Ngành sản xuất gạch không nung ở Việt Nam

Hưởng ứng lời kêu gọi “Người Việt ưu tiên dùng hàng Việt” của MTTQ Việt Nam, đẩy mạnh “Chương trình phát triển Vật liệu xây dựng không nung đến 2020” trong đó “từng bước nội địa hóa thiết bị dây chuyền sản xuất gạch không nung”. Nội địa hóa dây chuyền thiết bị là một lợi thế vô cùng lớn, nó giúp các nhà đầu tưbỏra nhiều chi phí cho các chuyến công tác nước ngoài cùng với nhiều rủi ro phát sinh, gánh chịu chi phí vận chuyển và mô giới không hề nhỏ, chịu tiền thuế xuất nhập khẩu, và quan trọng là sự bất đồng về ngôn ngữ cùng với sự thiếu tin tưởng bởi ngăn cách địa lý, văn hóa và môi trường sản xuất kinh doanh,.

pdf16 trang | Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 4687 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Ngành sản xuất gạch không nung ở Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lê Minh Thắng - Lớp B10K2.2A QUẢN TRỊ CHIẾN LƯỢC NGÀNH SẢN XUẤT GẠCH KHÔNG NUNG Ở VIỆT NAM 1 ĐẠI HỌC KINH TẾ ĐÀ NẴNG KHOA QUẢN TRỊ KINH DOANH ZZ☺YY MÔN HỌC: QUẢN TRỊ CHIẾN LƯỢC GVHD: TS. NGUYỄN THANH LIÊM SVTH: LÊ MINH THẮNG Lớp: B10K2.2A BÀI TẬP CÁ NHÂN: “NGÀNH SẢN XUẤT GẠCH KHÔNG NUNG Ở VIỆT NAM” Lê Minh Thắng - Lớp B10K2.2A QUẢN TRỊ CHIẾN LƯỢC NGÀNH SẢN XUẤT GẠCH KHÔNG NUNG Ở VIỆT NAM 2 PHÂN TÍCH NGÀNH SẢN XUẤT GẠCH KHÔNG NUNG Ở VIỆT NAM 1. Đặc điểm ngành sản xuất gạch không nung ở Việt Nam Một loại gạch không nung. Gạch không nung hay gạch block là một loại gạch mà sau nguyên công định hình thì tự đóng rắn đạt các chỉ số về cơ học như cường độ nén, uốn, độ hút nước... mà không cần qua nhiệt độ, không phải sử dụng nhiệt để nung nóng đỏ viên gạch nhằm tăng độ bền của viên gạch. Độ bền của viên gạch không nung được gia tăng nhờ lực ép hoặc rung hoặc cả ép lẫn rung lên viên gạch và thành phần kết dính của chúng. Tại Việt Nam, các loại vật liệu xây dựng công nghệ cao này còn tương đối mới mẻ, nhưng với tốc độ phát triển của ngành xây dựng khá nhanh như hiện nay thì các loại vật liệu xây dựng xanh thân thiện môi trường chắc chắn sẽ có cơ hội rất lớn để phát triển. Trong Quyết định 567/QĐ-TTg ngày 28/04/2010 của Thủ tướng Chính phủ về phê duyệt tổng thể quy hoạch ngành vật liệu xây dựng ở Việt Nam, gạch bê tông bọt siêu nhẹ được Chính phủ Việt Nam chọn làm giải pháp từng bước thay thế vật liệu xây dựng bằng đất sét nung truyền thống nhằm mục đích bảo vệ môi trường sống. Mô tả chung về gạch không nung Về bản chất của sự liên kết tạo hình, gạch không nung khác hẳn gạch đất nung. Quá trình sử dụng gạch không nung, do các phản ứng hoá đá của nó trong hỗn hợp tạo gạch sẽ tăng dần độ bền theo thời gian. Tất cả các tổng kết và thử nghiệm trên đã được cấp giấy chứng nhận: Độ bền, độ rắn viên gạch không nung tốt hơn gạch đất sét nung đỏ và đã được kiểm chứng ở tất cả các nước trên thế giới: Mỹ, Đức, Trung Quốc, Nhật Bản,... Gạch không nung ở Việt Nam đôi khi còn được gọi là gạch block, gạch blốc, gạch bê tông, gạch block bê tông,... tuy nhiên với cách gọi này thì không phản ánh đầy đủ khái niệm về gạch không nung. Mặc dù gạch không nung được dùng phổ biến trên thế giới nhưng ở Việt Nam gạch không nung vẫn chiếm tỉ lệ thấp . Gạch nung có khoảng từ 70 đến 100 tiêu chuẩn quốc tế, với kích thước tiêu chuẩn khác nhau. Tại Việt Nam gạch này có kích thước phổ biến là 210x100x60mm, gạch không nung thì có khoảng 300 tiêu chuẩn quốc tế khác nhau với kích cỡ viên gạch khác nhau, sức nén viên gạch không nung tối đa đạt 35MPa. Sản phẩm gạch không nung có nhiều chủng loại trên một loại gạch để có thể sử dụng rộng rãi từ những công trình phụ trợ nhỏ đến các công trình kiến trúc cao tầng, giá thành phù hợp với từng công trình. Có nhiều loại dùng để xây tường, lát nền, kề đê Lê Minh Thắng - Lớp B10K2.2A QUẢN TRỊ CHIẾN LƯỢC NGÀNH SẢN XUẤT GẠCH KHÔNG NUNG Ở VIỆT NAM 3 và trang trí... Hiện nay, gạch không nung đã khẳng định chỗ đứng vững chắc trong các công trình, nó đang dần trở lên phổ biến hơn và được ưu tiên phát triển. Có rất nhiều công trình sử dụng gạch không nung, từ công trỉnh nhỏ lẻ, phụ trợ cho đến các công trình dân dụng, đình chùa, nhà hàng, sân gôn, khu nghỉ dưỡng, cao ốc,... Một số công trình điển hình như: Keangnam Hà Nội Landmard Tower (đường Phạm Hùng, Hà Nội), Habico Tower (đường Phạm Văn Đồng, Hà Nội), Khách sạn Horinson (Hà Nội), Hà Nội Hotel Plaza (đường Trần Duy Hưng, Hà Nội), Sông Giá resort (Hải Phòng), Sân vận động Mỹ Đình (Hà Nội), Làng Việt Kiều Châu Âu (Hà Đông, Hà Nội), Bà Nà Hill Đà Nẵng, resort vinpeal Đà Nẵng,... Một số loại gạch không nung: Gạch xi măng cốt liệu Gạch không nung xi măng cốt liệu (Gạch xi măng cốt liệu) còn được gọi là gạch blốc (block) được tạo thành từ xi măng và một trong các hoặc nhiều trong các cốt liệu sau đây: mạt đá, cát vàng, cát đen, xỉ nhiệt điện, phế thải công nghiệp, đất,... Loại gạch này được sản xuất và sử dụng nhiều nhất trong các loại gạch không nung. Trong các công trình thì loại gạch không nung này chiếm tỉ trọng lớn nhất. Loại gạch này thường có cường độ chịu lực tốt (trên 80kg/cm2), tỉ trọng lớn (thường trên 1900kg/m3) nhưng những loại kết cấu lỗ thì có khối lượng thể tích nhỏ hơn (dưới 1800kg/m3). Đây là loại gạch được khuyến khích sử dụng nhiều nhất và được ưu tiên phát triển mạnh nhất. Nó đáp ứng rất tốt các tiêu chí về kỹ thuật, kết cấu, môi trường, phương pháp thi công,... Loại gạch này dễ sử dụng, dùng vữa thông thường. Gạch xi măng cốt liệu không nặng như người ta tưởng Mặc dù gạch xi măng cốt liệu bị chê nặng song thực tế là nó vẫn khẳng định được giá trị của nó trong xây dựng nói chung. Trong một công trình cao tầng, việc sử dụng gạch xi măng cốt liệu là một tất yếu vì lý do tạo đối trọng, kết cấu vững chắc với cường độ cao. Ngoài ra gạch xi măng cốt liệu có thể đạt khối lượng thể tích từ 1300 đến 1800 kg/m3 nếu dùng kết cấu lỗ. Như vậy nó chẳng những không quá nặng như người ta tưởng mà còn khẳng định được độ bền, sự vững trãi cho công trình. VD: Những công trình cần sản phẩm gạch có cường độ 75Kg/cm2 với gạch đất nung phải dùng loại đặc tỷ trọng 1800kg/m3. Với gạch không nung xi măng cốt liệu chỉ cần dùng loại kết cấu lỗ rỗng tỷ trọng 1400kg/m3 cường độ có thể đạt trên 100kg/cm2. Và đặc biệt giá thành của sản phẩm gạch không nung xi măng cốt liệu rất có ưu thế, hoàn toàn cạnh tranh sòng phẳng với gạch đất nung (mặc dù chính sách hạn chế gạch đất nung chưa hiệu quả tức thời). Gạch papanh Gạch không nung được sản xuất từ phế thải công nghiệp: Xỉ than, vôi bột được sử dụng lâu đời ở nước ta. Gạch có cường độ thấp từ 30–50 kg/cm2 chủ yếu dùng cho các loại tường ít chịu lực. Gạch không nung tự nhiên Lê Minh Thắng - Lớp B10K2.2A QUẢN TRỊ CHIẾN LƯỢC NGÀNH SẢN XUẤT GẠCH KHÔNG NUNG Ở VIỆT NAM 4 Từ các biến thể và sản phẩm phong hóa của đá bazan. Loại gạch này chủ yếu sử dụng ở các vùng có nguồn puzolan tự nhiên, hình thức sản xuất tự phát, mang tính chất địa phương, quy mô nhỏ,... Gạch bê tông nhẹ Gạch bê tông nhẹ có hai loại cơ bản là gạch bê tông nhẹ bọt và gạch bê tông nhẹ khí chưng áp. Sản suất bằng công nghệ tạo bọt, khí trong kết cấu nên tỷ trọng viên gạch giảm đi nhiều và nó trở thành đặc điểm ưu việt nhất của loại gạch này. Thành phành cơ bản: Xi măng, tro bay nhiệt điện, cát mịn, phụ gia tạo bọt hoặc khí, vôi,.... Sản phẩm đã được kiểm định chất lượng vượt TCXDVN: 2004 về cường độ chịu nén đối với tỷ trọng D800. Gạch bê-tông khí chưng áp: Tên tiếng Anh là Autoclaved Aerated Concrete – gọi tắt là AAC được rất nhiều nước trên thế giới ứng dụng rộng rãi với rất nhiều ưu điểm như thân thiện với môi trường, siêu nhẹ, bền, tiết kiệm năng lượng hóa thạch do không phải nung đốt truyền thống, bảo ôn, chống cháy, cách âm, cách nhiệt, chống thấm rất tốt so với vật liệu đất sét nung. Nó còn được gọi là gạch bê- tông siêu nhẹ vì tỷ trọng chỉ bằng 1/2 hoặc thậm chí là chỉ bằng 1/3 so với gạch đất nung thông thường. Công trình xây dựng sẽ giảm tải, giảm chi phí xử lý nền móng và hệ thống kết cấu, góp phần giảm mức đầu tư xây dựng công trình từ 7- 10%, đẩy nhanh tiến độ thi công và hoàn thiện phần bao che của công trình lên 2 - 5 lần. Ngoài ra, khả năng cách âm và cách nhiệt của bê tông nhẹ rất cao, làm cho nhà ấm về mùa đông, mát về mùa hè, tiết kiệm điện năng sưởi hoặc điều hòa nhiệt độ... Kích thước thành phẩm lớn và chính xác (100mm x 200mm x 600mm) giúp rút ngắn thời gian thi công và kể cả thời gian hoàn thiện. Với thành phần cấu tạo là vật liệu trơ và các chất vô cơ, gạch bê-tông siêu nhẹ này hoàn toàn không độc hại, có độ bền rất cao và không bắt lửa. Ngoài ra, với cấu trúc thông thoáng, nó còn có thể tự khuếch tán hơi nước, giải phóng độ ẩm và loại trừ các vấn đề liên quan đến nẩm mốc – đặc biệt là trong điều kiện thời tiết nắng nóng của khí hậu vùng nhiệt đới, vùng biển và vùng có độ ẩm cao như ở khu vực miền Bắc Việt Nam. 2. Phân tích môi trường bên ngoài 2.1. Môi trường kinh tế So sánh với gạch đất nung: So sánh hiệu quả kinh tế kỹ thuật sản xuất và sử dụng, sản phẩm vật liệu xây dựng không nung có nhiều tính chất vượt trội hơn vật liệu nung: - Không dùng nguyên liệu đất sét để sản xuất. Đất sét chủ yếu khai thác từ đất nông nghiệp, làm giảm diện tích sản xuất cây lương thực, đang là mối đe dọa mang tính toàn cầu hiện nay. - Không dùng nhiên liệu như than, củi.. để đốt. tiết kiệm nhiên liệu năng lượng, và không thải khói bụi gây ô nhiễm môi trường. - Sản phẩm có tính chịu lực cao, cách âm, cách nhiệt phòng hoả, chống thấm, chống nước, kích thước chuẩn xác, quy cách hoàn hảo hơn vật liệu nung. Giảm thiểu được kết cấu cốt thép, rút ngắn thời gian thi công, tích kiệm vữa xây, giá thành hạ. - Có thể tạo đa dạng loại hình sản phẩm, nhiều màu sắc khác nhau, kích thước khác nhau, thích ứng tính đa dạng trong xây dựng, nâng cao hiệu quả kiến trúc. - Cơ sở sản xuất có thể phát triển theo nhiều quy mô khác nhau, không bị khống chế nhiều về mặt bằng sản xuất. Suất đầu tư thấp hơn vật liệu nung… Lê Minh Thắng - Lớp B10K2.2A QUẢN TRỊ CHIẾN LƯỢC NGÀNH SẢN XUẤT GẠCH KHÔNG NUNG Ở VIỆT NAM 5 - Được sản xuất từ công nghệ, thiết bị tiên tiến của quốc tế, nó có các giả pháp khống chế và sự đảm bảo chất lượng hoàn thiện, quy cách sản phẩm chuẩn xác. Có hiệu quả trong xây dựng rõ ràng, phù hợp với các TCVN. Các đặc điểm công nghệ gạch không nung - Nguyên liệu đầu vào thuận lợi không kén chọn nhiều vô tận. - Máy móc thiết bị dây chuyền tự sản xuất chế tạo được cả trong và ngoài nước. - Xây dựng nhà máy ở khắp mọi địa hình từ hải đảo tới đỉnh núi cao. - Phụ gia vật tư sẵn có trên thị trường. - Sản xuất từ thủ công tới tự động hóa hoàn toàn - Chất lượng viên gạch tiêu chuẩn tốt. - Giá thành hạ hơn so với gạch nung. Lợi ích của gạch không nung: Hiện nay thên thế giới đã áp dụng nhiều công nghệ sản xuất vật liệu xây dựng không nung, nhằm giảm thiểu sự ô nhiễm môi trường trong quá trình khai thác, sản xuất và đã mang lại nhiều kết quả tích cực như: tận dụng được nhiều nguồn nguyên liệu rẻ tiền hiện có tại các vùng miền, tạo ra được nhiều loại VLXD có giá thành thấp,... Ngoài ra vật liệu xây dựng không nung còn mang lại hiệu quả kinh tế cao cho các chủ thể trong ngành công nghiệp xây dựng như: chủ đầ tư chủ thầu thi công, nhà sản xuất vật liệu xâ dựng và cuối cùng là lợi ích của người tiêu dùng. Môi trường văn hóa xã hội Theo ước tính, mỗi năm nước ta tiêu thụ khoảng 20 tỉ viên gạch. Với đà phát triển này, đến năm 2020, lượng gạch cần cho xây dựng là hơn 40 tỉ viên/1 năm. Để đạt được số lượng gạch trên, nếu dùng đất nung thì sẽ mất rất nhiều đất canh tác, sẽ ảnh hưởng nghiêm trong đến an ninh lương thực, và phải sử dụng một lượng than hóa thạch khổng lồ, kèm theo đó là một lượng củi đốt rất lớn dẫn đến chặt phá rừng, mất cân bằng sinh thái, hậu họa của thiên tai, và nghiêm trọng hơn nữa nó còn gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng, ảnh hưởng đến môi trường vật nuôi, sức khỏe con người, và hậu quả để lại còn lâu dài. Khi sử dụng công nghệ gạch không nung sẽ khắc phục được những nhược điểm trên, đem lại công việc ổn định cho người lao động, phù hợp với chủ chương chính sách của đảng, nhà nước và nguyện vọng của nhân dân, tiết kiệm được thời gian và tiền bạc đem lại lợi ích cho xã hội. Sử dụng gạch không nung cho công trình bền đẹp, hiệu quả kinh tế cao. Lê Minh Thắng - Lớp B10K2.2A QUẢN TRỊ CHIẾN LƯỢC NGÀNH SẢN XUẤT GẠCH KHÔNG NUNG Ở VIỆT NAM 6 Môi trường công nghệ Theo quy hoạch tổng thể ngành công nghiệp vật liệu xây dựng đến năm 2010 và định hướng 2020 đã được thủ tướng Chính phủ phê duyệt, việc phát triển gạch không nung thay thế gạch đất nung phải đạt 25 - 30% vào năm 2010, xóa bỏ hoàn toàn gạch đất nung thủ công vào năm 2020. Mặc dù hiện tại, xu hướng sử dụng gạch không nung tại Việt Nam vẫn chưa phổ biến, nhưng với những chính sách hỗ trợ từ Chính phủ, ngành sản xuất gạch không nung, đặc biệt là các dự án gạch bê tông khí chưng áp (AAC) sẽ được nhiều DN đầu tư phát triển. Công nghệ thân thiện. So sánh đặc điểm sản xuất và cơ lý của gạch không nung với gạch nung, có thể thấy, loại gạch không nung có nhiều ưu điểm và lợi thế về kinh tế như: chất lượng tương đương và cao hơn gạch nung truyền thống cùng loại, diện tích sử dụng mặt bằng ít hơn, tiết kiệm diện tích có mái che, chi phí đầu tư giảm, tiết kiệm năng lượng, phụ gia có sẵn trên thị trường xây dựng, nguyên liệu đầu vào dồi dào, đặc biệt giá thành đầu vào của 1 viên gạch không nung rẻ hơn so với các gạch nung từ 10 - 20%. Với công nghệ sản xuất gạch bê tông siêu nhẹ xốp. Bê tông siêu nhẹ xốp dùng nguyên liệu chính là xi măng. Với ưu điểm như bền, ổn định, dễ dàng tạo hình, chịu được rung, không dẫn điện, cách âm, chống thấm..., công nghệ này có thể áp dụng cho những công trình xây dựng có nền đất yếu, các công trình chắn sóng và chịu va đập. Nếu so sánh với nhà máy sản xuất gạch Tuynel cùng công suất thì nhà máy sản xuất bê tông nhẹ nổi giảm được 50% kinh phí đầu tư cho một nhà máy, giảm 60% diện tích đất cho mặt bằng sản xuất và giảm 90% năng lượng sản xuất. Đối với chủ đầu tư các công trình xây dựng, sử dụng sản phẩm bê tông nhẹ sẽ giảm được 40% tổng tải trọng truyền xuống móng công trình, từ đó giảm chi phí gia cố nền móng. Đối với các nhà thầu xây dựng sử dụng bê tông nhẹ thay thế cho gạch đất nung sẽ giảm được 70% vữa xây, tăng 150% năng suất lao động của thợ xây và giảm 50% chi phí vận chuyển so với gạch đất nung. Sản xuất gạch không nung và gạch bê tông siêu nhẹ đều là hai công nghệ thân thiện với môi trường. Không những hạn chế nung đốt, giảm khí thải CO2, đóng góp Gạch bê tông khí chưng áp Lê Minh Thắng - Lớp B10K2.2A QUẢN TRỊ CHIẾN LƯỢC NGÀNH SẢN XUẤT GẠCH KHÔNG NUNG Ở VIỆT NAM 7 tích cực cho việc tiết kiệm than ngày càng cạn kiệt và không làm mất đi canh tác của nông thôn, không làm ô nhiễm nguồn nước ngầm của địa phương sản xuất gạch, mà còn xử lý và tận dụng các nguồn phế thải trong xây dựng, công nghiệp, thu hút và giải quyết được nguồn lao động đang dư thừa tại các địa phương, góp phần mang lại hiệu quả kinh tế cao. Gạch AAC có ưu thế vượt trội về trọng lượng, có khả năng cách âm và cách nhiệt, giúp tiết kiệm chi phí xây dựng cho công trình. Dùng vật liệu nhẹ sẽ làm giảm tải trọng công trình khoảng 15%, giúp tiết kiệm 7 - 10% chi phí xây thô. Ngoài ra, do kích cỡ lớn, dễ khoan cắt, việc sử dụng loại gạch này trong thi công sẽ giảm thời gian xây dựng khoảng 30%. Công trình xây xong cũng sẽ tiết kiệm được khoảng 40% điện năng tiêu thụ cho máy lạnh, nhờ có độ cách nhiệt tốt hơn. 2.2. Môi trường chính trị - pháp luật Bộ Xây dựng vừa tổ chức hội nghị triển khai Chỉ thị số 10/CT-TTg ngày 16/4/2012 của Thủ tướng Chính phủ về việc tăng cường sử dụng vật liệu xây không nung, hạn chế sản xuất, sử dụng gạch sét nung, với sự tham dự của đại diện các TCty, Cty thuộc lĩnh vực sản xuất VLXD, lãnh đạo Sở Xây dựng các tỉnh thành phía Bắc từ TT-Huế trở ra. Phát biểu tại hội nghị, Thứ trưởng Nguyễn Trần Nam nhấn mạnh: "Đề nghị lãnh đạo sở Xây dựng các tỉnh (còn tồn tại các lò gạch thủ công) tăng cường và chủ động tham mưu cho UBND tỉnh quyết liệt xóa bỏ lò gạch thủ công theo tinh thần chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ cũng như Bộ Xây dựng đã đặt ra". Những con số lo ngại Số liệu thống kê của Vụ VLXD cho biết, riêng năm 2011, sản lượng gạch sét nung của cả nước ước đạt 20,9 tỷ viên, chiếm 83,7% tổng số vật liệu xây, sản lượng gạch sản xuất bằng lò thủ công vẫn chiếm tỷ lệ lớn, khoảng 35 - 40%. Tăng cường sử dụng VLXD không nung nhằm hạn chế sử dụng tài nguyên đất sét, giảm thiểu ô nhiễm môi trường. Trong khi đó, theo phân tích của Thứ trưởng Nguyễn Trần Nam thì, để sản xuất ra 1 tỷ viên gạch đất sét nung quy tiêu chuẩn cần sử dụng 150 nghìn tấn than, phát thải 0,57 triệu tấn khí CO2 ra môi trường và tiêu tốn khoảng 1,5 triệu m3 đất sét. Khối lượng đất sét này, nếu khai thác với độ sâu 2m, sẽ trải rộng trên diện tích 75ha đất nông nghiệp. Quy hoạch tổng thể phát triển VLXD đến năm 2020, nhu cầu sử dụng vật liệu xây của nước ta ước khoảng 42 tỷ viên. Số lượng này, nếu dùng hoàn toàn bằng gạch sét nung, sẽ tiêu tốn mỗi năm từ 57 - 60 triệu m3 đất sét, tương ứng với 2.800 - 3.000ha đất nông nghiệp, bằng diện tích của một xã. Nói cách khác, nếu không có biện pháp mạnh mẽ, kịp thời phát triển vật liệu thay thế thì mỗi năm, chúng ta có nguy cơ mất trắng một xã để lấy đất nông nghiệp làm gạch sét nung. Chính sách quyết liệt "Sản xuất và sử dụng vật liệu xây không nung không những giúp chúng ta gìn giữ đất nông nghiệp, góp phần bảo đảm an ninh lương thực quốc gia mà còn góp phần quan trọng nhằm giảm thiểu ô nhiễm môi trường, giảm chi phí xử lý phế thải của các ngành công nghiệp, mang lại hiệu quả kinh tế chung cho toàn xã hội" - Thứ trưởng Nguyễn Trần Nam nói. Lê Minh Thắng - Lớp B10K2.2A QUẢN TRỊ CHIẾN LƯỢC NGÀNH SẢN XUẤT GẠCH KHÔNG NUNG Ở VIỆT NAM 8 Ngay từ năm 2010, Bộ Xây dựng đã tham mưu cho Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định 567/QĐ-TTg vào ngày 28/4/2010về Phê duyệt Chương trình phát triển vật liệu xây không nung đến năm 2020. Theo đó, phát triển sản xuất và sử dụng loại vật liệu này thay thế gạch sét nung đạt tỷ lệ 20 - 25% vào năm 2015 và từ 30 - 40% vào năm 2020. Song xuất phát từ thực tế hiện nay, việc sử dụng gạch sét nung vẫn chiếm tỷ lệ lớn trong các công trình xây dựng (83,7%) và tại nhiều địa phương vẫn còn tồn tại phổ biến lò gạch thủ công, như các tỉnh thành: Hà Nội, Thái Bình, Vĩnh Long, An Giang... Nên Bộ Xây dựng tiếp tục tham mưu cho Thủ tướng Chính phủ ban hành Chỉ thị số 10/CT-TTg về việc tăng cường sử dụng VLXD không nung, hạn chế sản xuất, sử dụng gạch sét nung, nhằm hạn chế đến mức thấp nhất sử dụng tài nguyên đất sét, nhiên liệu hóa thạch, giảm thiểu ô nhiễm môi trường trong sản xuất gạch sét nung. Chỉ thị nêu rõ: UBND các tỉnh, thành phối hợp chặt chẽ với Bộ Xây dựng tiếp tục xây dựng lộ trình giảm dần việc sản xuất, sử dụng gạch sét nung, tiến tới chấm dứt sản xuất gạch đất sét nung bằng lò thủ công, lò thủ công cải tiến, lò vòng sử dụng nhiên liệu hoá thạch phù hợp với điều kiện cụ thể của từng địa phương. Theo tinh thần Chỉ thị số 10/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ, Bộ Xây dựng đã đưa ra những quy định cụ thể về công nghệ sản xuất gạch đất sét nung; quy định lộ trình cụ thể xóa bỏ lò gạch thủ công, thủ công cải tiến, lò đứng liên tục và lò vòng sử dụng nhiên liệu hóa thạch trên phạm vi toàn quốc. Theo đó, khu vực các tỉnh đồng bằng, thành phố trực thuộc Trung ương, các khu vực thị xã, thị tứ, khu dân cư, gần khu vực canh tác trồng lúa và hoa màu của các tỉnh còn lại phải chấm dứt hoạt động và năm 2012 với lò thủ công và thủ công cải tiến. Đối với lò đứng liên tục, chậm nhất vào năm 2015 phải chấm dứt hoạt động. Ngoài ra, Bộ cũng quy định các tiêu chuẩn sản phẩm VLXD không nung cũng như việc sử dụng VLXD không nung trong các công trình xây dựng. 3. Mô hình năm lực lượng cạnh tranh 3.1. Áp lực từ nhà cung cấp ở mức trung bình Số lượng nhà cung cấp trên thị trường hiện nay nhiều, tại khu vực miền trung có các nhà máy sản xuất như công ty DIC Đà Nẵng, nhà máy sản xuất gạch Thanh Phúc, Trung Hậu, nhà máy tại Ninh Thuận,…. Quy mô cung cấp của các nhà máy này với số lượng rất lớn, Số lượng nhà cung cấp sẽ quyết định đến áp lực cạnh tranh, quyền lực đàm phán của họ đối với ngành, doanh nghiệp. Nếu trên thị trường chỉ có một vài nhà cung cấp có quy mô lớn sẽ tạo áp lực cạnh tranh, ảnh hưởng tới toàn bộ hoạt động sản xuất kinh doanh của ngành, nhưng hiện nay trên thị trường số lượng nhà máy sản xuất nhiều, do đó có sự cạnh tranh quyết liệt về công nghẹ, chất lượng, và giá. 3.2. Áp lực từ người mua rất cao Nhìn vào xu hướng giảm giá và khuyến mãi của nhà cung cấp, cũng có thể thấy phần nào sức mạnh của người mua. Tại từng thị trường, khách hàng thường tập trung vào một số nhà máy sản xuất lớn hoặc tập đoàn sản xuất. Cũng vì vậy, kênh phân phối thường do các đối tượng này nắm giữ. Doanh nghiệp Việt Nam luôn phải điều chỉnh quy trình sản xuất sản phẩm để theo kịp các tiêu chuẩn về sản phẩm và giá cả cạnh Lê Minh Thắng - Lớp B10K2.2A QUẢN TRỊ CHIẾN LƯỢC NGÀNH SẢN XUẤT GẠCH KHÔNG NUNG Ở VIỆT NAM 9 tranh của các nhà máy khác nhau. Sản phẩm gạch không nung có sự khác biệt giữa các doanh nghiệp rất ít nên khách hàng rất dễ thay đổi nguồn nguyên liệu đầu vào. 3.3. Áp lực từ sản phẩm thay thế ở mức cao Với nhu cầu sử dụng gạch không nung như hiện nay thì việc giữ chân khách hàng gặp nhiều khó khăn, cộng với nhu cầu về sản lượng chưa đại trà nên tính cạnh tranh của các sản phẩm rất lớn. Áp lực cạnh tranh chủ yếu của gạch không nung là khả năng đáp ứng nhu cầu về giá, chất lượng so với các sản phẩm trong ngành,vì sản phẩm này có độ bền cao, dây chuyền công nghệ phức tạp, cộng thêm các yếu tố khác của môi trường như thói quen sử dụng sản phẩm gạch đất sét nung của khách hàng nhỏ lẻ. Tính bất ngờ, khó dự đoán của sản phẩm thay thế : Ngay cả trong nội bộ ngành với sự phát triển của công nghệ cũng có thể tạo ra sản phẩm thay thế cho ngành mình. Việc hàng loạt nhà máy sản xuất gạch không nung ra đời, tạo nên sự cạnh tranh về mẫu mã, chất lượng, giá cả… 3.4. Áp lực cạnh tranh từ những đối thủ mới rất cao + Sức hấp dẫn của ngành: Công trình xây dựng giảm được 7 - 10% chi phí xây thô khi chủ đầu tư thay gạch đất nung bằng gạch bêtông nhẹ. Không chỉ đảm bảo về độ bền, thi công dễ hơn gạch nung, nếu áp dụng rộng khắp cả nước, số tiền tiết kiệm được một năm lên tới hàng nghìn tỷ đồng. Một trong những vấn đề mấu chốt mà các chủ đầu tư, nhà thầu và thiết kế quan tâm trong việc xây các dự án cao tầng là không ngừng nâng cao chất lượng công trình trong khi vẫn đảm bảo chi phí đầu tư, xây dựng dự án. Đây là loại gạch mới ở Việt Nam nhưng trên thế giới đã sử dụng hơn 40 năm, chứng tỏ nhiều ưu thế vượt trội về kinh tế và bảo vệ môi trường. Ở Trung Quốc, Malaysia, các nước khối EU..., tỷ lệ gạch bêtông nhẹ đã thay thế trên 50% gạch đất sét nung và tỷ lệ này ngày một cao. + Những rào cản gia nhập ngành : Theo TS Lương Đức Long- Viện trưởng viện Vật liệu xây dựng- Bộ Xây Dựng, “một bộ phận người dân Việt Nam hiện nay vẫn chưa mặn mà lắm với Gạch Không Nung bởi do thói quen tiêu dùng từ hàng trăm năm nay vốn là sử dụng gạch đất nung cộng thêm tâm lý lo ngại về chất lượng sản phẩm… Việc này ít nhiều cũng gây ảnh hưởng đến việc gia nhập và mở rộng thị trường của gạch không nung, tạo rào cản trong việc xóa bỏ gạch đất nung thông thường – loại gạch vốn dĩ gây nguy hiểm đến lợi ích của con người và xã hội, đặc biệt đáng báo động về tình trạng ô nhiễm môi trường bởi các chất độc hại các lò nung thủ công hiện nay”. 3.5. Cạnh tranh nội bộ ngành cao Sự phá giá là một trong những nguyên nhân chính khiến giá gạch không nung liên tục giảm những năm gần đây. Có thể thấy về mặt chủ quan, tiềm lực tài chính của các doanh nghiệp trong ngành VLXD hiện không mạnh. Tỷ lệ vay trên tổng vốn đầu tư lớn, nên khi thị trường tài chính có biến động sẽ bị ảnh hưởng rất nhiều. Thêm nữa, cũng vì tiềm lực tài chính yếu nên doanh nghiệp không mua được các thiết bị tốt, khi sản xuất dễ gặp trục trặc, Lê Minh Thắng - Lớp B10K2.2A QUẢN TRỊ CHIẾN LƯỢC NGÀNH SẢN XUẤT GẠCH KHÔNG NUNG Ở VIỆT NAM 10 dẫn tới ảnh hưởng chất lượng và giá thành. Ngoài ra, hoạt động quản lý sản xuất ở nhiều đơn vị còn chưa tốt nên chi phí cao, tiêu hao vật tư, thiết bị và năng lượng lớn. Bên cạnh đó, đa phần các doanh nghiệp chỉ quan tâm tăng mạnh công suất sản xuất. Điều này lại càng làm tăng sức ép lên thu mua nguyên liệu, tiêu thụ sản phẩm và tính cạnh tranh. Ngoài ra, thị trường phát triển nhanh, mạnh tới mức cần có một tác động từ phía quản lý để đưa ngành sản xuất gạch không nung phát triển có hệ thống, ổn định và bền vững hơn. Về dài hạn, sự phát triển kinh tế sẽ khiến cho nhu cầu gạch không nung ngày càng phong phú, đa dạng, và khắt khe hơn cùng với sự phát triển của một số nguồn sản phẩm thay thế; mức cạnh tranh sẽ càng khốc liệt hơn. 4. Chu kỳ ngành Trong khi đa số nhà sản xuất VLN còn loay hoay với bài toán đầu tư công nghệ, thì với tính năng vượt trội, phù hợp với nền công nghiệp xây dựng hiện đại, thân thiện với môi trường... VLKN đang từng bước lấn sân và thay thế trên thị trường VLXD. Từng bước lấn sân Phát triển sản xuất và sử dụng gạch không nung là xu hướng tất yếu của ngành công nghiệp xây dựng hiện đại. Chính phủ đã phê duyệt chương trình phát triển VLXD không nung thay thế gạch đất sét nung, đến năm 2020 VLKN chiếm 40% sản lượng VLXD. Hiện nay, trên cả nước có 9 nhà máy sản xuất bê tông khí chưng áp (AAC), bê tông bọt, gạch block xi- măng cốt liệu đi vào sản xuất như Công ty Tân Kỷ Nguyên - Ebock, Viglacera, Sông Đà Cao Cường...với công suất 1,5 triệu m3/năm; 17 cơ sở bê tông bọt có công suất 0,4 triệu m3 và hơn 30 nhà máy gạch block cốt liệu xi măng công suất 20-35 triệu viên và hàng trăm cơ sở khác, đưa tổng công suất VLKN lên đến 4,3 tỷ viên chiếm khoảng 17-18% VLXD. Bên cạnh đó còn 13 dự án nhà máy bê tông khí chưng áp AAC sẽ đưa vào sản xuất trong năm 2012 - 2013, đủ để cung cấp ra thị trường. Điển hình, mục tiêu của tỉnh Nghệ An đến 2013 sẽ đạt 100 triệu viên gạch không nung/năm. Còn đến năm 2020: mục tiêu của Nghệ An sẽ đạt 1 tỷ viên/năm. Hiện nay trên địa bàn Nghệ An có các dự án gạch không nung đang triển khai gồm: Dự án gạch block bê tông siêu nhẹ tại KCN Đông Hồi, Thị trấn Hoàng Mai - Quỳnh Lưu công suất 400.000m3/năm, tương đương 200 triệu viên/năm. Dự án gạch không nung tại cụm công nghiệp Trường Thạch (Nghi Lộc), công suất 45 triệu viên/năm; dự án gạch không nung tại KCN Đô Lăng - Nghi Lâm - Nghi Lộc; Dự án sản xuất gạch block bê tông nhẹ tại Thị xã Thái Hòa, công suất 400.000 m3/năm, tương đương 200 triệu viên/năm và Dự án gạch không nung của Công ty Kiều Phương tại Tân Kỳ, công suất 15 triệu tấn/năm. Với yêu cầu nói trên của lãnh đạo tỉnh, dự kiến sẽ giải tỏa được đầu ra cho các dự án gạch không nung đang là xu hướng phát triển của thời đại trong lĩnh vực xây dựng, đồng thời góp phần bảo vệ môi trường, trả lại đất canh tác nông nghiệp và giảm sử dụng nhiên liệu hóa thạch. Đến 2020, trên địa bàn tỉnh chấm dứt hoạt động của lò gạch nung và lò gạch thủ công. Hiện tại, thị trường bất động sản đang trong thời kỳ khó khăn, ảnh hưởng không ít đến thị phần của VLKN khi mới bắt đầu tham gia thị trường. Tuy nhiên, với tính Lê Minh Thắng - Lớp B10K2.2A QUẢN TRỊ CHIẾN LƯỢC NGÀNH SẢN XUẤT GẠCH KHÔNG NUNG Ở VIỆT NAM 11 năng vượt trội của dòng sản phẩm này, phân khúc nhà dân cư riêng lẻ đang tiếp nhận sản phẩm VLKN khá tốt. Đây mới là thị trường tiềm năng bởi vì phân khúc này chiếm 80% thị trường VLXD 5. Các nhân tố then chốt thành công trong ngành Trọng lượng nhẹ Gạch bê tông nhẹ nhẹ hơn từ ½ đến 1/3 so với gạch đất nung và chỉ bằng ¼ trọng lượng gạch bê tông thường. Nguyên nhân chính là do kết cấu bọt khí chiếm đến 80% toàn bộ cấu tạo bên trong viên gạch. Đây là đặc tính nổi trội giúp tiết kiệm lượng vật liệu làm khung, móng cọc, cũng như giúp vận chuyển, thi công dễ dàng. Cách âm tốt Gạch bê tông nhẹ có cách tản âm tự nhiên nhờ vào cấu trúc bọt khí và khả năng hấp thụ âm thanh vượt trội. Dù âm thanh từ bên ngoài đi vào phòng hay từ trong phòng đi ra đều bắt buộc chuyển động theo đường zig-zag, sóng âm bị chia nhỏ dần tại các đường gãy và giảm đến mức tối thiểu khi xuyên được qua tường. Cách nhiệt và tiết kiệm năng lượng Gạch bê tông nhẹ có hệ số dẫn nhiệt rất thấp, vì vậy sẽ dẫn đến hiệu ứng đông ấm, hạ mát. Cũng nhờ vậy, mức điện dùng cho điều hòa nhiệt độ được tiết kiệm đến 40%, tạo giá trị lâu dài cho người sử dụng. Đồng thời, tường ngăn xây bằng gạch bê tông nhẹ có thể chịu đựng trên mức 1200 độ C của những đám cháy thông thường và không thay đổi kết cấu khi bị phun nước lạnh đột ngột. Kết quả thử nghiệm cho thấy bức tường xây bằng gạch bê tông nhẹ đảm bảo an toàn tối thiểu là 4 tiếng trong đám cháy. Độ bền vững cao Gạch bê tông nhẹ là loại vật liệu xây dựng có tính đồng nhất, có gốc là bê tông và được dưỡng hộ trong điều kiện hơi nước bão hòa áp suất cao. Nhờ quá trình chưng áp, các thành phần hóa học và cấu trúc tinh thể được ổn định để tạo ra kết cấu vững chắc bao gồm chủ yếu là khoáng tobermorite. Vì thế, gạch bê tông nhẹ có độ bền vững theo thời gian, có cường độ chịu lực cao nhất trong các loại vật liệu có dạng xốp và ổn định hơn các dạng gạch bê tông thông thường. Độ chính xác cao Gạch bê tông nhẹ có kích thước xây dựng khá lớn, được sản xuất theo đúng kích thước quy chuẩn, giúp việc xây tường có độ chính xác cao, giảm thất thoát lượng vữa để trát phẳng mặt. Chính điều này góp phần giảm chi phí vữa và thời gian hoàn thành so với gạch đất nung thông thường. Chống nhiều loại côn trùng Là loại vật liệu không bị tấn công bởi mối, mọt, kiến hoặc các sinh vật khác trong điều kiện khí hậu nhiệt đới. Lê Minh Thắng - Lớp B10K2.2A QUẢN TRỊ CHIẾN LƯỢC NGÀNH SẢN XUẤT GẠCH KHÔNG NUNG Ở VIỆT NAM 12 Thân thiện môi trường Gạch bê tông nhẹ có kích thước xây dựng khá lớn, được sản xuất theo đúng kích thước quy chuẩn, giúp việc xây tường có độ chính xác cao, giảm thất thoát lượng vữa để trát phẳng mặt. Chính điều này góp phần giảm chi phí vữa và thời gian hoàn thành so với gạch đất nung thông thường. 6. Động thái cạnh tranh ngành Những ưu điểm chung - Quá trình sản xuất gạch không nung không sử dụng đến đất nông nghiệp do đó không ảnh hưởng đến diện tích đất nông nghiệp. Mặt khác do không dùng đến than củi, … nên tiết kiệm được nhiên liệu, tránh được tình trạng phá rừng tràn lan và không gây ô nhiễm môi trường. - Nguyên vật liệu để sản xuất gạch không nung hết sức phong phú và có sẵn trong nước như mạt đá, cát vàng, xi măng…, sản phẩm đa dạng. - Dây chuyền sản xuất gạch sử dụng ít công nhân, do các khâu hầu hết được tự động hoá. Trong điều kiện Việt Nam hiện nay, nhân lực thủ công nhiều nên có thể chỉ cần tự động hoá một số khâu quyết định chất lượng sản phẩm, còn một số khâu có thể sử dụng nhân công thủ công thì không cần tự động hoá để giảm mức đầu tư. Những ưu điểm của gạch không nung so với gạch nung trong việc xây nhà cao ốc và kho tàng - Cường độ chịu lực có thể đáp ứng theo nhu cầu sử dụng. Đây là đặc tính mà gạch nung không thể chịu được. Đối với những vị trí yêu cầu cường độ rất cao (300 – 400 kg/cm2) thì gạch nung không đáp ứng được. Đối với những vị trí yêu cầu cường độ thấp (chỉ mang tính chất tường ngăn) thì cho phép giảm lượng xi măng phối liệu để đảm bảo giá thành vừa phải, tránh lãng phí. - Khả năng cách âm, cách nhiệt, chống thấm cao. Điều này hoàn toàn phù hợp vào kết cấu của viên gạch và cấp phối vữa bê tông. - Kích thước viên gạch lớn hơn nhiều so với gạch nung (gấp từ 2 đến 11 lần thể tích viên gạch nung), cho phép giảm được chi phí nhân công, đạt được tiến độ nhanh hơn cho các công trình xây dựng. Ngoài ra lượng vữa dùng để xây tường bằng gạch không nung và trát giảm tới 2,5 lần so với gạch đất nung. - Có thể tiết kiểm được thời gian và tài chính, đơn giản hoá được một số khâu trong quá trình xây dựng. - Nếu có chất độn nhẹ (ví dụ sỏi keramzit, đá basalt nhẹ, than xỉ…) thì trọng lượng viên gạch giảm đáng kể. - Đa dạng chủng loại, màu sắc, kích thước đồng đều và tính thẩm mỹ cao. Những ưu điểm của việc dùng gạch không nung lát đường so với các phương pháp lát đường hè khác - Cường độ chịu lực cao - Giảm thời gian thi công. Đường, hè sau khi lát xong có thể sử dụng được ngay lập tức - Trong quá trình thi công, gạch lát không nung không cần trát mạch, do vậy tiết kiệm vật liệu, nhân công, giảm thời gian thi công và nhất là có tác dụng thoát nước cho mặt vỉa hè. Lê Minh Thắng - Lớp B10K2.2A QUẢN TRỊ CHIẾN LƯỢC NGÀNH SẢN XUẤT GẠCH KHÔNG NUNG Ở VIỆT NAM 13 - Khi cần thiết có thể dễ dàng thay đổi kiểu dáng và kích thước đường hoặc vỉa hè, trong quá trình sử dụng có thể dễ dàng tháo dỡ các viên gạch lát cũ để thay thế bằng các viên gạch lát mới một cách nhanh chóng - Hình dáng hình học và màu sắc các viên gạch rất đa dạng để tăng tính thẩm mỹ. - Do đặc điểm của gạch block là gạch bê tông tự đông cứng nên trong quá trình thi công không phụ thuộc vào thời tiết nắng mưa. Những nhược điểm của gạch không nung - Giá thành cao. - Sử dụng cát làm gạch khiến nhu cầu khai thác cát tăng cao. - Tuy trong quá trình sản xuất và thi công ít ô nhiễm, nhưng sử dụng rất nhiều nguyên liệu thứ phẩm gây ô nhiễm như xi măng, bột nhôm... 7. Các lực lượng dẫn dắt ngành 7.1. Sự thay đổi về mức tăng trưởng dài hạn của ngành Nhu cầu về vật liệu xây tại Việt Nam tăng rất nhanh, khoảng 10-12%/năm. Nếu theo Quy hoạch tổng thể phát triển vật liệu xây dựng Việt Nam đến năm 2020, nhu cầu sử dụng vật liệu xây vào năm 2015 và 2020 tương ứng khoảng 32 và 42 tỷ viên quy tiêu chuẩn. Tuy nhiên, để sản xuất một tỷ viên gạch đất sét nung quy tiêu chuẩn sẽ tiêu tốn khoảng 1,5 triệu m3 đất sét, tương đương 75ha đất nông nghiệp (độ sâu khai thác là 2m) và 150.000 tấn than, đồng thời thải ra khoảng 0,57 triệu tấn khí CO2 - tác nhân gây hiệu ứng nhà kính và các khí thải độc hại khác gây ô nhiễm môi trường. Như vậy, đến năm 2020, nếu đáp ứng nhu cầu vật liệu xây hoàn toàn bằng gạch đất sét nung sẽ tiêu tốn mỗi năm khoảng 57-60 triệu m3 đất sét, tương đương 2.800 đến 3.000ha đất nông nghiệp làm ảnh hưởng đến an ninh lương thực quốc gia; đồng thời tiêu tốn 5,3- 5,6 triệu tấn than và thải ra môi trường khoảng 17 triệu tấn khí CO2. 7.2. Những thay đổi về quy định và chính sách Hiện nhiều nước trên thế giới đã loại bỏ vật liệu nung và thay thế bằng vật liệu xây không nung. Tại Việt Nam , phương án này cũng đã được ghi nhận và triển khai thực tế. Các chuyên gia trong ngành ghi nhận việc sử dụng vật liệu xây không nung sẽ hạn chế được các tác động bất lợi nêu trên, đồng thời đem lại nhiều hiệu quả tích cực về các mặt kinh tế, xã hội, bảo vệ môi trường. Quá trình sản xuất vật liệu xây không nung còn giúp tiêu thụ một phần đáng kể phế thải các ngành khác như nhiệt điện, luyện kim, khai khoáng..., góp phần tiết kiệm tài nguyên thiên nhiên, giảm thiểu ô nhiễm môi trường cũng như các chi phí xử lý phế thải. Đặc biệt, các loại vật liệu xây không nung đã nhanh chóng chứng minh được một số ưu điểm nổi bật như: nhẹ - giúp giảm tải trọng công trình, do đó tiết kiệm chi phí làm móng và khung chịu lực, đẩy nhanh tiến độ thi công; tính cách nhiệt cao, góp phần tích cực vào chương trình tiết kiệm năng lượng. Bởi vậy, Quyết định số 567/QĐ- TTg ngày 28/4/2010 về Chương trình phát triển vật liệu xây không nung đến năm 2020 đã nêu rõ mục tiêu phát triển dòng sản phẩm này. Theo đó, sản xuất và sử dụng vật liệu xây không nung nhằm thay thế gạch đất sét nung, tiết kiệm đất nông nghiệp, góp phần bảo đảm an ninh lương thực quốc gia, Lê Minh Thắng - Lớp B10K2.2A QUẢN TRỊ CHIẾN LƯỢC NGÀNH SẢN XUẤT GẠCH KHÔNG NUNG Ở VIỆT NAM 14 giảm thiểu khí phát thải gây hiệu ứng nhà kính và ô nhiễm môi trường, giảm chi phí xử lý phế thải của các ngành công nghiệp, tiết kiệm nhiên liệu than, đem lại hiệu quả kinh tế chung cho toàn xã hội. 8. Tính hấp dẫn ngành Chương trình 567 với mục tiêu phát triển sản xuất và sử dụng vật liệu xây không nung thế gạch đất sét nung đạt tỷ lệ 20-25% vào năm 2015 đã được xã hội và các doanh nghiệp rất quan tâm. Chỉ tính ba chủng loại sản phẩm chính là gạch ximăng- cốt liệu, gạch bêtông khí chưng áp và gạch bêtông bọt thì tổng công suất đầu tư đã đạt 4,2 tỷ viên quy tiêu chuẩn/năm, chiếm từ 16-17 % so với tổng sản lượng vật liệu xây năm 2011, ước đạt 25 tỷ viên. Trong khi đó, cuối năm 2008, sản lượng vật liệu xây không nung mới chỉ chiếm 8-8,5%. Điều này cho thấy các doanh nghiệp đã chủ động chọn hướng đi mới. Cùng đó, tỷ lệ gạch nhẹ trên tổng số vật liệu xây không nung phấn đấu đạt mục tiêu khoảng 21% vào năm 2015 và 25% vào năm 2020 thì nay đã đạt 1,2 tỷ viên quy tiêu chuẩn/năm (chiếm khoảng 28,6%) - vượt mục tiêu đề ra. Tổng giá trị các doanh nghiệp đã đầu tư đến cuối năm 2011 khoảng hơn 2.500 tỷ đồng, trong đó đầu tư sản xuất vật liệu xây không nung nhẹ (bêtông khí chưng áp và bêtông bọt) cũng gần 1.000 tỷ đồng. Tuy nhiên, đòn bẩy thực sự cho thị trường chính là Chỉ thị số 10/CT-TTg ngày 16/4/2012 về tăng cường sử dụng vật liệu không nung, hạn chế sử dụng gạch đất sét nung của Chính phủ. Cùng với các hệ thống định mức kinh tế kỹ thuật đã được Bộ Xây dựng ban hành, các doanh nghiệp kỳ vọng đây sẽ là lối mở để vật liệu không nung tiến quân, trước tiên là vào các công trình sử dụng vốn ngân sách. Ta có thể tóm tắt các cơ hội, thách thức, điểm mạnh và điểm yếu cơ bản của ngành sản xuất vật liệu xây dựng gạch không nung tại Việt Nam như sau: Cơ hội: Chính phủ bắt đầu có những chính sách khuyến khích, phát triển, đẩy mạnh đầu tư vào ngành sản xuất vật liệu xây dựng gạch không nung. Thị phần ngày càng gia tăng Thị trường ngày càng được mở rộng Lựa chọn sản phẩm tốt hơn cho con người và công trình Thách thức: Khả năng cạnh tranh vào các thị trường còn nhiều khó khăn. Nhận thức của người dân về vật liệu. Một số thị trường khó tính, yêu cầu khắt khe. Ngành công nghiệp liên quan, phụ trợ phát triển chưa đồng bộ và không đáp ứng hết nhu cầu phát triển vật liệu trong nước. Điểm mạnh: Không tốn khối lượng đất hăng năm cho khai thác gạch nung. Nguồn nguyên liệu dồi dào dễ kiếm. Giảm lượng khí thải, bảo vệ môi trường. Lê Minh Thắng - Lớp B10K2.2A QUẢN TRỊ CHIẾN LƯỢC NGÀNH SẢN XUẤT GẠCH KHÔNG NUNG Ở VIỆT NAM 15 Nhẹ, cách nhiệt, cách âm tốt, cường độ cao. Ngành và các ngành công nghiệp phụ trợ, bổ sung bắt đầu được đầu tư và phát triển Điểm yếu: Các doanh nghiêp đầu tư lúc kinh tế đang khó khăn. Nguồn vốn đầu tư cho ngành còn thấp. Kinh nghiệm về sản phẩm chưa nhiều. Nhận biết về vật liệu của ngành xây dựng còn ít. Các doanh nghiệp đa số vay ngân hàng với lãi suất cao. Kết luận: Hưởng ứng lời kêu gọi “Người Việt ưu tiên dùng hàng Việt” của MTTQ Việt Nam, đẩy mạnh “Chương trình phát triển Vật liệu xây dựng không nung đến 2020” trong đó “từng bước nội địa hóa thiết bị dây chuyền sản xuất gạch không nung”. Nội địa hóa dây chuyền thiết bị là một lợi thế vô cùng lớn, nó giúp các nhà đầu tư bỏ ra nhiều chi phí cho các chuyến công tác nước ngoài cùng với nhiều rủi ro phát sinh, gánh chịu chi phí vận chuyển và mô giới không hề nhỏ, chịu tiền thuế xuất nhập khẩu, và quan trọng là sự bất đồng về ngôn ngữ cùng với sự thiếu tin tưởng bởi ngăn cách địa lý, văn hóa và môi trường sản xuất kinh doanh,... Hàng ngàn công trình lớn nhỏ đã sử dụng gạch không nung, đặc biệt là Toà nhà Keangnam-cao nhất Việt Nam (đường Phạm Hùng, Hà Nội), Habico Tower (Phạm Văn Đồng, Hà Nội), Hà Nội Plaza hotel (Trần Duy Hưng, Hà Nội), Lotte (Hà Nội), Sông Giá resort (Hải Phòng)… là những biểu tượng khẳng định vị trí vững chắc của gạch không nung trong xây dựng. Việc xúc tiến chuyển giao công nghệ gạch không nung xi măng cốt liệu tại Việt Nam đang rất sôi động. Chỉ trong 3 tháng cuối năm 2010, đã có 3 công nghệ dây chuyền sản xuất gạch không nung DmCline được ký kết và tiến hành chuyển giao và theo kế hoạch sang năm 2011, sẽ có ít nhất 15 dây chuyền DmCline sẽ chuyển giao. Đây là những kết quả to lớn đối với “chương trình phát triền vật liệu không nung đến năm 2020” đã được Thủ tướng Chính phủ ký ngày 28/4/2010. Tại thị trường Việt Nam, với mục tiêu: “Mang đến cho cộng đồng và người sử dụng những lợi ích thiết thực nhất của sản phẩm”, gạch không nung đã nhận được sự tín nhiệm của đội ngũ KTS, các nhà thiết kế, đồng thời chinh phục được những người tiêu dùng khó tính nhất. Ngoài việc được sản xuất ra từ những vật liệu và công nghệ thân thiện với môi trường, gạch không nung còn làm vừa lòng người dùng bằng các tính năng ưu việt như: Siêu nhẹ, siêu bền, chống thấm, chống nóng, chống cháy, cách nhiệt và chống ồn cực kỳ hiệu quả, chính vì thế, gạch không nung không chỉ đơn thuần là gạch xây mà còn hệ thống các giải pháp về sự an toàn, bền đẹp và thân thiện với môi trường. Lê Minh Thắng - Lớp B10K2.2A QUẢN TRỊ CHIẾN LƯỢC NGÀNH SẢN XUẤT GẠCH KHÔNG NUNG Ở VIỆT NAM 16 MỤC LỤC 1. Đặc điểm ngành sản xuất gạch không nung ở Việt Nam 2 2. Phân tích môi trường bên ngoài 4 2.1. Môi trường kinh tế 4 2.2. Môi trường chính trị - pháp luật 7 3. Mô hình năm lực lượng cạnh tranh 8 3.1. Áp lực từ nhà cung cấp ở mức trung bình 8 3.2. Áp lực từ người mua rất cao 8 3.3. Áp lực từ sản phẩm thay thế ở mức cao 9 3.4. Áp lực cạnh tranh từ những đối thủ mới rất cao 9 3.5. Cạnh tranh nội bộ ngành cao 9 4. Chu kỳ ngành 10 5. Các nhân tố then chốt thành công trong ngành 11 6. Động thái cạnh tranh ngành 12 7. Các lực lượng dẫn dắt ngành 13 7.1. Sự thay đổi về mức tăng trưởng dài hạn của ngành 13 7.2. Những thay đổi về quy định và chính sách 13 8. Tính hấp dẫn ngành 14 Kết luận 15

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfthang_lop_b10k22a_pt_nganh_vn_5927.pdf
Luận văn liên quan