Môi trường pháp luật

MỤC LỤC Pháp luật là gì? . 3 Khái niệm 3Bản chất . 3Thực thi pháp luật 3Nguồn gốc pháp luật 3Pháp luật kinh tế . 4 Hệ thống tòa án . 4 Chế độ xét xử hai cấp 4Thành phần hội đồng xét xử . 5Nguyên tắc xét xử 5Hệ thống tòa án các cấp 5 Luật hợp đồng và đại lý . 6 Các đặc trưng cơ bản của luật hợp đồng 6Đại lí 15 Một số nguyên nhân cho thấy sự cần thiết phải có sự can thiệp của luật pháp để bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng . 16 Thực trạng vi phạm quyền lợi người tiêu dùng tại Việt Nam 16Hệ thống quy định của pháp luật về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng còn nhiều bất cập 17 Nội dung chính của luật pháp trong lĩnh vực bảo vệ người tiêu dùng 19 Các hành vi bị cấm trong lĩch vực bảo vệ quyền lợi NTD . 19Trách nhiệm của bên thứ ba đối với NTD 19Trách nhiệm của tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ đối với người tiêu dung 20Vai trò của tổ chức xã hội trong bảo vệ quyền lợi NTD . 20Giải quyết tranh chấp giữa NTD và các tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ 20Về việc miễn nghĩa vụ chứng minh lỗi và miễn tạm án phí 20 I. Pháp luật là gì? Khái niệm Pháp luật, về bản chất nguyên gốc, là mối tương quan giữa con người với con người, giữa con người với tập thể, lâu dần trở thành quy tắc xử sự, mỗi người phải tuân thủ khi giao tiếp với nhau cũng như giao tiếp với xã hội, sau này trở thành một định chế, trở thành khoa học được mọi người tuân hành, được bảo đảm thực hiện và có chế tài khi có sự vi phạm. Pháp luật, dưới góc độ luật học, được hiểu như là tổng thể các quy tắc xử sự có tính bắt buộc chung, do Nhà nước đặt ra hoặc thừa nhận, thể hiện ý chí của giai cấp cầm quyền, được Nhà nước đảm bảo thực hiện bằng các biện pháp giáo dục, thuyết phục, và cưỡng chế, nhằm điều chỉnh các mối quan hệ trong xã hội . Bản chất Về bản chất của pháp luật, pháp luật phản ánh bản chất của Nhà nước đặt ra nó. Hay nói cách khác, Nhà nước kiểu nào thì pháp luật kiểu đó. Lịch sử xã hội loài người đã có các kiểu pháp luật chủ nô, pháp luật phong kiến, pháp luật tư sản và pháp luật xã hội chủ nghĩa. Chính vì vậy, pháp luật có tính chất giai cấp. Pháp luật còn có tính xã hội, vì nó chứa đựng những chuẩn mực chung được số đông trong xã hội ủng hộ. Nếu không pháp luật sẽ bị chống đối. Pháp luật có tính dân tộc, nghĩa là phù hợp với truyền thống, tập quán, giá trị đạo đức của các dân tộc trong đất nước. Bản chất này cho phép pháp luật gần gũi với dân chúng, được dân chúng ủng hộ, do đó mà có hiệu quả điều chỉnh lên các quan hệ xã hội. Pháp luật có tính thời đại, nghĩa là phù hợp với trình độ phát triển của đất nước, có khả năng hội nhập với pháp luật quốc tế. Thực thi pháp luật Pháp luật thông thường được thực thi thông qua một hệ thống các cơ quan thực thi, bao gồm các cơ quan như Công an (hay cảnh sát), tòa án, Viện kiểm sát, thi hành án . Tuy nhiên phải hiểu rằng không phải tất cả các hành vi vi phạm pháp luật đều bị đưa ra tòa án, chỉ những hành vi vi phạm pháp luật gây hậu quả xấu cho xã hội đến mức độ cần thiết mới bị đưa ra xét xử ở tòa án. Hiện nay, hầu hết các nước trên thế giới đều có hai phương thức thực thi pháp luật là theo con đường hành chính và con đường hình sự. Hành chính và hình sự là hai cấp độ khác nhau và không thể đồng thời áp dụng lên một hành vi vi phạm. Nguồn gốc của pháp luật Có thể phân thành hai loại chính là quan điểm phi mác xít và quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin Theo quan điểm phi mác xít, thuyết thần học cho rằng thượng đế là người sắp đặt tất cả, nên pháp luật do đấng tối cao, chúa trời tạo ra; thuyết pháp luật tự nhiên coi pháp luật là tổng thể quyền con người tự nhiên sinh ra mà có; thuyết pháp luật linh cảm xem pháp luật là những linh cảm của con người về cách cư xử hợp lí, vv . Những quan điểm trên có cùng chung là giải thích nguồn gốc pháp luật một cách duy tâm, thần bí, thiếu cơ sở khoa học. Theo quan điểm Mác-Lênin, thì những nguyên nhân làm xuất hiện nhà nước cũng chính là nguyên nhân dẫn tới sự ra đời của pháp luật. Trong xã hội cộng sản nguyên thủy, chưa có nhà nước và pháp luật. Các quy tắc xã hội chủ yếu dựa trên tập quán và tín điều tôn giáo trên được mọi người chấp hành một cách tự giác trên cơ sở thói quen, niềm tin, nếu ai vi phạm thì sẽ bị cộng đồng xử lí. Phương pháp cơ bản áp dụng đối với người vi phạm là tự nguyện và thuyết phục, nhưng khi làm những việc mà cả thị tộc lên án thì những người vi phạm cũng sẽ bị áp dụng biện pháp cưỡng chế. Do sự phát triển không ngừng của lực lượng sản xuất. Công cụ ngày càng được cải tiến, con người được phát triển về thể lực, ngày càng nhận thức đúng đắn hơn về thế giới và trong lao động sản xuất ngày càng phát triển . Những yếu tố đó đã tạo tiền đề cho sự phân công lao động. Chế độ tư hữu xuất hiện, xã hội có sự phân hóa giai cấp sâu sắc và luôn đấu tranh gay gắt để bảo vệ lợi ích của giai cấp mình nên pháp luật được hình thành nhằm điều hòa những mâu thuẫn đó. Mặt khác, nhà nước hình thành nhằm duy trì trật tự xã hội và bảo vệ lợi ích của giai cấp thống trị, nên pháp luật ra đời là công cụ để nhà nước thực hiện những công việc quản lí xã hội. Nhà nước ban hành và đảm bảo cho pháp luật được thực hiện. Cũng như nhà nước, pháp luật là sản phẩm của xã hội phát triển tới một trình độ nhất định. Pháp luật kinh tế Pháp luật kinh tế là một hỗn hợp các quy phạm pháp luật thuộc nhiều ngành luật khác nhau liên quan đến toàn bộ đời sống kinh tế trong xã hội, bao gồm quy phạm pháp luật của của các ngành luật có liên quan đến các đối tượng điều chỉnh là các quan hệ kinh tế liên quan chặt chẽ với nhau trong các tổ chức, quản lý kinh tế và các hoạt động kinh doanh. Pháp luật kinh tế bao gồm các ngành luật sau: luật kinh tế, luật tài chính-ngân hàng, luật lao động, luật đất đai và môi trường.

docx21 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 3614 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Môi trường pháp luật, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ĐẠI HỌC NGÂN HÀNG THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH KHOA QUẢN TRỊ KINH DOANH @&? TIỂU LUẬN MÔN MÔI TRƯỜNG KINH DOANH Đề tài: MÔI TRƯỜNG PHÁP LUẬT GVHD: Trịnh Quốc Trung Lớp: T01 Danh sách nhóm 6: Họ và tên MSSV Trần Thị Hương Giang 030325090016 Lê Phùng Quang 030325090191 Trần Bảo Trâm 030325090122 Trần Nhã Uyên 030325090395 Nguyễn Lê Hoàng Yến 030325090402 Tp.HCM, tháng 10 năm 2011. MỤC LỤC Pháp luật là gì? 3 Khái niệm 3 Bản chất 3 Thực thi pháp luật 3 Nguồn gốc pháp luật 3 Pháp luật kinh tế 4 Hệ thống tòa án 4 Chế độ xét xử hai cấp 4 Thành phần hội đồng xét xử 5 Nguyên tắc xét xử 5 Hệ thống tòa án các cấp 5 Luật hợp đồng và đại lý 6 Các đặc trưng cơ bản của luật hợp đồng 6 Đại lí 15 Một số nguyên nhân cho thấy sự cần thiết phải có sự can thiệp của luật pháp để bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng 16 Thực trạng vi phạm quyền lợi người tiêu dùng tại Việt Nam 16 Hệ thống quy định của pháp luật về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng còn nhiều bất cập 17 Nội dung chính của luật pháp trong lĩnh vực bảo vệ người tiêu dùng 19 Các hành vi bị cấm trong lĩch vực bảo vệ quyền lợi NTD 19 Trách nhiệm của bên thứ ba đối với NTD 19 Trách nhiệm của tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ đối với người tiêu dung 20 Vai trò của tổ chức xã hội trong bảo vệ quyền lợi NTD 20 Giải quyết tranh chấp giữa NTD và các tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ 20 Về việc miễn nghĩa vụ chứng minh lỗi và miễn tạm án phí 20 I. Pháp luật là gì? Khái niệm Pháp luật, về bản chất nguyên gốc, là mối tương quan giữa con người với con người, giữa con người với tập thể, lâu dần trở thành quy tắc xử sự, mỗi người phải tuân thủ khi giao tiếp với nhau cũng như giao tiếp với xã hội, sau này trở thành một định chế, trở thành khoa học được mọi người tuân hành, được bảo đảm thực hiện và có chế tài khi có sự vi phạm. Pháp luật, dưới góc độ luật học, được hiểu như là tổng thể các quy tắc xử sự có tính bắt buộc chung, do Nhà nước đặt ra hoặc thừa nhận, thể hiện ý chí của giai cấp cầm quyền, được Nhà nước đảm bảo thực hiện bằng các biện pháp giáo dục, thuyết phục, và cưỡng chế, nhằm điều chỉnh các mối quan hệ trong xã hội . Bản chất Về bản chất của pháp luật, pháp luật phản ánh bản chất của Nhà nước đặt ra nó. Hay nói cách khác, Nhà nước kiểu nào thì pháp luật kiểu đó. Lịch sử xã hội loài người đã có các kiểu pháp luật chủ nô, pháp luật phong kiến, pháp luật tư sản và pháp luật xã hội chủ nghĩa. Chính vì vậy, pháp luật có tính chất giai cấp. Pháp luật còn có tính xã hội, vì nó chứa đựng những chuẩn mực chung được số đông trong xã hội ủng hộ. Nếu không pháp luật sẽ bị chống đối. Pháp luật có tính dân tộc, nghĩa là phù hợp với truyền thống, tập quán, giá trị đạo đức của các dân tộc trong đất nước. Bản chất này cho phép pháp luật gần gũi với dân chúng, được dân chúng ủng hộ, do đó mà có hiệu quả điều chỉnh lên các quan hệ xã hội. Pháp luật có tính thời đại, nghĩa là phù hợp với trình độ phát triển của đất nước, có khả năng hội nhập với pháp luật quốc tế. Thực thi pháp luật Pháp luật thông thường được thực thi thông qua một hệ thống các cơ quan thực thi, bao gồm các cơ quan như Công an (hay cảnh sát), tòa án, Viện kiểm sát, thi hành án... Tuy nhiên phải hiểu rằng không phải tất cả các hành vi vi phạm pháp luật đều bị đưa ra tòa án, chỉ những hành vi vi phạm pháp luật gây hậu quả xấu cho xã hội đến mức độ cần thiết mới bị đưa ra xét xử ở tòa án. Hiện nay, hầu hết các nước trên thế giới đều có hai phương thức thực thi pháp luật là theo con đường hành chính và con đường hình sự. Hành chính và hình sự là hai cấp độ khác nhau và không thể đồng thời áp dụng lên một hành vi vi phạm. Nguồn gốc của pháp luật Có thể phân thành hai loại chính là quan điểm phi mác xít và quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin Theo quan điểm phi mác xít, thuyết thần học cho rằng thượng đế là người sắp đặt tất cả, nên pháp luật do đấng tối cao, chúa trời tạo ra; thuyết pháp luật tự nhiên coi pháp luật là tổng thể quyền con người tự nhiên sinh ra mà có; thuyết pháp luật linh cảm xem pháp luật là những linh cảm của con người về cách cư xử hợp lí, vv... Những quan điểm trên có cùng chung là giải thích nguồn gốc pháp luật một cách duy tâm, thần bí, thiếu cơ sở khoa học. Theo quan điểm Mác-Lênin, thì những nguyên nhân làm xuất hiện nhà nước cũng chính là nguyên nhân dẫn tới sự ra đời của pháp luật. Trong xã hội cộng sản nguyên thủy, chưa có nhà nước và pháp luật. Các quy tắc xã hội chủ yếu dựa trên tập quán và tín điều tôn giáo trên được mọi người chấp hành một cách tự giác trên cơ sở thói quen, niềm tin, nếu ai vi phạm thì sẽ bị cộng đồng xử lí. Phương pháp cơ bản áp dụng đối với người vi phạm là tự nguyện và thuyết phục, nhưng khi làm những việc mà cả thị tộc lên án thì những người vi phạm cũng sẽ bị áp dụng biện pháp cưỡng chế. Do sự phát triển không ngừng của lực lượng sản xuất. Công cụ ngày càng được cải tiến, con người được phát triển về thể lực, ngày càng nhận thức đúng đắn hơn về thế giới và trong lao động sản xuất ngày càng phát triển... Những yếu tố đó đã tạo tiền đề cho sự phân công lao động. Chế độ tư hữu xuất hiện, xã hội có sự phân hóa giai cấp sâu sắc và luôn đấu tranh gay gắt để bảo vệ lợi ích của giai cấp mình nên pháp luật được hình thành nhằm điều hòa những mâu thuẫn đó. Mặt khác, nhà nước hình thành nhằm duy trì trật tự xã hội và bảo vệ lợi ích của giai cấp thống trị, nên pháp luật ra đời là công cụ để nhà nước thực hiện những công việc quản lí xã hội. Nhà nước ban hành và đảm bảo cho pháp luật được thực hiện. Cũng như nhà nước, pháp luật là sản phẩm của xã hội phát triển tới một trình độ nhất định. Pháp luật kinh tế Pháp luật kinh tế là một hỗn hợp các quy phạm pháp luật thuộc nhiều ngành luật khác nhau liên quan đến toàn bộ đời sống kinh tế trong xã hội, bao gồm quy phạm pháp luật của của các ngành luật có liên quan đến các đối tượng điều chỉnh là các quan hệ kinh tế liên quan chặt chẽ với nhau trong các tổ chức, quản lý kinh tế và các hoạt động kinh doanh. Pháp luật kinh tế bao gồm các ngành luật sau: luật kinh tế, luật tài chính-ngân hàng, luật lao động, luật đất đai và môi trường. II. Hệ thống tòa án Chế độ xét xử hai cấp  Tại Việt Nam, việc xét xử của tòa án thực hiện qua hai cấp: sơ thẩm (là xử lần 1) và phúc thẩm (xử lần 2). Tòa án khi xét xử sẽ đưa ra phán quyết của mình, gọi chung là “bản án”. Bản án của tòa án xử sơ thẩm gọi là Bản án sơ thẩm. Bản án sơ thẩm có thể bị kháng cáo (hay còn gọi là chống án) bởi các đương sự (nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan …) – trong vòng 15 ngày kể từ ngày tuyên án.  Bản án sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật ngay và nếu không bị kháng cáo thì sau 15 ngày được xem là có hiệu lực pháp luật. Tức là có tính bắt buộc phải thi hành. Ví dụ: ông A kiện đòi ông B 100 triệu đồng. Tòa án Quận 10 xử sơ thẩm xử tuyên ông B phải trả cho ông A 100 triệu đồng. Ông B thấy tòa xử đúng nên không kháng cáo bản án sơ thẩm. Sau 15 ngày kể từ ngày tuyên án, bản án sẽ chính thức có hiệu lực pháp luật. Nghĩa là từ lúc này, việc phải trả 100 triệu cho ông A là “bắt buộc” đối với ông B.  Bản án sơ thẩm bị kháng cáo sẽ được xét xử phúc thẩm. Bản án của tòa phúc thẩm gọi là Bản án phúc thẩm, có hiệu lực pháp luật ngay (chung thẩm), không ai được kháng cáo nữa. Tuy nhiên, bất kỳ bản án nào - dù đã có hiệu lực pháp luật, mà sau đó phát hiện có vi phạm pháp luật hoặc có tình tiết mới thì sẽ được xem xét lại theo trình tự giám đốc thẩm hoặc tái thẩm. Thành phần Hội đồng xét xử   Việc xét xử một vụ án được thực hiện bởi một Hội đồng xét xử. Hội đồng xét xử tùy theo cấp xét xử sơ thẩm hay phúc thẩm mà có số lượng như sau: Hội đồng xét xử cấp sơ thẩm: 3 vị, gồm 1 thẩm phán và 2 vị hội thẩm nhân dân Hội đồng xét xử cấp phúc thẩm: gồm 3 vị thẩm phán. Trong những vụ án lớn hoặc có tính chất đặc biệt, thành phần của Hội đồng xét xử có thể được bổ sung nhiều vị hơn.  Tại mỗi phiên tòa, trong Hội đồng xét xử sẽ có một vị thẩm phán nắm quyền điều hành phiên tòa gọi là “Chủ tọa” Khi xét xử, Hội thẩm ngang quyền với Thẩm phán. Luật qui định các vị này độc lập với nhau (tức không ai có quyền chỉ đạo ai) và chỉ tuân theo pháp luật. Việc nghị án (tức là trao đổi và quyết định về mức án hay phán quyết có liên quan đến nội dung khởi kiện của các đương sự ) thực hiện theo chế độ tập thể. Phán quyết của Hội đồng xét xử được thông qua bằng cách lấy biểu quyết - theo đa số. Ví dụ: cũng vụ án ông A kiện ông B nói trên, sau khi tiến hành xét xử sơ thẩm, Hội đồng xét xử sẽ vào nghị án. Trong Hội đồng xét xử (gồm 1 thẩm phán và 2 hội thẩm có ý kiến khác nhau. Chẳng hạn vị thẩm phán thì cho rằng nội dung kiện của ông A là không có căn cứ, còn hai vị hội thẩm thì lại nói ông A kiện là đúng. Khi đó, với số phiếu đa số 2/1, xem như tòa sẽ xử tuyên chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông A. Như vậy, có thể thấy Hội đồng xét xử ở Việt Nam khá khác do với các nước tư bản. Tại những nước này (chẳng hạn như Hoa Kỳ), Hội đồng xét xử gồm vị thẩm phán nắm quyền chủ trì và một đoàn bồi thẩm (Bồi thẩm đoàn) gồm 15 vị. Nguyên tắc xét xử  Tại Việt Nam, việc xử án phải bảo đảm những nguyên tắc cơ bản sau:  Xét xử công khai (trường hợp đặc biệt có thể xử kín, để giữ gìn bí mật nhà nước, thuần phong mỹ tục hoặc để giữ bí mật của các đương sự).  Mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật, không phân biệt nam, nữ, dân tộc, tín ngưỡng, tôn giáo, thành phần xã hội, địa vị xã hội… Hướng dẫn các Tòa án cấp dưới áp dụng thống nhất pháp luật. Bảo đảm quyền bào chữa của bị cáo, quyền bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự. Tức là được thuê luật sư. Hệ thống tòa án các cấp Tại Việt Nam, cơ quan xét xử được gọi là “Tòa án nhân dân” (TAND). Gọi tắt là “tòa án”. Tòa án xét xử các vụ án thuộc mọi lĩnh vực trong xã hội: hình sự (xử về tội phạm), dân sự, hôn nhân và gia đình, lao động, kinh tế và hành chính.  Hệ thống tòa án tại Việt Nam được tổ chức gồm các tòa án sau: Tòa án nhân dân tối cao Tòa án nhân dân tỉnh (hoặc thành phố trực thuộc trung ương) Mỗi tỉnh có một tòa án. Ví dụ: TP. HCM có TAND TP.HCM, tỉnh Vĩnh Long có TAND tỉnh Vĩnh Long Tòa án nhân dân quận, huyện thuộc tỉnh Mỗi huyện có một tòa án. Ví dụ: Quận 10 thuộc TP.HCM có TAND Quận 10, TP. Biên Hòa thuộc tỉnh Đồng Nai có TAND TP. Biên Hòa. Như vậy, trong một tỉnh sẽ có nhiều tòa án cấp quận, huyện. Các Tòa án quân sự (chia theo quân khu – khu vực). III. Luật hợp đồng và đại lý Các đặc trưng cơ bản của luật hợp đồng: Khái niệm Hợp đồng dân sự là sự thoả thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự[1]. Như vậy hợp đồng được hiểu là sự thể hiện ý chí của các bên bằng việc thoả thuận với nhau về quyền và nghĩa vụ của các bên, xác định khi nào và trong điều kiện nào thì các quyền và nghĩa vụ này được xác lập, được thay đổi và chấm dứt. Các chủ thể tham gia hợp đồng có thể là cá nhân hoặc pháp nhân hoặc các loại chủ thể khác. Khách thể của hợp đồng chính là đối tượng của hợp đồng, có thể là tài sản, hàng hoá hoặc dịch vụ. Nguyên tắc quan trọng và được pháp luật bảo vệ là nguyên tắc tự do thoả thuận, bình đẳng và thiện chí trong việc giao kết, thực hiện hợp đồng, không phân biệt mục đích của hợp đồng là kinh doanh thu lợi nhuận hay nhằm phục vụ cho tiêu dùng. Hình thức Về nguyên tắc, các bên có quyền tự do quyết định hình thức của hợp đồng. Hình thức hợp đồng có thể được thể hiện bằng lời nói, bằng văn bản hoặc bằng hành vi cụ thể, trừ một số trường hợp pháp luật yêu cầu hợp đồng phải được thể hiện bằng hình thức nhất định nhằm đảm bảo trật tự công, ví dụ như hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất phải được thể hiện bằng văn bản. Để phù hợp với xu thế phát triển mạnh mẽ của công nghệ thông tin và việc ứng dụng công nghệ thông tin vào mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, pháp luật cũng ghi nhận hình thức của hợp đồng có thể được thể hiện thông qua phương tiện điện tử dưới hình thức thông điệp dữ liệu và hình thức này được coi là hợp đồng bằng văn bản[2]. Trong trường hợp pháp luật yêu cầu hợp đồng phải được thể hiện bằng văn bản có công chứng hoặc chứng thực, phải đăng ký hoặc xin phép thì phải tuân theo các quy định đó. Trừ trường hợp pháp luật có quy định khác thì nhìn chung, hợp đồng không bị coi là vô hiệu nếu có vi phạm về hình thức. Ký kết hợp đồng và việc uỷ quyền ký kết hợp đồng BLDS xác định thời điểm có hiệu lực của hợp đồng trên cơ sở công nhận hiệu lực của cam kết, thoả thuận của các bên, không phụ thuộc vào hình thức của hợp đồng. Do đó, về mặt nguyên tắc, hợp đồng được giao kết vào thời điểm bên đề nghị nhận được trả lời chấp nhận giao kết của bên được đề nghị. Hợp đồng cũng xem như được giao kết khi hết thời hạn trả lời mà bên nhận đề nghị vẫn im lặng, nếu các bên có thoả thuận im lặng là sự trả lời chấp nhận giao kết. Trên cơ sở hình thức của hợp đồng, pháp luật cũng quy định cụ thể đối với từng trường hợp, ví dụ, đối với hợp đồng được giao kết bằng lời nói thì thời điểm giao kết hợp đồng là thời điểm các bên đã thoả thuận về nội dung của hợp đồng; đối với hợp đồng được giao kết bằng văn bản thì thời điểm giao kết hợp đồng là thời điểm bên sau cùng ký vào văn bản[3]. Về mặt nguyên tắc, thời điểm có hiệu lực của hợp đồng được tính từ thời điểm giao kết, tuy nhiên vẫn có các ngoại lệ đó là khi các bên có thoả thuận khác, ví dụ hợp đồng được các bên ký vào ngày 01/01/2009 nhưng các bên thoả thuận là hợp đồng được coi là ký kết vào ngày 01/02/2009 hoặc khi pháp luật có quy định khác, ví dụ theo pháp luật về đất đai thì thời điểm có hiệu lực của hợp đồng thế chấp là thời điểm đăng ký. Vấn đề uỷ quyền ký kết hợp đồng không được BLDS quy định cụ thể, tuy nhiên, vì hợp đồng là một dạng của giao dịch dân sự cho nên có thể áp dụng các quy định về việc uỷ quyền xác lập, thực hiện giao dịch dân sự[4]. Theo đó cá nhân, người đại diện theo pháp luật của pháp nhân có thể uỷ quyền cho người khác xác lập, thực hiện hợp đồng theo chế định người đại diện. Điều kiện có hiệu lực của hợp đồng Theo quy định của Điều 405 BLDS thì hợp đồng được giao kết hợp pháp có hiệu lực kể từ thời điểm giao kết trừ trường có thoả thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác. Tuy nhiên, BLDS lại không quy định thế nào là "được giao kết hợp pháp", do đó phải áp dụng Điều 122 BLDS về điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự vì hợp đồng là một trong những hình thức giao dịch dân sự. Giao dịch dân sự được coi là có hiệu lực khi có đủ các điều kiện sau: Người tham gia giao dịch có năng lực hành vi dân sự Mục đích và nội dung của giao dịch không vi phạm điều cấm của pháp luật, không trái đạo đức xã hội Người tham gia giao dịch hoàn toàn tự nguyện Ngoài các điều kiện trên đây, nếu pháp luật quy định giao dịch phải được thể hiện bằng một hình thức cụ thể, ví dụ phải thể hiện bằng văn bản, thì hình thức của giao dịch là điều kiện có hiệu lực của giao dịch. Như vậy, khi hợp đồng có đủ 3 điều kiện trên thì sẽ có hiệu lực trừ một số trường hợp mà pháp luật yêu cầu hợp đồng phải tuân theo một hình thức nhất định. Điều kiện vô hiệu của hợp đồng Theo quy định của Điều 410 BLDS thì vấn đề hợp đồng vô hiệu sẽ được áp dụng theo các quy định từ Điều 127 đến Điều 138 BLDS bao gồm các trường hợp sau: Giao dịch bị vô hiệu khi không có một trong các điều kiện được quy định tại Điều 122 của BLDS bao gồm: người tham gia giao dịch có năng lực hành vi dân sự; mục đích và nội dung của giao dịch không vi phạm điều cấm của pháp luật, không trái đạo đức xã hội; người tham gia giao dịch hoàn toàn tự nguyện. Ngoài ra, nếu pháp luật yêu cầu giao dịch phải được thể hiện bằng một hình thức cụ thể nào đó thì hình thức của giao dịch cũng là điều kiện có hiệu lực của giao dịch. Giao dịch dân sự vô hiệu do vi phạm điều cấm của pháp luật, trái đạo đức xã hội[5]. Điều này có nghĩa rằng nếu giao dịch dân sự có mục đích và nội dung vi phạm điều cấm của pháp luật, trái đạo đức xã hội thì bị vô hiệu. Vi phạm điều cấm của pháp luật có nghĩa là vi phạm những quy định của pháp luật không cho phép chủ thể thực hiện những hành vi nhất định, ví dụ như hành vi buôn bán chất ma tuý. Đạo đức xã hội là những chuẩn mực ứng xử chung giữa người với người trong đời sống xã hội được cộng đồng thừa nhận và tôn trọng. Giao dịch dân sự vô hiệu do giả tạo[6]. Nếu một giao dịch dân sự được xác lập một cách giả tạo nhằm che giấu một giao dịch khác thì giao dịch giả tạo đó bị vô hiệu, tuy nhiên giao dịch bị che giấu vẫn có hiệu lực trừ khi nó cũng bị vô hiệu theo các quy định khác của BLDS. Ví dụ, A bán tài sản cho B nhưng lại làm hợp đồng giả tạo là hợp đồng tặng cho để không phải đóng thuế cho nhà nước, khi đó hợp đồng tặng cho bị coi là vô hiệu còn hợp đồng bán tài sản vẫn có hiệu lực. Luật cũng quy định trường hợp giao dịch được xác lập một cách giả tạo nhằm trốn tránh nghĩa vụ với người thứ ba thì giao dịch đó cũng bị vô hiệu. Giao dịch dân sự vô hiệu do người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự xác lập, thực hiện[7]. Người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự hoặc người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự mà xác lập, thực hiện giao dịch dân sự thì theo yêu cầu của người đại diện của người đó, toà án có thể tuyên bố giao dịch đó là vô hiệu nếu theo quy định của pháp luật giao dịch này phải do người đại diện của họ xác lập, thực hiện, ví dụ một người bị tâm thần, không có khả năng nhận thức được hành vi của mình đã kí hợp đồng để bán nhà cho một người khác, giao dịch này bị coi là vô hiệu vì trong trường hợp này người bị tâm thần không thể tự mình giao dịch được mà cần phải có người đại diện của họ. Giao dịch dân sự vô hiệu do bị nhầm lẫn[8]. Khi một bên có lỗi vô ý làm cho bên kia nhầm lẫn về nội dung của giao dịch dân sự mà xác lập giao dịch thì bên bị nhầm lẫn có quyền yêu cầu bên kia thay đổi nội dung của giao dịch đó, nếu bên kia không chấp nhận thì bên bị nhầm lẫn có quyền yêu cầu toà án tuyên bố giao dịch vô hiệu. Ví dụ, A bán cho B một chiếc xe máy nhưng A quên không thông báo cho B biết rằng hệ thống đèn của chiếc xe đó đã bị cháy. B yêu cầu A giảm bớt giá bán chiếc xe đó hoặc thay thế hệ thống đèn mới nhưng A không chấp nhận. B có quyền yêu cầu toà án tuyên bố giao dịch mua bán đó vô hiệu. Trường hợp một bên do lỗi cố ý làm cho bên kia nhầm lẫn về nội dung của giao dịch thì sẽ áp dụng các quy định tại Điều 132 BLDS về giao dịch dân sự vô hiệu do bị lừa dối, đe doạ. Trong ví dụ trên đây, nếu A cố tình che giấu, không thông báo cho B biết về hệ thống đèn bị hỏng và nói với B rằng hệ thống đèn vẫn tốt thì trường hợp này bị coi là giao dịch bị lừa dối. Giao dịch dân sự vô hiệu do bị lừa dối, đe doạ[9]. Theo quy định của BLDS thì lừa dối trong giao dịch là hành vi cố ý của một bên hoặc của người thứ ba nhằm làm cho bên kia hiểu sai lệch về chủ thể, tính chất của đối tượng hoặc nội dung của giao dịch nên đã xác lập giao dịch đó. Đe doạ trong giao dịch là hành vi cố ý của một bên hoặc người thứ ba làm cho bên kia buộc phải thực hiện giao dịch nhằm tránh thịêt hại về tính mạng, sức khoẻ, danh dự, uy tín, nhân phẩm, tài sản của mình hoặc của cha, mẹ, vợ, chồng, con mình. Khi một bên tham gia giao dịch dân sự do bị lừa dối hoặc bị đe doạ thì có quyền yêu cầu toà án tuyên bố giao dịch dân sự đó là vô hiệu. Giao dịch dân sự vô hiệu do người xác lập không nhận thức và làm chủ được hành vi của mình[10]. Người có năng lực hành vi dân sự nhưng đã xác lập giao dịch vào đúng thời điểm không nhận thức và làm chủ được hành vi của mình thì có quyền yêu cầu toà án tuyên bố giao dịch dân sự đó là vô hiệu, ví dụ, một người có năng lực hành vi dân sự bình thường nhưng đã ký hợp đồng mua bán tài sản trong lúc say rượu, không nhận thức được hành vi của họ thì trong trường hợp này hợp đồng bị coi là vô hiệu nếu người đó yêu cầu toà án tuyên hợp đồng đó là vô hiệu. Giao dịch dân sự vô hiệu do không tuân thủ quy định về hình thức[11]. Trong trường hợp pháp luật quy định hình thức của giao dịch là điều kiện có hiệu lực của giao dịch mà các bên không tuân theo thì khi có yêu cầu, toà án, cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác quyết định buộc các bên thực hiện quy định về hình thức của giao dịch trong một thời hạn, quá thời hạn đó mà các bên không thực hiện thì giao dịch đó bị vô hiệu. Ví dụ, A và B thoả thuận mua bán nhà nhưng không ký hợp đồng bằng văn bản (theo quy định của pháp luật thì hợp đồng mua bán nhà phải được giao kết bằng văn bản), khi có tranh chấp xảy ra, toà yêu cầu các bên phải hoàn tất thủ tục theo quy định của pháp luật trong một thời hạn nhất định nhưng không bên nào thực hiện. Theo yêu cầu của một hoặc các bên, toà án có thể tuyên hợp đồng này là vô hiệu. Ngoài các quy định trên, BLDS còn có quy định về hợp đồng dân sự vô hiệu do có đối tượng không thể thực hiện được[12], đó là trong trường hợp ngay từ thời điểm ký kết, hợp đồng có đối tượng không thể thực hiện được vì lí do khách quan thì hợp đồng này bị vô hiệu. Trong trường hợp khi giao kết hợp đồng mà một bên biết hoặc phải biết về việc hợp đồng có đối tượng không thể thực hiện được nhưng không thông báo cho bên kia biết nên bên kia đã giao kết hợp đồng thì phải bồi thường thiệt hại cho bên kia, trừ trường hợp bên kia biết hoặc phải biết về việc hợp đồng có đối tượng không thể thực hiện được. Ví dụ, A cam kết sẽ sản xuất để bán cho B một loại thuốc có thể chữa được bệnh tim mạch, B tin tưởng rằng A có thể bán cho mình loại thuốc đó nên đã giao kết hợp đồng với A nhưng vì lí do khách quan A không thể sản xuất được loại thuốc đó và A cũng biết rằng mình sẽ không thể giao cho B loại thuốc đó nhưng lại không thông báo cho B biết. Trong trường hợp này hợp đồng bị coi là vô hiệu và A phải bồi thường cho B. Quy định trên đây cũng được áp dụng đối với trường hợp hợp đồng có một hoặc nhiều phần đối tượng không thể thực hiện được nhưng phần còn lại của hợp đồng vẫn có giá trị pháp lý. Theo quy định của BLDS hiện hành thì sự vô hiệu của hợp đồng chính làm chấm dứt hiệu lực của hợp đồng phụ, trừ trường hợp các bên có thoả thuận hợp đồng phụ được thay thế hợp đồng chính. Tuy nhiên, quy định này không áp dụng đối với các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự. Sự vô hiệu của hợp đồng phụ không làm chấm dứt hiệu lực của hợp đồng chính trừ trường hợp các bên thoả thuận hợp đồng phụ là một phần không thể tách rời của hợp đồng chính[13]. Hậu quả pháp lý của hợp đồng vô hiệu và xử lý hợp đồng vô hiệu Hậu quả pháp lý của hợp đồng vô hiệu được giải quyết theo quy định của Điều 137 đối với hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự vô hiệu. Theo quy định này thì hợp đồng vô hiệu không làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ của các bên kể từ thời điểm xác lập hợp đồng. Khi hợp đồng vô hiệu các bên phải khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn trả cho nhau những gì đã nhận; nếu không hoàn trả được bằng hiện vật thì phải hoàn trả bằng tiền, trừ trường hợp tài sản giao dịch, hoa lợi, lợi tức thu được bị tịch thu theo quy định của pháp luật. Bên có lỗi mà gây thiệt hại thì phải bồi thường cho bên kia. Ví dụ, A bán cho B một chiếc xe máy, B là người không có năng lực hành vi dân sự nên hợp đồng bị tuyên là vô hiệu do đó B phải trả lại xe máy cho A, còn A phải trả lại tiền cho B. Tuy nhiên, qua một thời gian sử dụng B đã làm hỏng một vài bộ phận của chiếc xe máy cho nên B phải trả lại A chiếc xe máy đó cùng với những bộ phận đã bị hư hại, nếu không hoàn trả được bằng các bộ phận đó thì phải trả một món tiền bù đắp cho phần hư hỏng của chiếc xe. Chấm dứt hợp đồng[14] và trách nhiệm của bên vi phạm nghĩa vụ trong hợp đồng Theo quy định của BLDS thì hợp đồng chấm dứt trong các trường hợp sau: Hợp đồng đã được hoàn thành: đó là khi các bên đã thực hiện xong các nghĩa vụ của mình theo hợp đồng, ví dụ A thuê B để xây nhà cho A, hết thời hạn thực hiện việc xây nhà mà các bên đã thoả thuận, B giao nhà cho A và A trả tiền cho B, khi đó hợp đồng chấm dứt. Theo thoả thuận của các bên: ví dụ A thuê B trồng cho A một ruộng lúa trong thời hạn 1 tuần, hết 1 tuần B vẫn chưa trồng xong ruộng lúa nhưng A chấp nhận coi như B đã trồng xong và trả tiền cho B. Hợp đồng thuê trồng lúa chấm dứt. Cá nhân giao kết hợp đồng chết, phán nhân hoặc chủ thể khác chấm dứt mà hợp đồng phải do chính cá nhân, pháp nhân hoặc chủ thể đó thực hiện. Đây là loại hợp đồng mà người có nghĩa vụ, do tính chất đặc thù, phải tự họ thực hiện mà không thể chuyển giao cho người khác. Ví dụ, A thuê ca sỹ B là người rất nổi tiếng, hát cho đám cưới của A nhưng không may vào ngày đám cưới của A, B không may bị tai nạn chết. Hợp đồng giữa A và B chấm dứt vì A chỉ thuê B hát chứ không phải ca sỹ khác. Hợp đồng bị huỷ bỏ, bị đơn phương chấm dứt thực hiện[15]: Huỷ bỏ hợp đồng: Một bên trong hợp đồng có quyền huỷ bỏ hợp đồng và không phải bồi thường thiệt hại cho bên kia khi bên kia vi phạm hợp đồng và việc vi phạm đó là điều kiện huỷ bỏ mà các bên đã thoả thuận hoặc pháp luật có quy định. Tuy nhiên, bên huỷ bỏ hợp đồng phải thông báo ngay cho bên kia biết về việc huỷ bỏ, nếu không thông báo mà gây thiệt hại thì phải bồi thường. Ví dụ, A ký hợp đồng mua hàng của B và hẹn B trong vòng 1 tuần phải giao hàng, nếu hết 1 tuần mà B không giao hàng thì A sẽ huỷ bỏ hợp đồng. Sau thời hạn 1 tuần B không giao hàng cho A, A thông báo cho B rằng mình huỷ bỏ hợp đồng. Hàng của B sau đó cũng không bán được cho người khác nên B phải chịu thiệt hại vì phải trả tiền lưu kho, lưu bãi. Trong trường hợp này A có quyền huỷ bỏ hợp đồng và không có lỗi, không phải bồi thường cho B vì các bên đã thoả thuận từ trước. Khi hợp đồng bị huỷ bỏ thì hợp đồng không có hiệu lực từ thời điểm giao kết và các bên phải hoàn trả cho nhau tài sản đã nhận; nếu không hoàn trả được bằng hiện vật thì phải trả bằng tiền. Bên có lỗi trong việc hợp đồng bị huỷ bỏ phải bồi thường thiệt hại. Trong ví dụ trên đây, nếu A chứng minh được mình bị thiệt hại do B không giao hàng đúng hẹn thì B phải bồi thường cho A. Đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng: Một bên có quyền đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng nếu các bên có thoả thuận hoặc pháp luật có quy định. Bên đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng phải thông báo ngay cho bên kia biết về việc chấm dứt hợp đồng, nếu không thông báo mà gây thiệt hại thì phải bồi thường. Khi hợp đồng bị đơn phương chấm dứt thực hiện thì hợp đồng chấm dứt từ thời điểm bên kia nhận được thông báo chấm dứt, các bên không phải tiếp tục thực hiện nghĩa vụ. Bên đã thực hiện nghĩa vụ có quyền yêu cầu bên kia thanh toán. Ví dụ, A ký hợp đồng mua của B 100 tấn thép, B đã giao được 50 tấn và đang chuẩn bị giao tiếp số còn lại nhưng A thông báo chấm dứt hợp đồng, không muốn nhận số thép còn lại. Nếu B đồng ý thì B không phải giao tiếp số thép còn lại và A trả tiền cho B, hợp đồng chấm dứt. Nếu hợp đồng bị đơn phương chấm dứt do lỗi của một bên thì bên có lỗi phải bồi thường thiệt hại cho bên kia. Hợp đồng không thể thực hiện được do đối tượng của hợp đồng không còn và các bên có thể thoả thuận thay thế đối tượng khác hoặc bồi thường thiệt hại. Ví dụ, A ký hợp đồng mua ngôi nhà của B nhưng sau đó ngôi nhà không may bị cháy nên B không thể giao nhà cho A được. B có thể thoả thuận bán cho A ngôi nhà khác hoặc bồi thường thiệt hại cho A nếu A bị thiệt hại do B không thể thực hiện hợp đồng. Các trường hợp khác do pháp luật quy định. Chế tài đối với hành vi vi phạm trách nhiệm hợp đồng Ngoài các chế định về bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng đã nói ở trên, pháp luật tạo điều kiện cho các bên được tự do thoả thuận về trách nhiệm của bên vi phạm nghĩa vụ hợp đồng, về mối quan hệ giữa phạt vi phạm và bồi thường thiệt hại. Phạt vi phạm là sự thoả thuận giữa các bên trong hợp đồng theo đó bên vi phạm phải trả một khoản tiền cho bên bị vi phạm, mức phạt này do các bên tự thoả thuận. Các bên có thể thoả thuận về việc bên vi phạm nghĩa vụ chỉ phải nộp tiền phạt vi phạm mà không phải bồi thường thiệt hại hoặc vừa phải nộp phạt vi phạm vừa phải bồi thường thiệt hại. Nếu các bên không có thoả thuận trước về mức bồi thường thiệt hại thì phải bồi thường toàn bộ thiệt hại. Về nguyên tắc, bên vi phạm chỉ phải nộp tiền phạt vi phạm nếu các bên không có thoả thuận về việc bồi thường thiệt hại[16]. Về vấn đề này, Luật Thương mại 2005 lại có quy định khác so với BLDS. Theo Khoản 2 Điều 307 Luật Thương mại thì “trường hợp các bên có thoả thuận phạt vi phạm thì bên bị vi phạm có quyền áp dụng cả chế tài phạt vi phạm và buộc bồi thường thiệt hại, trừ trường hợp Luật này có quy định khác”. Trừ một số trường hợp miễn trách nhiệm quy định tại Điều 294 của Luật Thương mại[17], thì trách nhiệm bồi thường thiệt hại luôn được đặt ra khi có đủ các yếu tố như: có hành vi vi phạm hợp đồng; có thiệt hại thực tế; hành vi vi phạm hợp đồng là nguyên nhân trực tiếp gây ra thiệt hại[18]. Thời hiệu khởi kiện tranh chấp hợp đồng dân sự [19] Thời hiệu khởi kiện để yêu cầu toà án giải quyết tranh chấp hợp đồng là hai năm kể từ ngày quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, pháp nhân và các chủ thể khác bị xâm phạm. Ví dụ, A và B ký hợp đồng mua bán hàng hoá vào ngày 01/01/2007, sau đó có tranh chấp xảy ra, quyền lợi của A bị vi phạm vào ngày 01/03/2007. A chỉ có thể khởi kiện yêu cầu toà án giải quyết trong khoảng thời gian kể từ khi quyền lợi bị xâm phạm là từ ngày 01/03/2007 đến hết ngày 01/03/2009 (là 2 năm kể từ ngày quyền lợi của A bị vi phạm). Các biện pháp bảo đảm thực hiện hợp đồng Các biện pháp bảo đảm thực hiện hợp đồng được quy định từ Điều 318 đến Điều 373 BLDS 2005 bao gồm: cầm cố tài sản, thế chấp tài sản (bao gồm cả cầm cố, thế chấp bằng tài sản của người thứ ba), đặt cọc, ký cược, ký quỹ, bảo lãnh và tín chấp. Theo các quy định của pháp luật hiện hành thì các bên trong hợp đồng có quyền tự chủ, tự do cam kết và tự do thoả thuận đồng thời các bên cũng phải tự chịu trách nhiệm đối với các cam kết, thoả thuận của mình. Điều này được thể hiện rõ nhất trong các quy định về giao kết, thực hiện hợp đồng cầm cố, thế chấp và bảo lãnh. Các bên có thể linh hoạt hơn và tự chủ hơn trong việc xử lý các tình huống phát sinh, cụ thể như sau: Về phạm vi bảo đảm thực hiện nghĩa vụ[20]: các bên được toàn quyền thoả thuận về phạm vi bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự. Nghĩa vụ có thể được bảo đảm một phần hoặc toàn bộ theo thoả thuận hoặc theo quy định của pháp luật. Nếu các bên không có thoả thuận và pháp luật không có quy định thì nghĩa vụ coi như được đảm bảo toàn bộ, kể cả nghĩa vụ trả lãi và bồi thường thiệt hại. Đồng thời, các bên cũng có quyền thoả thuận về các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ để bảo đảm thực hiện các loại nghĩa vụ, không chỉ nghĩa vụ hiện tại mà còn nghĩa vụ trong tương lai hoặc nghĩa vụ có điều kiện. Về tài sản bảo đảm thực hiện nghĩa vụ[21]: BLDS thể hiện quan điểm là về nguyên tắc mọi tài sản đều có thể được dùng để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ trừ một số trường hợp mà pháp luật cấm. Trước hết, vật bảo đảm thực hiện nghĩa vụ phải là tài sản thuộc quyền sở hữu của bên bảo đảm và được phép giao dịch. Vật ở đây có thể là vật hiện có hoặc vật được hình thành trong tương lai. Nếu là vật hình thành trong tương lai thì vật đó phải là động sản, bất động sản thuộc sở hữu của bên bảo đảm sau thời điểm nghĩa vụ được xác lập hoặc giao dịch bảo đảm được giao kết. Ngoài các tài sản thông thường như đất đai, nhà cửa, phương tiện giao thông… thì các tài sản khác như tiền, trái phiếu, cổ phiếu, kỳ phiếu và giấy tờ có giá khác cũng được dùng làm tài sản bảo đảm thực hiện nghĩa vụ. Ngoài các tài sản nói trên thì các quyền tài sản thuộc sở hữu của bên bảo đảm cũng có thể trở thành tài sản bảo đảm[22], bao gồm: quyền tài sản phát sinh từ quyền tác giả, quyền sở hữu công nghiệp, quyền đối với giống cây trồng, quyền đòi nợ, quyền được nhận số tiền bảo hiểm đối với vật bảo đảm, quyền tài sản đối với phần vốn góp trong doanh nghiệp, quyền tài sản phát sinh từ hợp đồng và các quyền tài sản khác thuộc sở hữu của bên bảo đảm. Quyền sử dụng đất và quyền khai thác tài nguyên thiên nhiên cũng được dùng để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ hợp đồng. Về vấn đề một tài sản dược dùng để bảo đảm thực hiện nhiều nghĩa vụ[23]: Một tài sản có thể được dùng để bảo đảm thực hiện nhiều nghĩa vụ nếu giá trị của tài sản đó tại thời điểm xác lập giao dịch bảo đảm lớn hơn tổng giá trị các nghĩa vụ được bảo đảm, trừ trường hợp các bên có thoả thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác. Trong trường hợp này bên bảo đảm phải thông báo cho bên nhận bảo đảm sau biết về việc tài sản bảo đảm đang được dùng để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ khác. Trong trường hợp phải xử lý tài sản để thực hiện một nghĩa vụ đến hạn thì các nghĩa vụ khác tuy chưa đến hạn cũng được coi là đến hạn và tất cả các bên cùng nhận bảo đảm đều được tham gia xử lý tài sản. Bên nhận bảo đảm đã thông báo về việc xử lý tài sản có trách nhiệm xử lý tài sản nếu các bên cùng nhận bảo đảm không có thoả thuận khác. Trường hợp các bên muốn tiếp tục thực hiện các nghĩa vụ chưa đến hạn thì có thể thoả thuận về việc bên bảo đảm dùng tài sản khác để bảo đảm việc thực hiện các nghĩa vụ chưa đến hạn. Trong số các biện pháp thực hiện nghĩa vụ dân sự thì các biện pháp cầm cố và thế chấp thường được các bên áp dụng nhiều nhất. Do đó, BLDS đã quy định rất cụ thể về vấn đề này. BLDS thể hiện quan điểm bên cầm cố, thế chấp tuy bị hạn chế một số quyền nhưng họ cũng có những quyền tự chủ nhất định, nhất là trong hoạt động sản xuất, kinh doanh. Ví dụ, bên thế chấp có quyền được khai thác công dụng, hưởng hoa lợi, lợi tức từ tài sản trừ trường hợp hoa lợi, lợi tức cũng thuộc tài sản thế chấp theo thoả thuận của các bên; được đầu tư để làm tăng giá trị của tài sản thế chấp; được bán, thay thế tài sản thế chấp, nếu tài sản đó là hàng hoá luân chuyển trong quá trình sản xuất, kinh doanh. Trong trường hợp bán tài sản thế chấp là hàng hoá luân chuyển trong quá trình sản xuất, kinh doanh thì quyền yêu cầu bên mua thanh toán tiền và số tiền thu được hoặc tài sản hình thành từ số tiền thu được trở thành tài sản thế chấp thay thế cho số tài sản đã bán; được bán, trao đổi, tặng cho tài sản thế chấp không phải là hàng hoá luân chuyển trong quá trình sản xuất, kinh doanh nếu được bên nhận thế chấp đồng ý; được cho thuê, cho mượn tài sản thế chấp nhưng phải thông báo cho bên thuê, bên mượn biết về việc tài sản cho thuê, cho mượn đang được dùng để thế chấp và phải thông báo cho bên nhận thế chấp biết. Chú thích: [1] Điều 388 Bộ luật Dân sự 2005 [2] Khoản 1 Điều 124 Bộ luật Dân sự 2005 [3] Điều 404 Bộ luật Dân sự 2005 [4] Các điều từ 143 đến 148 BLDS 2005 [5] Điều 128 BLDS 2005 [6] Điều 129 BLDS 2005 [7] Điều 130 BLDS 2005 [8] Điều 131 BLDS 2005 [9] Điều 132 BLDS 2005 [10] Điều 133 BLDS 2005 [11] Điều 134 BLDS 2005 [12] Điều 411 BLDS 2005 [13] Khoản 2 và 3 Điều 410 BLDS 2005 [14] Điều 424 BLDS 2005 [15] Điều 425 và 426 BLDS 2005 [16] Điều 422 BLDS 2005 [17] Bên vi phạm hợp đồng được miễn trách nhiệm trong các trường hợp sau đây: a) Xảy ra trường hợp miễn trách nhiệm mà các bên đã thoả thuận; b) Xảy ra sự kiện bất khả kháng; c) Hành vi vi phạm của một bên hoàn toàn do lỗi của bên kia; d) Hành vi vi phạm của một bên do thực hiện quyết định của cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền mà các bên không thể biết được vào thời điểm giao kết hợp đồng. [18] Điều 303 Luật Thương mại 2005 [19] Điều 427 BLDS 2005 [20] Điều 319 BLDS 2005 [21] Điều 320 BLDS 2005 [22] Điều 322 BLDS 2005 [23] Điều 324 BLDS 2005 SOURCE: CỔNG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ BỘ TƯ PHÁP Đại lý Trong nền kinh tế sản xuất hàng hoá, hoạt động trao đổi hàng hoá, dịch vụ giữa các thương nhân với nhau thông qua mua bán là điều kiện quan trọng cho sự tồn tại và phát triển của xã hội. Khi mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ trên thị trường, tuỳ thuộc vào đối tượng giao dịch, thị trường cũng như tính chất, thời cơ của từng thương vụ, thương nhân có thể lựa chọn các phương thức giao dịch cho phù hợp. Một trong những phương thức giao dịch được các thương nhân sử dụng phổ biến nhất hiện nay là hình thức giao dịch qua trung gian trong hoạt động thương mại (trung gian thương mại). Giao dịch qua trung gian trong hoạt động thương mại là phương thức giao dịch trong đó mọi việc thiết lập quan hệ giữa người mua và người bán hàng hoá (người cung ứng dịch vụ và người sử dụng dịch vụ) và việc xác định giao dịch phải thông qua một người trung gian.(1) Có rất nhiều hình thức trung gian thương mại khác nhau như: đại diện cho thương nhân, môi giới thương mại, uỷ thác mua bán hàng hoá, đại lí thương mại… Trong phạm vi bài viết này, nhóm chúng tôi xin đi vào phân tích một trong các hình thức trung gian thương mại phổ biến nhất, đó là đại lí thương mại.  Khái niệm Theo quy định tại điều 166 Luật thương mại năm 2005, đại lí thương mại là hoạt động thương mại, theo đó bên giao đại lí và bên đại lí thoả thuận việc bên đại lí nhân danh chính mình mua, bán hàng hoá cho bên giao đại lí hoặc cung ứng dịch vụ của bên giao đại lí cho khách hàng để hưởng thù lao. Như vậy, so với Luật thương mại năm 1997, Luật thương mại hiện hành đã mở rộng phạm vi hoạt động cho các đại lí thương mại sang lĩnh vực cung ứng dịch vụ. Điều này là hoàn toàn phù hợp với xu thế hội nhập và toàn cầu hoá hiện nay khi các loại hình dịch vụ đang dần hình thành và phát triển mạnh mẽ, chiếm ưu thế trên thị trường Đặc điểm Cũng là hoạt động thương mại nhưng đại lí thương mại có những đặc điểm khác biệt so với các loại hình trung e thương mại khác. Cụ thể: Chủ thể của quan hệ đại lí thương mại là bên giao đại lí và bên đại lí, cả hai đều phải là thương nhân. Bên giao đại lí thì giao hàng hoá cho đại lí bán hoặc giao tiền mua hàng cho đại lí mua hoặc uỷ quyền thực hiện dịch vụ cho đại lí cung ứng dịch vụ. Bên đại lí nhận hàng hoá để làm đại lí bán, nhận tiền mua hàng để làm đại lí mua hoặc là bên nhận uỷ quyền cung ứng dịch vụ. (1): Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình luật thương mại, tập 2, NXB.CAND, Hà Nội, 2006, tr76. Nội dung của hợp đồng đại lí bao gồm việc giao kết thực hiện hợp đồng mua bán hàng hoá hoặc cung ứng dịch vụ giữa bên đại lí với bên thứ ba theo yêu cầu của bên giao đại lí. Khi giao kết hợp đồng mua bán hàng hoá hoặc cung ứng dịch vụ với bên thứ ba, bên đại lí nhân danh chính mình để giao kết, thực hiện hợp đồng và chịu sự ràng buộc về nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng đó. Một điểm đặc biệt là trong đại lí mua bán hàng hoá, bên giao đại lí là chủ sở hữu đối với hàng hoá hoặc tiền giao cho bên đại lí, quyền sở hữu đối với hàng hoá sẽ được chuyển giao từ bên giao đại lí sang khách hàng chứ không phải là từ bên đại lí sang khách hàng. Đây là một đặc điểm để phân biệt hợp đồng đại lí với hợp đồng mua bán hàng hoá. Quan hệ đại lí thương mại được xác lập bằng hợp đồng. Hợp đồng đại lí phải được giao kết bằng văn bản hoặc hình thức khác có giá trị pháp lí tương đương. Trước đây, Luật thương mại 1997 có quy định các nội dung chủ yếu trong hợp đồng đại lí nhưng đến Luật thương mại 2005 thì đã loại bỏ quy định này để mở rộng thêm quyền tự do thoả thuận của các bên. Trên thực tế thì hợp đồng đại lí có các nội dung như: hàng hoá hoặc dịch vụ đại lí; hình thức đại lí; thù lao đại lí; thời hạn của hợp đồng đại lí; quyền và nghĩa vụ của các bên… IV. Một số nguyên nhân cho thấy sự cần thiết phải có sự can thiệp của luật pháp để bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng: 1. Thực trạng vi phạm quyền lợi người tiêu dùng tại Việt Nam Thực trạng công tác bảo vệ người tiêu dùng tại Việt Nam cho thấy, các vụ vi phạm quyền lợi người tiêu dùng có xu hướng ngày càng gia tăng cả về số lượng và mức độ. Hàng loạt các vụ vi phạm nghiêm trọng quyền và lợi ích của người tiêu dùng được phát hiện như vụ xăng pha aceton, vụ nước tương nhiễm chất 3-MCPD, vụ gian lận xăng dầu hay gần đây nhất là việc phát hiện hàng loạt các cơ sở kinh doanh mỡ động vật không rõ nguồn gốc xuất xứ… Riêng năm 2008, các lực lượng chức năng đã kiểm tra xử lý 146. 958 vụ vi phạm, trong đó có 15. 092 vụ buôn bán hàng cấm, hàng nhập lậu, 18. 539 vụ sản xuất, buôn bán hàng giả, hàng kém chất lượng, vi phạm quyền sở hữu trí tuệ và an toàn vệ sinh thực phẩm, 4. 303 vụ về đầu cơ găm hàng. Đặc biệt, một số vụ vi phạm có phạm vi ảnh hưởng lớn tới người tiêu dùng như các vụ việc về 315. 000 điện kế điện tử giả; vụ gian lận cước taxi bằng cách gắn bộ tăng cây số do Trung Quốc sản xuất dưới gầm xe, nút bấm điều khiển dưới vô-lăng xe; vụ sữa melamine trẻ em; vụ gian lận trong đo lường và kinh doanh sản phẩm xăng dầu; vụ mũ bảo hiểm không đảm bảo an toàn chất lượng. Những vụ việc này đã gây thiệt hại không chỉ về tài sản mà còn ảnh hưởng đến sức khỏe thậm chí là tính mạng của người tiêu dùng. Theo thống kê của Bệnh viện K cho thấy, mỗi năm Việt Nam có khoảng 77. 457 ca mới mắc bệnh ung thư trong đó 80% là do môi trường sống và chỉ có khoảng 5% là do gen di truyền. Một thống kê khác cũng rất đáng chú ý là, từ năm 2004 đến năm 2008 cả nước có 1. 634 vụ ngộ độc thực phẩm với 23. 894 người bị mắc và 321 người tử vong . Những con số trên chỉ là sự thống kê một phần nhỏ và mới chỉ phản ánh được phần nào thực trạng xâm hại quyền và lợi ích hợp pháp của người tiêu dùng. Do vậy, có thể nói rằng người tiêu dùng Việt Nam đang phải sống trong một môi trường không an toàn, quyền và lợi ích hợp pháp bị vi phạm nghiêm trọng. Trong khi đó, các quy định của pháp luật hiện hành còn nhiều bất cập, gây khó khăn cho quá trình phát hiện và xử lý các vi phạm quyền lợi của người tiêu dùng. Thực trạng này đòi hỏi phải xây dựng một cơ chế pháp lý đầy đủ và hoàn thiện nhằm bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng 2. Hệ thống quy định của pháp luật về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng còn nhiều bất cập Cụ thể như sau: Các quy định về bảo vệ người tiêu dùng còn mang tính tuyên ngôn, khó thực hiện Pháp lệnh Bảo vệ người tiêu dùng mới chỉ dừng lại ở việc ghi nhận các quyền của người tiêu dùng như một “tuyên ngôn” mà chưa có những cơ chế cụ thể để thực thi các quyền này. Chính vì vậy, mà công tác bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng còn gặp nhiều khó khăn. Quy định của pháp luật hiện hành chưa xây dựng được một cơ chế giải quyết các khiếu nại, tranh chấp hữu hiệu để người tiêu dùng có thể tự bảo vệ mình Hiện nay, tranh chấp giữa người tiêu dùng và tổ chức, cá nhân kinh doanh được hiểu là các tranh chấp dân sự thông thường nên được xử lý theo các quy định hiện hành về pháp luật tố tụng dân sự. Tuy nhiên, các tranh chấp của người tiêu dùng với tổ chức, cá nhân kinh doanh có đặc thù là những tranh chấp nhỏ, đơn giản và cần được giải quyết nhanh chóng, thuận tiện cho người tiêu dùng. Thực tế cho thấy việc áp dụng các quy định của pháp luật tố tụng dân sự hiện hành là rất phức tạp và tốn kém, không phù hợp với khiếu nại, giải quyết tranh chấp của người tiêu dùng. Đây là lý do chính dẫn đến việc người tiêu dùng nước ta thường không khiếu nại, khởi kiện ra toà khi bị vi phạm quyền lợi. Lợi dụng điều này, nhiều tổ chức cá nhân kinh doanh thường không đề cao ý thức bào vệ quyền lợi người tiêu dùng dẫn đến thiệt hại quyền lợi người tiêu dùng và lợi ích chung của xã hội. Quy định của pháp luật hiện hành chưa có những chế tài đặc thù, đủ sức răn đe để xử lý các hành vi vi phạm pháp luật Theo quy định hiện hành, các hành vi vi phạm pháp luật về bảo vệ người tiêu dùng có thể phải chịu chế tài dân sự, hành chính và thậm chí là chế tài hình sự (nếu hành vi cấu thành tội phạm theo quy định của Bộ luật Hình sự). Thực tiễn công tác bảo vệ người tiêu dùng trong thời gian qua cho thấy các chế tài hiện hành không đủ sức răn đe, giáo dục đối với các tổ chức, cá nhân vi phạm quyền lợi của người tiêu dùng. Đây chính là một trong những nguyên nhân lý giải cho sự gia tăng cả về số lượng và mức độ của các vụ việc vi phạm quyền lợi của người tiêu dùng trên thực tế. Đồng thời, mức xử phạt không tương xứng với lợi nhuận mà doanh nghiệp thu được từ hành vi vi phạm, do đó có thực tế là nhiều doanh nghiệp chấp nhận bị phạt để vi phạm. Theo kinh nghiệm một số nước trên thế giới, ngoài biện pháp phạt tiền, cấm kinh doanh, … các nước này còn đưa ra những chế tài đặc thù như công bố công khai trên các phương tiện thông tin đại chúng, truy thu lợi nhuận bất hợp pháp… Đây là những chế tài rất hiệu quả để áp dụng cho các tổ chức, cá nhân vi phạm quyền lợi của người tiêu dùng. Tuy nhiên, các quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành vẫn chưa đưa ra được những chế tài thể hiện tính đặc thù, phù hợp trong lĩnh vực này. Cơ chế phối hợp giữa các cơ quan có thẩm quyền trong công tác bảo vệ người tiêu dùng chưa được quy định một cách rõ ràng Khác với các lĩnh vực khác, hoạt động bảo vệ người tiêu dùng liên quan đến nhiều ngành, lĩnh vực khác nhau. Chính vì vậy, nó liên quan đến rất nhiều cơ quan, tổ chức. Tuy nhiên, các quy định của pháp luật hiện hành chưa tạo ra một cơ chế phối hợp có hiệu quả để các cơ quan có liên quan có thể phối hợp trong công tác bảo vệ người tiêu dùng mà hoạt động trong tình trạng “mạnh ai nấy làm”. Do vậy, các vụ việc vi quyền lợi người tiêu dùng không được phát hiện và xử lý một cách kịp thời, triệt để. Các cơ quan quản lý nhà nước về bảo vệ người tiêu dùng cũng chưa được trao đủ thẩm quyền để tiến hành các hoạt động bảo vệ người tiêu dùng một cách hiệu quả. e) Chưa có cơ chế hữu hiệu để các tổ chức bảo vệ người tiêu dùng hoạt động một cách hiệu quả Cho đến nay, các tổ chức bảo vệ người tiêu dùng vẫn hoạt động chưa hiệu quả, chưa đáp ứng được yêu cầu trong công tác bảo vệ người tiêu dùng trong tình hình mới. Khác với các tổ chức xã hội khác, các tổ chức bảo vệ người tiêu dùng hoạt động mà không có sự đóng góp của các hội viên cũng như không có bất kỳ một nguồn thu ổn định nào khác. Do đó, hoạt động của các tổ chức này là rất khó khăn trong khi đó chưa có một cơ chế hỗ trợ tài chính hữu hiệu từ ngân sách nhà nước. Vì vậy, rất khó để các tổ chức bảo vệ người tiêu dùng hoạt động có hiệu quả. (“Giới thiệu Luật bảo vệ người tiêu dùng”, Bộ Tư pháp, Bộ Công thương) V. Nội dung chính của luật pháp trong lĩnh vực bảo vệ người tiêu dùng Các hành vi bị cấm trong lĩnh vực bảo vệ quyền lợi NTD Cấm tổ chức, cá nhân kinh doanh thực hiện những hành vi như lừa dối, gây nhầm lẫn cho người tiêu dùng thông qua hoạt động quảng cáo hoặc cung cấp không đầy đủ, sai lệch, không chính xác hoặc che giấu thông tin về hàng hóa, dịch vụ, về uy tín, khả năng kinh doanh Cấm việc tiếp xúc, liên hệ trái ý muốn của người tiêu dùng từ 2 lần trở lên Cấm các hành vi quấy rối người tiêu dùng, gây cản trở, ảnh hưởng xấu đến công việc và đời sống… / Trách nhiệm của bên thứ ba đối với NTD Bên thứ ba là những đơn vị truyền thông, quảng cáo về hàng hóa, dịch vụ của tổ chức, cá nhân kinh doanh tới người tiêu dùng. Trách nhiệm của bên thứ ba: Phải bảo đảm chính xác, đầy đủ thông tin về hàng hóa, dịch vụ cung cấp Yêu cầu tổ chức, cá nhân kinh doanh cung cấp chứng cứ chứng minh tính xác thực và đầy đủ của thông tin Chịu trách nhiệm liên đới trong việc cung cấp thông tin không đầy đủ, chính xác Từ chối cho tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ sử dụng phương tiện, dịch vụ do mình quản lý trong trường hợp hành vi sử dụng có khả năng quấy rối ngưòi tiêu dùng… Trách nhiệm của tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ đối với NTD Tổ chức, cá nhân kinh doanh phải thực hiện đầy đủ nghĩa vụ bảo hành đối với hàng hóa do mình cung cấp, trong thời gian bảo hành phải cung cấp cho người tiêu dùng hàng hóa tương tự để sử dụng tạm thời hoặc có hình thức giải quyết khác được người tiêu dùng chấp nhận, phải chịu chi phí về sửa chữa và vận chuyển hàng hóa, linh kiện được bảo hành… Đối với hàng hóa có khuyết tật, tổ chức, cá nhân kinh doanh phải thông báo công khai trên các phương tiện thông tin đại chúng, tiến hành thu hồi và báo kết quả với cơ quan quản lý nhà nước về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng. 4. Vai trò của tổ chức xã hội trong bảo vệ quyền lợi NTD 5. Giải quyết tranh chấp giữa NTD và các tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ Luật đã giành riêng một Chương quy định các phương thức giải quyết tranh chấp giữa người tiêu dùng và tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ, bao gồm: thương lượng; hòa giải; trọng tài và tòa án. Đặc biệt, với phương thức giải quyết tranh chấp tại tòa án, Luật đã có qiuy định rất tiến bộ trong việc quy định tòa án áp dụng thủ tục rút gọn để giải quyết vụ án dân sự về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong trường hợp vụ án dân sự đơn giản, chứng cứ rõ ràng và có đủ các điều kiện theo quy định tại Luật. Việc quy định một trình tự rút gọn, đơn giản so với quy trình, thủ tục khởi kiện tại tòa án theo pháp luật về tố tụng dân sự truyền thống sẽ tạo thuận lợi hơn rất nhiều cho người tiêu dùng. Đồng thời, quy định này cũng sẽ tạo điều kiện thuận lợi hơn trong việc bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng của các cơ quan quản lý nhà nước. Bên cạnh các phương thức giải quyết tranh chấp trên, trong trường hợp phát hiện hành vi vi phạm pháp luật về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng của tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ gây thiệt hại đến lợi ích của nhà nước, lợi ích của nhiều người tiêu dùng, lợi ích công cộng thì người tiêu dùng, tổ chức xã hội có quyền yêu cầu trực tiếp hoặc bằng văn bản đến cơ quan quản lý nhà nước về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng cấp huyện nơi thực hiện giao dịch giải quyết. 6. Về việc miễn nghĩa vụ chứng minh lỗi và miễn tạm án phí Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng cũng đưa ra quy định miễn nghĩa vụ chứng minh lỗi và miễn tạm ứng án phí cho người tiêu dùng khi tiến hành khởi kiện các tổ chức cá nhân vi phạm quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Quy định này xuất phát từ vị trí yếu thế của người tiêu dùng trong mối quan hệ với tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ. Trong hầu hết các vụ vi phạm, người tiêu dùng hầu như không thể chứng minh được lỗi của tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ do thiếu kiến thức, phương tiện, năng lực tài chính. Thực tiễn các vụ việc xâm phạm quyền lợi người tiêu dùng thời gian qua cho thấy điều đó, như vụ xăng pha aceton; sữa nhiễm melamine… Trong các vụ việc này, người tiêu dùng không thể chứng minh được các chất hóa học có hại trong sản phẩm. Ngoài ra, trong một số vụ việc liên quan đến lợi ích xã hội thì Nhà nước cần có cơ chế hỗ trợ người khởi kiện thông qua việc miễn tạm ứng án phí hoặc án phí. (Luật số 59/2010/QH12) được Quốc hội khóa XII, kỳ họp thứ 8, thông qua ngày 17 tháng 11 năm 2010 và sẽ có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 7 năm 2011

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docxMôi trường pháp luật.docx
Luận văn liên quan