Một số giải pháp phát triển các khu công nghiệp tỉnh Bến Tre đến năm 2020

Bến Tre hiện là một tỉnh nông nghiệp, trong những năm qua hiệu quả từ sản xuất nông nghiệp không cao và lực lượng lao động ở khu vực này chiếm khoảng 62% dân số. Còn ngành CN ở Bến Tre trong những năm qua khá khiêm tốn (chiếm 18% trong cơ cấu GDP) chủ yếu là các cơ sở sản xuất CN, TTCN có qui mô nhỏ và phân rãi rác tự phát. Theo dự thảo quy hoạch phát triển kinh tế xã hội tỉnh Bến Tre đến năm 2020 CN Bến Tre sẽ trở thành ngành kinh tế phát triển, tỷ trọng đóng góp của CN trong cơ cấu GDP của tỉnh năm 2015 đạt 26,5% và năm 2020 đạt 35,8%. Cơ cấu kinh tế của tỉnh chuyển dịch theo hướng CN –thương mại, dịch vụ và nông nghiệp kỹ thuật cao. Do đó, việc phát triển và thu hút đầu tư vào các KCN, CCN trong thời gian tới là nhu cầu cần thiết và cấp bách, làm tiền đề để đạt được những mục tiêu trên.

pdf96 trang | Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2683 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Một số giải pháp phát triển các khu công nghiệp tỉnh Bến Tre đến năm 2020, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
uản lý một cửa tại chỗ của tỉnh, tuy nhiên cũng có một số DN chưa hài lòng do thủ tục hành chính đầu tư vào KCN, CCN Bến Tre vẫn còn phức tạp, chồng chéo, chưa liên thông giữa các sở, ban ngành. Để thực hiện tốt việc cải cách thủ tục hành chính thì tỉnh cần lưu ý các vấn đề sau: 55 + Thứ nhất: Ban quản lý KCN Bến Tre cũng như UBND các huyện có CCN phối hợp với các sở ngành có liên quan (Tài nguyên và Môi trường, Xây dựng, Kế hoạch và Đầu tư, Hải quan, Thuế, Điện lực, Cấp thoát nước, Phòng cháy chữa cháy quy định cụ thể thời gian cấp phép cho từng loại dự án theo phân cấp, đồng thời có sự phối hợp tốt (liên thông) trong việc giải thích các thông tin cần thiết khi nhà đầu tư yêu cầu. + Thứ hai: UBND tỉnh ban hành quy chế quy định thời gian giải quyết các đề nghị của nhà đầu tư trong thời gian thực hiện dự án để các ngành liên quan căn cứ thực hiện nhằm giải quyết nhanh các yêu cầu của nhà đầu tư. + Thứ ba: Tăng cường phân cấp quản lý, quy định cụ thể rõ ràng quyền hạn và trách nhiệm của cấp cơ sở, khắc phục tình trạng hầu như cấp nào cũng có quyền đối với DN, nên các DN vẫn còn phải chịu nhiều phiền phức khi cần đến các cơ quan công quyền. + Thứ tư: Không ngừng giáo dục rèn luyện phẩm chất đạo đức và nâng cao trình độ kiến thức của đội ngũ cán bộ công chức. Xem khó khăn của nhà đầu tư cũng như của chính mình. + Thứ năm: Trao đổi thông tin với các DN trong KCN bằng cách tỉnh tăng cường tổ chức các buổi đối thoại giữa DN với các sở ban ngành trong việc góp ý đổi mới chính sách địa phương của tỉnh. * Cải tiến các chính sách ưu đãi khuyến khích đầu tư Để khuyến khích các nhà đầu tư trong và ngoài nước đầu tư vào KCN, CCN tỉnh cần ban hành các chính sách sao cho các nhà đầu tư khi đầu tư vào KCN, CCN có lợi hơn nhiều so với đầu tư riêng rẽ bên ngoài KCN. UBND tỉnh rà soát chỉnh sửa các quy định về ưu đãi đầu tư cho phù hợp thực tế và có tính khả thi cao cho phù hợp chính sách ưu đãi khuyến khích đầu tư của Chính phủ về thời gian miễn giảm thuế, tiền sử dụng đất, tiền thuê đất,… Chính sách ưu đãi phải thật sự phù hợp với nhu cầu thực tế 56 khách quan, công bằng và đúng pháp luật để có tác dụng tốt vừa cải thiện môi trường đầu tư, vừa góp phần ổn định thị trường và xác lập kỷ cương vận động thu hút đầu tư. * Thực hiện quan điểm lấy nhà đầu tư cũ để giới thiệu nhà đầu tư mới Tỉnh cần tạo niềm tin cho nhà đầu tư trong việc đáp ứng các yêu cầu, giải quyết các vướng mắc của họ trong thời gian sớm nhất, hỗ trợ họ trong tất cả các thủ tục hành chính để họ có cái nhìn tốt về môi trường đầu tư và họ tự giới thiệu các dự án khác đầu tư vào Bến Tre. Đây là cách thu hút đầu tư hiệu quả nhất nhằm cải thiện môi trường đầu tư. * Đảm bảo ổn định an ninh trật tự tại các KCN, CCN Ổn định an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội luôn là sự quan tâm lớn của các nhà đầu tư, chỉ có ổn định an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội mới đảm bảo đủ các điều kiện ổn định và phát triển kinh tế, do đó cần thiết phải đảm bảo sự ổn định an ninh trật tự, an toàn xã hội ở địa phương. Ở nước ta nói chung, Bến Tre nói riêng an ninh cơ bản ổn định, là một trong những điều kiện tốt thu hút đầu tư nước ngoài. Qua phân tích trên cho thấy an ninh trật tự ở các KCN, CCN cơ bản ổn định, tuy nhiên có 25% số DN trả lời tình hình an ninh ở các KCN, CCN chưa được tốt, có lúc xảy ra sự cố vi phạm an ninh trật tự trong KCN, CCN, nhà đầu tư liên hệ với công an địa phương thường rất khó khăn, hoặc không liên hệ được hoặc liên hệ được nhưng đến rất chậm. Từ thực tế như vậy tác giả đề nghị tỉnh kiến nghị với ngành công an thành lập đồn công an chính quy chuyên trách theo dõi và xử lý các vấn đề có liên quan đến an ninh trật tự ở các KCN, CCN. c. Tăng cường thu hút vốn đầu tư nước ngoài: Thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào các KCN, CCN ở Bến Tre trong những năm qua khá khiêm tốn chỉ có 7 DN với số vốn đăng ký là 69.5 triệu USD. Ngày 22/6/2007 Thủ tướng Chính phủ đã có Chỉ thị số 57 15/2007/CT-TTg về một số giải pháp chủ yếu nhằm thúc đẩy đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. Tuy nhiên để công tác thu hút đầu tư nước ngoài đạt hiệu quả trong thời gian tới UBND tỉnh, Ban quản lý các KCN và UBND các huyện cần: - Xây dựng chiến lược thu hút đầu tư nước ngoài một cách hiệu quả. Xác định rõ mục tiêu, danh mục ngành nghề và khả năng thu hút nguồn vốn đầu tư vào KCN, CCN trong từng giai đoạn theo hướng thu hút đầu tư đi vào chiều sâu, chọn lọc các ngành nghề và dự án đầu tư lớn với công nghệ tiên tiến. Định hướng kêu gọi đầu tư vào những ngành nghề tạo ra hiệu quả kinh tế cao, công nghệ tiên tiến; hạn chế các ngành gây ô nhiễm môi trường; Hướng đến cơ cấu quy hoạch CN năm 2020, đó là: “ngành thực phẩm đồ uống chiếm 43,1%, ngành cơ khí chiếm 13,1%, ngành hoá chất và các sản phẩm từ hoá chất, dược phẩm chiếm 12,0%, ngành thiết bị điện tử 12,0%, ngành nhựa chiếm 8,4%, ngành vật liệu xây dựng chiếm 2,3%, ngành dệt may da chiếm 1,7%, ngành năng lượng chiếm 4,0%”. [60] - Phối hợp với các tổ chức thương mại quốc tế và các cơ quan xúc tiến đầu tư tại Thành phố tiến hành công tác xúc tiến đầu tư có mục tiêu, có địa chỉ cụ thể đối với các quốc gia có tiềm năng về vốn đầu tư và công nghệ. - Liên kết chặt chẽ với các tỉnh, thành trong vùng kinh tế trọng điểm phía Nam và ĐBSCL trong công tác thu hút đầu tư và phân bố ngành nghề hợp lý căn cứ trên lợi thế cạnh tranh của từng tỉnh, thành. - Các cơ quan, lãnh đạo tỉnh thường có mối quan hệ rất tốt với những tổ chức quốc tế, tập đoàn lớn ở nước ngoài, vì vậy có thể khai thác mối quan hệ này để tăng cường hợp tác quốc tế, góp phần nâng cao hiệu quả công tác xúc tiến đầu tư. Đồng thời, tranh thủ mối quan hệ hợp tác quốc tế cấp nhà nước để thực hiện thu hút đầu tư nước ngoài vào các dự án đầu tư cơ sở hạ tầng KCN, CCN, nhằm khai thác nguồn nhân lực tài chính lớn, năng lực và kinh nghiệm của nhà đầu tư nước ngoài. 58 - Tỉnh cần đầu tư mới nhà hàng, khách sạn đạt tiêu chuẩn quốc tế; nâng cấp các khách sạn, nhà hàng hiện có. Bởi vì trong xu hướng hội nhập khu vực và quốc tế thì việc nâng cấp các nhà hàng, khách sạn hiện có và xây dựng mới đạt tiêu chuẩn quốc tế là cần thiết để cho các nhà đầu tư nước ngoài vào vui chơi giải trí. 3.2.2.2. Nhóm giải pháp S-T: a. Nhóm giải pháp quy hoạch KCN, CCN gắn liền liên kết vùng: * Giải pháp về công tác quy hoạch KCN, CCN: Công tác quy hoạch luôn được xem là khâu then chốt, đặt nền móng vững chắc cho sự phát triển và bảo đảm sự thành công của KCN. Qua phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến quyết định đầu tư của các DN vào KCN, CCN Bến Tre cho thấy yếu tố “Quy hoạch vị trí, địa điểm thành lập KCN, CCN thuận lợi cho sản xuất kinh doanh của DN là quan trọng nhất”, vì vậy công tác quy hoạch phải được tỉnh đặt lên hàng đầu nhằm đảm bảo cho việc thu hút đầu tư của các KCN, CCN trong thời gian tới. Tuy nhiên, trong thời gian qua. Bến Tre chỉ mới quan tâm phát triển trong KCN, CCN chứ chưa chú ý phát triển vành đai ngoài hàng rào KCN, CCN. Qua kết quả phân tích trên cho thấy việc quy hoạch các KCN, CCN ở Bến Tre thiếu đồng bộ, trong thời gian qua mặc dù các KCN Bến Tre đã lấp gần kín nhưng tỉnh chưa có diện tích đất KCN mới cho thuê. Do đó việc quy hoạch KCN, CCN cần: - Quy hoạch KCN, CCN dựa trên cơ sở chọn vị trí thuận lợi cho hoạt động SXKD của DN như KCN, CCN phải gắn liền đường biển, đường sông, hệ thống giao thông thuận lợi,… đặc biệt việc quy hoạch các CCN phải gắn liền với quy hoạch vùng nguyên liệu địa phương. - Các KCN cần được quy hoạch đồng thời với sự quy hoạch về hạ tầng KT- XH. Thực hiện quy hoạch phát triển đồng bộ các KCN với các công trình kết cấu 59 bên ngoài hàng rào; các khu đô thị - dịch vụ KCN, nhằm phát triển CN - đô thị bền vững, khai thác sử dụng tốt quỹ đất đô thị, tạo vốn đầu tư cơ sở hạ tầng KCN. - Ban quản lý các KCN của tỉnh cần có hướng dẫn cho Thành phố, các huyện phối hợp với Sở Xây dựng, Sở Tài nguyên và Môi trường sớm xác định ranh giới vị trí xây dựng các KCN để thực hiện các công việc chuẩn bị đầu tư và đầu tư. Công bố quy hoạch để chính quyền địa phương và nhân dân biết thực hiện, làm căn cứ gọi vốn đầu tư xây dựng và quản lý kinh doanh. - Ngoài các KCN đã được quy hoạch bản đồ tỷ lệ 1/2000, các KCN khác chưa có quy hoạch, đề nghị chính quyền địa phương sớm tổ chức thực hiện quy hoạch chi tiết các KCN trên cơ sở phát triển các đô thị liền kề, góp phần đẩy nhanh nhiệm vụ xây dựng đô thị hóa nông thôn. - Các KCN trọng điểm của tỉnh, cần lập các hồ sơ riêng theo quy định hiện hành của nhà nước, xin phê duyệt quy hoạch và thỏa thuận dự án, trên cơ sở đó các Công ty Kinh doanh kết cấu hạ tầng có thể xin hỗ trợ từ nguồn vốn Nhà nước, vốn ưu đãi theo quy định. -Xử lý và giải quyết tốt các vấn đề bảo vệ và giữ gìn môi trường tự nhiên. Khai thác và bảo tồn môi trường tự nhiên. - Tăng cường nâng cao chất lượng quy hoạch KCN, CCN: + Hoàn chỉnh quy hoạch theo hướng phát triển KCN, CCN hài hoà, đồng bộ với phát triển kinh tế - xã hội như hạ tầng kỹ thuật (đường bộ, đường thuỷ, cảng, …), hạ tầng xã hội (khu dân cư, trường học, y tế, văn hoá và thể thao) và các dịch vụ KCN, CCN tại địa phương cũng như trong vùng KTTĐPN và ĐBSCL đảm bảo tính kết nối hạ tầng kỹ thuật chung giữa các KCN, CCN trên địa bàn. + Cần phải giám sát chặt chẽ công tác quy hoạch trong các KCN và CCN về hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng xã hội, quy hoạch ngành nghề theo định hướng phát triển chung của tỉnh. Trong quy hoạch KCN, CCN phải chú trọng tính khả thi hiệu quả hoạt động của KCN, CCN và vấn đề bảo vệ môi trường. 60 Tránh tình trạng đầu tư dàn trải, đối nghịch trong quy hoạch nội bộ từng KCN, CCN. + Tiến hành rà soát bổ sung quy hoạch đối với các KCN, CCN hiện hữu cho phù hợp với tình hình phát triển thực tế của nền kinh tế. Đối với KCN, CCN cần nghiên cứu lựa chọn phát triển mô hình KCN thích hợp với xu thế hội nhập kinh tế quốc tế, đáp ứng ngày càng cao các nhu cầu nhà đầu tư. + Phối hợp chặt chẽ với các cơ quan chức năng trên địa bàn tỉnh trong công tác quy hoạch phát triển hạ tầng bên ngoài kết nối đến KCN, CCN. Xác định việc huy hoạch xây dựng KCN, CCN đồng bộ với hệ thống hạ tầng kỹ thuật – xã hội ngoài hàng rào KCN, CCN là tiêu chí bắt buộc khi phê duyệt các dự án KCN, CCN. Việc kết hợp chặt chẽ giữa quy hoạch KCN, CCN với đô thị, khu dân cư, dịch vụ phục vụ sẽ là nhân tố quan trọng trong việc thu hút đầu tư vào KCN, CCN. - Tiếp tục quy hoạch một số KCN, CCN ở những vùng có điều kiện hạ tầng kém, thuộc vùng xa, vùng sâu để Nhà nước đầu tư ngân sách đẩy mạnh phát triển, như: huyện Thạnh Phú, huyện Mỏ Cày nhằm đẩy mạnh công nghiệp hóa nông thôn, hỗ trợ phát triển nông nghiệp, tận dụng vùng nguyên liệu, tạo việc làm cho người lao động địa phương để giảm áp lực nhà ở và các dịch vụ kèm theo ở các đô thị, không tạo chênh lệch quá xa giữa các vùng. * Giải pháp liên kết hợp tác quy hoạch và thu hút đầu tư giữa các KCN, CCN vùng KTTĐPN và ĐBSCL Bến Tre cần phải xây dựng mối quan hệ giữa các KCN, CCN trong vùng kinh tế trọng điểm phía Nam và ĐBSCL để từ đó có thể vận dụng, phát huy lợi thế của từng KCN, CCN ở mỗi tỉnh. Một số vấn đề cần thiết hợp tác như: - Xây dựng kế hoạch hợp tác với các tỉnh, thành phố trong vùng KTTĐPN cũng như với các tỉnh ĐBSCL để tạo ra sự phát triển hiệu quả, ổn định và bền vững cho cả vùng. Phối hợp trong phát triển kết cấu hạ tầng như 61 xây dựng tuyến đường tỉnh, nâng cấp các quốc lộ nằm trong địa bàn tỉnh và các tuyến đường thủy của tỉnh. - Phát triển các tuyến đường giao thông nối liền các KCN, CCN Bến Tre với các địa phương khác trong vùng KTTĐPN và các tỉnh ĐBSCL, nhằm rút ngắn khoảng cách, giảm chi phí và thời gian cho các DN đang hoạt động trong các KCN, CCN. - Phối hợp trong công tác xúc tiến đầu tư để hạn chế cạnh tranh tự phát mà có thể hỗ trợ nhau, như cung cấp thông tin, kinh nghiệm, giới thiệu lẫn nhau. - Phối hợp trong ban hành các cơ chế, chính sách ưu đãi kêu gọi đầu tư, trong ban hành các cơ chế chính sách nhằm thúc đẩy phát triển những ngành có lợi thế của từng tỉnh, tránh được đầu tư tràn lan, chồng chéo, trùng lặp. - Phối hợp xúc tiến thương mại trong và ngoài nước, cung cấp thông tin và hỗ trợ lẫn nhau. Tạo các vùng nguyên liệu cung cấp cho các KCN, CCN và tạo điều kiện cho các DN cung cấp hàng hoá cho nhau, thay thế hàng nhập khẩu, làm giảm giá thành, tăng cường xuất khẩu. b. Tăng cường đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng trong và hàng rào KCN, CCN: Qua phân tích trên cho thấy 45,5% số DN được phỏng vấn cho rằng cơ sở hạ tầng của Bến Tre chưa được tốt. Cơ sở hạ tầng là một trong những vấn đề hàng đầu mà nhà đầu tư quan tâm khi quyết định thực hiện đầu tư. Trong thời điểm hội nhập kinh tế quốc tế mang tính cạnh tranh quyết liệt, việc đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng trong và ngoài hàng rào KCN, CCN càng chậm, thì việc thu hút đầu tư càng bị hạn chế. Để giải quyết vấn đề này, xin đề xuất một số giải pháp cơ bản sau: *Đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng trong và ngoài hàng rào KCN, CCN. 62 Trong điều kiện khả năng vốn ngân sách có hạn không thể cùng một lúc đầu tư hoàn chỉnh hệ thống hạ tầng kinh tế xã hội, do đó trước mắt để cải thiện từng bước môi trường đầu tư cần thiết thực hiện một số biện pháp sau: + Tập trung nguồn lực, khẩn trương hoàn thành xây dựng cơ sở hạ tầng KCN Giao Long, An Hiệp và một số KCN, CCN khác theo qui hoạch, không để xảy ra tình trạng dự án chờ mặt bằng như trước đây; đặc biệt quan tâm đến vùng kinh tế khó khăn như Thạnh Phú, Mỏ Cày. Tỉnh cần có chính sách khuyến khích thu hút đầu tư kết cấu hạ tầng KCN, CCN. + Tiến hành nâng cấp hệ thống đường bộ, đường giao thông nông thôn để giúp cho các DN chế biến thuỷ sản, lương thực thuận lợi trong việc thu mua sản phẩm để phục vụ cho việc SXKD của mình. Kiến nghị với Chính phủ xúc tiến đầu tư các dự án hạ tầng quan trọng trong vùng kinh tế ĐBSCL như đường sắt TP Hồ Chí Minh - Mỹ Tho, mở rộng và nâng cấp tỉnh lộ từ Thành phố Mỹ Tho đến Cầu Rạch Miễu (Bến Tre),…những công trình này có tác động rất lớn đến vị trí trung chuyển của tỉnh Bến Tre. + Tăng cường đầu tư, nâng cấp các tuyến giao thông đường thủy của tỉnh. * Đầu tư nâng cấp hệ thống cảng của tỉnh Trên cơ sở phân tích trên cho thấy đa số các DN được phỏng vấn đánh giá hệ thống cảng của tỉnh chưa được tốt và yếu. Do đó tỉnh cần nâng cấp cảng Giao Long sớm hơn dự kiến [191.507 tấn/năm (đến năm 2010) và 255.155 tấn/năm (đến 2020)] trở thành cảng khu vực có năng lực trên 500.000 tấn/năm nhằm để có thể phục vụ tốt nhu cầu xuất nhập khẩu hàng hóa của các DN trên địa bàn tỉnh thuận lợi, giảm bớt một phần chi phí để có điều kiện cạnh tranh với các DN khác, nhất là DN đóng tại địa bàn thành phố Hồ Chí Minh, Long An và Tiền Giang. 63 Việc nâng cấp Cảng Giao Long còn có ý nghĩa đón đầu vận chuyển hàng hoá ở các tỉnh miền Tây khi Cầu Rạch Miễu xây dựng xong sẽ có đường giao thông nối liền tỉnh Bến Tre với tỉnh Vĩnh Long, Trà Vinh, Đồng Tháp. Theo chủ trương của thành phố Hồ Chí Minh, các Cảng nằm trong nội thành như Cảng Nhà Rồng, cảng Bến Nghé, Tân Cảng sẽ di dời ra xa thành phố, vì vậy việc phát triển Cảng Giao Long là rất cần thiết phục vụ cho việc vận chuyển hàng hóa xuất nhập khẩu của các nhà đầu tư trên địa bàn tỉnh và các tỉnh lân cận trong tương lai. * Đầu tư xây dựng hài hòa kết cấu hạ tầng KCN, CCN và khu đô thị Thực hiện đúng quy hoạch cả một hệ thống tổng thể đồng bộ kết cấu hạ tầng với chất lượng kỹ thuật đồng đều của một khu đô thị. Trong đó cần chú trọng vị trí ưu tiên hàng đầu cho phát triển giao thông vận tải. Vì thực tế cho thấy, sự phát triển của hệ thống giao thông vận tải địa phương và toàn vùng, góp phần thúc đẩy lưu thông, trao đổi hàng hóa giữa các KCN, CCN. c. Quy hoạch phát triển nguồn nguyên liệu đầu vào cho các KCN, CCN: Hiện nguồn nguyên liệu để phục vụ cho CN chế biến dồi dào nhưng chất lượng chưa ổn định, quy mô nhỏ và phân tán, nuôi trồng không theo quy hoạch dẫn đến tình trạng thiếu và thừa cho các DN sản xuất CN. Theo thống kê của tỉnh thì có khoảng hơn 50% các DN trong KCN, CCN thuộc các ngành chế biến thủy sản, rau quả, lương thực, nên cần phải có sự đảm bảo nguồn nguyên liệu. Đây là điều kiện hết sức quan trọng vì khi thiếu nguyên liệu thì không thể phát triển các DN thuộc các ngành nghề nêu trên.Vì vậy tỉnh cần có giải pháp sau: - Tỉnh cần phải quy hoạch phát triển vùng nguyên liệu nhằm đảm bảo và cân đối nguồn nguyên liệu của tỉnh tránh tình trạng khủng hoảng thiếu và dư thừa nguồn nguyên liệu gây thiệt đến hoạt động SXKD của DN và hộ nông dân cung cấp nguyên liệu. 64 - Tăng cường phối hợp giữa 02 ngành CN và nông nghiệp với Liên minh HTX tỉnh nhằm xây dựng, hình thành mối liên kết giữa nhà máy và người sản xuất nông nghiệp cùng các nhà khoa học nghiên cứu triển khai xây dựng một số vùng nguyên liệu tập trung, chuyên canh phục vụ cho CN chế biến, đảm bảo đầu ra cho nông sản hàng hóa. - Tăng cường công tác kiểm soát và công bố thông tin về quy hoạch đến các hộ nông dân nhằm đảm bảo phát triển vùng nguyên liệu theo quy hoạch, đồng thời xử lý các trường hợp nuôi trồng tự phát, đảm bảo phát triển cân đối vùng nguyên liệu tránh trình trạng thừa nguồn cung đồng thời kiểm soát được ô nhiễm môi trường. - Đầu tư phát triển các trung tâm nguyên cứu lai tạo để đảm bảo cung cấp cây, con giống phù hợp cho CN chế biến với năng suất chất lượng cao, giá thành hạ. - Ngoài ra tỉnh cần phải thu hút nguồn nguyên liệu từ các tỉnh lân cận trong vùng bằng cách thành lập các chợ đầu mối để cung cấp nguyên liệu cho các DN trong KCN, CCN. - Tỉnh cần phải xây dựng chính sách hỗ trợ về tài chính, tín dụng, kỹ thuật cho DN và nhà nông trong việc thực hiện liên kết trong nuôi, trồng nguyên liệu phục vụ cho CN chế biến theo quy hoạch. 3.2.2.3. Nhóm giải pháp W-O: a. Nhóm giải pháp hạn chế ô nhiễm và bảo vệ môi trường: * Tuyên truyền, giáo dục ý thức bảo vệ môi trường: Nhằm nâng cao ý thức các các DN trong KCN, CCN tỉnh cần phải tăng cường công tác tuyên truyền giáo dục ý thức bảo vệ môi trường; tuyên truyền Luật Bảo vệ môi trường và Nghị định 88/2007/NĐ-CP ngày 28/05/2007 của Chính phủ về thoát nước đô thị và KCN nhằm xác định rõ tầm quan trọng bậc nhất của công tác bảo vệ môi trường trong quá trình phát triển sản xuất kinh doanh; quan tâm đúng mức đến việc chỉ đạo, điều hành trong công tác bảo vệ 65 môi trường và có các biện pháp hữu hiệu phát huy vai trò của cán bộ, công nhân trong việc bảo vệ môi trường, làm cho ý thức bảo vệ môi trường dần trở thành thói quen của mọi người, góp phần hạn chế sự gia tăng ô nhiễm, tiến tới cải thiện và bảo vệ môi trường sinh thái. * Tăng cường quản lý Nhà nước đối với việc bảo vệ môi trường: Qua phỏng vấn các DN trong KCN, CCN thì có một số các DN chưa quan tâm đến công tác môi trường, có hơn 65% các DN cho rằng các cơ quan chức năng chỉ kiểm tra ở mức độ thỉnh thoảng và ít khi. Với tình hình trên tác giả xin đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm tăng cường quản lý Nhà nước đối với việc bảo vệ môi trường của các KCN, CCN Bến Tre. - Thứ nhất, Quy định mang tính chất bắt buộc các chủ đầu tư kinh doanh hạ tầng KCN, CCN phải đảm bảo xây dựng trạm xử lý nước thải tập trung ở các KCN, CCN có nước thải cần phải được xử lý trước khi thải ra sông ngòi, kênh rạch. - Thứ hai, Quy định quy chế tiêu chuẩn môi trường cho các DN đầu tư vào KCN, CCN: + Quy định các DN phải lập báo cáo đánh giá tác động môi trường hoặc bản cam kết bảo vệ môi trường trình cơ quan có thẩm quyền phê duyệt trước khi đầu tư vào KCN, CCN. + Quy định bắt buộc các DN trong KCN, CCN phải xây dựng hệ thống xử lý nước thải cục bộ đạt tiêu chuẩn cho phép trước khi đi vào hoạt động SXKD. - Thứ ba, Thu thập và cập nhật các thông tin cơ bản của DN để xây dựng cơ sở dữ liệu về DN, phục vụ công tác quản lý môi trường. - Thứ tư, Các cơ quan chức năng của tỉnh mà đặc biệt là Sở Tài Nguyên và Môi trường, Cảnh sát Môi trường và Ban quản lý các KCN thường xuyên theo dõi, thanh tra, kiểm tra và xử lý nghiêm khắc các vụ việc vi phạm tiêu chuẩn môi trường của các DN gây ô nhiễm môi trường. Kiểm soát chặt chẽ 66 việc vận hành các hệ thống xử lý nước thải cục bộ của các DN bằng các hình thức kiểm tra định kỳ hay đột xuất tại DN, kiên quyết xử phạt các đơn vị không chấp hành việc xây dựng hoặc vận hành hệ thống xử lý nước thải cục bộ. - Thứ năm, Các KCN, CCN phải bố trí ngành nghề dự án đầu tư phải đúng theo quy hoạch, phải đặc biệt quan tâm đến yếu tố môi trường, tránh trường hợp bố trí không đúng phân khu chức năng sẽ làm cho các DN tự gây ô nhiễm lẫn nhau. - Thứ sáu, Bổ sung nhân sự cho cán bộ thanh tra môi trường, để có đủ lực lượng thanh tra kiểm tra môi trường thường xuyên hơn. b. Cải tiến hệ thống ngân hàng: Qua phân tích ở chương trên cho thủ tục vay ngân hàng quá rườm rà, thời gian giải ngân chậm, các phí dịch vụ tương đối cao làm ảnh hưởng đến SXKD của các DN trong KCN, CCN. Xin đề xuất các giải pháp sau: - Ngân hàng cần phải cải tiến quy trình, thủ tục cho vay như đơn giản hoá thủ tục định giá tài sản thế chấp, thẩm định dự án nhằm tiết kiệm thời gian cho cả DN và ngân hàng. - Hiện tại tỷ giá ngoại tệ do Ngân hàng Nhà nước công bố và ngoại tệ ở thị trường tự do chênh lệch khá nhiều, trong khi đó nhu cầu đổi ngoại tệ của các DN xuất khẩu thì không được đáp ứng đầy đủ, DN bán ở thị trường tự do với giá rẻ làm ảnh hưởng đến hoạt động SXKD. Vì vậy Ngân hàng nhà nước Trung ương cần phải có chính sách ngoại hối ưu tiên cho các DN xuất khẩu. - Đổi mới và hoàn thiện hơn hệ thống tín dụng ngân hàng của tỉnh Bến Tre để phù hợp với hoạt động tín dụng quốc tế nhằm đáp ứng tối đa nhu cầu cho các nhà đầu tư trong và ngoài nước. Đảm bảo thực hiện tốt việc cân đối ngoại tệ, đảm bảo việc chuyển đổi ngoại tệ cho nhà đầu tư nước ngoài để trả lãi, trả nợ gốc cho nước ngoài, mua nguyên vật liệu, vật tư cho sản xuất, chuyển lợi nhuận ra nước ngoài. Tạo điều kiện thuận lợi cho nhà đầu tư nước 67 ngoài vay vốn ở các ngân hàng thương mại của tỉnh, xác định các hạn mức vay phù hợp yêu cầu sản xuất và khả năng trả nợ của DN có vốn đầu tư nước ngoài, để giảm bớt vốn vay nước ngoài hiện nay chúng ta chưa giám sát được. - Hỗ trợ các Ngân hàng thành lập các điểm giao dịch ngay trong các KCN, CCN. c. Giải pháp về vốn để xây dựng cơ sở hạ tầng: Việc đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng các KCN, CCN trong thời gian qua chủ yếu là đầu tư vốn ngân sách Nhà nước. Việc đầu tư KCN, CCN chỉ giải quyết được đền bù giải tỏa, san lấp mặt bằng, xây dựng các đường nội bộ còn các hạng mục khác chỉ chưa được quan tâm vì thiếu vốn. Trong thời gian qua việc thu hút đầu tư vào KCN, CCN bị gián đoạn vì không có đất cho các nhà đầu tư thuê. Nguyên nhân chủ yếu là do tỉnh thiếu vốn và giải tỏa chậm. Để hạn chế nguồn vốn đầu tư từ ngân sách tỉnh, tác giả xin đề xuất một số phương án sau: - Trong điều kiện ngân sách địa phương có hạn, cần khai thác tối đa nguồn vốn đầu tư, hỗ trợ của Trung ương đối với các KCN được Chính phủ phê duyệt, tranh thủ nguồn vốn Trung ương hỗ trợ đầu tư cơ sở hạ tầng ở địa bàn khó khăn . - Tỉnh quy hoạch mặt bằng các KCN, CCN và kêu gọi nhà đầu tư hạ tầng đến cho thuê đất thô và họ chi tiền giải toả đền bù, chủ động đầu tư (theo quy hoạch, dự án được duyệt) và tự định giá cho thuê lại hạ tầng. - Tỉnh cần kêu gọi các dự án đầu tư xây dựng hạ tầng dưới hình thức BOT, BT. Tích cực vận động và có chính sách khuyến khích các DN bỏ vốn đầu tư cơ sở hạ tầng KCN đã có quy hoạch. Mở rộng các hình thức kinh doanh BOT, BT về cung cấp điện, cấp nước, xử lý nước thải, chất thải, khu nhà ở cho công nhân KCN cho mọi thành phần kinh tế, ... Tổ chức tốt các hoạt động xúc tiến đầu tư, chọn đầu tư và thông tin về điều kiện ưu đãi đầu tư 68 tại Bến Tre; Tổ chức các hoạt động kêu gọi đầu tư ở TP. HCM, liên hệ thông tin chặt chẽ với các Tham tán Thương mại ở một số nước lớn. - Xúc tiến kêu gọi các nhà đầu tư trong nước và nước ngoài đầu tư kinh doanh cơ sở hạ tầng KCN, CCN như một số KCN đã thành công. Thông qua việc xây dựng hoàn chỉnh hệ thống các cơ chế, chính sách đặc thù thống nhất, đồng bộ và cụ thể, tạo mọi điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư trong nước và nước ngoài đầu tư vào KCN, CCN. - Tăng tỷ lệ nguồn vốn ngân sách tỉnh cho công tác hỗ trợ đầu tư hạ tầng trong các CCN. 3.2.2.4. Nhóm giải pháp W-T: a. Nhóm giải pháp ổn định và phát triển xã hội: Trong quá trình xây dựng và phát triển các KCN, CCN ở Bến Tre đã và đang nẩy sinh những vấn đề xã hội đáng quan tâm, như: tái định cư, nhà ở cho công nhân, việc làm cho nông dân khi bị giải tỏa. Trong khi, chi phí đào tạo lao động có tay nghề kỹ thuật để chuyển sang CN, dịch vụ vẫn đang còn là vấn đề nan giải, thì có trên 60% lao động trong các KCN, CCN đến từ các vùng nông thôn, có độ tuổi rất trẻ chiếm trên 80% từ 18 đến 35 tuổi, với lao động nữ chiếm trên 55% có tay nghề thấp. Do đó việc đào tạo, tuyển dụng và giải quyết chỗ ở cho người lao động đang gặp gặp nhiều khó khăn, đòi hỏi phải có những giải pháp đồng bộ. * Đào tạo cung ứng nguồn nhân lực Trong điều kiện hiện nay nguồn lao động thất nghiệp ngày càng là áp lực lớn đối với xã hội, thì đều nghịch lý là chúng ta đang thiếu nguồn lao động có chuyên môn kỹ thuật và công nhân lành nghề, trong khi lao động phổ thông lại thừa, không đáp ứng được nhu cầu công việc đòi hỏi của các nhà đầu tư. Trong nhiều năm qua chúng ta chỉ chú trọng đào tạo đại học cao đẳng, thiếu quan tâm đào tạo lao công nhân kỹ thuật có tay nghề cao, chính vì vậy mà cơ 69 cấu đào tạo lao động của đất nước đang trong tình trạng mất cân đối. Để giải quyết mâu thuẫn trên, tác giả xin đề xuất các giải pháp cơ bản sau: - Đổi mới và nâng cao chất lượng đào tạo Nhiệm vụ trung tâm hàng đầu của các cơ quan đào tạo là xác định lại các chuẩn của mục tiêu đào tạo: đó là những công nhân, chuyên viên kỹ thuật có đủ chất đạo đức, kỹ thuật, nghiệp vụ của chuyên ngành được đào tạo, có đủ năng lực thực thi công việc được giao. Nhằm mục tiêu này, hoạt động đào tạo của các trường và các trung tâm đào tạo cần có một cuộc cải cách sâu rộng. + Trước hết, xác định lại nội dung đào tạo theo hướng thực tế. Xây dựng và triển khai chương trình phát triển nguồn nhân lực cho các ngành cơ khí, điện tử - công nghệ thông tin, hoá chất, chế biến lương thực - thực phẩm, dệt may, da giày, chế biến gỗ. + Thứ hai là củng cố, tăng cường, đổi mới lực lượng làm công tác giảng dạy. Đào tạo với đích ngắm các công nhân và chuyên viên kỹ thuật ra trường để phục vụ cho các KCN, CCN. Do đó, các giáo viên trực tiếp giảng dạy đặc biệt phải giỏi cả khâu thực hành trên máy móc và thiết bị hiện đại. + Thứ ba là nâng cấp thiết bị dạy học, thiết bị thực tập, phòng thí nghiệm, xưởng trường theo hướng cập nhật trình độ hiện đại của thế giới, bảo đảm cho học sinh, sinh viên tốt nghiệp không gặp khó khăn khi bắt tay vào làm việc trong dây chuyền sản xuất tại các KCN, CCN. - Đầu tư mở rộng các Trường đào tạo, trung tâm dạy nghề: Đầu tư mở rộng qui mô, nâng cao chất lượng đào tạo của các Trường Cao Đẳng Bến Tre, trường dạy nghề; xây dựng và mở rộng thêm các trường, cơ sở đào tạo, mở rộng thêm các ngành nghề mới, chú ý đến đầu tư các trang thiết bị hiện đại phục vụ dạy nghề, nhằm nâng cao chất lượng và số lượng đào tạo đi đôi với việc liên kết, thu hút đội ngũ giảng viên có chuyên môn cao về giảng dạy. Đồng thời, nghiên cứu thành lập các Trường đào tạo, trung tâm dạy nghề trong KCN, CCN nhằm đào tạo lao động phù hợp với nhu cầu của 70 các DN, đặc biệt đào tạo công nhân lành nghề cho các ngành mũi nhọn, đáp ứng nhu cầu của các DN trong KCN, CCN Bến Tre. - Thực hiện chương trình liên kết đào tạo: + Khai thác năng lực của các trường dạy nghề, các cơ sở đào tạo của tỉnh hay liên kết Trường đại học Cần thơ, các trường đại học TP Hồ Chí Minh, Phòng Thương mại và CN Việt Nam chi nhánh Cần Thơ hoặc ở TP HCM,… để giúp các DN đào tạo một cách cơ bản về đội ngũ quản lý và sản xuất. Ngoài ra Ban quản lý các KCN có kế hoạch liên kết với các trường Đại học, Cao đẳng, Trung học chuyên nghiệp… của tỉnh trong việc khảo sát nhu cầu các ngành nghề cần tuyển dụng tại KCN, CCN để từ đó có kế hoạch cho việc đào tạo phù hợp với những tiêu chuẩn mà các DN yêu cầu cho từng bộ phận, từng công việc. + Các trường đào tạo cần phải phải xây dựng chương trình riêng để đào tạo đội ngũ cán bộ chủ chốt trong KCN, CCN như cán bộ quản lý nhân sự, quản đốc phân xưởng, chuyền xưởng, tổ trưởng nắm được luật pháp Việt Nam, phong tục tập quán từng quốc gia đầu tư trong KCN, hiểu biết thêm về một số nét văn hoá của người nước ngoài nhằm tạo mối quan hệ tốt trong công việc, cũng như tạo ấn tượng tốt đẹp giữa các DN với người lao động Việt Nam. + Tỉnh cần đề cao vai trò to lớn của các tổ chức, hiệp hội, các trường đào tạo ở nước ngoài, vì những nơi này đã và đang tiếp nhận đặt hàng đào tạo lao động kỹ thuật cao của các DN đầu tư trong và ngoài nước. Điều này khẳng định sức mạnh từ các tổ chức quốc tế sẽ hỗ trợ chương trình liên kết đào tạo, chương trình giảng dạy, nhất là đào tạo nhân viên kỹ thuật, dần tiến tới thay thế lao động nước ngoài bằng lao động Việt Nam - Thực hiện chính sách đào tạo và đào tạo lại đội ngũ lao động Nhằm đón đầu làn sóng đầu tư mới khi Việt Nam đã là thành viên thứ 150 của WTO, tỉnh Bến Tre cần quan tâm đầu tư cho công tác đào tạo và đào 71 tạo lại đội ngũ cán bộ, công nhân. Thường xuyên mở các lớp bồi dưỡng, tập huấn, cập nhật nghiệp vụ chuyên môn cho từng đối tượng, từng bộ phận, ngành nghề có vị trí chiến lược chuyển đổi ngành nghề có công nghệ kỹ thuật cao, kể cả cán bộ các cơ sở, ban, ngành có liên quan đến quản lý các DN trong KCN, CCN Bến Tre. - Xây dựng chính sách về tuyển dụng, đãi ngộ. + Có chính sách cụ thể thu hút lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật cao là người Việt Nam hoặc người nước ngoài vào làm việc tại các KCN, CCN thông qua: chế độ tiền lương, thu nhập, thuế thu nhập; ưu đãi về nhà ở và phương tiện làm việc. + Nghiên cứu xây dựng, ban hành các chính sách thu hút, đãi ngộ đối với giáo viên dạy nghề có tính đến yếu tố đào tạo nghề trong các ngành công nghệ cao và ngành kinh tế mũi nhọn. Trong đó, các chính sách quan trọng như: tiền lương, tiền thưởng, chính sách nhà ở, chính sách đào tạo nâng cao, bồi dưỡng chuyên môn kỹ thuật ở trong và ngoài nước. * Giải quyết việc làm cho người lao động Thực trạng tại Bến Tre hiện nay đang đứng trước một tình trạng đáng báo động là số học sinh thi đậu vào các trường đại học sau khi tốt nghiệp tìm mọi cách ở lại làm việc tại thành phố Hồ Chí Minh, Đồng Nai, Bình Dương và Cần Thơ trong các DN có vốn Đầu tư nước ngoài hoặc trong các DN tư nhân để có thu nhập cao, và chỉ một số ít về tỉnh. Một thực tế phổ biến trong cơ cấu lao động hiện nay là “thừa thầy thiếu thợ”. Nhiều DN thông báo tuyển dụng rất lâu nhưng vẫn không có người đến đăng ký hoặc đăng ký nhưng vẫn thiếu lực lượng lao động theo yêu cầu. Để đảm bảo đủ lao động qua đào tạo có nghề nghiệp chuyên môn cao cung cấp cho DN trong các KCN, CCN, trước mắt và lâu dài, chính sách đào tạo của tỉnh phải tập trung vào những vấn đề lớn là: 72 - UBND tỉnh chỉ đạo cho ngành giáo dục đẩy mạnh công tác tuyên truyền giáo dục hướng nghiệp cho học sinh, đặc biệt là học sinh cuối cấp 2,3. Phải định hướng cho học sinh thấy rõ vai trò vị trí của người công dân lành nghề, xoá đi tư tưởng phải vào đại học của học sinh và phụ huynh. Làm cho các cấp và nhân dân quan niệm đúng đắn tầm quan trọng và cần thiết của việc dạy nghề và học nghề với phương châm “nhất nghệ tinh, nhất thân vinh” coi trọng kết hợp lý thuyết với thực hành ở mọi cấp học. - Nâng chất các cơ sở dạy nghề tại TP Bến Tre, huyện Châu Thành và các huyện cả về quy mô, trang thiết bị dạy nghề, năng lực và trình độ của giáo viên. - Trên cơ sở quy hoạch các KCN, CCN, xác định các ngành nghề ưu tiên đầu tư để có kế hoạch đào tạo mang tính đón đầu, đào tạo có định hướng, có trọng tâm phù hợp nhu cầu thực tế. - Sở Lao động – Thương binh xã hội nên chủ trì, phối hợp với Ban Quản lý các KCN Bến Tre và UBND các huyện tổ chức ngày hội việc làm của tỉnh nhằm giúp cho người lao động tìm được việc làm ở các KCN, CCN. - Hàng năm ngân sách tỉnh bố trí một khoản kinh phí để đào tạo miễn phí cho người lao động của tỉnh về ngành nghề phù hợp nhằm đảm bảo đủ về số lượng và chất lượng phục vụ cho các KCN, CCN của tỉnh. * Ổn định chỗ ở cho người lao động Trong dự án các KCN, CCN được phê duyệt không bố trí quỹ đất xây nhà ở cho công nhân nên hầu hết công nhân trong KCN, CCN phải tự thuê nhà ở với giá cao. Qua phỏng vấn các DN trong KCN thì chỉ có một ít DN xây dựng nhà cho công nhân, nhưng khả năng đáp ứng chỉ khoảng 30% - 50% số lao động, còn lại nhà ở do tư nhân xây dựng để cho thuê chiếm đa số. Nhưng, loại nhà 73 này được xây dựng một cách tự phát khoảng 6 m2/người không đáp ứng được yêu cầu điện nước sinh hoạt thiếu thốn, không đảm bảo được tiện nghi sinh hoạt bình thường, giá cả và thời gian thuê nhà không ổn định lâu dài. Vì vậy, tác giả xin đề xuất một số giải pháp phát triển nhà ở cho người lao động trong các KCN, CCN Bến Tre: - Về quy hoạch nhà ở công nhân ở các KCN, CCN tỉnh. Khi quy hoạch KCN, CCN tỉnh cần chú trọng đến việc quy hoạch quỹ đất để xây dựng khu tái định cư cho các hộ dân bị giải toả KCN và đất chung cư cho công nhân làm việc trong KCN, CCN ở. Việc quy hoạch và xây dựng nhà ở của công nhân tại các KCN, CCN phải đảm bảo yêu cầu tối thiểu để sử dụng lâu dài và tạo điều kiện cho công nhân lao động tại các KCN sống hòa nhập với cộng đồng trong các khu dân cư, được tiếp cận với hệ thống dịch vụ công cộng đồng bộ như: trường học, nhà trẻ, sân chơi; các công trình hạ tầng kỹ thuật như: điện, nước, đường sá tạo điều kiện nâng cao chất lượng nhà ở, hệ thống kết cấu hạ tầng và môi trường sống, từng bước giảm khoảng cách chênh lệch về chất lượng nhà ở giữa các nhóm đối tượng khác nhau, đảm bảo cho sự công bằng xã hội. - Về chính sách tài chính Do hiệu quả đầu tư vào các dự án xây dựng nhà ở cho công nhân hiện nay rất thấp nên để sớm tạo ra quỹ cho nhà công nhân, trước mắt sử dụng ngân sách Nhà nước xây dựng các khu nhà cho công nhân thuê theo tiêu chuẩn kiến trúc quy hoạch của tỉnh. Đồng thời, tỉnh kêu gọi các chủ DN sử dụng lao động phải để dành một tỷ lệ vốn vào việc tham gia giải quyết nhà ở cho người lao động, thông qua việc đóng góp tài chính hoặc tự xây dựng nhà ở cho người lao động thuê. Đưa các dự án nhà ở cho công nhân vào danh mục dự án được vay vốn ưu đãi tỉnh để giá cho thuê nhà ở cho công nhân thấp. - Về chính sách đất đai 74 Khi quy hoạch thành lập các KCN, CCN tỉnh phải dành một phần quỹ đất nhất định từ 10% đến 20% diện tích để xây dựng khu dân cư cho người dân bị giải toả và công nhân làm trong các KCN, CCN. - Về chính sách thuế Thực hiện chính sách miễn nộp thuế sử dụng đất với các dự án xây dựng nhà ở cho công nhân thuê với giá thấp, phối hợp với chính sách giảm giá cho thuê nhà ở phù hợp với điều kiện thu nhập của người lao động. Đồng thời miễn giảm thuế GTGT và thuế TNDN cho các cá nhân, đơn vị xây dựng nhà ở cho công nhân KCN, CCN. Ngoài ra UBND cần phải xây dựng cơ chế giảm giá nước và giá điện sinh hoạt cho những hộ kinh doanh nhà trọ phục vụ cho công nhân. b. Nâng cao hiệu quả quản lý các KCN, CCN: * Nâng cao hiệu quả quản lý của Ban quản lý các KCN Với cơ chế quản lý “một cửa, tại chỗ” trong thời gian qua đã tạo điều kiện cho Ban quản lý tiếp cận với nền kinh tế thị trường và phương thức quản lý hiện đại tiên tiến; phát huy sức mạnh tổng hợp từ trung ương đến địa phương. Mô hình cơ chế “một cửa, tại chỗ” của Ban quản lý các KCN đã mang lại hiệu quả tốt. Bên cạnh đó, vẫn còn một số hạn chế nhất định. Để nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước của Ban quản lý cần thực hiện theo các hướng sau: - Ban quản lý với tư cách một cơ quan quản lý nhà nước mang tính đặc thù vừa làm công tác quản lý nhà nước vừa làm công tác ngoại giao và được sự uỷ quyền của các Bộ, ngành Trung ương và của địa phương, do đó cần phải có chính sách đặc thù với mô hình quản lý này. Do vậy để phát huy hiệu quả của cơ chế “một cửa, tại chỗ” thì các ngành có liên quan tiếp tục xem xét uỷ quyền thêm cho Ban quản lý các KCN thực hiện nhiệm vụ liên quan đến việc phát triển các KCN nhằm xử lý mau lẹ để tạo sự hấp dẫn, thu hút đầu tư. 75 - Tiến hành xây dựng hệ thống công nghệ thông tin, ứng dụng các chương trình tin học quản lý các KCN như cấp phép đầu tư, cấp phép lao động cho người nước ngoài, quản lý giám sát môi trường DN, quản lý hoạt động xuất nhập khẩu qua mạng; xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu chuyên ngành phục vụ công tác quản lý nhà nước tại Ban quản lý. Nâng cao hiệu quả trong công tác quản lý, xét duyệt, điều hành với quan điểm “thông thoáng, chặt chẽ”. - Định kỳ hàng quý (năm) Ban quản lý các KCN tổ chức cuộc họp mặt hoặc viếng thăm các DN để lắng nghe ý kiến của DN nhằm từng bước giải quyết những khó khăn, vướng mắc giúp DN an tâm sản xuất kinh doanh. Đồng thời phối hợp chặt chẽ với các cơ quan chức năng trên địa bàn tỉnh và các Bộ ngành trung ương trong việc tháo gỡ các khó khăn vướng mắt của DN theo phương châm “xem khó khăn của nhà đầu tư như khó khăn của chính mình”. - Nghị định 29/2008/NĐ-CP ra đời cho phép Ban quản lý tăng cường công tác kiểm tra giám sát cơ sở trên các lĩnh vực quy hoạch, đầu tư, xây dựng, môi trường… Kiên quyết trong xử lý các trường hợp vi phạm nhằm đảm bảo sự phát triển ổn định và bền vững. Do đó đòi hỏi Ban quản lý xây dựng đội ngũ cán bộ công chức đủ trình độ năng lực trong công tác chuyên môn và có đạo đức trong sáng. * Nâng cao sự lãnh đạo, chỉ đạo của tỉnh đối với các KCN, CCN. - Tỉnh cần ban hành các văn bản quy phạm tập trung quyền lực cao hơn, toàn diện hơn và có hệ thống đồng bộ hơn về quy trình lãnh đạo, chỉ đạo, xây dựng, phát triển, quản lý các KCN, CCN như: Nghị quyết riêng của tỉnh về KCN, CCN, các chính sách về phát triển KCN và các văn bản quy định về quản lý KCN, CCN. Đồng thời phối hợp với các cấp trung ương tiến hành rà soát, bổ sung hoàn thiện và xây dựng mới các văn bản pháp luật liên quan đến chủ trương, 76 chính sách quản lý, phát triển KCN, CCN tạo ra chính sách nhất quán, thông thoáng, minh bạch. - Kiến nghị với Chính phủ ban hành Nghị định về quy chế CCN nhằm tạo cho các địa phương có sự thống nhất chung trong việc quản lý các CCN. - Tỉnh cần phải quán triệt công tác vận động thu hút đầu tư và phát triển KCN, CCN là chủ trương lớn phải được thống nhất chỉ đạo từ tỉnh đến huyện, xã và của từng ngành chứ không chỉ do Ban quản lý các KCN. - Định kỳ hàng năm tỉnh cần tổ chức các cuộc hội nghị, hội thảo triển khai các văn bản hướng dẫn một cách sâu rộng trong toàn Đảng bộ, chính quyền, các ngành, các cấp của tỉnh. Nhằm tạo cho các cấp, các ngành hiểu rõ nhiều hơn về vai trò cũng như tầm quan trọng của KCN, CCN đối với sự phát triển kinh tế xã hội của tỉnh. c. Đẩy mạnh xây dựng hệ thống chính trị đoàn thể trong các KCN, CCN: Thành lập và củng cố các tổ chức đoàn thể: Đảng, Công đoàn, Đoàn Thanh niên nhằm để tập hợp vận động và giáo dục công nhân theo đường lối, chính sách pháp luật của Đảng và Nhà nước, từng bước tiến tới xoá bỏ tình trạng “mù” luật, mù thông tin; mục đích cuối cùng là để nâng cao nhận thức về vai trò, trách nhiệm của giai cấp công nhân, mặt khác cũng giúp họ bảo vệ quyền lợi hợp pháp, chính đáng của mình. Trong những năm qua tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị đoàn thể ở các KCN Bến Tre còn quá rời rạc, chồng chéo, chiếu lệ trong sinh hoạt, khó có thể huy động thành một lực lượng chính trị thống nhất hoặc trở thành hạt nhân chính trị đúng nghĩa trong hoạt động của các DN trong KCN, CCN. Người phụ trách công đoàn ở các DN thường là những người mà DN tuyển dụng, hưởng lương của DN nên chịu sự chi phối của chủ DN, chưa tách rời lợi ích người lao động và lợi ích của DN. Xin đề xuất hướng tổ chức hệ thống chính trị đoàn thể như sau: - Trước hết cần tăng cường hiệu quả hoạt động của hệ thống công đoàn cơ sở. Công đoàn Ban quản lý các KCN có trách nhiệm hướng dẫn các DN 77 thành lập công đoàn của đơn vị phối hợp với các ngành có liên quan trong việc giải quyết đình công, khiếu kiện, tranh chấp lao động, biểu tình. Đồng thời tuyên truyền các chính sách chủ trương pháp luật của nhà nước đến với công đoàn cơ sở và người lao động. - Tỉnh cần thành lập Đoàn khối các KCN, CCN Bến Tre (giống như Đoàn khối DN Bến Tre) thuộc Đảng uỷ khối DN Bến Tre để tổ chức này hướng dẫn các DN trong KCN, CCN thành lập Chi đoàn của DN mình (không phân biệt DN trong nước hay ngoài nước), nhằm tập hợp mọi tầng lớp thanh niên thực hiện tốt các chính sách pháp luật của Đảng Nhà nước và có một sân chơi lành mạnh. - Về lâu dài: Tỉnh nên thành lập Đảng uỷ khối các KCN, CCN nhằm đưa số Đảng viên trong các DN vào sinh hoạt ghép với tổ chức Đảng uỷ khối các KCN, CCN. Trường hợp đối với những DN có số lượng đảng viên đủ điều kiện để thành lập chi bộ thì Đảng uỷ khối các KCN, CCN có trách nhiệm hướng dẫn các đơn vị này thành lập Chi bộ riêng trực thuộc Đảng uỷ khối các KCN, CCN. 3.3. Một số kiến nghị: Trên cơ sở kết quả nghiên cứu trên, để phát triển và thu hút các DN đầu tư vào KCN, CCN trong thời gian tới, tác giả xin được đề xuất một số giải pháp như sau: 3.3.1. Một số kiến nghị đối với Nhà nước: - Trung ương cần sớm ban hành Luật CCN để cho các địa phương áp dụng thống nhất trong cả nước. Ban hành cơ chế pháp lý thống nhất cho mô hình quản lý CCN ở địa phương nhằm tránh mỗi địa phương ban hành quy chế riêng và đầu tư xây dựng các CCN dàn trải, làm ảnh hưởng đến thu hút đầu tư. - Đưa danh mục các KCN đã điều chỉnh, bổ sung của tỉnh Bến Tre vào quy hoạch phát triển các KCN cả nước đến năm 2020. Trên cơ sở đó hàng 78 năm có kế hoạch bổ sung hỗ trợ vốn xây dựng cơ sở hạ tầng KCN của tỉnh theo chủ trương phát triển các KCN đối với tỉnh nghèo và còn chậm phát triển như tỉnh Bến Tre. - Quan tâm đầu tư hơn nữa cho phát triển kinh tế xã hội tỉnh Bến Tre đặc biệt là xây dựng cơ sở hạ tầng cho phát triển kinh tế xã hội như: đường xá, cầu cống, hạ tầng, điện, đặc biệt là chỉ đạo xây dựng, nâng cấp nhanh đường QL 60, 57 và các tỉnh lộ cùng các cầu lớn ở Bến Tre để tạo điều kiện cho giao lưu kinh tế - xã hội của địa phương. - Chính phủ cần có chính sách khuyến khích nhập khẩu các công nghệ tiên tiến hiện đại, kiểm soát chặt chẽ những công nghệ, máy móc gây ảnh hưởng đến môi trường và những công nghệ lạc hậu. - Chính phủ xem xét cơ chế cho thuê lại đất đối với KCN, CCN sử dụng vốn ngân sách nhà nước. - Các KCN, CCN hiện chưa có nhà máy xử lý nước thải tập trung, nên tình trạng ô nhiễm môi trường ngày càng trầm trọng, gây bất bình trong cộng đồng dân cư. Vì vậy, Nhà nước cần có chính sách hỗ trợ cho vay tín dụng ưu đãi để các Công ty phát triển hạ tầng xây dựng khu xử lý nước thải chung ở các KCN, CCN. - Chính phủ ban hành chính sách hỗ trợ đào tạo lao động ở cho các địa phương có trình độ lao động thấp. Chính sách miễn giảm thuế cho các DN hoạt động kinh doanh nhà trọ KCN, CCN. - Hoàn thiện hệ thống pháp lý theo hướng đảm bảo thu hút đầu tư tăng trưởng kinh tế, ổn định xã hội và quản lý bảo vệ môi trường. Từ đó, có biện pháp ngăn chặn và cương quyết xử lý kịp thời những hành vi nôn nóng cạnh tranh thu hút đầu tư, lại quy định thêm nhiều ưu đãi khác vượt thẩm quyền của địa phương, gây bất ổn xã hội và ảnh hưởng đến môi trường. 79 - Chính phủ sớm triển khai dự án mở xây dựng Cầu Cổ Chiên thay thế phà Cổ Chiên nhằm rút ngắn khoảng cánh đi từ Bến Tre đến các tỉnh trong vùng ĐBSCL. - Cần có cơ chế hỗ trợ Bến Tre trong hoạt động xúc tiến đầu tư như cung cấp thông tin về các đối tác nước ngoài cho địa phương và giúp địa phương tiếp cận với các nhà đầu tư nước ngoài để vận động xúc tiến họ đến với địa phương, giúp tổ chức các hoạt động xúc tiến đầu tư ở nước ngoài. - Hoàn thiện những điểm bất cập của các văn bản hướng dẫn triển khai thực hiện các Luật Đất đai, Luật Xây dựng, Luật Thuế.... để đảm bảo việc triển khai thực hiện các quy hoạch đã được phê duyệt. 3.3.2. Một số kiến nghị đối với Tỉnh Bến Tre: - Tích cực đổi mới, cải cánh hành chính, ban hành cơ chế, chính sách thông thoáng nhằm tạo ra môi trường thông thoáng thu hút đầu tư vào KCN, CCN. Nâng cao sự phối hợp giữa các ngành trong việc giải quyết các thủ tục hành chính. Tạo mọi điều kiện thuận lợi cho các DN đầu tư vào các KCN, CCN. - Nâng cấp các trường đào tạo, trung tâm dạy nghề của tỉnh theo hướng đào tạo nghề chuyên sâu trong các lĩnh vực khoa học công nghệ, đáp ứng nhu cầu chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu ngành nghề, nhằm làm giảm sự mất cân đối trong cung và cầu lao động, góp phần giải quyết tốt chính sách lao động. - Về lâu dài tỉnh nên có kế hoạch xây dựng và thành lập các trường dạy nghề, cao đẳng hoặc đại học riêng cho các KCN, CCN của tỉnh. - Đánh giá lại tình hình quy hoạch tổng thể các KCN, CCN ở tỉnh so với tình hình phát triển thực tế của địa phương gắn liền với vùng ĐBSCL và vùng KTTTPN. Để từ đó có những điều chỉnh về quy hoạch cho phù hợp với mục 80 tiêu KCN, CCN phải là trung tâm thúc đẩy các hoạt động kinh tế - xã hội của từng khu vực. Đánh giá lại các quy định chi tiết trong từng KCN, CCN, nhằm đảm bảo quy hoạch bố trí ngành nghề hợp lý trong KCN, CCN để góp phần giảm gây ô nhiễm môi trường. - Có chính sách miễn giảm đối với DN đầu tư xây dựng nhà ở cho người lao động và xem xét miễn tiền chuyển mục đích sử dụng đất từ nông nghiệp chuyển lên đất chuyên dùng để thúc đẩy phát triển CN. - Quy hoạch vùng nguyên liệu để cho các DN ổn định nguồn nguyên liệu đầu vào cho sản xuất kinh doanh. - Thành lập đồn Công an chính quy chuyên trách quản lý an ninh trật tự trong KCN, CCN. - Cơ quan quản lý môi trường thường xuyên phối hợp kiểm tra và xử lý để các DN có ý thức về bảo vệ môi trường khi tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh. - Tuyên truyền các chính sách thu hút đầu tư của tỉnh, chính sách đền bù giải toả và tăng cường công tác xúc tiếp đầu tư trong nước và nước ngoài. TÓM TẮT CHƯƠNG 3: Trên cơ sở quan điểm của Đảng và Nhà Nước về phát triển các KCN, CCN, định hướng phát triển các KCN, CCN của cả nước, quy hoạch và mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh Bến Tre đến năm 2020 và các mục tiêu phát triển các KCN, CCN của tỉnh Bến Tre, những giải pháp được để ra dựa trên tình hình thực tế của việc hình thành và phát triển của các KCN, CCN trong thời gian qua, đồng thời cũng dựa trên những thuận lợi, khó khăn, cơ hội và thách thức trong thời kỳ hội nhập kinh tế khu vực và thế giới. Những giải pháp tập trung vào một số vấn đề lớn như: về cơ chế quản lý, về quy 81 hoạch, về môi trường đầu tư, về huy động vốn và đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng. về nguồn nhân lực... Những giải pháp nhằm xây dựng cơ sở pháp lý vững chắc, đảm bảo khuôn khổ cho một Nhà nước pháp quyền, mọi người, mọi tổ chức hoạt động theo luật pháp, tạo nên một hệ thống quản lý hiệu lực và hiệu quả, quan tâm đến việc giải quyết và bảo vệ môi trường và xã hội. Các giải pháp này được thực hiện một cách đồng bộ nhằm tạo sự tác động hỗ tương lẫn nhau. Để thực hiện được những giải pháp nêu trên, Chính phủ cũng như Ủy ban nhân dân tỉnh cần có sự quan tâm tạo mọi điều kiện thuận lợi từ các chính sách về quản lý, chính sách về thuế, chính sách về ưu đãi đầu tư, đặc biệt là các hoạt động về thủ tục hải quan và các dịch vụ ngân hàng nhằm tạo ra một môi trường đầu tư thông thoáng, thu hút các nhà đầu tư trong và ngoài nước vào các KCN, CCN ở tỉnh Bến Tre. 82 KẾT LUẬN: Bến Tre hiện là một tỉnh nông nghiệp, trong những năm qua hiệu quả từ sản xuất nông nghiệp không cao và lực lượng lao động ở khu vực này chiếm khoảng 62% dân số. Còn ngành CN ở Bến Tre trong những năm qua khá khiêm tốn (chiếm 18% trong cơ cấu GDP) chủ yếu là các cơ sở sản xuất CN, TTCN có qui mô nhỏ và phân rãi rác tự phát. Theo dự thảo quy hoạch phát triển kinh tế xã hội tỉnh Bến Tre đến năm 2020 CN Bến Tre sẽ trở thành ngành kinh tế phát triển, tỷ trọng đóng góp của CN trong cơ cấu GDP của tỉnh năm 2015 đạt 26,5% và năm 2020 đạt 35,8%. Cơ cấu kinh tế của tỉnh chuyển dịch theo hướng CN –thương mại, dịch vụ và nông nghiệp kỹ thuật cao. Do đó, việc phát triển và thu hút đầu tư vào các KCN, CCN trong thời gian tới là nhu cầu cần thiết và cấp bách, làm tiền đề để đạt được những mục tiêu trên. Qua nghiên cứu, phân tích và tổng hợp, luận văn đã đạt được những nội dung như sau: - Hệ thống hóa được một số cơ sở lý luận về KCN, KCX và CCN thông qua các nội dung, khái niệm, vị trí, vai trò của các KCN, KCX. Rút ra được những kinh nghiệm từ sự phát triển các KCN, KCX của các nước trên thế giới trong thời gian qua.Từ đó có thể chọn những mô hình thích hợp với tình hình phát triển của Việt Nam. Nhằm để các KCN, KCX phát huy được vai trò của mình, cần quan tâm đến một số nhân tố quan trọng như: lựa chọn vị trí bố trí các KCN, KCX, kết cấu hạ tầng hoàn chỉnh, cải tạo môi trường đầu tư, cải tiến cơ chế quản lý... những nhân tố trên có ý nghĩa quan trọng tác động đến việc phát triển các KCN, KCX trước mắt cũng như về lâu dài. - Luận văn đã phân tích được tình hình tổng quan về hoạt động các KCN, CCN ở Bến Tre trong thời gian qua, hướng phát triển các KCN, CCN trong thời gian tới. 83 - Bên cạnh đó, luận văn cũng đặt ra để giải quyết những vấn đề mang tính vĩ mô và vi mô như: cơ sở pháp lý, cơ chế quản lý, nâng cao chất lượng môi trường đầu tư, nâng cao số lượng và chất lượng các dịch vụ cơ sở hạ tầng bên trong và bên ngoài KCN, CCN, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực nhằm đáp ứng các nhu cầu trước mắt cũng như về lâu dài của các KCN, CCN... Để thực hiện được những giải pháp trên, luận văn cũng đã đưa ra một số kiến nghị với Trung ương và tỉnh Bến Tre nhằm tạo điều kiện để cho các KCN, CCN phát triển theo đúng định hướng đến năm 2020. Tóm lại, luận văn đã thực hiện được mục tiêu là đề xuất những giải pháp phát triển các KCN, CCN tại Bến Tre đến 2020. Để cho các KCN, CCN ở Bến Tre có những hướng đi đúng, từ nay đến năm 2020 đòi hỏi từng giai đoạn 5 năm cần tiếp tục nghiên cứu tình hình thực tế để có thể điều chỉnh những nhóm giải pháp nhằm phù hợp với tình hình mới.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfmot_so_giai_phap_phat_trien_cac_khu_cong_nghiep_tinh_ben_tre_den_nam__.pdf
Luận văn liên quan