Nguyên lý thực hành bảo hiểm

Sau khi có Nghị định của Chính phủ, Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Nội vụ, các Bộ, ngành có liên quan và Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương sẽ triển khai thực hiện quản lý biên chế sự nghiệp theo cơ chế quản lý vị trí việc làm, số lượng người làm việc, cơ cấu viên chức theo chức danh nghề nghiệp. Bộ, ngành Trung ương sẽ thực hiện việc kiểm tra việc thực hiện các quy định về quản lý vị trí việc làm trong các đơn vị sự nghiệp công lập theo thẩm quyền được giao. Đối với các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, Sở Giáo dục và Đào tạo là cơ quan chủ trì, phối hợp với Sở Y tế, Sở Nội vụ trình Ủy ban nhân dân cấp tỉnh xem xét, quyết định bố trí đủ viên chức và trang thiết bị y tế trường học cho phù hợp đặc điểm của mỗi địa phương theo đúng tinh thần của Chỉ thị số 23/2006/CT- TTg của Thủ tướng Chính phủ nhằm nâng cao chất lượng chăm sóc và bảo vệ sức khỏe cho học sinh, sinh viên.

docx29 trang | Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2718 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Nguyên lý thực hành bảo hiểm, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Mục lục Lời cảm ơn Tiểu luận có thể coi là một công trình khoa học nhỏ . Do vậy để hoàn thành tốt bài tiểu luận này là một vấn đề không hề dễ đối với sinh viên năm nhất như chúng em . mặc dù gặp nhiều khó khăn trong việc làm bài tiểu luận này nhưng chúng đã hết sức cố gắng tìm mọi thông tin tài liệu từ nhiều nguồn khác nhau như: internet, báo chí , các tài liệu trên thư viện.Sau khi hoàn tất bài tiểu luận này chúng em xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ : của nhà trường đã tạo điều kiện thuận lợi để giúp bọn em nghiên cứu đề tài này và bộ phận thư viện đã tạo điều kiện để chúng em mượn sách và phòng học để nhóm chúng em nghiên cứu bên cạnh đó chúng em xin cảm ơn một người rất quan trọng giúp chúng em hoàn thành tốt bài tiểu luận này là: tiến sĩ nguyễn tấn hoàng đã giúp đưa ra định hướng giúp chúng em hoàn thành tốt bài tiểu luận này. Mặc dù đã rất cố gắng để hoàn thành bài tiều luận này nhưng không thể tránh khỏi thiếu sót. Chúng em rất mong nhận được ý kiến đóng góp của thấy , cô và các bạn sinh viên để chúng em rút kinh nghiệm lần sau. Trong bài tiểu luận này chúng em có tham khảo một số tài liệu và trang web sau: BÁO CÁO :Kết quả giám sát việc thực hiện chính sách, pháp luật về bảo hiểm y tế giai đoạn 2009-2012 Web: www.baohiemxahoi.gov.vn Web: Web: Web: www.baobinhphuoc.com.vn Bài tiểu luận: Đánh giá thực trạng BHYT HSSV CHƯƠNG I: PHẦN MỞ ĐẦU Luật Giáo dục nước ta đã xác định mục tiêu: Đào tạo con người Việt Nam phát triển toàn diện, có đạo đức, tri thức, sức khỏe, thẩm mỹ và nghề nghiệp, trung thành với lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; hình thành và bồi dưỡng nhân cách, phẩm chất và năng lực công dân, đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”. Sức khỏe tốt là một mục tiêu quan trọng của giáo dục toàn diện học sinh, sinh viên (HSSV) trong trường học các cấp. chăm sóc, bảo vệ và giáo dục sức khỏe cho HSSV - những chủ nhân tương lai của đất nước, là mối quan tâm lớn của Đảng, Nhà nước, của mỗi gia đình và toàn xã hội. Thực hiện chủ trương đó, từ năm 1994, sau khi chính sách BHYT ra đời hai năm, BHYT học sinh, sinh viên đã được triển khai trên phạm vi cả nước theo hướng dẫn của Liên bộ Giáo dục, Đào tạo và Y tế. BHYT học sinh, sinh viên là sự kết hợp toàn diện các yêu cầu của công tác bảo vệ, chăm sóc sức khỏe cho HSSV, từ việc chĂm lo sức khỏe ban đầu tại y tế học đường, đến khám, chữa bệnh tại các cơ sở y tế khi rủi ro, ốm đau phải nằm viện. Do mục đích ưu việt, thiết thực, giàu tính nhân văn, BHYT học sinh, sinh viên đã nhận được sự đồng tình, ủng hộ của toàn xã hội, vượt qua mọi khó khăn, trở ngại và ngày càng phát triển mạnh mẽ. Năm 2010 Luật BHYT quy định chuyển BHYT HSSV từ tự nguyện sang bắt buộc đó là diều hết sức đúng đắn và thực sự cần thiết để tiếp tục chăm sóc sức khỏe HSSV được tốt hơn. I. Bảo hiểm học sinh, sinh viên là gì? 1. Đối tượng tham gia - BHYT HS-SV là loại hình BHYT tự nguyện có đối tượng tham gia là tất cả học sinh từ bậc tiểu học trở lên đang theo học tại các trường quốc lập, bán công, dân lập, các trung tâm giáo dục thường xuyên trừ các trường hợp thuộc đối tượng chính sách ưu đãi xã hội của Nhà nước đã được Nhà nước cấp thẻ BHYT. - BHYT HS-SV được triển khai theo Thông tư 14/1994/TTLT – BGD ĐT – BYT ngày 19/9/1994 và được sửa đổi bổ sung bằng Thông tư 40/1998/TTLT – BGD ĐT – BYT ngày 18/7/1998. Theo các Thông tư này thì BHYT HS-SV có nội dung chính là chăm sóc sức khoẻ học sinh - sinh viên tại trường học và KCB khi ốm đau, tai nạn, trợ cấp mai táng trong trường hợp tử vong. 2. Phí tham gia BHYTHSSV Luật BHYT quy định HSSV là đối tượng có trách nhiệm tham gia BHYT và được Nhà nước hỗ trợ 100% mức phí đóng BHYT đối với các em thuộc hộ nghèo và thân nhân sỹ quan Quân đội, Công an; 50% đối với hộ cận nghèo và 30% đối với số HSSV còn lại 3.Phạm vi của BHYT HS-SV - Theo Thông tư 40/1998/TTLT – BGD ĐT – BYT thì học sinh - sinh viên có thẻ BHYT được : 3.1.Chăm sóc sức khoẻ ban đầu + Học sinh được quản lý sức khoẻ và hướng dẫn để phòng chống các bệnh học đường. + Giữ gìn vệ sinh cá nhân, vệ sinh dinh dưỡng, vệ sinh môi trường. + Phòng chống các dịch bệnh. + Các biện pháp phòng, chữa một số bệnh và triệu chứng thông thường như: ỉa chảy, đau bụng, đau mắt, đau đầu. + Phòng chống bệnh cong vẹo cột sống. + Phòng chống các bệnh xã hội, các tệ nạn xã hội ( ma tuý, HIV…) + Phòng chống tai nạn giao thông, tai nạn lao động + Khám sức khoẻ định kỳ vào các thời điểm: đầu năm lớp 1, cuối mỗi cấp học phổ thông và đầu khoá học của các trường đại học, chuyên nghiệp + Thực hiện sơ cứu tai nạn, ốm đau đột xuất + Đảm bảo vệ sinh ăn uống tại trường cho học sinh - sinh viên + Vệ sinh học đường + Giáo dục sức khoẻ ( là một môn học trong nhà trường) + Tuyên truyền chăm sóc bảo vệ sức khoẻ + Đảm bảo các tiêu chuẩn vệ sinh học đường: • Ánh sáng, nước uống, nước rửa hợp vệ sinh • Phong trào xây dựng trường xanh - sạch - đẹp • Vệ sinh an toàn thực phẩm • Quản lý và chăm sóc sức khoẻ học sinh tại trường học giúp học sinh xử lý kịp thời bệnh tật đồng thời để nhà trường tổ chức thực hiện học tập, lao động, rèn luyện thân thể phù hợp với sức khoẻ, mặt khác việc quản lý sức khoẻ học sinh tốt sẽ tạo điều kiện, cơ sở để các nhà quản lý vĩ mô có thể hoạch định chính sách quốc gia 3.2. Khám, chữa bệnh - Được khám, chữa bệnh tại các cơ sở KCB ( gọi chung là bệnh viện) đã được đăng ký trên phiếu KCB bảo hiểm y tế. Trong trường hợp cấp cứu được KCB tại bất kỳ một bệnh viện nào. - KCB ngoại trú ( trong trường hợp cấp cứu và tai nạn nhưng chưa phải nằm viện) được chi trả các chi phí dịch vụ y tế như tiền công khám, xét nghiệm, X quang, riêng tiền thuốc học sinh - sinh viên tự túc. - Học sinh - sinh viên được hưởng chi phí trong điều trị nội trú tại các cơ sở KCB gồm các nội dung sau: + Khám bệnh, chẩn đoán và điều trị + Xét nghiệm, chiếu chụp X – quang, thăm dò chức năng + Thuốc trong danh mục theo qui định của Bộ Y tế + Máu, dịch truyền + Các thủ thuật, phẫu thuật + Sử dụng vật tư, thiết bị y tế và giường bệnh 4.Vai trò và tầm quan trọng của BHYT . 4.1 Vai trò của BHYT. BHYT là một chính sách xã hội do nhà nước tổ chức thực hiện, nhằm huy động sự đóng góp của người sử dụng lao động, người lao động, các tổ chức và cá nhân có nhu cầu được bảo hiểm, từ đó hình thành nên một quỹ và quỹ này sẽ được dùng để chi trả chi phí khám chữa bệnh, khi một người nào đó không may mắc phải bệnh tật mà họ có tham gia BHYT. Mặc dù ở mỗi nước khác nhau thì sẽ có các hình thức tổ chức khác nhau, có nước tổ chức độc lập với loại hình bảo hiểm khác, có nước lại coi đây là một trong những chế độ của BHXH. Ở nước ta BHYT đã xác nhập vào BHXH kể từ ngày 24/01/2002. Nhưng mặc dù được tổ chức như thế nào đi chăng nữa, thì BHYT vẫn có vai trò riêng biệt mang tính xã hội rộng rãi như sau: - nâng cao chất lượng giáo dục, chăm sóc sức khỏe cho HSSV, bảo đảm an toàn trường học, phát triển bền vững, thực hiện An sinh xã hội. - BHYT trong trường học đã góp phần không nhỏ vào công tác chăm sóc, bảo vệ sức khỏe HSSV, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, vì tương lai của đất nước. HSSV tham gia BHYT sẽ được chi trả toàn bộ hoặc một phần lớn chi phí khám, chữa bệnh khi ốm đau, tránh tình trạng nghỉ học hoặc không có điều kiện khám, chữa các bệnh hiểm nghèo. Đặc biệt là đối với các HSSV nghèo mắc bệnh nặng, phải điều trị lâu dài. - nâng cao ý thức chấp hành các quy định, pháp luật của HSSV trong công tác BHYT - BHYT HS-SV là một chính sách xã hội lớn, mang đến lợi ích cho người tham gia : xoá đi sự bất công giữa người giàu và người nghèo, để mọi người có bệnh đều được điều trị với điều kiện họ có tham gia, được điều trị theo bệnh, mang tính nhân đạo cao cả và được xã hội hoá theo nguyên tắc “Số đông bù số ít” và được thực hiện theo phương trâm: “Mình vì mọi người, mọi người vì mình - BHYTHSSV giúp cho người tham gia khắc phục khó khăn cũng như ổn định về mặt tài chính khi không may gặp phải rủi ro ốm đau. Nhờ có BHYT, HSSV sẽ an tâm được phần nào về sức khoẻ cũng như kinh tế để có thể yên tâm học tập , bởi vì họ đã có một phần như là quỹ dự phòng của mình giành riêng cho vấn đề chăm sóc sức khoẻ, đặc biệt với những HSSV nghèo chẳng may mắc bệnh. 4.2 tầm quan trọng của BHYT BHYTHSSV ra đời có tác dụng khắc phục hậu quả và kịp thời ổn định được cuộc sống cho HSSV khi bị ốm đau, tạo một niềm lạc quan trong cuộc sống, từ đó giúp cho HSSV học tập tốt cho chính bản thân họ và sau đó là cho xã hội, góp phần đẩy mạnh sự phát triển của xã hội. - Bảo hiểm y tế ra đời còn góp phần giáo dục HSSV về tính nhân đạo theo phương châm: “Lá lành đùm lá rách”, tính cộng đồng - BHYTHSSV cùng với BHYT nói chung làm tăng chất lượng khám chữa bệnh và quản lý y tế thông qua hoạt động quỹ BHYT đầu tư. Lúc đó trang thiết bị về y tế sẽ hiện đại hơn, có kinh phí để sản xuất các loại thuốc đặc trị chữa bệnh hiểm nghèo, có điều kiện nâng cấp các cơ sở khám chữa bệnh một cách có hệ thống và hoàn thiện. Đồng thời đội ngũ cán bộ y tế sẽ được đào tạo tốt hơn, các y, bác sỹ sẽ có điều kiện nâng cao tay nghề, tích luỹ kinh nghiệm, có trách nhiệm đối với công việc hơn, dẫn đến sự quản lý dễ dàng và chặt chẽ hơn trong khám chữa bệnh. - BHYTHSSV cùng với BHYT nói chung còn có tác dụng góp phần giảm nhẹ gánh nặng cho ngân sách Nhà nước. Hiện nay kinh phí cho y tế được cấu thành chủ yếu từ 4 nguồn: + Từ ngân sách Nhà nước. + Từ quỹ BHYT. +Thu một phần viện phí và dịch vụ y tế. + Tiền đóng góp của các tổ chức quần chúng, của các tổ chức từ thiện và viện trợ quốc tế. Trong bốn nguồn trên từ khi chưa có BHYT thì nguồn do ngân sách Nhà nươc cấp là chủ yếu. Do vậy BHYT ra đời đã thực sự góp phần giảm bớt gánh nặng cho ngân sách Nhà nước. - BHYT còn góp phần đề phòng và hạn chế những bệnh hiểm nghèo theo phương châm “Phòng bệnh hơn chữa bệnh”. CHƯƠNG II: CẦN THIẾT VÀ LỢI ÍCH CỦA BẢO HIỂM HỌC SINH, SINH VIÊN. 2.1 SỰ CẦN THIẾT. Sức khỏe là vốn quý nhất của con người. “Có sức khỏe là có tất cả, không có sức khỏe là không có gì’’- câu nói hàm súc, thâm sâu đó đúc rút từ trong thực tiễn đời sống xã hội, là lời nhắc nhở mọi người về ý thức giữ gìn, bảo vệ sức khỏe bản thân và cộng đồng. Tuy nhiên, để có sức khỏe tốt, mọi người ý thức tự rèn luyện, giữ gìn cần có điều kiện tài chính cần thiết và giải pháp hữu hiệu nhất là có sự chung tay, góp sức chia sẻ của cả cộng đồng thông qua hình thức BHYT. Điều này có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với học sinh, sinh viên, những chủ nhân tương lai của đất nước. Phải khẳng định rằng BHYT là một giải pháp đúng đắn, ưu việt, vừa lợi ích vừa nhân đạo, giáo dục các em học sinh, sinh viên nâng cao ý thức phòng tránh những rủi ro, bệnh tật, biết tự bảo vệ sức khỏe cho mình, xây dựng môi trường sống lành mạnh, văn minh. Thông qua việc tham gia BHYT giúp cho các em hiêu thêm được ý nghĩa tương trợ cộng đồng, giáo dục các em tính nhân đạo xã hội, yêu thương đùm bọc “Lá lành đùm lá rách” , “ Thương người như thể thương thân” và đạo lý “ Mình vì mọi người, mọi người vì mình” Với ý nghĩa, mục đích tốt đẹp như vậy, nhưng qua 10 năm thực hiện luật BHYT, mới có gần 11 triệu học sinh, sinh viên tham gia BHYT, đạt trên 80% tổng số đối tượng.Một số trường hợp không tham gia bảo hiểm, khi các em không may ốm đau phải chữa trị dài ngày, tốn kém tiền bạc do không có BHYT đã gặp khó khăn, không ít trường hợp không thể có điều kiện chữa trị.Vì vậy việc tham gia BHYT càng có ý nghĩa quan trọng, giúp gia đình các em vượt qua ốm đau bệnh tật để tiếp tục học tập, rèn luyện, trau dồi kiến thức, trở thành những công dân có ích cho gia đình và xã hội Năm học 2013 – 2014 đã đến, lộ trình BHYT toàn dân vào năm 2014 theo quy định của luật BHYT cũng đã đến gần với sự chỉ đạo quyết liệt của chính phủ, sự cố gắng nỗ lực và quyết tâm cao của các cấp, các nghành, đặc biệt là nghành Giáo dục và Đào tạo, chắc chắn kế hoạch bao phủ BHYT tới 100% học sinh, sinh viên sẽ trở thành hiện thực, sức khỏe giống nòi không những được bảo vệ, mà sẽ có những cải thiện tích cực, nguồn lực con người sẽ dồi dào và tráng kiện, đúng như lời Hồ Chủ Tịch đã từng dạy: “Dân cường thì nước mới thịnh”. 2.2 LỢI ÍCH VÀ TRÁCH NHIỆM CỦA BẢO HIỂM HỌC SINH – SINH VIÊN 2.2.1 Đối với học sinh - sinh viên. 2.2.1.1. Quyền lợi. - Được cấp thẻ theo mẫu qui định thống nhất toàn quốc - Được đăng ký KCB ban đầu tại cơ sở kx gần nơi cư trú theo hướng dẫn của cơ quan BHYT - Được bảo hiểm 24/24 giờ trong ngày theo thời hạn sử dụng thẻ -Trong trường hợp cấp cứu tại bất kỳ cơ sở y tế nào của Nhà nước cũng đều được hưởng chế độ BHYT. - Được chăm sóc sức khoẻ ban đầu và sơ cứu tế y tế trường học - Được KCB ngoại trú (đựơc chi trả các chi phí dịch vụ y tế như tiền công khám, xét nghiệm, X quang, thủ thuật. Riêng tiền thuốc học sinh - sinh viên tự túc). - Được chi trả trong trường hợp tai nạn ốm đau, nội trú tại các cơ sở của Nhà nước theo quy định chuyên môn và các quy định BHYT - Các chi phí KCB được cơ quan BHYT thanh toán với bệnh viện nếu học sinh - sinh viên đi KCB có trình thẻ tại: • bất kỳ cơ sở y tế nào của Nhà nước trong trường hợp cấp cứu • bệnh viện đã đăng ký trên phiếu KCB BHYT của học sinh - sinh viên • bệnh viện theo giấy chuyển viện phù hợp với tuyến chuyên môn kỹ thuật của Bộ Y tế - Trường hợp KCB không đúng quy định, KCB theo yêu cầu riêng, học sinh , sinh viên sẽ phải tự trả các chi phí cho bệnh viện. Sau đó trên cơ sở hoá đơn, chứng từ hợp lệ được cơ quan BHYT thanh toán lại một phần chi phí KCB theo giá viện tại viện phí tại tuyến chuyên môn kỹ thuật phù hợp theo quy định của Bộ Y tế. - Trường hợp không may bị tử vong được cơ quan BHYT chi trả trợ cấp mai táng phí 1.000.000đồng/học sinh Theo Thông tư 77/2003/TTLT – BTC – BYT quyền lợi của học sinh - sinh viên khi đi KCB BHYT như sau: Được chăm sóc sức khoẻ ban đầu tại phòng y tế trường học. Trường hợp không có phòng y tế tại trường thì cơ quan BHXH có trách nhiệm hợp đồng với cơ sở y tế gần nhất đảm bảo việc chăm sóc thuận tiện và phù hợp. Học sinh - sinh viên khi đi KCB BHYT đúng tuyến theo quy định, điều trị ngoại trú và nội trú được hưởng các quyền lợi sau: + Khám và làm các xét nghiệm, chiếu chụp X quang, các thăm dò chức năng phục vụ cho viẹc chuẩn đoán và điều trị theo chỉ định của bác sỹ + Cấp thuốc trong danh mục quy định của Bộ Y tế, truyền máu, truyền dịch theo chỉ định của bác sỹ điều trị, sử dụng các vật tư tiêu hao thông dụng, thiết bị y tế phục vụ KCB + Làm thủ thuật, phẫu thuật + Sử dụng giường bệnh Chi phí một lần KCB từ 20.000đ trở lên thì người có thẻ phải nộp 20% - học sinh - sinh viên tham gia BHYT liên tục từ 24 tháng trở lên được cơ quan BHXH thanh toán chi phí KCB đối với một số trường hợp đặc biệt như sau: + phẫu thuật tim: không quá 10 triệu đồng/ người/ năm + chạy thận nhân tạo: không quá 10 triệu đồng/ người/ năm + tiêm phòng uốn ván, súc vật cắn tối đa là 300.000 đồng/ người/ năm + trợ cấp tử vong: theo mức 1 triệu đồng/ trường hợp * Cơ quan BHYT không thanh toán cho các trường hợp sau: - các bệnh được Nhà nước đài thọ, sử dụng thuốc đặc trị như: phong, lao phổi, sốt rét, tâm thần phân liệt, động kinh - phòng và chữa bệnh dại, xét nghiệm HIV, lậu, giang mai - tiêm chủng mở rộng, điều trị, an dưỡng - các bệnh bẩm sinh, dị tật bẩm sinh - chỉnh hình, thẩm mỹ như: mắt giả, răng giả, chan tay giả … - dịch vụ kế hoạch hoá gia đình - tai nạn chiếnh tranh, thiên tai -KCB cấp cứu do tự tử, cố ý gây thương tích, nghiện chất ma tuý, vi phạm pháp luật Theo Thông tư 77 thì các trường hợp không thuộc trách nhiệm chi trả của Quỹ KCB tự nguyện được quy định bổ sung như sau: - kỹ thuật hỗ trợ sinh sản - ghép cơ quan nội tạng - điều trị phục hồi chức năng ngoài danh mục Bộ Y tế quy định - bệnh nghề nghiệp - tai nạn giao thông, kể cả di chứng tai nạn giao thông - xét nghiệm, chuẩn đoán thai sớm, điều trị vô sinh - chi phí vận chuyển người bệnh, khẩu phần ăn trong thời gian điều trị 2.2.1.2.Trách nhiệm. - đóng phí BHYT đầy đủ theo quy định - tự túc tiền ảnh và tiền sổ KCB - xuất trình ngay thẻ hoặc giấy tờ tuỳ thân có ảnh hợp lệ và phiếu khán chữa bệnh khi KCB nội và ngoại trú, nếu nhập viện thì phải xuất trình trong vòng 48 giờ kể từ khi nhập viện. - không cho người khác mượn thẻ - thực hiện đúng quy định của Nhà nước và sự hướng dẫn của cơ quan BHYT. 2.2.2 Đối với nhà trường. 2.2.2.1. Quyền lợi. Nhà trường được trích một khoản kinh phí từ tổng thu BHYT để sử dụng cho công tác YTHĐ. 2.2.2.2. Trách nhiệm. - Trách nhiệm chính đối với công tác bảo vệ chăm sóc, giáo dục sức khoẻ cho học sinh trong thời gian ở trường thuộc về lãnh đạo nhà trường. - Mỗi trường hoặc cụm trường bố trí y tế trường học theo qui định và đảm bảo các điều kiện cho YTHĐ hoạt động theo chức năng, nhiệm vụ qui định của liên Bộ Giáo dục - Đào tạo – Bộ Y tế về công tác YTHĐ - Nhà trường có trách nhiệm: tổ chức tuyên truyền, thực hiện đăng ký, kê khai, thu tiền đóng BHYT của học sinh và sử dụng đúng mục đích, có hiệu quả nguồn kinh phí BHYT HS - SV để lại nhà trường. 2.2.3 Đối với các cơ sở khám chữa bệnh. 2.2.3.1. Quyền lợi. - Được cơ quan BHXH tạm ứng kinh phí để tổ chức khám chữa bệnh cho học sinh – sinh viên có thẻ BHYT. - Được thanh toán mỗi quý một lần các chi phí KCB cho học sinh – sinh viên tham gia BHYT. 2.2.3.2. Trách nhiệm. - Thực hiện KCB đúng hợp đồng với cơ quan BHXH cho học sinh – sinh viên tham gia BHYT, đảm bảo chữa bệnh hợp lý, an toàn theo đúng qui định của Bộ Y tế. - Thực hiện việc ghi chép và cung cấp các tài liệu liên quan đến KCB BHYT HS - SV để làm cơ sở thanh quyết toán tài chính. - Kiểm tra thẻ và phiếu KCB BHYT, phát hiện kịp thời những trường hợp vi phạm và lạm dụng việc sử dụng thẻ, phiếu KCB BHYT, thông báo ngay cho cơ quan BHYT để giải quyết. - Các bệnh viện cùng cơ quan BHXH ký kết hợp đồng trách nhiệm, tạm ứng kinh phí và định kỳ quyết toán chi phí KCB theo qui định và hợp đồng KCB đã được ký. - Tổ chức tiếp đón học sinh – sinh viên khi đến KCB, có thái độ phục vụ tốt tránh phiền hà. - Giới thiệu học sinh – sinh viên lên đúng tuyến chuyên môn kỹ thuật để điều trị bệnh nếu vượt quá khả năng của tuyến mình. 2.2.4 Đối với cơ quan BHXH. 2.2.4.1. Quyền lợi. - Được trích lập và sử dụng quỹ BHYT HS - SV theo đúng qui định. - kiểm tra, giám sát thu hồi thẻ trong trường hợp phát hiện ra việc lạm dụng thẻ, cho người khác mượn thẻ … - Điều tiết, cân đối quỹ KCB BHYT HS – SV, sử dụng quỹ kết dư theo qui định. - Kiểm tra, giám sát việc tiếp nhận và thực hiện chế độ BHYT HS - SV tại các bệnh viện, bảo vệ quyền lợi chính đáng cho học sinh tham gia BHYT, từ chối chi trả trợ cấp BHYT đối với những trường hợp KCB không đúng theo qui định của pháp luật. 2.2.4.2.Trách nhiệm. - Ký kết hợp đồng trách nhiệm với nhà trường để tổ chức thu BHYT của học sinh – sinh viên. - Ký hợp đồng KCB với các bệnh viện để đảm bảo việc tiếp nhận và KCB cho học sinh – sinh viên tham gia BHYT được thuận tiện, hợp lý. - Tổ chức phát hành thẻ và phiếu KCB BHYT HS – SV. Chi phí in và phát hành thẻ, phiếu bằng kinh phí quản lý của cơ quan BHXH. - Cơ quan BHXH nào phát hành thẻ và phiếu KCB BHYT HS - SV thì cơ quan đó có trách nhiệm tạm ứng kinh phí và thanh toán chi phí theo qui định. Việc thanh toán được thực hiện theo các phương thức: + Chi trả cho cơ sở KCB theo hợp đồng đã ký. + Chi trả qua thanh toán đa tuyến ngoài địa bàn được giao quản lý. + Chi trả trực tiếp cho người bệnh BHYT trong các trường hợp cụ thể khác. CHƯƠNG III. ĐÁNH GIÁ TÌNH HÌNH THỰC HIỆN BHYT CỦA HỌC SINH- SINH VIÊN. Tình hình học sinh tham gia BHYT Tình hình học sinh tham gia BHYT trong những năm qua được thể hiện qua số liệu sau: Năm 1997 -1999: khoảng 3,4 đến 3,9 triệu em Năm 1999 - 2001: khoảng 2,9 đến 3,1 triệu em Năm 2001- 2002: khoảng 4,2 đến 5,1 triệu em Trong 4 năm thực hiện BHYT HSSV bắt buộc thì: Nếu tính cả số HSSV thuộc hộ nghèo, cận nghèo và HSSV thuộc thân nhân sỹ quan Quân đội, Công an khoảng 1,5 triệu em, thì năm 2010 số HSSV tham gia BHYT có khoảng 12 triệu em Giai đoạn 2009-2012 Như vậy, học sinh sinh viên tham gia (HSSV) mới đạt tỷ lệ 80% (có tỉnh như Nam Định chỉ đạt 30%), trong đó sinh viên ở các trường trung cấp chuyên nghiệp, cao đẳng, đại học, đặc biệt các trường tư có tỷ lệ tham gia rất thấp, Tỷ lệ tăng số HSSV khoảng 10% và vẫn còn khoảng 5% trẻ em dưới 6 tuổi chưa có thẻ BHYT. Đạt được kết quả trên là do có sự quan tâm chỉ đạo của Chính phủ, của các Bộ ngành, của Cấp ủy đảng, chính quyền địa phương và của ngành Giáo dục và Đào tạo, đặc biệt là sự chỉ đạo kịp thời, quyết liệt của Tổng Giám đốc, các Phó Tổng Giám đốc, các đơn vị trực thuộc và BHXH các tỉnh, thành phố trong việc khai thác, phát triển HSSV tham gia BHYT. Cụ thể: - Hệ thống văn bản được ban hành đầy đủ, kịp thời, đồng bộ theo hướng cải cách thủ tục hành chính, đơn giản, cụ thể về trình tự, thủ tục tham gia, thu, nộp BHYT và từng bước áp dụng công nghệ thông tin vào việc quản lý thu, cấp thẻ BHYT do đó đã tạo điều kiện thuận lợi cho HSSV tham gia BHYT. - Sự quan tâm phối hợp của các cơ quan, ban ngành từ Trung ương đến địa phương trong lĩnh vực BHYT nói chung, BHYT học sinh, sinh viên nói riêng đã có chuyển biến rõ rệt, có những tỉnh, thành phố quan tâm hỗ trợ thêm 20%, 30%, 50% mức đóng BHYT học sinh, sinh viên. Một số địa phương, UBND tỉnh giao chỉ tiêu, phân công trách nhiệm cho từng ngành chức năng trong tổ chức triển khai thực hiện BHYT học sinh, sinh viên. - BHXH các cấp đã chủ động phối hợp chặt chẽ với các sở, ban, ngành chức năng cùng cấp để thực hiện nhiệm vụ thu BHYT học sinh, sinh viên nhất là việc phối hợp với các ngành Giáo dục và Đào tạo, Y tế, Tài chính bàn bạc, thống nhất ban hành văn bản liên ngành để hướng dẫn thực hiện BHYT cho HSSV; đồng thời, kịp thời tháo gỡ những vướng mắc trong quá trình thực hiện BHYT học sinh, sinh viên. Mặc dù vậy, trong quá trình thực hiện BHYT học sinh, sinh viên vẫn còn những khó khăn, vướng mắc như sau: Một là, việc quy định đồng nhất mức đóng giữa nông thôn, thành thị, mệnh giá thẻ BHYT tăng so với năm học trước do mức tiền lương cơ sở tăng; thu nhập của dân cư trong bối cảnh nền kinh tế gặp nhiều khó khăn, giá cả thị trường tăng cao, cuộc sống của người dân nông thôn còn khó khăn nhất là ở các vùng sâu, vùng xa; gia đình có nhiều con đi học,... nên việc vận động HSSV tham gia còn gặp nhiều khó khăn. Hai là, sự phối hợp với Ngành Giáo dục và Đào tạo để nắm và báo cáo số lượng HSSV trên địa bàn, nhiều địa phương thực hiện chưa tốt. Việc thống kê, xác định số HSSV diện hộ nghèo, HSSV là con em của gia đình người có công, thân nhân sĩ quan quân đội nhân dân, Công an nhân dân không đầy đủ cũng là những trở ngại trong việc tham mưu, quản lý và tổ chức thực hiện. Ba là, một số địa phương chậm tham mưu văn bản chỉ đạo của cấp ủy, chính quyền về công tác BHYT cho HSSV, thậm chí có địa phương đến năm 2013 có văn bản liên ngành hướng dẫn thực hiện BHYT cho HSSV. Bốn là, HSSV là đối tượng có trách nhiệm tham gia BHYT nhưng chưa có biện pháp đảm bảo thi hành trong thực tế, chưa gắn trách nhiệm cụ thể cho ngành Giáo dục và Đào tạo, Hiệu trưởng các nhà trường... Mặt khác, Bộ Giáo dục và Đào tạo cũng chưa có văn bản chỉ đạo trong ngành nên việc triển khai còn gặp nhiều khó khăn và nhà trường cũng chưa thực sự tích cực thực hiện chính sách BHYT học sinh, sinh viên. Năm là, nhận thức của một bộ phận HSSV và phụ huynh học sinh về BHYT còn hạn chế mặc dù được Nhà nước hỗ trợ một phần nhưng cũng chưa tham gia BHYT Thêm vào đó là sự tiếp cận của các tổ chức Bảo hiểm. Các hình thức khuyến mại, chăm sóc khách hàng, chương trình ưu đãi, nhiều hình thức tuyên truyền quảng cáo … được thực hiện. Tất cả đều vào cuộc vì học sinh – sinh viên là đối tượng tiềm năng với tất cả các nhà bảo hiểm. Trong điều kiện cạnh tranh gay gắt đó để giữ vững thị phần không phải là chuyện đơn giản. BHYT có nhiều bất lợi cụ thể là BHYT HS-SV hoạt động không vì mục tiêu lợi nhuận, là một chính sách xã hội của Đảng và Nhà nước nên không thể có kế hoạch khuyến mại, khuyếch trương như BHTM. Mức phí thấp nên quyền lợi của học sinh – sinh viên còn hạn chế, chưa hấp dẫn với đối tượng này. Trong điều kiện cạnh tranh gay gắt như hiện nay, các nhà bảo hiểm luôn phải cố gắng giữ vững kết quả mà mình đã đạt được và tìm mọi biện pháp để tăng số lượng người tham gia bảo hiểm tại công ty mình. Điều này cho thấy BHYT HS-SV do Bảo hiểm xã hội Việt Nam thực hiện có được những kết quả trên là một nỗ lực rất lớn của đội ngũ những người làm công tác BHYT, là sự quan tâm chỉ đạo của các cấp uỷ Đảng, chính quyền, là sự phối hợp chặt chẽ của các ngành Giáo dục - Đào tạo, ngành Y tế và chính quyền địa phương. Nhân tố ảnh hưởng đến khả năng tham gia BHHSSV Khả năng tiếp cận các dịch vụ y tế Để phù hợp với điều kiện của Việt Nam, hệ thống cơ sở KCB được tổ chức theo 4 tuyến (bệnh viện tuyến trung ương, tỉnh, huyện và xã). Từ năm 2008 – 2012, tiếp tục chủ trương đầu tư nâng cấp các cơ sở y tế bằng nguồn trái phiếu Chính phủ, đã có hơn 600 bệnh viện huyện và 150 bệnh viện tuyến tỉnh được xây dựng, sửa chữa và nâng cấp trang thiết bị y tế với số vốn đầu tư khoảng 23.200 tỷ đồng. Tính đến cuối năm 2012, các bệnh viện tuyến huyện đã có thêm 10.000 giường bệnh (tăng 17% so với năm 2008); việc sử dụng các dịch vụ kỹ thuật, thủ thuật, nội soi, xét nghiệm, chẩn đoán hình ảnh… đã tăng rõ rệt (120-320% ở tỉnh, 120-180% ở tuyến huyện). Một số bệnh viện đã được cung cấp các trang thiết bị y tế hiện đại góp phần nâng cao chất lượng, giảm số người Việt Nam ra nước ngoài KCB. Năm 2012, nguồn thu từ KCB BHYT chiếm hơn 70% tổng thu từ khám chữa bệnh (Hà Nội là 75%, một số bệnh viện tỷ lệ này là 80%). Cả nước hiện có trên 2.400 cơ sở KCB ký hợp đồng khám chữa bệnh BHYT, trong đó trên 2.100 cơ sở KCB nhà nước, gần 300 cơ sở KCB tư nhân, khoảng 9.500 trạm y tế xã tham gia KCB BHYT. Hầu hết những bệnh nặng, mạn tính, nan y… cần điều trị dài ngày, chi phí lớn đều đưa về các bệnh viện nhà nước. Một số bệnh viện tư nhân thông qua việc cải tiến dịch vụ y tế, nâng cao y đức, thái độ phục vụ và cách ứng xử… đã bắt đầu cạnh tranh mạnh với bệnh viện nhà nước trong việc thu hút số lượng đăng ký KCB ban đầu như ở Bình Dương, Đắk Lắk…. Người tham gia BHYT càng ngày càng có nhiều cơ hội hơn trong việc tiếp cận dịch vụ y tế. Năm 2009, bình quân KCB là 1,84 lượt/thẻ/năm đến năm 2012 đã tăng lên 2,04 lượt/thẻ/năm, trong đó KCB ngoại trú tăng từ 1,7 lên 1,87 lượt/thẻ/năm (phụ lục số 8). Với mệnh giá gần 600 ngàn đồng/1 thẻ BHYT, là mức thấp so với các nước trong khu vực, nhưng người tham gia BHYT được hưởng thụ tương đối nhiều dịch vụ y tế và một số dịch vụ kỹ thuật cao, hiện đại (chạy thận nhân tạo, can thiệp tim mạch, thuốc chữa ung thư, chống thải ghép...). Việc tăng mức chi trả từ quỹ BHYT và danh mục quyền lợi tiếp tục mở rộng đã cho thấy vai trò quan trọng của BHYT trong cuộc sống của người dân. CHƯƠNG IV. MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ TỔ CHỨC THỰC HIỆN CÁC HOẠT ĐỘNG Y TẾ TRƯỜNG HỌC I. Nhóm giải pháp mô hình tổ chức thực hiện và phối hợp liên ngành trong hoạt động YTTH 1.1. Đề xuất hệ thống các giải pháp nhằm tổ chức thực hiện hiệu quả hoạt động y tế trường học phù hợp với thực tế . - Đảm bảo sự lãnh đạo và chỉ đạo của các cấp ủy Đảng ở địa phương và trong trường học. Sự lãnh đạo và chỉ đạo của các cấp ủy Đảng là điều kiện quan trọng để thực hiện sự phối hợp liên ngành, liên tổ chức về công tác YTTH. - Tranh thủ sự ủng hộ và tạo điều kiện của các cấp chính quyền cho công tác YTTH. Sự ủng hộ và tạo điều kiện của các cấp chính quyền ở địa phương là điều kiện quan trọng để có cán bộ, kinh phí, cơ sở vật chất, trang thiết bị...phục vụ tốt cho công tác YTTH. - Nhà trường cần chăm lo kiện toàn tổ chức, cán bộ làm công tác YTTH và tăng cường cở sở vật chất như: Đất, phòng ốc, máy móc, thiết bị, dụng cụ, thuốc... phục vụ cho công tác YTTH. - Thống nhất quan điểm và sự chỉ đạo trong lãnh đạo nhà trường; lồng ghép và tích hợp nội dung, hoạt động về YTTH; phối hợp chặt chẽ với các ngành, các đoàn thể nhân dân, hội phụ huynh và các chủ thể khác trong việc chăm lo, bảo vệ sức khỏe cho học sinh, sinh viên. - Cần tiếp tục có văn bản liên ngành hướng dẫn công tác YTTH (về nguồn lực, chế độ chính sách, đầo tạo bồi dưỡng nghiệp vụ, tiêu chuẩn, quy chuẩn...). - Đề nghị Bộ GD&ĐT cho phép các trường Cao đẳng, Trung cấp y được xây dựng chương trình đào tạo bổ túc chứng chỉ công tác YTTH để các cán bộ y tế, sinh viên tốt nghiệp các trường trên được bổ sung chứng chỉ bằng kinh phí tự túc hoặc của nhà trường trước khi thi tuyển vào biên chế cán bộ YTTH. - Bộ GD&ĐT đề xuất với Bộ Nội vụ nghiên cứu thêm định biên về cán bộ y tế chuyên trách tại các Sở, Phòng GD&ĐT. - Cần chi tiết hơn trong quy định tiêu chí cán bộ YTTH, trong Quy định 73/2007 thì“cán bộ YTTH phải có trình độ trung cấp y” nhưng theo quy định của Bộ Nội vụ thì y sĩ đa khoa mới được xếp ngạch lương của cán bộ YTTH; các chuyên ngành khác như nữ hộ sinh, trung cấp điều dưỡng có thể làm công tác chăm sóc sức khoẻ ban đầu cho học sinh nhưng không thể xếp mã ngạch phù hợp. Nếu muốn sử dụng thì những cán bộ đó phải bổ sung một số chứng chỉ. Còn trung cấp dược và một số chuyên ngành kỹ thuật y tế khác không thích hợp để tuyển dụng làm công tác YTTH. - Nếu không có Ban chỉ đạo YTTH cấp tỉnh thì việc thực hiện tuyển cán bộ YTTH cho các trường theo Thông tư 35 là không thể thực hiện được. - Công trình vệ sinh, nước sạch, bếp ăn bán trú phải được lập kế hoạch xây dựng và có quỹ đất. - Nên có sự phối hợp giữa các hoạt động của Hội Chữ thập đỏ, công tác đoàn đội, các hoạt động ngoại khoá trong trường học với công tác YTTH. - Trong chương trình đào tạo, tập huấn chuyên môn nghiệp vụ về YTTH cho các bộ làm công tác YTTH cần bổ sung các nội dung khác liên quan đến công tác giáo dục, chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ học sinh: nghiệp vụ tâm lý sư phạm, kỹ năng truyền thông, phương pháp giáo dục vị thành niên, nghiệp vụ sư phạm... - Cần quy định những định mức kinh phí cụ thể để thực hiện được Thông tư số 14 của Bộ Tài chính. - Cần quy định tất cả các trường chuẩn quốc gia phải có cán bộ y tế trường học chuyên trách có trình độ chuyên môn từ trung cấp y tế trở lên. - Tăng cường công tác phối hợp giữa giáo dục, y tế, BHXH, các ban, ngành khác có liên quan để tăng cường tỷ lệ BHYT tự nguyện cho học sinh. 1.2. Đề xuất một số mô hình tổ chức hoạt động YTTH. Mô hình tổ chức hoạt động YTTH như hiện nay, cán bộ y tế trường học là viên chức sự nghiệp của ngành giáo dục, nhưng lại công tác trong một lĩnh vực đặc thù là y tế. Tuy nhiên do trình độ cũng như số lượng cán bộ, riêng cán bộ y ế khó đảm nhận được những nhiệm vụ chung nên theo quy định các trường đều có ban chỉ đạo ban chăm sóc sức khỏe ban đầu và do hiệu trưởng làm trưởng ban, các phó ban có thể là Lãnh đạo hoặc nhân viên trạm y tế, ban này có trách nhiệm thực hiện các công việc chung trong công tác chỉ đạo của trường về lĩnh vực y tế. Với mô hình này hoạt động y tế trường học sẽ có nhiều thuận lợi. Thứ nhất: Hiệu trưởng là trưởng ban chăm sóc sức khỏe, sẽ thuận lợi công công tác chỉ đạo điều hành, cũng như huy động được sự hỗ trợ về nhân lực, tài lực, vì hiện nay ngoài việc giữ lại 20% kinh phí từ việc mua bảo hiểm tự nguyện của học sinh để trả lương và mua sắm trang thiết bị, thuốc thiết yếu phụ trách công tác y tế trường học, tùy điều kiện nhà trường có thể lấy sử dụng nguồn kinh phí chi thường xuyên để hỗ trợ thêm cho hoạt động. Do vậy hiệu trưởng đứng tên trong ban chỉ đạo này theo tôi là tương đối phù hợp Thứ hai: Ban chăm sóc có lãnh đạo trạm y tế hoặc nhân viên y tế là phó ban hoặc thành viên giúp nâng cao vai trò của công tác y tế trường học, ngoài ra việc phân công này gắn trách nhiệm của trạm trong việc hỗ trợ cho công tác YTTH của nhà trường. Tuy nhiên, với mô hình như hiện nay cán bộ y tế trường học đang chịu trách nhiệm và quản lý bởi 2 đơn vị là phòng ngành giáo dục và trung tâm y tế. Về góc độ Phòng Giáo dục: Cán bộ y tế trường học là định biên của ngành giáo dục do đó việc quản lý về định biên, con người, tất cả vấn đề lên lương, phụ cấp và điều chuyển thuộc quyền tham mưu và quản lý của ngành giáo dục do nhà trường và phòng giáo dục quản lý trực tiếp. Về góc độ chuyên môn y tế: Hiện nay trung tâm y tế là đơn vị y tế có trách nhiệm kiểm tra, đánh giá hoạt động y tế của các trường. Việc kiểm tra này, trung tâm y tế có thể phối hợp cùng phòng giáo dục, hoặc đi kiểm tra, giám sát độc lập. Với sự đan xen thế sẽ rất khó khăn trong công tác chỉ đạo, điều hành nếu không có sự phối hợp tốt giữa hai ngành. Trên cơ sở thực trạng hiện nay chúng tôi có thể thể đề xuất 3 mô hình: Mô hình thứ nhất, nên đưa cán bộ y tế, phòng y tế về trung tâm y tế quản lý trực tiếp, mô hình này có ưu và nhược điểm: - Ưu điểm: Vì công tác y tế là công tác đặc thù có chuyên môn sâu, nếu đưa cán bộ y tế trường học, phòng y tế nhà trường về trung tâm y tế quản lý, như thế công tác chăm sóc sức khỏe cho học sinh sẽ chuyên nghiệp hơn, nhận được sự hỗ trợ tốt hơn về chuyên môn, nghiệp vụ cũng như trang thiết bị của ngành. Hơn nữa, nếu thực hiện theo mô hình này lương của cán bộ y tế sẽ cao hơn, vì lúc đó cán bộ y tế trường học là viên chức sự nghiệp thuộc ngành y tế. - Nhược điểm: Nếu trung tâm y tế quản lý cán bộ YTTH thì việc quản lý, điều hành của nhà trường lại gặp khó khăn, nhất và việc chỉ đạo điều hành nhân sự. Mô hình thứ 2: Nên đưa cán bộ y tế về làm biên chế tại trạm y tế chuyên phụ trách công tác y tế trường học, mô hình này cũng có ưu và nhược điểm: - Ưu điểm: tranh thủ được sự ủng hộ, tham gia, ủng hộ của trạm y tế khác, tận dụng được cơ sở vật chất trang thiết bị của trạm, như thế ngoài việc sơ cấp cứu ban đầu việc chăm sóc điều trị học sinh bị ốm cũng sẽ dễ dàng và hiệu quả hơn, việc khám sức khỏe định kỳ, lưu và theo dõi hồ sơ bệnh án của học sinh cũng sẽ chuyên nghiệp hơn. Hơn thế nữa, nếu đưa cán bộ y tế trường học về trạm quản lý nhưng chuyên trách về mảng này còn có thể huy động được sự vào cuộc và hỗ trợ của cấp trên về chuyên môn cũng như các hoạt động khác. - Hạn chế: Nếu trạm y tế quản lý cán bộ YTTH thì việc, điều hành của nhà trường sẽ bị động, nhà trường sẽ không quan tâm, không tạo điều kiện về địa điểm, kinh phí cho hoạt động này Mô hình thứ 3 là nâng cấp phòng y tế trường học thành tuyến y tế cơ sở, mô hình này tương đối toàn diện, nếu phòng y tế trường học là tuyến y tế cơ sở thì về quy mô cán bộ, số trang thiết bị và trình độ chuyên môn của cán bộ y tế sẽ phải được cải thiện và nâng cấp nhiều hơn. Như vậy phòng y tế có thể mở rộng phòng, tuyển dụng thêm người (tùy theo quy mô số lượng học sinh) và đầu tư thêm trang thiết bị. Vì hiện nay một trường có nhiều học sinh, nguy cơ xảy ra tai nạn, dịch bệnh rất lớn. Trong khi vấn đề đặt ra ở đây là hiện nay chúng ta có phòng y tế, có cán bộ chuyên trách nhưng mô hình hoạt động vẫn chưa quy củ, chưa chuyên nghiệp. Do đó, nếu thực hiện theo mô hình này sẽ phù hợp hơn. 1.3. Nhóm giải pháp nhằm giải quyết tốt trách nhiệm của các bên liên quan và cơ chế phối hợp thực hiện hoạt động y tế trường học phù hợp với thực tế Nhóm giải pháp về chính sách: 1. Việc triển khai BHYT học sinh, sinh viên năm học 2011 – 2012 là năm thứ 2 thực hiện theo Luật BHYT, công tác chuẩn bị không còn lúng túng, bị động và không còn yếu tố giao thời giữa chế độ BHYT tự nguyện và BHYT bắt buộc. Do đó, BHXH các tỉnh, thành phố cần quán triệt và thực hiện nghiêm túc ý kiến chỉ đạo của Tổng Giám đốc BHXH Việt Nam tại Công văn số 3269/BHXH-BT về việc triển khai thực hiện BHYT học sinh, sinh viên năm học 2011-2012. Trong đó, đặc biệt chú ý tranh thủ sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo của cấp Ủy đảng, chính quyền các cấp; chủ động và tăng cường phối hợp với các ngành, đặc biệt ngành Giáo dục - Đào tạo, Tài chính, Y tế để tổ chức triển khai đảm bảo 100% HSSV trên địa bàn địa phương tham gia theo đúng quy định của Luật BHYT. Những địa phương UBND tỉnh chưa có văn bản chỉ đạo về công tác BHYT học sinh, sinh viên, khẩn trương phối hợp với ngành Giáo dục & Đào tạo và các ngành chức năng tham mưu trình UBND tỉnh có văn bản chỉ đạo triển khai thực hiện Luật BHYT nói chung, tổ chức thực hiện BHYT cho HSSV nói riêng. Trong đó, xác định rõ trách nhiệm và giao nhiệm vụ cụ thể cho các ngành trong việc triển khai. 2. Chủ động phối hợp với Sở Y tế và các cơ sở khám chữa bệnh tổ chức tốt công tác khám chữa bệnh, đảm bảo quyền lợi cho HSSV có BHYT khi ốm đau, tai nạn phải điều trị tại các cơ sở y tế. Đồng thời, phối hợp chặt chẽ với các nhà trường tổ chức tốt công tác y tế trường học, quan tâm tới công tác chăm sóc sức khỏe ban đầu và các hoạt động giáo dục thể chất, góp phần thực hiện tốt mục tiêu giáo dục toàn diện, chăm sóc và bảo vệ sức khỏe HSSV trong tình hình mới. 3. Công tác tuyên truyền về BHYT học sinh, sinh viên phải được coi là một trong những nhiệm vụ trọng tâm trong những tháng cuối năm 2011. Trong toàn Ngành cần đẩy mạnh công tác tuyên truyền, vận động trên các phương tiện thông tin đại chúng và các hình thức phù hợp khác, để nhà trường và các bậc phụ huynh thấy được quyền, trách nhiệm tham gia BHYT cho con em mình. Công tác tuyên truyền BHYT học sinh, sinh viên phải đi vào chiều sâu, nâng cao nhận thức toàn xã hội về bản chất ưu việt, giá trị nhân văn, lợi ích thiết thực đối với mọi nhà và toàn xã hội, góp phần bảo vệ và chăm sóc sức khỏe những chủ nhân tương lai của đất nước. - Xây dựng hệ thống văn bản pháp quy, tiêu chuẩn, quy chuẩn về công tác y tế trường học. - Xây dựng chế độ, chính sách cho cán bộ làm công tác y tế trường học - Tăng cường công tác kiểm tra giám sát, đánh giá công tác YTTH. - Tăng cường công tác thi đua khen thưởng Nhóm giải pháp về nguồn nhân lực: - Tăng cường cán bộ phụ trách công tác YTTH chuyên trách tại các Sở GD&ĐT. - Đào tạo cán bộ YTTH tại các trường Cao đẳng, Trung cấp y tế tại mỗi địa phương để cung cấp nguồn cán bộ chuyên trách công tác YTTH. - Đào tạo giáo viên kiêm nhiệm công tác YTTH trở thành cán bộ YTTH ở những địa phương chưa có khả năng tuyển biên chế cán bộ YTTH chuyên trách (do Sở Y tế đào tạo). - Đào tạo lại cho các cán bộ YTTH chưa đạt chuẩn theo quy định của Bộ Nội vụ. - Hợp đồng cán bộ y tế đã nghỉ hưu hoặc nghỉ mất sức để bổ sung đội ngũ công tác YTTH. Nhóm giải pháp về tăng cường cơ sở vật chất: - Tham mưu với lãnh đạo địa phương để có địa điểm, trang thiết bị và thuốc thiết yếu cho phòng y tế trong các cơ sở giáo dục. - Phối hợp với Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn để đẩy mạnh tiến độ Chương trình mục tiêu Quốc gia về nước sạch vệ sinh môi trường nông thôn để đạt mục tiêu chương trình đề ra, đảm bảo tất cả các trường học đều có công trình vệ sinh, nước sạch. - Tăng cường phối hợp với Bộ Y tế (Tổng công ty Thiết bị y tế VN) và các bộ, ngành có liên quan để cung cấp trang thiết bị, thuốc thiết yếu cho YTTH. - Tăng cường các giải pháp về nước uống cho học sinh. - Đẩy mạnh các phong trào xây dựng môi trường xanh, sạch, đẹp, an toàn phòng chống tai nạn thương tích trong trường học. Nhóm giải pháp về kinh phí: - Tích cực tham mưu cho UBND các cấp để thực hiện tốt Thông tư 14 của Bộ Tài chính để có kinh phí cho công tác YTTH cho các trường học theo ngân sách Nhà nước. - Tăng cường các hoạt động huy động các nguồn lực từ các tổ chức quốc tế, phi chính phủ, các doanh nghiệp, các nhà tài trợ cho công tác giáo dục, chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ học sinh. - Tăng cường vận động, thực hiện bảo hiểm y tế trường học. - Đẩy mạnh công tác xã hội hoá công tác YTTH. Nhóm giải pháp về giáo dục, chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ học sinh: - Tăng cường công tác truyền thông nâng cao nhận thức cho cán bộ quản lý giáo dục, giáo viên, giảng viên, cán bộ, học sinh, sinh viên và cha mẹ học sinh về giáo dục, chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ học sinh. - Nâng cao nâng lực cho cán bộ quản lý giáo dục, giáo viên, giảng viên và cán bộ YTTH về phương pháp giáo dục cho học sinh, sinh viên, giáo dục kỹ năng sống, sức khoẻ sinh sản vị thành niên, công tác truyền thông giáo dục, tư vấn sức khỏe cho học sinh, sinh viên. - Tăng cường các hoạt động giáo dục nội khóa, ngoại khoá về các vấn đề liên quan đến sức khoẻ học sinh như: phòng chống bệnh, dịch, tật, tai nạn thương tích, vệ sinh an toàn thực phẩm, giáo dục kỹ năng sống, giáo dục sức khoẻ sinh sản vị thành niên, giáo dục chăm sóc và bảo vệ môi trường.../. Nhóm giải pháp về xã hội hóa công tác YTTH - Phối hợp chặt chẽ với ngành y tế, xây dựng, nông nghiệp và phát triển nông thôn, nội vụ, văn hóa thể dục thể thao và du lịch...để chăm lo, bảo vệ sức khỏe cho học sinh, sinh viên. - Phối hợp và lồng ghép các hoạt động của các đoàn thể nhân dân trong việc chăm sóc sức khỏe sinh sản cho vị thành niên trong trường học. - Phối hợp với các cơ quan thông tin đại chúng để nâng cao nhân thức, chuyển đổi thái độ, hành vi của học sinh, sinh viên về chăm sóc sức khỏe sinh sản và chăm sóc sức khỏe ban đầu. - Tranh thủ nguồn hỗ trợ của các tập thể, cá nhân trong và ngoài nước về tài chính, trang thiết bị, máy móc và kinh nghiệm phục vụ cho công tác YTTH. 2. Nhóm giải pháp về đảm bảo cơ sở vật chất, TTB, thuốc, nhân lực và kinh phí cho hoạt động YTTH 2.1. Đề xuất hệ thống các giải pháp nhằm đảm bảo cơ sở vật chất, TTB, thuốc cho hoạt động y tế trường học phù hợp với thực tế Theo số liệu thống kê , trong số 979 trường có phòng y tế/ góc y tế thì chỉ có 850 trường có phòng y tế rộng từ 12m2 (chiếm 83%),  vẫn còn tới 129 trường có phòng nhưng chưa đủ tiêu chuẩn về diện tích hoặc không có phòng y tế. Tuy chỉ còn 175 trường nhưng chúng tôi nghĩ phần lớn tập trung ở các khu trường nội thành, vì hiện nay tại nội thành diện tích khu trường rất bé. Trong khi số lượng học sinh thì đông, do vậy khó để bố trí được đất để xây dựng phòng học, do đó chúng tôi có một số đề xuất. Cơ sở vật chất: Cần xem xét lại số lượng học sinh học trái tuyến tại các trường tiểu học và trung học cơ sở hiện nay, vì số lượng học trái tuyến dẫn đến tình trạng mất cân đối học sinh giữa các trường, các khu vực, do nhiều trường học sinh quá đông nên không còn phòng để dành cho công tác YTTH. Tuy các trường đều nhận định, công tác y tế là quan trọng vì liên quan trực tiếp đến sức khỏe của HSSV. Nhưng hiện nay một số trường, chỗ làm việc của các phòng chức năng vẫn được quan quan tâm hơn, chưa đánh giá và đặt đúng tầm vai trò của phòng y tế. Thuốc thiết yếu: Bộ Y tế cần thay đổi lại các danh mục thuốc thiết yếu hiện nay, theo Quyết định 1221/QĐ/BYT ngày 7 tháng 4 năm 2008 của Bộ trưởng Bộ Y tế, vì hiện nay danh mục thuốc thiết yếu nhà trường không áp dụng được. Thậm chí với trình độ chuyên môn như hiện nay, nhiều cán bộ y tế trường học cũng không đủ trình độ để kê đơn và sử dụng thuốc. Thành phố, quận huyện cũng nên nghiên cứu lại việc phân bổ danh mục thuốc thiết yếu, bởi lẽ hiện nay danh mục thuốc và số lượng từng loại thuốc của các trường không giống nhau. Nên chăng cần chuyển việc cấp phát hay duyệt danh bạ thuốc để bệnh viện quản lý, vì đó là đơn vị điều trị, như thế sẽ đúng chuyên môn hơn. Trung tâm nên tập trung vào công tác dự phòng, phòng chống dịch, truyền thông nâng cao nhận thức. 2.2. Đề xuất hệ thống các giải pháp nhằm đảm bảo nguồn nhân lực cho hoạt động y tế trường học phù hợp với thực tế - Quy định mới về vị trí việc làm thay thế định mức biên chế sự nghiệp Ngày 15/11/2010, Quốc hội đã thông qua Luật Viên chức và Luật này có hiệu lực từ ngày 01/01/2012. Theo đó, Chính phủ đang chỉ đạo các Bộ, ngành xây dựng trình Chính phủ ban hành hoặc ban hành theo thẩm quyền văn bản quy phạm pháp luật hướng dẫn thi hành Luật Viên chức. Theo quy định của Luật Viên chức và các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan của Chính phủ và các Bộ, ngành, bắt đầu từ 01/01/2012 trở đi, cơ chế quản lý vị trí việc làm, số người làm việc trong đơn vị sự nghiệp công lập sẽ thay thế cơ chế quản lý biên chế trong các đơn vị sự nghiệp công lập. Theo đó, cơ quan có thẩm quyền sẽ quyết định danh mục vị trí việc làm, số lượng người làm việc, cơ cấu viên chức theo chức danh nghề nghiệp trong đơn vị sự nghiệp công lập (thay thế cho việc giao, quản lý biên chế sự nghiệp như hiện nay). Việc xác định, quy định về vị trí việc làm sẽ tuân thủ theo các tiêu chí thống nhất, bao gồm: tên vị trí việc làm, chức năng, nhiệm vụ, mô tả công việc và tiêu chuẩn của viên chức đảm nhận vị trí việc làm. Đối với vị trí làm công tác y tế tại các trường học cũng được quy định phù hợp với quy định của Chính phủ về quản lý vị trí việc làm để bảo đảm viên chức đảm nhận vị trí công tác y tế tại các trường học hiểu rõ nhiệm vụ, công việc, đạt tiêu chuẩn đề ra; đủ năng lực, phẩm chất hoàn thành nhiệm vụ được giao. Bộ Nội vụ được Chính phủ giao chủ trì xây dựng, trình Chính phủ ban hành Nghị định quy định về vị trí việc làm trong đơn vị sự nghiệp công lập. Trong Nghị định này có nội dung quy định Bộ Nội vụ sẽ hướng dẫn phương pháp chung xác định vị trí việc làm trong đơn vị sự nghiệp công lập; các Bộ quản lý chuyên ngành, lĩnh vực chủ trì, phối hợp với Bộ Nội vụ hướng dẫn việc xác định vị trí việc làm, số lượng người làm việc trong đơn vị sự nghiệp công lập thuộc chuyên ngành, lĩnh vực quản lý, trong đó có y tế học đường. Dự thảo Nghị định đang được Chính phủ xem xét, ban hành để thực hiện từ 01/01/2012. Sau khi có Nghị định của Chính phủ, Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Nội vụ, các Bộ, ngành có liên quan và Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương sẽ triển khai thực hiện quản lý biên chế sự nghiệp theo cơ chế quản lý vị trí việc làm, số lượng người làm việc, cơ cấu viên chức theo chức danh nghề nghiệp. Bộ, ngành Trung ương sẽ thực hiện việc kiểm tra việc thực hiện các quy định về quản lý vị trí việc làm trong các đơn vị sự nghiệp công lập theo thẩm quyền được giao. Đối với các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, Sở Giáo dục và Đào tạo là cơ quan chủ trì, phối hợp với Sở Y tế, Sở Nội vụ trình Ủy ban nhân dân cấp tỉnh xem xét, quyết định bố trí đủ viên chức và trang thiết bị y tế trường học cho phù hợp đặc điểm của mỗi địa phương theo đúng tinh thần của Chỉ thị số 23/2006/CT- TTg của Thủ tướng Chính phủ nhằm nâng cao chất lượng chăm sóc và bảo vệ sức khỏe cho học sinh, sinh viên. 2.3. Đề xuất hệ thống các giải pháp nhằm đảm bảo nguồn kinh phí cho hoạt động y tế trường học phù hợp với thực tế. Kinh phí đầu tư cho hoạt động YTTH trong thời gian qua không ngừng tăng. Trong phạm vi cả nước, theo kết quả thống kê tại 10 tỉnh, thành phố cho thấy: Tổng kinh phí sử dụng cho công tác YTTH tại các trường của năm 2006 là 26,0263  tỷ đồng, năm 2011 là 34,2184 tỷ đồng. Trong đó, kinh phí dành cho YTTH của các trường mầm non và phổ thông tăng từ 10.374,9 triệu đồng năm 2006 lên đến 16.225,1 triệu đồng năm 2011. Như vậy số kinh phí của năm 2011 chiếm tỷ lệ khoảng 61,0% gấp hơn 1,5 lần so với năm 2006 (39,0%). Tỷ lệ phân bổ kinh phí tại các trường phổ thông giữa 2 năm 2006 và 2011 cũng thể hiện sự khác biệt rõ rệt, cụ thể như sau: năm 2006, kinh phí phân bổ chocông tác YTTH từ ngân sách nhà nước chiếm tỷ lệ cao nhất là 52,3%, sau đó là từbảo hiểm y tế chiếm 39,4%, từ nguồn khác chỉ chiếm 8,3%. Trong khi đó, năm 2011, kinh phí phân bổ cho công tác YTTH chủ yếu là từ bảo hiểm y tế chiếm tỷ lệ cao nhất: 70.4%, sau đó là từ ngân sách nhà nước chỉ chiếm 25,6% và từ nguồn khác của năm chiếm 4,0%. Điều này cho thấy phản ánh đúng thực tế các trường phổ thông đang thực hiện tương đối tốt việc sử dụng phí bảo hiểm y tế học sinh cho chăm sóc sức khỏe học sinh. Tuy nhiên, việc huy động kinh phí từ nguồn khác của năm 2011 có xu hướng giảm đi (4,0%) so với năm 2006 (8,3%). Tại Hà Nội, số liệu thống kê cũng cho thấy hiện nay nguồn kinh phí đầu tư cho công tác y tế trường học phần lớn vẫn phải lấy từ nguồn ngân sách trích từ nguồn bảo hiểm của học sinh. Tuy nhiên nguồn trích lại từ bảo hiểm cũng không lớn. Theo chúng tôi  giải pháp để thay đổi kinh phí trong hoạt động truyền thông cần phải thay đổi về mặt chính sách, trong đó cần ưu tiên một số điểm: Thứ nhất: Việc thực hiện Thông tư 14/2007/TT-BTC ngày 8/3/2007 của Bộ Tài chính hướng dẫn sử dụng kinh phí thực hiện công tác y tế trường học gặp nhiều khó khăn, việc phân bổ nguồn kinh phí và các định mức này chưa rõ ràng, ví dụ tại thông tư quy định: Nguồn ngân sách nhà nước bố trí trong chi sự nghiệp giáo dục và đào tạo hàng năm của các cơ sở giáo dục theo phân cấp ngân sách hiện hành. Như vậy, nếu lãnh đạo Sở Giáo dục nào có nhiều kinh phí, quan tâm đến công tác YTTH thì việc phân bổ kinh phí sẽ thuận tiện. Ngược lại, nếu tỉnh nào ngân sách giáo dục được phân bổ ít, lãnh đạo sở không quan tâm thì công tác Y tế trường học sẽ gặp rất nhiều khó khăn. Thứ hai: Thông tư cũng quy định nguồn kinh phí được để lại từ quỹ khám chữa bệnh bảo hiểm y tế tự nguyện của học sinh, sinh viên theo quy định hiện hành. Đối với nguồn kinh phí được để lại từ Quỹ khám chữa bệnh bảo hiểm y tế tự nguyện của đối tượng học sinh, sinh viên: Các cơ sở giáo dục có trách nhiệm quản lý, sử dụng và quyết toán với cơ quan bảo hiểm xã hội theo quy định hiện hành. Tuy nhiên qua khảo sát cho thấy, việc trích quỹ từ bảo hiểm y tế không được nhiều, nhưng công tác thanh quyết toán lại vô cùng khó khăn. Về vấn đề này nên chăng chúng ta cần có một quy định giao quyền tự chủ hơn nữa cho các trường học hay Phòng Giáo dục về việc quản lý và sử dụng nguồn kinh phí này để giảm sự phiền hà cũng như các thủ tục hành chính cho cán bộ y tế trường học. Thứ ba, một số trường rất chủ động sử dụng dự toán chi sự nghiệp giáo dục và đào tạo được giao hỗ trợ cho công tác y tế trường học. Tuy nhiên, tại nhiều trường hiện nay công tác y tế trường học cũng chưa được quan tâm đúng mức, mà sự hiện diện của nó còn mang tính hình thức. Do vậy theo chúng tôi, cần có một văn bản riêng quy định cụ thể hơn việc phân bổ kinh phí sự nghiệp giáo dục cho công tác YTTH và nên vận dụng để tăng chế độ của cán bộ y tế trường học, để mức lương của cán bộ YTTH ít nhất như một viên chức sự nghiệp của ngành y tế hoặc ngành giáo dục.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docxbao_hiem_1_2161.docx
Luận văn liên quan