tư. Hoàn thiện thể chế, tăng cường hiệu lực quản lý để đảm bảo đầu tư có hiệu quả, khắc phục tình trạng đầu tư dàn trải, thất thoát, lãng phí. Các biện pháp cụ thể là: Cần xác định đúng các chủ trương đầu tư trong dài hạn; Quản lý chặt chẽ quá trình đầu tư; Khắc phục những tiêu cực trong việc nhận dự án và công trình xây dựng; Tăng cường biện pháp đảm bảo chất lượng công trình; Công khai hóa vốn đầu tư. Môi trường đầu tư được hệ thống luật pháp và chính sách của Nhà nước đảm bảo. Hệ thống luật pháp, trước hết là luật đầu tư công bằng, hợp lý và được bảo đảm thực thi trong thực tiễn đối với mọi thành phần kinh tế. Nhờ đó, các nguồn vốn đầu tư được huy động, phân bổ, sử dụng có hiệu quả. Đổi mới chính sách và cải thiện môi trường đầu tư, xóa bỏ các hình thức phân biệt đối xử trong tiếp cận các cơ hội đầu tư để khai thác và sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn từ các thành phần kinh tế trong nước và thu hút vốn đầu tư trực tiếp và gián tiếp từ nước ngoài. Đơn giản hóa thủ tục cấp phép đầu tư đối với đầu tư nước ngoài; thu hẹp các lĩnh vực không cho phép đầu tư và những lĩnh vực đầu tư có điều kiện, mở rộng lĩnh vực đăng kí đầu tư. Tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư phát triển các lĩnh vực dịch vụ theo cam kết quốc tế của nước ta. 2. Phát triển thị trường tài chính Thông qua thị trường tài chính mà tiết kiệm được chuyển đến các nhà đầu tư. Hệ thống tài chính cần phải tiếp tục phát triển và chuyển đổi phù hợp với cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, nhằm biến hệ thống tài chính thành trung tâm thu hút và phân bổ các nguồn vốn đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế, xã hội và hội nhập quốc tế. Cụ thể là: Củng cố, nâng cao năng lực kinh doanh và sức cạnh tranh của các trung gian tài chính với các hình thức đa dạng, thích hợp; Khuyến khích các trung gian tài chính phát triển các loại hình dịch vụ mới phù hợp; Hoàn thiện và phát triển đồng bộ thị trường tài chính, đặc biệt ưu tiên phát triển thị trường vốn trung và dài hạn, đảm bảo sự vận hành an toàn, lành mạnh, hiệu quả; Tạo lập khuôn khổ pháp luật giám sát hoạt động tài chính trên thị trường, thực hiện minh bạch vì lợi ích người đầu tư và đảm bảo an ninh tài chính quốc gia; Từng bước mở cửa thị trương tài chính Việt Nam, đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế. 3. Hoàn thiện chính sách tài chính, tiền tệ Cải cách hệ thống thuế: Hoàn thiện hệ thống pháp luật về thuế theo nguyên tắc công bằng, thống nhất và đồng bộ, bảo đảm môi trường thuận lợi, khuyến khích phát triển sản xuất, kinh doanh. Điều chỉnh chính sách thuế theo hướng giảm và ổn định thuế suất, mở rộng đối tượng thu, điều tiết hợp lý thu nhập, không lồng ghép chính sách xã hội trong chính sách thuế. Từng bước thực hiện phương pháp tính thuế, quản lý thu thuế, xử lý các vi phạm về thuế theo thông lệ quốc tế; hiện đại hóa công tác quản lý hành chính thuế và phát triển dịch vụ tư vấn thuế. Chính sách chi ngân sách: Chi cho đầu tư là khoản chi có tác động trực tiếp đến phát triển kinh tế. Vì vậy, tăng chi cho đầu tư phát triển được coi là khuynh hướng tích cực. Giải pháp cơ bản là: Triệt để xóa bỏ bao cấp đối với các doanh nghiệp nhà nước thông qua ngân sách; Thực hiện triệt để tiết kiệm chi ngân sách; Thực hiện xã hội hóa các lĩnh vực giáo dục, đào tạo, y tế, thể thao, văn hóa..., đảm bảo công bằng xã hội; Phân bổ và lựa chọn hướng ưu tiên chi cho đầu tư phát triển một cách hợp lý có hiệu quả. Tăng cường quản lý nợ: Cần có chính sách vay và trả nợ đúng đắn để tránh đất nước rơi vào tình trạng khủng hoảng nợ. Chính sách cơ bản là: Xây dựng hạn mức nợ nước ngoài của quốc gia phù hợp với các tiêu chuẩn an toàn được quốc tế thừa nhận và gắn với hệ thống các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô lành mạnh; Ngân sách nhà nước chỉ vay cho đầu tư phát triển, không vay cho tiêu dùng; Nền kinh tế phải tăng khả năng xuất khẩu và nguồn thu ngoại tệ để trả nợ nước ngoài, tránh tình trạng nợ quá hạn; Thiết lập cơ chế giám sát tài chính, tiền tệ nhằm đảm bảo an ninh tài chính quốc gia, kiểm soát chặt chẽ các luồng vốn nước ngoài, đặc biệt là nguồn vốn ngắn hạn; Xử lý nợ, lành mạnh hóa tài chính của các doanh nghiệp nhà nước; Có quy chế giám sát nợ trong giám sát tài chính doanh nghiệp nhà nước. KẾT LUẬN Đầu tư là nhân tố quan trọng tác động đến tăng trưởng và phát triển, đến tổng cung tổng cầu, đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế, làm tăng năng lực khoa học công nghệ của đất nước. Hiệu quả của hoạt động đầu tư được thể hiện trên mọi lĩnh vực của nền kinh tế xã hội, đó là hiệu quả tài chính, công ăn việc làm, trình độ cán bộ, công nghệ quốc gia và vấn đề bảo vệ môi trường. Thực tế hiện nay là tỷ lệ huy động vốn cho hoạt động đầu tư còn rất thấp mà hiệu quả sử dụng vốn thì chưa cao. Do đó, để đạt được mục tiêu của Đảng đã đề ra nhằm đưa đất nước đến năm 2020 cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại hoá, tiến nhanh tiến mạnh lên chủ nghĩa xã hội, chúng ta cần phải nhận thức được tầm quan trọng của mối quan hệ giữa tạo lập, thu hút và sử dụng vốn đầu tư và cần có các biện pháp nhằm huy động, sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn phục vụ nhu cầu đầu tư phát triển và nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn vốn đó. Đây là nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân và công tác này chỉ thực sự được thực hiện tốt khi có ý thức đồng lòng, quyết tâm, sự phối hợp chặt chẽ giữa các ngành, các cấp từ trung ương đến địa phương, vì một mục tiêu chung, đó là làm cho đất nước Việt Nam ngày một giàu mạnh, tươi đẹp hơn. Một lần nữa, chúng em xin chân thành cảm ơn PGS.TS. Từ Quang Phương và TS. Phạm Văn Hùng đã giúp đỡ chúng em hoàn thành đề tài này. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Giáo trình kinh tế đầu tư. PGS.TS. Nguyễn Bạch Nguyệt, TS. Từ Quang Phương. NXB Đại học Kinh tế quốc dân. Năm 2007. 2. Giáo trình Kinh tế phát triển. GS.TS. Vũ Thị Ngọc Phùng. NXB Lao động - Xã hội. Năm 2006. 3. Giáo trình Kinh tế Việt Nam. GS.TS. Nguyễn Văn Thường. NXB Đại học Kinh tế quốc dân. 4. Giáo trình Kế hoạch hoá phát triển kinh tế - xã hội. TS. Ngô Thắng Lợi. NXB Thống kê. Năm 2006. 5. Giáo trình Lập dự án đầu tư. PGS.TS. Nguyễn Bạch Nguyệt. NXB Thống kê. Năm 2005. 6. Giáo trình Kinh tế vĩ mô. NXB Lao động. Năm 2007. 7. Kinh tế Việt Nam năm đầu tiên gia nhập tổ chức thương mại thế giới. GS.TS. Nguyễn Văn Thường & Nguyễn Kế Tuấn. NXB Đại học Kinh tế quốc dân. Năm 2008. 8. Tạp chí Kinh tế và dự báo. 9. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X. NXB Chính trị quốc gia. Năm 2006. 10. Luật Đầu tư 2005. 11. Niên giám thống kê các năm 2007, 2006, 2005... 12. Trang web trường đại học Kinh tế quốc dân, mục Thông tin kinh tế xã hội, chuyên mục 3: Đầu tư. Các trang web: www.mpi.gov.vn; www.vnn.vn; www.vneconomy ... Nhóm 10 lớp 2 - Sinh viên lớp Đầu tư 48D. Trịnh Thị Ngân Bùi Thị Mai Phương Nguyễn Thị Hạnh Ngân

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docMối quan hệ giữa tạo lập thu hút và sử dụng vốn đầu tư Liên hệ ở Việt Nam.doc
Luận văn liên quan