Nghiên cứu sự ảnh hưởng của thức ăn tự chế và thức ăn công nghiệp lên hiệu quả nuôi cá tra (pangasius hypophthalmus) trong ao nuôi thâm canh

Như vậy, qua kết quả nghiên cứu về hiệu quả sản xuất của việc sử dụng TATC trong ao nuôi cá tra thâm canh sov ới TACN cho thấy TATC đã sử dụng nguyên liệu có chất lượng tốt và tỷ lệ phối chế hợp lý.Mặt khác, TATC được chế biến qua máy móc thiết bị hiện đại nên chất lượng viên thức ăn gần tương đương với TACN bán trên thị trường. Điều này đã giúp cá có tốc độ tăng trưởng nhanh và tỷ lệ sống khá cao, đặc biệt là chất lượng thịt cá, tỷ lệ cá loại 1 của ao TATC (83%) cao hơn so với ao sử dụng TACN (80,9%).

pdf46 trang | Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2678 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Nghiên cứu sự ảnh hưởng của thức ăn tự chế và thức ăn công nghiệp lên hiệu quả nuôi cá tra (pangasius hypophthalmus) trong ao nuôi thâm canh, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
cá tra thịt trắng chỉ đạt 71-75%. Bên cạnh đó theo kết quả thí nghiệm của Lê Bảo Ngọc (2004) cho thấy, các ao cá tra thâm canh thả với mật độ trung bình 83 con/m2, sử dụng thức ăn viên kết hợp với TATC, cá sau khi nuôi được 7 tháng đạt trọng lượng từ 852-1.073 g/con, tỷ suất lợi nhuận của các ao 3,33-8,63%. Qua các kết quả ngiên cứu của các tác giả trên cho thấy, ở cá hai hình thức nuôi bè và nuôi ao, chi phí TATC luôn thấp hơn chi phí thức ăn viên công Trung tâm Học liệu ĐH Cần Thơ @ Tài liệu học tập và nghiên cứu 15 nghiệp. Ở hình thức nuôi cá bè sử dụng TATC có thể đem lại giá thành thấp hơn nhưng biến động giá thành lại lớn hơn sử dụng thức ăn viên, do biến động giá nguyên liệu phối chế thức ăn. Trong khi đó, ở hình thức nuôi ao giá thành sản phẩm khi sử dụng thức ăn viên hay tự chế đều biến động lớn nhưng giá thành thấp hơn khi sử dụng TATC (Lê Thanh Hùng và ctv., 2006). Đồng thời giá trị tỷ suất lợi nhuận (hiệu quả sử dụng đồng vốn) ở hai hình thức nuôi khi sử dụng TATC có sự biến động lớn, do biến động giá nguyên liệu phối chế trong công thức thức ăn và giá bán sản phẩm trên thị trường. Như vậy, đa số hộ nuôi cá da trơn trên thế giới và các hộ nuôi cá tra ở nước ta vẫn còn sử dụng cá tạp như là nguyên liệu chính trong phối trộn thức ăn, theo kết quả điều tra của Lê Thanh Hùng và ctv. (2006) cho thấy, tỷ lệ hộ nuôi sử dụng cá tạp là 80,6%. Điều này gây ảnh hưởng xấu đến môi trường nước và làm cạn kiệt tài nguyên (do việc đánh bắt cá biển làm thức ăn cho cá) đã chỉ ra rằng TATC sử dụng cá tạp không thể là loại thức ăn cho tương lai (sử dụng cho mô hình nuôi bền vững). Tuy vậy, trong hoàn cảnh giá cá tra vẫn luôn bấp bênh và luôn chịu ảnh hưởng từ thị trường thế giới thì TACN cũng không thể sử dụng rộng rãi trong người nuôi. Do đó, việc tìm ra một loại TATC có khả năng khắc phục những hạn chế của TATC có sử dụng cá tạp nhưng giá thấp hơn so với TACN được xem là một hướng đi thích hợp trong bối cảnh hiện nay. Hình 2.2: Ao nuôi cá Tra được theo dõi Trung tâm Học liệu ĐH Cần Thơ @ Tài liệu học tập và nghiên cứu 16 CHƯƠNG 3 PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 3.1 Thời gian và địa điểm nghiên cứu 3.1.1 Thời gian nghiên cứu đề tài được thực hiện từ tháng 11/2005 đến tháng 06/2006 3.1.2 Địa điểm nghiên cứu Các ao thí nghiệm được theo dõi tại ấp Thới Thạnh, xã Thới Thuận, huyện Thốt Nốt, thành phố Cần Thơ. Phòng thí nghiệm dinh dưỡng, Khoa Thủy Sản, trường Đại học Cần Thơ. 3.2 Phương pháp nghiên cứu Tiến hành thu mẫu và ghi nhận số liệu 3 ao nuôi cá tra thương phẩm sử dụng hoàn toàn TATC và 3 ao nuôi cá tra thương phẩm sử dụng hoàn toàn TACN hiện đang được sử dụng phổ biến trên thị trường. 3.2.1 Điều kiện ao thực nghiệm Diện tích các ao thực nghiệm, số lượng và kích cỡ cá thả, mật độ thả được trình bày ở Bảng 3.1 Bảng 3.1 Các thông số kỹ thật của hai nghiệm thức theo dõi Ao TATC Ao TACN Ao theo dõi 1 2 3 1 2 3 Diện tích (m2) 7.000 16.585 6.000 9.800 9.200 5.500 Số lượng cá thả (con) 351.420 710.147 252.643 495.881 415.121 200.000 Chiều cao thân (cm) 1,7 1,7 2,0 2,0 2,0 2,0 Mật độ (con/m2) 50 43 42 45 51 36 Trung tâm Học liệu ĐH Cần Thơ @ Tài liệu học tập và nghiên cứu 17 3.2.2 Nguồn cá giống Cá giống được mua về trực tiếp từ Hồng Ngự - Đồng Tháp, đây được xem là vùng sản xuất cá giống lớn nhất khu vực ĐBSCL. Kích cỡ cá giống được phân loại theo chiều cao thân nhằm thuận tiện cho việc lựa chọn qua các lồng lọc cá giống. 3.2.3 Mùa vụ nuôi Các ao thí nghiệm được thả đồng thời vào mùa khô thích hợp cho sự sinh trưởng của cá (khoảng tháng 10-11 dương lịch). Vào thời điểm này cá sẽ lớn nhanh, thời gian nuôi được rút ngắn, giảm thiểu rủi ro về dịch bệnh và biến động giá sản phẩm. 3.2.4 Quản lý ao nuôi và chăm sóc cá * Thức ăn Ở cả hai nghiệm thức sử dụng TATC và TACN đều sử dụng thức ăn chứa mức đạm 28% và 26% trong hai giai đoạn nuôi + Giai đoạn 1 (3 tháng đầu, cá có trọng lượng 20-200 g): sử dụng thức ăn chứa 28% đạm. + Giai đoạn 2 (3-4 tháng cuối, cá có trọng lượng trên 200g): sử dụng thức ăn chứa 26% đạm. TATC sử dụng trong nghiên cứu được chế biến từ bột cá, bột huyết, bánh dầu đậu nành, cám ly trích dầu, tấm,... TACN trong nghiên cứu là một loại sản phẩm hiện đang được người nuôi sử dụng phổ biến trong nuôi cá tra thâm canh tại ÐBSCL. Khẩu phần ăn Trong giai đoạn 1, lượng thức ăn cho cá ăn hàng ngày khoảng 5% trọng lượng thân, sau đó giảm dần đến gần thu hoạch lượng thức ăn còn khoảng 1,5 - 2% trọng lượng thân. Thông thường tùy thuộc vào tình trạng sức khoẻ của cá và điều kiện môi trường nuôi mà quyết định khẩu phần ăn hợp lý. Phương pháp cho ăn Do diện tích ao thí nghiệm lớn (trung bình khoảng 10.000 m2) và sử dụng thức ăn viên dạng nổi nên phải sử dụng xuồng để cho ăn, nhằm đảm bảo thức ăn được rải đều khắp ao. Ngày cho cá ăn 2 lần vào 9h sáng và 16h chiều. Trung tâm Học liệu ĐH Cần Thơ @ Tài liệu học tập và nghiên cứu 18 * Quản lý dịch bệnh Quản lý chất lượng nước Nhìn chung trong cả hai nghiệm thức theo dõi đều quan tâm đến chất lượng nước trong ao nuôi. Ở giai đoạn cá nhỏ (khoảng hai tháng đầu) hàng ngày thay khoảng 20% lượng nước trong ao. Ở giai đoạn cá lớn hơn mỗi ngày thay khoảng 30 - 40% lượng nước trong ao. Nước được lấy vào ao trực tiếp từ sông lớn, có qua xử lý vôi ở đầu cống cấp. Phòng - trị bệnh Định kỳ 3-4 ngày bón vôi, zeolite và muối để cải thiện chất lượng nước, ổn định pH (tránh tình trạng pH giảm sinh ra khí H2S gây độc cho cá) và phòng ngừa bệnh cho cá. Hàng ngày bổ sung vitamin C vào thức ăn nhằm tăng cường sức đề kháng của cá. Bên cạnh đó, các ao thường xuyên bổ sung các chất dinh dưỡng vào thức ăn như: methionine, sorbitol,… và trong trường hợp xảy ra bệnh nhiễm khuẩn các ao có xử lý kháng sinh Amox, Ampi, Doxycilin, Cotrim,… 3.3 Thu mẫu Mẫu cá: thu mẫu cá sau khi kết thúc vụ nuôi để phân tích thành phần hóa học của thịt cá, thu 5con/ao. Môi trường: đo các chỉ tiêu nhiệt độ, oxy, pH bằng máy hàng tháng. 3.4 Phân tích hiệu quả kinh tế Gồm các chỉ tiêu: + Chi phí thức ăn + Tổng chi phí sản xuất + Tổng thu nhập + Lợi nhuận + Tỷ suất lợi nhuận + Hiệu quả chi phí thức ăn 3.5 Phương pháp phân tích thành phần hoá học của thức ăn và cá thí nghiệm (theo phương pháp O.A.O.C, 2000) Các chỉ tiêu về phân tích thành phần hoá học của thức ăn gồm: đạm thô (crude protein), chất béo, chất bột đường (carbohydrate), xơ thô (crude fibre), khoáng và độ ẩm (moisture). Phân tích thàh phần hóa học của cá gồm: đạm, béo, khoáng. - Ẩm độ được xác định bằng cách ghi nhận sự chênh lệch trọng lượng của mẫu trước và sau khi sấy ở nhiệt độ 105oC khoảng 4 giờ. Trung tâm Học liệu ĐH Cần Thơ @ Tài liệu học tập và nghiên cứu 19 - Tro: được xác định bằng cách nung mẫu trong tủ nung ở nhiệt độ 560oC khoảng 4 giờ (đến khi mẫu có màu trắng hoặc xám). Hàm lượng đạm thô được phân tích theo phương pháp Kjeldah: gồm 3 bước: + Bước 1: mẫu được công phá đạm trong H2SO4 đậm đặc khoảng 1,5 giờ ở nhiều mức độ nhiệt khác nhau từ 110 - 370 oC nhờ chất xúc tác là H2O2. + Bước 2: sau khi công phá thì chưng cất để giải phóng nitơ trong dung dịch kiềm (NaOH) và hấp thu trong dung dịch acid boric có sự hiện diện của chất chỉ thị là Methylred. + Bước 3: sau đó chuẩn độ để xác định hàm lượng chất đạm trong mẫu phân tích bằng H2SO4 0,1N. - Hàm lượng chất béo được xác định bằng phương pháp Soxhlet với dung môi là Chloroform. Chất béo trong mẫu được chiết xuất nhờ quá trình rửa tuần hoàn của chloroform (nóng). - Hàm lượng xơ thô được xác định nhờ phương pháp thủy phân trong dung dịch acid và bazơ. - Hàm lượng Carbohydrate được tính bằng công thức: NFE = 100- (Đạm + Chất béo + Xơ + Tro + Độ ẩm). 3.6 Các chỉ tiêu thu thập và tính toán * Tỷ lệ sống (%) = 100 x số cá thể thu hoạch / số cá thả * Tốc độ tăng trưởng tuyệt đối ngày (DWG : g / ngày) DWG = (W2 - W1) / t Trong đó: W1: khối lượng trung bình của cá ở thời điểm t1 W2: khối lượng trung bình của cá ở thời điểm t2 t: thời gian nuôi (ngày) * Tốc độ tăng trưởng tương đối ngày(SGR: % / ngày) SGR = 100 x (Ln (Wc) – Ln (Wđ)) / T Trong đó: Wc: khối lượng cuối Wđ: khối lượng đầu T: thời gian nuôi (ngày) * Hệ số thức ăn (FCR) FCR = Lượng thức ăn sử dụng (kg) / Khối lượng cá gia tăng (kg) Trung tâm Học liệu ĐH Cần Thơ @ Tài liệu học tập và nghiên cứu 20 * Hiệu quả kinh tế - Thu nhập = Năng suất x Giá cả sản phẩm - Giá thành sản xuất = Tổng chi phí nuôi / Tổng sản lượng cá thu hoạch - Lợi nhuận = (Thu nhập - Chi phí) hoặc (Giá cả sản phẩm - Giá thành sản phẩm) - Tỷ suất lợi nhuận = Lợi nhuận / Chi phí * Đánh giá chất lượng thịt cá + Tỷ lệ philê + Tỷ lệ trắng Kết quả đánh giá chất lượng thịt cá trong thí nghiệm dựa theo kết quả của bộ phận thu mua nguyên liệu thuộc công ty Agifish – An giang. 3.7 Xử lý số liệu Các giá trị trung bình và độ lệch chuẩn được tính trên chương trình Excel. Trung tâm Học liệu ĐH Cần Thơ @ Tài liệu học tập và nghiên cứu 21 CHƯƠNG 4 KẾT QUẢ - THẢO LUẬN 4.1 Kết quả theo dõi sự biến động của môi trường ao nuôi thí nghiệm Kết quả phân tích các chỉ tiêu môi trường trong các ao thí nghiệm cho thấy, các chỉ tiêu pH, nhiệt độ và oxy giữa ao sử dụng TATC và ao sử dụng TACN khác biệt không đáng kể. Bảng 4.1 Sự biến động pH, nhiệt độ và oxy của các ao nuôi pH Nhiệt độ (0C) Oxy (ppm) Tháng Ao TATC Ao TACN Ao TATC Ao TACN Ao TATC Ao TACN 1 7,19 ± 0,37 7,13 ± 0,16 28,3 ± 0,03 29,0 ± 0,05 6,35 ± 0,33 6,12 ± 0,45 2 6,82 ± 0,20 6,82 ± 0,12 29,2 ± 0,03 28,8 ± 0,03 5,87 ± 0,85 6,22 ± 0,67 3 6,66 ± 0,11 6,71 ± 0,04 29,0 ± 0,00 29,5 ± 0,00 5,23 ± 0,23 6,19 ± 0,41 4 6,58 ± 0,08 6,61 ± 0,06 30,0 ± 0,00 29,8 ± 0,03 5,48 ± 0,26 4,71 ± 0,58 5 6,59 ± 0,14 6,62 ± 0,09 29,3 ± 0,03 29,7 ± 0,03 5,48 ± 0,51 5,31 ± 0,42 6 6,54 ± 0,01 6,56 ± 0,06 29,5 ± 0,05 29,3 ± 0,03 4,63 ± 0,44 5,16 ± 0,26 7 6,60 ± 0,10 6,55 ± 0,00 29,3 ± 0,04 29,0 ± 0,00 4,85 ± 0,09 5,31 ± 0,00 8 6,70 ± 0,00 29,5 ± 0,00 4,86 ± 0,00 Các ao sử dụng TATC pH giữa các tháng dao động trong khoảng 6,5 –7,19; nhiệt độ trung bình 28,3-300C; hàm lượng oxy nằm trong khoảng 4,63–6,35 ppm. Trong khi đó, ở các ao sử dụng TACN có pH, nhiệt độ và hàm lượng oxy lần lượt là 6,55–7,13; 28,8 - 29,80C; và 4,71–6,22 ppm. Theo báo cáo của Trung tâm KHCN và kinh tế thủy sản - Bộ Thủy Sản (2005), trong ao nuôi cá tra thâm canh (mật độ thả từ 22-23 con/m2), pH dao động từ 6,7 - 7,6, nhiệt độ từ 28,7-30,80C, hàm lượng oxy 1,1-2,5 ppm. Theo kết quả nghiên cứu của Phan Thúc Ngân (2001) trên cá tra nuôi trong ao đất với mật độ thấp (6 con/m2) bằng TATC dạng nông hộ cho thấy, pH trung bình khoảng 6,78 - 6,85, nhiệt độ nước 28,4 - 29,20C, hàm lượng oxy trong nước 5,7 - 5,98 ppm. Sở dĩ kết quả hàm lượng oxi cao là do ao nuôi với mật độ thấp, ít thay nước nên tảo phát triển và quang hợp tạo oxy cho ao nuôi. Trong thực tế sản xuất, đối với các ao nuôi thâm canh hàm lượng oxy thường rất thấp (nhỏ hơn 3 ppm). Tuy nhiên, trong kết quả phân tích môi trường của Lê Bảo Ngọc (2004) ở ao nuôi cá tra mật độ cao (khoảng 83 con/m2) cho kết quả cao hơn, pH dao động từ 6,95 - 8,00, nhiệt độ trung bình trong thời gian nghiên cứu là 30,50C, hàm lượng oxy khá cao và có sự biến động tương đối Trung tâm Học liệu ĐH Cần Thơ @ Tài liệu học tập và nghiên cứu 22 lớn từ 2.97 - 12.26 ppm, theo tác giả oxy hòa tan trong ao nuôi bị ảnh hưởng bởi mức độ sử dụng oxy trong ao (hô hấp của cá và quá trình phân hủy các hợp chất hữu cơ) và mức độ thay nước cho ao. Bên cạnh đó, hàm lượng oxy còn tùy thuộc vào thời điểm khảo sát và vị trí khảo sát, thời gian đo của thí nghiệm đa số tiến hành vào lúc 8 - 9 giờ sáng, và đo ở gần bờ (cách bờ khoảng 3 m) nên hàm lượng oxy cao hơn các nghiên cứu khác ở cùng thời điểm. Theo M. Masser and et.al.(1992), hàm lượng oxy trong ao nuôi vào lúc 6 giờ sáng dao động trong khoảng 2,5 - 3 ppm. Theo C.E.Boyd (1998), khoảng pH thích hợp trong ao nuôi từ 6 - 9, nhiệt độ trung bình 25 - 320C và hàm lượng oxi tối thiểu là 5 ppm, nghiên cứu của Lê Như Xuân (1994) cũng cho kết quả tương tự. Còn theo kết quả nghiên cứu của Michael Masser and et.al. (1992) trên cá da trơn cho thấy, khoảng pH tối ưu trong ao nuôi cá từ 6,5 - 8,5, khoảng nhiệt độ thích hợp là 27 - 290C, và hàm lượng oxy tối thiểu trong nước phải đạt 4,0 ppm. Như vậy qua kết quả phân tích các chỉ tiêu môi trường trong các ao nuôi thí nghiệm chứng tỏ các chỉ tiêu pH và nhiệt độ nằm trong khoảng thích hợp cho sinh trưởng của cá tra. Riêng hàm lượng oxy trong các ao thí nghiệm thấp hơn so với các nghiên cứu trên. Trong thực tế sản xuất, các ao nuôi thí nghiệm do phải thay nước hàng ngày nên hàm lượng oxy do tảo quang hợp là không đáng kể, mặt khác hàm lượng oxy còn được sử dụng để phân hủy khối lượng đáng kể chất hữu cơ trong ao, do đó hàm lượng oxy trong nước thường thấp. Tuy nhiên do cá tra có khả năng chịu được điều kiện khác nghiệt, khi oxy thấp cá có thể lấy oxy qua cơ quan hô hấp phụ (bóng hơi) (Nguyễn Bạch Loan, 2000). Theo kết quả nghiên cứu của Dương Thúy Yên (2003), ngưỡng oxy dưới của cá tra là 1,88 ± 0,07 ppm, cho thấy kết quả nghiên cứu của thí nghiệm vẫn cao hơn so với giới hạn cho phép. 4.2 Đánh giá chất lượng của TATC 4.2.1 Thành phần nguyên liệu và tỷ lệ phối chế của TATC Qua kết quả phân tích cho thấy, có ba nhóm nguyên liệu chính trong thành phần của TATC thí nghiệm. + Nhóm cung cấp đạm: khô dầu Braxin (bánh dầu đậu nành), bột cá, bột huyết, bột thịt. + Nhóm cung cấp năng lượng: tấm, cám. + Nhóm cung cấp muối khoáng và các acid amin thiết yếu. Trung tâm Học liệu ĐH Cần Thơ @ Tài liệu học tập và nghiên cứu 23 Kết quả phân tích thành phần hóa học của các nguyên liệu trong công thức TATC cho thấy, chất lượng của nguyên liệu tương đương với thành phần hóa học ghi trên bao bì. Bảng 4.2 Thành phần hoá học của nguyên liệu phối chế trong TATC Nguyên liệu Đạm (%) Béo (%) Khoáng (%) Độ khô (%) Bột cá Đà Nẵng 57,9 13,8 29,3 87,8 Khô dầu Braxin 45,0 8,39 7,55 97,1 Bột huyết 91,8 3,47 3,49 92,3 Bột thịt 46,0 11,2 36,2 94,0 Cám ly trích Calofic 15,5 3,61 10,3 89,6 Tấm 7,42 5,13 0,51 87,8 Trong nhóm cung cấp đạm bột huyết có hàm lượng đạm cao nhất (91,8%), khô dầu Braxin (bánh dầu đậu nành) do có nguồn gốc thực vật nên hàm lượng đạm thấp nhất (45%). Đối với nhóm nguyên liệu cung cấp năng lượng hàm lượng đạm phân tích thấp hơn, cám ly trích chiếm tỷ lệ 15,5% và tấm là 7,42%. Hàm lượng chất béo trong hai nhóm nguyên liệu có sự khác biệt đáng kể, ở nhóm cung cấp năng lượng hàm lượng chất béo phân tích thấp (tấm 5,13%, cám ly trích 3,61%), trong khi đó ở nhóm cung cấp đạm tỷ lệ hàm lượng chất béo cao hơn, cao nhất là bột cá (13,8%), khô dầu Braxin và bột huyết có tỷ lệ chất béo thấp nhất (lần lượt là 8,39% và 3,47%). Đối với nhóm cung cấp năng lượng, cám ly trích có tỷ lệ khoáng 10,3% trong khi ở tấm hầu như không có giá trị về cung cấp khoáng (tỷ lệ khoáng phân tích 0,51%). Kết quả phân tích thành phần dinh dưỡng của các nguyên liệu phối chế trong TATC tương đương với các nghiên cứu của Trần Thị Thanh Hiền và ctv. (2004) và Trần Văn Nhì (2005). Trung tâm Học liệu ĐH Cần Thơ @ Tài liệu học tập và nghiên cứu 24 Bảng 4.3 Công thức TATC sử dụng cho các ao nuôi Thức ăn giai đoạn một (cỡ cá 20-200 g) Thức ăn giai đoạn hai (cỡ cá 200 g trở lên) Thành phần % Khối lượng khô % Khối lượng khô Bột cá (60% đạm) Bột huyết Bột thịt (50% đạm) Khô dầu Braxin Tấm Cám trích ly Calofic L- Lysine DL- Methionin Dicalcium phosphate18% Muối Việt Nam Premix cho Pangasius Tổng cộng 5,00 2,00 3,00 34,5 20,6 32,9 0,10 0,12 1,00 0,46 0,30 100 6,00 3,00 3,00 26,0 17,0 43,4 0,05 0,2 1,00 0,35 - 100 Theo nguyên tắc phối chế thức ăn cho cá, việc sử dụng nhiều nguồn đạm khác nhau trong công thức thức ăn nhằm cung cấp đầy đủ các acid amin thiết yếu và để giảm giá thành thức ăn. Trong Bảng 4.3 cho thấy, TATC nghiên cứu được phối trộn từ nhiều nguồn đạm khác nhau (động vật và thực vật) nguồn đạm động vật (bột cá, bột huyết, bột thịt) chủ yếu bổ sung các acid amin thiết yếu (methionine, lysine,…), trong khi đó sử dụng nguồn đạm thực vật (bánh dầu đậu nành, cám, tấm) với mục đích hạ giá thành của thức ăn. Theo Trần Thị Thanh Hiền và ctv. (2004), nhu cầu đạm của động vật thủy sản là 25-55%, do đó trong chế biến thức ăn thủy sản nguồn cung cấp đạm là yếu tố quan trọng đầu tiên. Trong công thức phối chế TATC của nghiên cứu, nguồn cung cấp đạm thực vật sử dụng là bánh dầu đậu nành (chiếm tỷ lệ 26- 34,5%). Nhiều nghiên cứu cho thấy đậu nành là nguồn đạm thực vật thay thế cho bột cá tốt nhất trong thức ăn cho động vật thủy sản, bột đậu nành có thể thay thế 60-80% bột cá trong khẩu phần thức ăn, đối với loài ăn thực vật như cá rô phi (O. niloticus) bột đậu nành có thể thay thế đến 100% (Trần Thị Thanh Hiền và ctv., 2004) . Tuy nhiên, khi sử dụng các nguồn đạm thực vật thường gặp một số trở ngại như độ tiêu hóa thấp, không cân đối các loại acid amin, chứa các chất kháng dinh dưỡng và độc tố. Riêng đối với bột đậu nành chứa nhiều độc tố đặc biệt là chất ức chế men tiêu hoá đạm trypsin và chymotrypsin. Bột đậu nành thường thiếu methionin và cystin (Trần Thị Thanh Hiền và ctv., 2004). Trung tâm Học liệu ĐH Cần Thơ @ Tài liệu học tập và nghiên cứu 25 Bột cá là nguồn nguyên liệu tốt nhất cho động vật thủy sản cung cấp nhiều loại acid amin thiết yếu, đồng thời trong thành phần chất béo của bột cá có nhiều acid béo cao phân tử không no (HUFA và PUFA) mà các nguồn nguyên liệu khác không cung cấp đủ. Bột cá có độ tiêu hoá cao (80 - 90%) và làm cho thức ăn có mùi hấp hẫn, tạo tính ngon miệng. Bên cạnh đó, một số nghiên cứu cho thấy trong bột cá có chứa chất kích thích sinh trưởng, do đó không thể thay thế bột cá hoàn toàn trong công thức thức ăn (Trần Thị Thanh Hiền và ctv, 2004). Mặc dù trong công thức TATC sử dụng bánh dầu đậu nành (chiếm tỉ lệ 34,5%), nhưng vẫn phải có bột cá trong thành phần với tỷ lệ 5-6% . Bột huyết có hàm lượng đạm rất cao, tuy nhiên khả năng tiêu hoá của động vật thủy sản đối với bột huyết là rất thấp, mục đích chính của phối chế bột huyết trong thức ăn là nhằm cân đối acid amin thiết yếu, do bột huyết rất giàu lysine chiếm tỉ lệ 9-11% (Trần Thị Thanh Hiền và ctv., 2004). Do đó trong TATC nghiên cứu bột huyết chiếm tỷ lệ 2-3%. Các nguyên liệu chủ yếu cung cấp năng lượng trong công thức TATC thí nghiệm từ cám ly trích Calofic và tấm (chiếm tỷ lệ phối chế lần lượt là 32,9% và 20,6% trong công thức thức ăn giai đoạn 1 và ở giai đoạn 2 là 43,4% và 17%). Cám ly trích Calofic là cám đã được ly trích dầu, do đó sử dụng cám ly trích dầu trong thành phần thức ăn sẽ tốt hơn, tránh được hiện tượng ôi dầu và đồng thời bổ sung một phần đạm trong thức ăn (theo Trần Văn Nhì, 2005). Tấm được đưa vào phối trộn trong công thức thức ăn thí nghiệm (chiếm tỷ lệ 20,6%) với mục đích làm chất kết dính và bổ sung năng lượng trong thức ăn. Theo kết quả điều tra của Trần Văn Nhì (2005) ở khu vực Long Xuyên, khoảng 50% số hộ nuôi sử dụng tấm như là chất liệu kết dính. Trong phối chế thức ăn, hàm lượng các chất khoáng thường chiếm tỷ lệ thấp nhưng có vai trò rất quan trọng không thể thiếu trong thức ăn cho động vật thủy sản. Trong công thức TATC thí nghiệm sử dụng trong giai đoạn một của vụ nuôi có bổ sung các acid amin tổng hợp L-Lysine và DL-Methionine (đây là các loại acid amin cá không có khả năng tự tổng hợp) với tỷ lệ lần lượt 0,10% và 0,12%, nhưng trong thức ăn sử dụng cho giai đoạn hai tỷ lệ L- Lysine đã giảm (chỉ chiếm tỷ lệ 0,05%) do hàm lượng bột huyết trong công thức thức ăn đã tăng lên (3%). Tuy nhiên, do trong bột huyết và bột cá đã chứa sẵn một một lượng Lysine và Methionine tự do tương đối nên tỷ lệ bổ sung trong công thức là hợp lý. Mặt khác các loại muối khoáng cần thiết cho sinh trưởng và phát triển của cá cũng được bổ sung trong công thức TATC của thí nghiệm như: Dicalcium Trung tâm Học liệu ĐH Cần Thơ @ Tài liệu học tập và nghiên cứu 26 phosphate, khoáng premix,…(Bảng 4.3). Trong công thức phối chế của một loại TATC dạng nổi sử dụng cho cá trê ở Thái Lan, người ta đã bổ sung 5% Lysine và 1% Dicalcium phosphate (theo W. Jantrarotai and P. Jantrarotai, 1993). 4.2.2 Thành phần hóa học của TATC Kết quả phân tích thành phần hóa học của TATC và TACN trong hai giai đoạn nuôi không có sự khác biệt đáng kể. Bảng 4.4 Thành phần hóa học của TATC và TACN trong hai giai đoạn nuôi TATC TACN Các chỉ tiêu Giai đoạn 1 Giai đoạn 2 Giai đoạn 1 Giai đoạn 2 KL (*) khô KL tươi KL khô KL tươi KL khô KL tươi KL khô KL tươi Đạm (%) 32,0 26,1 28,9 23,7 31,5 28,0 29,2 26,0 Béo (%) 6,89 5,61 7,25 5,94 3,37 3,00 6,74 6,00 Khoáng (%) 12,4 10,1 8,42 6,90 13,5 12,0 13,5 12,0 Ẩm độ (%) 18,6 18,6 18,1 18,1 11,0 11,0 11,0 11,0 Ghi chú: (*) KL: khối lượng Hàm lượng đạm trong TATC tính theo trọng lượng tươi ở cả hai giai đoạn nuôi đều thấp hơn TACN, ở giai đoạn một hàm lượng đạm chiếm tỷ lệ 26,1%, giai đoạn hai là 23,7%, do độ ẩm của TATC (18,1-18,6%) cao hơn so với TACN (11%) điều này do thiết bị chế biến TATC chưa hoàn thiện (chưa có hệ thống sấy), nhưng nếu tính theo trọng lượng khô thì hàm lượng đạm ở cả hai giai đoạn của TATC tương đương với TACN (hàm lượng đạm 32% và 28,9%, còn ở TACN lần lượt là 31,5% và 29,2%). Bên cạnh đó, hàm lượng chất béo của TATC cao hơn TACN ở cả hai giai đoạn nhưng sự chênh lệch này không lớn. Trong thực tế, TATC thường được sử dụng ngay sau khi sản xuất nên những trở ngại trong bảo quản do ẩm độ cao không đáng kể. Tuy vậy, độ ẩm cao (tỷ lệ hao hụt của thức ăn cao) sẽ làm tăng hệ số thức ăn dẫn đến gia tăng chi phí thức ăn cho vụ nuôi. Theo Trần Thị Thanh Hiền và ctv. (2004), thức ăn viên công nghiệp sử dụng cho cá tra có khối lượng 20-200 g hàm lượng đạm trong thức ăn chiếm tỷ lệ không nhỏ hơn 26%, hàm lượng béo có tỷ lệ 5% trở lên; cỡ cá từ 200 g trở lên có hàm lượng đạm chiếm tỷ lệ 18-22% và hàm lượng béo trong thức ăn 3-4% trở lên (Tiêu chuẩn ngành 28 TCN: 2004). Như vậy, hàm lượng đạm trong TATC nghiên cứu (tính theo trọng lượng tươi) phù hợp với tiêu chuẩn nêu trên, TATC sử dụng trong giai đoạn 1 có hàm lượng đạm 26,1%, chất béo Trung tâm Học liệu ĐH Cần Thơ @ Tài liệu học tập và nghiên cứu 27 5,61%, TATC sử dụng trong giai đoạn 2 tỷ lệ đạm và chất béo lần lượt là 23,7% và 5,94%. Nhưng nếu tính trên trọng lượng vật chất khô, TATC có hàm lượng đạm (32% và 28,9%) cao hơn so với tiêu chuẩn của Bộ Thủy Sản đưa ra (29,2% và 24,7%). Điều này chứng tỏ chất lượng TATC nghiên cứu đạt yêu cầu và thành phần, tỷ lệ phối trộn các nguyên liệu trong công thức TATC là hợp lý. Nếu khắc phục được hạn chế ẩm độ cao (18,1-18,6%), chất lượng TATC không thua kém TACN đang được bán trên thị trường. 4.3 Tỷ lệ sống và sinh trưởng của cá 4.3.1 Tỷ lệ sống Kết quả tính toán sau khi thu hoạch cho thấy tỷ lệ sống của cá tra nuôi trong ao sử dụng TATC (78,5%) cao hơn so với trong ao nuôi TACN (74,6%). Bảng 4.5 Tỷ lệ sống của các ao nuôi TATC và TACN Ao TATC Ao TACN Ao theo dõi 1 2 3 1 2 3 Số lượng cá thả (con) 351.420 710.147 253.126 514.315 495.881 200.000 Số cá còn lại (con) 290.695 526.634 198.905 343.408 344.820 143.056 Tỷ lệ sống (%) 82,7 74,2 78,6 66,8 69,5 71,5 Tỷ lệ sống TB (%) 78,5 ± 4,28 74,6 ± 7,11 Kết quả này cao hơn so với nghiên cứu trên đối tượng cá tra nuôi trong ao đất của Lê Bảo Ngọc (2004), do mật độ thả quá cao (trung bình 83 con/m2), môi trường bị ô nhiễm (chứa nhiều mầm bệnh), cá có sức đề kháng yếu, dễ bị nhiễm bệnh nên tỷ lệ sống chỉ đạt bình quân 75%. Nhưng so với nghiên cứu của một số tác giả khác tỷ lệ này thấp hơn. Theo kết quả nghiên cứu của Trung tâm KHCN và kinh tế thủy sản - Bộ Thủy Sản (2005), tỷ lệ sống của cá tra nuôi trong ao đất đạt từ 88,9% - 90,1%, còn theo kết quả điều tra của Trần Văn Nhì (2005) trên cá tra nuôi bè, tỷ lệ sống cũng đạt từ 88,6 - 90,5%. Do thời điểm đầu của vụ nuôi cá trong các ao theo dõi bị nhiễm bệnh mủ gan, nên tỷ lệ hao hụt trong các ao nuôi của thí nghiệm khá cao. Đối với ao sử dụng TATC tỷ lệ hao hụt trung bình là 21% tổng trọng lượng cá thả ban đầu, trong khi đó ở ao TACN trung bình là 26%. Trung tâm Học liệu ĐH Cần Thơ @ Tài liệu học tập và nghiên cứu 28 4.3.2 Tốc độ sinh trưởng Kết quả theo dõi sinh trưởng của cá tra trong hai nghiệm thức cho thấy, tốc độ tăng trưởng tuyệt đối ngày (DWG) của ao nuôi TATC (4,86 ± 0,49 g/ngày) thấp hơn ao nuôi sử dụng TACN (5,57 ± 0,59 g/ngày), và tương ứng tốc độ tăng trưởng đặc biệt (SGR) của ao nuôi TATC (1,92 ± 0,16 %/ngày) thấp hơn ao TACN (1,94 ± 0,17 %/ngày). Mặc dù hàm lượng đạm, chất béo và khoáng trong TATC tương đương với TACN nhưng kết quả sinh trưởng ở các ao nuôi TACN trên thực tế cao hơn. Do TACN được chế biến theo thiết bị công nghệ hiện đại, nguyên liệu phối chế được nghiền mịn và qua quá trình gia nhiệt tốt nên TACN có độ tiêu hóa cao hơn. Mặt khác, trong thành phần của TACN có thể được bổ sung thêm một số chất tạo mùi, các men tiêu hóa đặc biệt kích thích cá bắt mồi tốt hơn, gia tăng hiệu quả sử dụng thức ăn, giúp cá sinh trưởng nhanh hơn. (Bảng 4.6) Bảng 4.6 Tốc độ tăng trưởng của hai nghiệm thức theo dõi Các chỉ tiêu Ao theo dõi W đầu (g) W cuối (g) SGR (%/ngày) DWG (g/ngày) 1 20 1.13 1,74 4,78 2 20 820 2,05 4,42 3 18 1.15 1,98 5,39 Ao TATC TB 19,3 ± 1,15 1.033 ± 185 1,92 ± 0,16 4,86 ± 0,49 1 33 1.015 2,13 6,10 2 33 1.15 1,80 5,67 3 33 900 1,88 4,93 Ao TACN TB 33,0 988 ± 177 1,94 ± 0,17 5,57 ± 0,59 Khi xem xét tốc độ tăng trưởng của cá ở các ao sử dụng TATC và TACN tương ứng với từng giai đoạn nuôi và kích cỡ cá (sử dụng thức ăn có hàm lượng đạm khác nhau) cho thấy ở giai đoạn đầu các ao sử dụng TATC tăng trưởng chậm hơn (Hình 4.1). Trung tâm Học liệu ĐH Cần Thơ @ Tài liệu học tập và nghiên cứu 29 0 200 400 600 800 1000 1200 1 2 3 4 5 6 7 8 9 tháng tr ọn g lư ợn g (g ) Ao1-TATC Ao2-TATC Ao3-TATC Ao1-TACN Ao2-TACN Ao3-TACN Hình 4.1 Biểu đồ so sánh tốc độ tăng trưởng của các ao nghiên cứu Qua đồ thị cho thấy, trong hai tháng đầu của vụ nuôi tốc độ tăng trưởng của ao nuôi sử dụng TATC chậm hơn ao sử dụng TACN, điều này cho thấy có thể TACN phù hợp với khả năng bắt mồi của cá hơn TATC trong giai đoạn cá còn nhỏ. Nhưng kể từ tháng thứ 3 trở đi tốc độ tăng trưởng của ao TATC có sự gia tăng rõ rệt, đặc biệt là ao 1, có tốc độ sinh trưởng khá nhanh, từ tháng thứ 3 tăng trọng bình quân 200 g/tháng. Nhìn chung tốc độ tăng trưởng ở các ao TATC khá đều, chứng tỏ TATC có chất lượng ổn định và thích hợp với nhu cầu sinh trưởng của cá. Theo Trung tâm KHCN và kinh tế thủy sản - Bộ Thủy Sản (2005), tốc độ tăng trưởng tuyệt đối ngày (DWG) và tốc độ tăng trưởng đặc biệt (SGR) của cá tra trong ao đất sau 6 tháng nuôi lần lượt là 5,94 g/ngày và 1,88 %/ngày. Bên cạnh đó, tốc độ tăng trưởng tuyệt đối trên cá tra nuôi bè dao động trong khoảng 4,96 - 5,12 g/ngày (Trần Văn Nhì, 2005). Như vậy, kết quả tăng trưởng đạt được ở các ao TATC thí nghiệm gần với kết quả của các nghiên cứu trước đây trên đối tượng cá tra. Trung tâm Học liệu ĐH Cần Thơ @ Tài liệu học tập và nghiên cứu 30 4.4 Chất lượng cá thương phẩm 4.4.1. Thành phần hoá học Kết quả phân tích thành phần hóa học của cá thương phẩm tại hai nghiệm thức theo dõi cho thấy, chất lượng cá giữa hai nghiệm thức không có sự khác biệt đáng kể. Bảng 4.7 Thành phần hóa học của cá thương phẩm thí nghiệm Ao theo dõi Thành phần hóa học (%) Chất đạm Chất béo Khoáng 1 39 50,5 7,76 2 43 46,9 7,66 3 44 45,7 8,60 Ao TATC Trung bình 42,0 ± 2,65 47,7 ± 2,49 8,01 ± 0,52 1 41,4 44,3 7,59 2 40,8 43,7 9,01 3 40,0 47,2 7,66 Ao TACN Trung bình 40,7 ± 0,69 45,1 ± 1,88 8,09 ± 0,80 Chất lượng thịt cá thương phẩm chịu ảnh hưởng bởi thành phần hóa học của thức ăn. Kết quả phân tích thành phần hóa học của cá sau thu hoạch cho thấy , hàm lượng đạm trong ao sử dụng TATC cao hơn (42%) hàm lượng đạm trong thịt cá thu hoạch ở các ao sử dụng TACN (40,7%), nhưng khoảng chênh lệch không lớn. Bên cạnh đó, hàm lượng chất béo và khoáng của cá thương phẩm trong ao sử dụng TATC (47,7% và 8,01%) và TACN (45,1% và 8,09%) cũng không có sự khác biệt đáng kể. Do thành phần hóa học của hai loại TATC và TACN gần giống nhau nên tương ứng cá sử dụng TATC và TACN cũng có thành phần hóa học tương đương nhau. Theo Trần Văn Nhì (2005), thành phần dinh dưỡng của thức ăn chính là yếu tố quyết định đến thành phần sinh hóa và chất lượng của cá nuôi. Theo tác giả, cá thương phẩm nuôi bè ở hai khu vực Long Xuyên và Châu Đốc có hàm lượng đạm thấp (33,8-39,7%), trong khi đó hàm lượng chất béo lại khá cao (52,8- 55,8%). Theo nghiên cứu của Nguyễn Thanh Phương (1998) trên đối tượng cá basa cho thấy, khi hàm lượng đạm trong thức ăn tăng lên thì hàm lượng đạm trong cá tăng lên. Kết quả này cũng tương tự với nghiên cứu của Trần Thị Thanh Hiền và ctv. (2004) trên đối tượng cá hú và cá tra. Trung tâm Học liệu ĐH Cần Thơ @ Tài liệu học tập và nghiên cứu 31 So với kết quả nghiên cứu của Trần Văn Nhì (2005) thành phần hóa học của cá sử dụng TATC có chất lượng tốt hơn mặc dù cả hai đều sử dụng dạng thức ăn giống nhau (đều là TATC). Do TATC trong nghiên cứu có hàm lượng đạm cao (23,7-26,1% tính theo trọng lượng tươi) và chất lượng ổn định (chế biến theo công thức cố định) hơn, trong khi TATC trong nghiên cứu của Trần Văn Nhì (2005) có hàm lượng đạm thấp và chất lượng không ổn định. Ở khu vực Châu Đốc hàm lượng đạm khoảng 17,9-20,6%, còn ở khu vực Long Xuyên hàm lượng đạm trong thức ăn dao động tương đối lớn (29,9% ở đầu vụ nhưng đến gần thu hoạch độ đạm trong thức ăn giảm còn 22%), theo tác giả đa số hộ nuôi sử dụng TATC có cá tạp đều lệ thuộc vào nguồn cá tạp đánh bắt được, khi nguồn cá tạp giảm thì họ sẽ tăng cám trong công thức phối chế thức ăn và ngược lại, do đó chất lượng thức ăn hàng ngày luôn biến động. Điều này không chỉ gây ảnh hưởng đến sinh trưởng mà còn làm giảm chất lượng thịt cá thương phẩm. 4.4.2 Tỷ lệ philê và màu sắc thịt cá Qua bảng đánh giá màu sắc và chất lượng thịt cá ở cả hai nghiệm thức đều cho kết quả tốt. Bảng 4.8 Kết quả đánh giá chất lượng thịt cá Ao theo dõi Ao thức ăn tự chế Ao TACN 1 2 3 Trung bình 1 2 3 Trung bình Tỷ lệ philê 2,70 2,70 2,75 2,72 ± 0,03 2,70 2,75 2,74 2,73 ± 0,03 Loại T1 (%) 82,0 92,0 75,0 83,0 ± 8,54 85,0 78,0 79,7 80,9 ± 3,66 Loại T2 (%) 16,0 8,00 25,0 16,3 ± 8,50 15,0 22,0 20,3 19,1 ± 3,66 Loại T3 (%) 2,00 - - 0,67 ± 1,15 - - - - Ở ao sử dụng TATC đạt tỷ lệ philê trung bình là 2,72 và ở ao nuôi TACN tỷ lệ này là 2,73. Tỷ lệ philê chênh lệch giữa hai nghiệm thức là không đáng kể, điều này cho thấy chất lượng của TATC trong nghiên cứu gần tương đương với TACN. Màu sắc thịt cá thương phẩm ở ao sử dụng TATC tốt hơn so với các ao nuôi sử dụng TACN, trung bình ở ao nuôi TATC tỷ lệ cá loại 1 là 83%, loại 2 là 16,3%, còn ở ao sử dụng TACN tỷ lệ này lần lượt là 80,9% và 19,1%. Tuy tỷ lệ cá loại 1 ở các ao sử dụng TATC cao hơn nhưng màu sắc thịt cá giữa các ao này khá biến động, ở ao số 2 tỷ lệ cá loại 2 là 8 % nhưng trong ao số 3 tỷ lệ này lên đến 25%, hơn nữa trong ao số 1 lại thu được khoảng 2% cá loại 3 (cá thịt vàng). Theo Trần Văn Nhì (2005), bên cạnh chất lượng thức ăn ảnh hưởng lớn đến chất lượng thịt cá, chất lượng môi trường (nguồn nước cấp) cũng tác động đáng kể đến màu sắc thịt cá. Thời điểm thu hoạch các ao sử Trung tâm Học liệu ĐH Cần Thơ @ Tài liệu học tập và nghiên cứu 32 dụng TACN vào giai đoạn vào khoảng cuối tháng 06/2006, trong thời gian này thời tiết biến động, mưa nhiều, điều này đã làm nguồn nước trên sông đục, hầu hết màu sắc thịt cá trong các ao nuôi ở thời điểm này đều “xuống màu”. Do đó tỷ lệ cá loại 2 trong các ao sử dụng TACN khá cao (15-22%) Kết quả phân tích này cao hơn so với báo cáo của Trung tâm Khoa học công nghệ và kinh tế thủy sản - Bộ Thủy Sản (2005) về thí nghiệm nuôi cá tra thịt trắng trong ao đất, trong thí nghiệm này người ta sử dụng TATC ở nông hộ và có áp dụng các biện pháp sục khí đáy kết hợp thay nước có kiểm soát. Kết quả thu được tỷ lệ cá tra thịt trắng đạt từ 71 – 75%. Kết quả này cho thấy chất lượng thức ăn vẫn là một yếu tố quyết định đến màu sắc thịt cá. 4.5. Chi phí thức ăn và hiệu quả sản xuất 4.5.1. Hệ số và chi phí thức ăn Qua kết quả phân tích cho thấy, chi phí TATC cao hơn so với TACN. Bảng 4.9 Hiệu quả sử dụng thức ăn của các ao nuôi Các chỉ tiêu kinh tế kỹ thuật Ao TATC Ao TACN Đơn giá bình quân (đ/kg thức ăn) 4.500 ± 26,2 5.376 ± 123 Hệ số thức ăn (FCR) 1,90 ± 0,04 1,57 ± 0,03 Chi phí thức ăn (đ/kg cá) 8.564 ± 188 8.491 ± 58 Mặc dù đơn giá bình quân của TATC (4.500 đ/kg) thấp hơn so với đơn giá bình quân của TACN (5.376 đ/kg), nhưng do hệ số thức ăn (FCR) của ao nuôi TATC (1,90) khá cao so với ao TACN (1,57), do độ ẩm của viên TATC thí nghiệm (18,1-18,6%) cao hơn độ ẩm của viên TACN (11%), vì vậy tỷ lệ hao hụt khi sử dụng TATC sẽ cao hơn. Theo người quản lý kỹ thuật tỷ lệ hao hụt của TATC trên thực tế thường cao hơn 10%. Điều này đã làm gia tăng chi phí TATC (8.564 đồng/kg cá) cao hơn so với TACN (8.491đ/kg cá). Theo nghiên cứu từ Trung tâm KHCN và kinh tế thủy sản - Bộ Thủy Sản (2005) cho thấy hệ số thức ăn (FCR) trung bình là 1,94. Kết quả này thấp hơn so với hệ số thức ăn (FCR) của Lê Bảo Ngọc (2004), FCR đạt được dao động từ 2,01-2,07. Theo Trương Quốc Phú và Trần Thị Thanh Hiền (2003) trong ao nuôi sử dụng hoàn toàn thức ăn viên công nghiệp, FCR nằm trong khoảng 1,4- 1,5. Trong khi đó kết quả nghiên cứu của M. Masser and et.al. (1992), hệ số thức ăn trong ao nuôi cá nheo Mỹ sử dụng thức ăn viên dao động từ 1,5 – 2,0. Đối với các bè nuôi cá tra, basa sử dụng TATC thì hệ số thức ăn cao hơn so với nuôi trong ao đất, điều này cũng kéo theo chi phí thức ăn nuôi trong bè cao hơn. Theo kết quả điều tra của Trần Văn Nhì (2005), hệ số thức ăn của các bè Trung tâm Học liệu ĐH Cần Thơ @ Tài liệu học tập và nghiên cứu 33 nuôi ở vùng Long Xuyên và Châu Đốc từ 2,59–3,16 và chi phí thức ăn từ 7.474 – 8.449 đ/kg. Riêng đối với bè nuôi cá sử dụng TACN hệ số thức ăn thấp hơn, do chất lượng viên thức ăn tốt hơn so với TATC ở nông hộ. Theo H.R. Schmitou (1993), hệ số thức ăn trong các lồng nuôi cá sử dụng thức ăn viên công nghiệp từ 2,0 – 2,2. Qua kết quả phân tích trên cho thấy, hệ số thức ăn của TATC tương đương với hệ số thức ăn của ao sử dụng TACN của các tác giả trước đây. 4.5.2 Cơ cấu chi phí Qua kết quả phân tích cho thấy, chi phí thức ăn ở cả hai nghiệm thức theo dõi đều có chiếm tỷ lệ lớn. Trong đó, ở ao sử dụng TATC, chi phí thức ăn chiếm tỷ lệ 80,9%, còn ở ao TACN là 79,2%. Chi phí quản lý xếp thứ 2, với ao TATC là 9,0%, ao TACN là 11,2%. Kế đến là chi phí con giống (ao TATC là 4,6%, ao TACN là 6,0%). Các chi phí khác ở hai nghiệm thức khác nhau không đáng kể (Hình 4.2 và Hình 4.3). Xét một cách tổng quát cơ cấu chi phí giữa ao sử dụng TATC và TACN ta thấy rằng, chi phí thức ăn ở ao sử dụng TATC là cao hơn. Điều này có thể lý giải là do ẩm độ của viên TATC cao hơn, chất lượng thấp hơn TACN nên tỷ lệ hao hụt thức ăn cao, gây dư thừa, lãng phí dẫn đến chi phí thức ăn tăng cao. Từ đó đã kéo theo chi phí thuốc hoá chất của ao TATC cao (chiếm tỷ lệ 4% tổng chi phí), trong khi đó ở ao TACN tỷ lệ này là 2%. Kết quả phân tích trên cho thấy tỷ lệ chi phí thức ăn thấp hơn so với kết quả điều tra của Lê Thanh Hùng và ctv. (2006). Theo tác giả, ao sử dụng TATC chi phí thức ăn là 81,1%, còn ở ao sử dụng thức ăn viên công nghiệp chi phí thức ăn lên đến 90,6%. Trong khi đó, tỷ lệ chi phí thuốc hóa chất trong ao tự chế (5,4%) cao hơn so với ao nuôi thức ăn viên (2,4%) và cao hơn so với chi phí thuốc hoá chất trong các ao nuôi của thí nghiệm. Điều đó cho thấy hạn chế của TATC có sử dụng cá tạp là gây ô nhiễm môi trường và chứa đựng nhiều mầm bệnh. Đối với mô hình nuôi cá bè, chi phí thức ăn của bè sử dụng TATC thấp hơn so với bè sử dụng thức ăn viên. Theo Trần Văn Nhì (2005) và Nguyễn Thanh Phương (1998), tỷ lệ chi phí thức ăn trong cơ cấu chi phí ở bè sử dụng TATC lần lượt là 70,5 – 75,4% và 77%. Theo Nguyễn Xuân Thành (2003) tỷ lệ này là 73,4 %. Bên cạnh đó, kết quả điều tra của Lê Thanh Hùng và ctv. (2006) cho thấy tỷ lệ này ở bè sử dụng TATC là 78,6%, ở bè sử dụng TACN là 84,7%. Trong khi đó theo kết quả nghiên cứu, chi phí thức ăn chiếm tỷ lệ tương đối cao 81% đối với ao nuôi sử dụng TATC và 79% đối với ao nuôi sử dụng TACN (Hình 4.2 và Hình 4.3). Trung tâm Học liệu ĐH Cần Thơ @ Tài liệu học tập và nghiên cứu 34 5 % 9 % 8 1 % 1 % 3 % 1 % C h i p h í c á g iố n g C h i p h í q u ả n lý , k h á c C h i p h í t h ứ c ă n C h i p h í d in h d ư ỡ n g C h i p h í t h u ố c C h i p h í h ó a c h ấ t Hình 4.2 Cơ cấu các loại chi phí trong ao sử dụng TATC 6 % 1 1 % 7 9 % 2 % 1 % 1 % C h i p h í c á g iố n g C h i p h í q u ả n lý , k h á c C h i p h í t h ứ c ă n C h i p h í d in h d ư ỡ n g C h i p h í t h u ố c C h i p h í h ó a c h ấ t Hình 4.3 Cơ cấu các loại chi phí trong ao sử dụng TACN Tóm lại, chi phí TATC (có sử dụng thiết bị) và chi phí TACN đều thấp hơn so với chi phí thức ăn trong các nghiên cứu trước đây (ngoại trừ mô hình nuôi bè sử dụng TATC), do người dân sử dụng cá tạp và các phụ phế phẩm có sẵn ở địa phương để phối chế trong công thức thức ăn và chế biến thủ công nên giá thành thấp hơn so với TATC trong nghiên cứu. Chi phí quản lý của hai nghiệm thức theo dõi đều cao hơn so với nghiên cứu của một số tác giả trên. Điều này chứng tỏ mức độ thâm canh hóa trong nuôi cá càng cao thì các yêu cầu về quản lý kỹ thuật càng được quan tâm nhiều Trung tâm Học liệu ĐH Cần Thơ @ Tài liệu học tập và nghiên cứu 35 hơn. Nếu quản lý tốt khâu này sẽ làm giảm các chi phí khác, nhất là chi phí thức ăn mang tính quyết định đến hiệu quả sản xuất của mô hình nuôi. 4.5.3 Hiệu quả sản xuất của mô hình nuôi Qua bảng thống kê kết quả sản xuất, sản lượng cá thu hoạch của ao TATC cao hơn so với ao sử dụng TACN, do tỷ lệ sống cao hơn (78,5% so với 74,6%). Mặt khác do giá bán của ao TATC (14.718 đ/kg cá) cao hơn (do chất lượng thịt cá cao hơn) nên đã nâng mức lợi nhuận cao hơn (4.160 đ/kg cá) so với ao TACN (3.058 đ/kg cá), mặc dù giá thành của ao TATC (10.287 đ/kg cá) cao hơn ao TACN (10.154 đ/kg cá) (Bảng 4.13). Bảng 4.10 Tổng kết hiệu quả sản xuất mô hình nuôi Các chỉ tiêu Ao TATC Ao TACN Tổng chi phí (nghìn đồng/ha) 3.476.626 3.335.651 Giá thành nuôi (đ/kg cá) 10.287 ± 284 10.154 ± 186 Năng suất trung bình (tấn/ha) 336 ± 102 330 ± 109 Giá bán trung bình (đ/kg cá) 14.718 ± 363 13.100 ± 520 Lãi (đ/kg cá) 4.905 ± 1.926 3.367 ± 323 Lãi ( nghìn đồng/ha) 1.356.373 933.829 Tỷ suất lợi nhuận (%) 39,8 ± 4 26,7 ± 6 Khi xem xét đến hiệu quả sử dụng đồng vốn (tỷ suất lợi nhuận) của hai nghiệm thức cho thấy, ao sử dụng TATC có tỷ suất lợi nhuận cao hơn (39,8%), trong khi đó ao sử dụng TACN chỉ đạt 26,7%. Theo kết quả nghiên cứu của Lê Bảo Ngọc (2004), tỷ suất lợi nhuận trung bình của các ao là 5,98 ± 2,65%. Đối với mô hình nuôi cá bè giá trị tỷ suất lợi nhuận có sự biến động lớn, ở khu vực Châu Đốc tỷ suất lợi nhuận ở các bè nuôi thường rất thấp (2,2%), trong khi ở khu vực Long Xuyên tỷ lệ này lên đến 17,9% (Trần Văn Nhì, 2005). Do người nuôi cá ở khu vực Long Xuyên đã có sự đổi mới trong việc phối chế thức ăn cho cá (ngoài cám và cá tạp là hai thành phần chính, họ còn bổ sung thêm bột cá và bột đậu nành (10-15%) trong thức ăn) nên thức ăn có chất lượng tốt hơn, hệ số và chi phí thức ăn thấp hơn, chất lượng cá cao hơn, điều đó đã dẫn đến hiệu quả kinh tế của mô hình nuôi ở khu vực này cao hơn. Tuy nhiên, giá trị tỷ suất lợi nhuận lệ thuộc nhiều vào giá bán cá thương phẩm trên thị trường. Ở các ao TATC vào thời điểm thu hoạch giá bán trung bình là 14.718 đ/kg, còn các ao TACN là 13.400 đ/kg. Điều này đã thể hiện rất rõ sự biến động của giá cá tra trên thị trường. Trong những tháng cuối năm 2005 Trung tâm Học liệu ĐH Cần Thơ @ Tài liệu học tập và nghiên cứu 36 giá cá tra thương phẩm giảm mạnh trung bình từ 11.200 – 12.200 đ/kg (Trần Văn Nhì, 2005). Đến khoảng tháng 04 – 2006, giá cá tra tăng mạnh đạt mức 14.500 đ/kg (có lúc 15.000 đ/kg). Nhưng chỉ khoảng 02 tháng sau giá cá tra thịt trên thị trường chỉ còn 13.000 – 13.500 đ/kg (www.fistenet.gov.vn). Theo kết quả điều tra của Lê Thanh Hùng và ctv. (2006) trên cá tra nuôi trong ao đất, giá thành sản xuất cho 1 kg cá nuôi biến động lớn khi sử dụng TATC (có sử dụng cá tạp) giá thành từ 7.000 – 10.600 đ/kg (trung bình 8.800 đ/kg), còn đối với ao sử dụng thức ăn viên công nghiệp giá thành trung bình là 9.500 đ/kg. Bên cạnh đó, theo số liệu nghiên cứu từ Trung tâm KHCN và kinh tế thủy sản - Bộ Thủy Sản (2005) chi phí nuôi cho 1 kg cá là 7.053 đ. So với chi phí sản xuất của các nghiên cứu trên, chi phí sản xuất của ao sử dụng TATC thí nghiệm cao hơn. Do giá thành của TATC và mức độ thâm canh cao hơn (mật độ thả bình quân 45 con/m2), nên chi phí quản lý kỹ thuật sẽ cao hơn. Theo Lê Thanh Hùng và ctv. (2006), giá thành sản phẩm trong hình thức nuôi ao ở cả hai loại thức ăn (tự chế và công nghiệp) đều thấp hơn so với mô hình nuôi bè. Theo kết quả điều tra của Trần Văn Nhì (2005), giá thành nuôi của bè sử dụng TATC dạng nông hộ từ 10.601 – 11.205 đ/kg. Bên cạnh đó, theo nhận xét của Lê Thanh Hùng và ctv. (2006), đối với mô hình nuôi sử dụng TATC, nông hộ rất khó kết luận chính xác giá thành sản phẩm do biến động của giá thành thức ăn (biến động của giá nguyên liệu phối chế), trong khi đó chi phí thức ăn chiếm khoảng 77% tổng chi phí sản xuất (Nguyễn Thanh Phương, 1998). Do đó sử dụng TATC chỉ hiệu quả khi áp dụng phương pháp quản lý thức ăn phù hợp và đúng kỹ thuật. Như vậy, qua kết quả nghiên cứu về hiệu quả sản xuất của việc sử dụng TATC trong ao nuôi cá tra thâm canh so với TACN cho thấy TATC đã sử dụng nguyên liệu có chất lượng tốt và tỷ lệ phối chế hợp lý. Mặt khác, TATC được chế biến qua máy móc thiết bị hiện đại nên chất lượng viên thức ăn gần tương đương với TACN bán trên thị trường. Điều này đã giúp cá có tốc độ tăng trưởng nhanh và tỷ lệ sống khá cao, đặc biệt là chất lượng thịt cá, tỷ lệ cá loại 1 của ao TATC (83%) cao hơn so với ao sử dụng TACN (80,9%). Mặc dù đơn giá TATC thấp hơn nhưng hệ số thức ăn của ao sử dụng TATC cao hơn (1,90) so với ao sử dụng TACN (1,57) làm chi phí thức ăn và giá thành của ao sử dụng TATC cao hơn. Tuy vậy, do giá bán cá thương phẩm cao hơn nên hiệu quả kinh tế của ao nuôi sử dụng TATC (tỷ suất lợi nhuận trung bình đạt 39,8%) cao hơn so với các ao dụng TACN (26,7%). Trung tâm Học liệu ĐH Cần Thơ @ Tài liệu học tập và nghiên cứu 37 Nói tóm lại, TATC trong nghiên cứu mặc dù có hàm lượng các chất tương đương với TACN, tỷ lệ sống và tốc độ tăng trưởng ở các ao TATC gần bằng với các ao TACN, nhưng trên thực tế do độ ẩm của viên TATC cao nên làm gia tăng chi phí thức ăn đáng kể. Các ao TATC đạt lợi nhuận cao hơn là do thu hoạch vào thời điểm giá cao. Với kết quả nghiên cứu cho thấy, TATC trong nghiên cứu chưa có khả năng thay thế TACN (do phải đầu tư trang thiết bị) và khó có thể được người nuôi chấp nhận trong thực tế sản xuất. Trung tâm Học liệu ĐH Cần Thơ @ Tài liệu học tập và nghiên cứu 38 CHƯƠNG 5 KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT 5.1 KẾT LUẬN Tốc độ tăng trưởng (SGR và DWG) ở các ao sử dụng TATC (1,92 ± 0,16% và 4,86 ± 0,49 g/ngày) gần tương đương với các ao sử dụng TACN ( 1,94 ± 0,17% và 5,57 ± 0,59 g/ngày). Chi phí thức ăn ở ao sử dụng TATC (8.564 ± 188 đ/kg) cao hơn các ao sử dụng TACN (8.491 ± 58 đ/kg), do hệ số thức ăn của TATC (1,90) cao hơn TACN (1,57). Chi phí thức ăn vẫn luôn chiếm tỷ lệ cao nhất trong cơ cấu chi phí của các ao nuôi thí nghiệm, ở các ao sử dụng TATC là 81 %, các ao sử dụng TACN 79%. Chất lượng thịt cá thương phẩm (tỷ lệ philê và tỷ lệ cá loại 1) ở ao sử dụng TATC (2,73 và 83%) tương đương với ao sử dụng TACN (2,72 và 80,9%), hiệu quả sản xuất của các ao sử dụng TATC cao hơn (tỷ suất lợi nhuận ở các ao sử dụng TATC là 39,8 ± 4%, ở các ao TACN là 26,7 ± 6%. Chi phí sản xuất ở các ao sử dụng TATC (10.287 đ/kg cá) cao hơn ở các ao sử dụng TACN (10.154 đ/kg cá) nhưng do thu hoạch vào thời điểm giá cao nên đạt hiệu quả kinh tế hơn. Điều này cho thấy, TATC trong nghiên cứu cần phải nâng cao chất lượng hơn (giảm ẩm độ trong viên thức ăn) mới có thể nhận được sự chọn lựa của người nuôi. 5.2 ĐỀ XUẤT Nghiên cứu thành phần và tỷ lệ phối chế của các nguyên liệu trong công thức TATC nhằm gia tăng chất lượng của viên TATC. Nghiên cứu cải tiến phương pháp chế biến TATC (làm giảm ẩm độ của viên TATC) để hạ thấp hệ số thức ăn (FCR) trong thực tế sản xuất. Trung tâm Học liệu ĐH Cần Thơ @ Tài liệu học tập và nghiên cứu 39 TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Dương Nhựt Long, 2003. Giáo trình kỹ thuật nuôi thủy sản nước ngọt. 2. Dương Thúy Yên, 2000. Tổng quan về nhu cầu dinh dưỡng của một số loài cá trơn. Báo cáo chuyên đề. 3. Dương Thúy Yên, 2003. Khảo sát một số tính trạng, hình thái, sinh trưởng và sinh lý của cá basa (P. Bocourti), cá tra (P. Hypophthalmus) và con lai của chúng. Luận văn thạc sỹ. Khoa Thủy Sản. Trường Đại học Cần Thơ. 4. Jantrarotai, W. and P. Jantrarotai, 1993. On-farm feed preparation and feeding stragies for catfish and snakehead, p.101-109. In M.B.New, A.G.Tacon and I.Csavas (eds.). Farm-made aquafeeds. 5. Halver, 1989. Fish nutrition. 32 – 112. 6. Huỳnh Thị Tú, Trần Văn Nhì, Trần Văn Bùi, Trần Thị Thanh Hiền và Nguyễn Thanh Phương, 2006. Tình hình nuôi và sử dụng thức ăn cho cá tra nuôi ao và bè ở An Giang. Tạp chí khoa học, Đại học Cần Thơ, số đặc biệt (chuyên đề thủy sản) (quyển 1), trang 152-157. 7. Huỳnh Thị Tú và Nguyễn Thanh Phương, 2000. Dietary carbohydrate utilization by Pangasius kunyit. The proceeding of the mid- term workshop of the « Catfish Asian Project ». May 15-20, 2000, Indonesia. 8. fistenet.gov.vn. Truy cập ngày 06/04/2006. 9. http ://msucares. com / pubs / bulletins / B.1041. htm. (Truy cập 06/04/2006) 10. http ://www.ag.auburn.edu/aaes/communications/highlights/summer 96/catfish.htm (Truy cập 06/04/2006) 11. (Truy cập 06/04/2006) 12. Khan, M.S, et al, 1992. Optimum dietary protein requirement of Malaysia fresh water catfish, Mystus nemurus, Aquaculture, 112 : 32- 112. 13. Lê Bảo Ngọc, 2004. Đánh giá chất lượng môi trường ao nuôi cá tra (P. Hypophthalmus) thâm canh ở xã Tân Lộc, huyện Thốt Nốt, TP. Cần Thơ. Luận văn thạc sĩ. Khoa Thủy Sản. Trường Đại học Cần Thơ. 69 trang. 14. Lê Như Xuân, 1994. Cá tra (Pangasius micronemus Bleeker) một số đặc điểm sinh học và sinh sản nhân tạo. Tạp chí Thủy Sản tháng 2 năm 1994. Trang 13-17. 15. Lê Thanh Hùng, 2000. Dinh dưỡng và thức ăn thủy sản. Bài giảng cao học. 16. Lê Thanh Hùng và Phạm Trần Việt Huy, 2006. Tình hình sử dụng thức ăn trong ao nuôi cá tra và basa khu vực Đồng bằng sông Cửu Long. Tạp chí khoa học, Đại học Cần Thơ, số đặc biệt (chuyên đề thủy sản) (quyển 1), trang 144 -151. Trung tâm Học liệu ĐH Cần Thơ @ Tài liệu học tập và nghiên cứu 40 17. Mertrampf, J.W. 1992. Feeding aquatic animals with phospholipid, II : F : Shes. Publication. No.1. Lucas Meyer, Germany, 69 p. 18. Masser. M, John Jensen, Jerry Crews, 1992. Channel Catfish production in ponds. 21p. 19. National academy of sciences, Washington D.C, 1973. Nutrient requirements of Trout, Salmon and Catfish, 57 p. 20. New, M.B. and Imre Csavas, 1993. Aquafeeds in Asia – a regional overview, p.1-23. In M.B.New, A.G.Tacon and I.Csavas (eds.). Farm- made aquafeeds. 21. Nguyễn Bạch Loan, 2000. Bài giảng Ngư loại I (Cá). Khoa Nông Nghiệp. Trường Đại học Cần Thơ. 22. Nguyễn Thanh Phương, 1998. Pangasius catfish cage aquaculture in the Mekong Delta, Vietnam : Current situation analysis and studies for feeding improvement. Ph.D thesis. 23. Nguyễn Xuân Thành, 2003. Cuộc chiến Catfish: Xuất khẩu cá Tra và cá Basa sang thị trường Mỹ. 24. Page, J.W, Andrews, 1973. Interaction of dietary levels of protein and energy on Channel catfish. Journal of nutrition. 103 : 1339-1346. 25. Phan Thị Thanh Trúc, 2005. Đánh giá việc sử dụng TATC để nuôi cá tra bè (P.h Sauvage, 1878) tại An Giang (LVTNĐH). 26. Phan Thúc Ngân, 2001. Nghiên cứu sự ảnh hưởng của thức ăn và chế độ thay nước đến sinh trưởng và hiệu quả kinh tế của cá tra (P. Hypophthalmus) nuôi trong ao đất. (LVTNĐH). 27. Schmitou, H.R, Emeritus, 1993. High density fish culture in low volume cage. 35-38. 28. Stickney, R.R., and R.T.Lovell, eds. 1977. Nutrition and Feeding of Channel Catfish. 29. Thạch Thị Duyên Thy, 1996. Thử nghiệm sự ảnh hưởng của thức ăn đến sự sinh trưởng cá tra (LVTNĐH) 30. Trần Thị Thanh Hiền, Nguyễn Anh Tuấn, Huỳnh Thị Tú, 2004. Giáo trình Dinh Dưỡng và Thức Ăn Thủy Sản. 31. Trần Văn Nhì, 2005. Đánh giá việc sử dụng nguồn nguyên liệu địa phương làm thức ăn nuôi cá tra (P. hypophthalmus) trong bè ở An Giang. Luận văn Thạc sĩ. Khoa Thủy Sản. Trường Đại học Cần Thơ. 32. Trương Quốc Phú và Trần Thị Thanh Hiền, 2003. Change in types of Feeds for Pangasius Catfish culture Improve production in the Mekong Delta. Aqua news Vol. 18 No.3 – Summer 2003. Pond Dynamics/ Aquaculture CRSP. 33. Trương Thủ Khoa và Trần Thị Thu Hương, 1993. Định loại cá nước ngọt vùng Đồng bằng sông Cửu Long. Khoa Thủy Sản, trường Đại học Cần Thơ. 361tr. 34. Wilson, R.P, Y.Moreau, 1996. Nutrient requirements of catfish. In Aquatic living resources, Vol.9 : 103-111. Trung tâm Học liệu ĐH Cần Thơ @ Tài liệu học tập và nghiên cứu

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdflv_mth_dang_1547.pdf
Luận văn liên quan