Nhận thức của người dân Hà Nội về quyền trẻ em

MỞĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài. Hiện nay, vấn đề quyền trẻ em đang là mối quan tâm lớn không chỉ của từng quốc gia mà là của toàn xã hội. Tương lai của mỗi quốc gia, dân tộc phụ thuộc nhiều vào việc bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em. Tuy nhiên, ở nhiều nơi trên thế giới, tình trạng trẻ em phải tự lao động kiếm sống, bị lừa gạt, bạo lực, bóc lột sức lao động và sa vào các tệ nạn xã hội đang có chiều hướng gia tăng. Bởi vậy, hơn lúc nào hết, vấn đề quyền trẻ em được đặt ra như một nhu cầu bức bách cần được giải quyết, nhằm giành lại cho các em quyền được sống, quyền được học hành, vui chơi, được chăm sóc và bảo vệ Những khẩu hiệu “Trẻ em hôm nay, thế giới ngày mai”, “Hãy dành tất cả những gì tốt đẹp nhất cho trẻ em mà mình có” đã vàđang là khẩu hiệu hành động của các quốc gia. Ở Việt Nam, ngay từ khi phê chuẩn Công ước quốc tế về quyền trẻ em (1990), UNICEF đã phối hợp chặt chẽ với chính phủ Việt Nam xây dựng Chương trình hành động quốc gia vì trẻ em và nỗ lực triển khai thực hiện. UNICEF đã kiên trì thực hiện các hoạt động truyền thông nhằm nâng cao nhận thức của những người có vai trò vàảnh hưởng đối với trẻ em. Bởi vậy, trẻ em Việt Nam đã, đang và sẽđược hưởng những cơ hội tốt đẹp so với trước đây. Mức sống của nhiều gia đình được cải thiện, các bậc cha mẹ có sự lựa chọn dễ dàng hơn trong việc tổ chức cuộc sống vàđiều này cóảnh hưởng tích cực tới lợi ích của trẻ em. Nhưng để cóđược sự lựa chọn đi tới quyết định đúng đắn trong việc chăm sóc trẻ em, các gia đình cần được tiếp cận thông tin nhiều hơn nữa. Truyền thông đã vàđang tiếp tục mở rộng tầm ảnh hưởng tới quần chúng. Các thông tin xã hội cóđịnh hướng, trong đó các vấn đề trẻ em được truyền tải nhiều hơn tới dân chúng cả về chất lượng và số lượng. “Nhận thức toàn dân” về quyền cũng như các vấn đề của trẻ em không ngừng được cải thiện. Mặc dù vậy, vẫn còn một khoảng cách khá lớn giữa nhận thức về Quyền trẻ em và các hành động cụ thể. Hiện nay, việc quán triệt nội dung các Quyền của trẻ em từ lời nói, nhận thức đến hành động vẫn chưa thực sựđồng đều. Nhiều hoạt động truyền thông vẫn chưa thực sự có hiệu quả trong việc tham gia khuyến khích thay đổi hành vi bền vững nhằm mang lại lợi ích tốt nhất cho trẻ em. Đâu đó, vẫn tồn tại những khoảng trống, những thiếu hụt trong nhận thức đến hành động thực tiễn cũng là một quá trình lâu dài. Bởi lẽ, có thể người dân nhận thức được nhưng chưa chắc nhận thức đó sẽ trở thành hành động trong thực tiễn, càng khó hình thành được một khuôn mẫu ứng xử trong xã hội. Tìm hiểu về nhận thức về Quyền trẻ em của người dân cũng như những nhận xét về cách thức, phương pháp truyền thông về quyền trẻ em sẽ góp phần làm cơ sởđể các nhà làm công tác truyền thông- vận động về quyền trẻ em, các nhà hoạch định chính sách đưa ra kế hoạch cũng như chiến lược truyền thông nâng cao nhận thức, thay đổi hành vi về quyền trẻ em cho người dân nói chung và trẻ em nói riêng. Xuất phát từ những vấn đề lý luận và thực tiễn nói trên, đề tài “Nhận thức của người dân Hà Nội về quyền trẻ em” vừa mang tính cấp thiết vừa có giá trị khoa học. 2. Tổng quan về vấn đề nghiên cứu. Trẻ em là nhóm xã hội đặc biệt luôn chiếm được sự quan tâm rất lớn của Đảng, Chính phủ và các tổ chức xã hội, do đó có nhiều công trình nghiên cứu về trẻ em. Tuy nhiên những nghiên cứu về nhận thức của người dân về quyền trẻ em dường như còn rất ít. MỤCLỤC Mởđầu 1 1. Tính cấp thiết của đề tài. 1 2. Tổng quan về vấn đề nghiên cứu. 2 2.1. Các nghiên cứu ngoài nước. 3 2.2. Các nghiên cứu trong nước. 3 2.3. Quy định của Liên hợp quốc về Quyền và bổn phận của trẻ em. 6 2.4. Quan điểm, chính sách của Đảng và Nhà nước về vấn đề Quyền trẻ em. 10 3. Ý nghĩa khoa học vàý nghĩa thực tiễn. 13 3.1. Ý nghĩa khoa học. 13 3.2. Ý nghĩa thực tiễn. 13 4. Đối tượng, mục đích, khách thể và phạm vi nghiên cứu. 14 4.1. Đối tượng nghiên cứu. 14 4.2. Mục đích nghiên cứu. 14 4.3. Khách thể nghiên cứu. 14 4.4. Phạm vi nghiên cứu. 15 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu. 15 5.1. Phương pháp luận chung. 15 5.2. Phương pháp nghiên cứu. 16 6. Giả thuyết nghiên cứu và khung lý thuyết. 16 6.1. Giả thuyết nghiên cứu. 16 6.2. Khung lý thuyết. 17 7. Những khó khăn khi thực hiện đề tài. 18 Chương 1: Cơ sở lý luận 19 1.1. Các lý thuyết liên quan. 19 1.1.1. Lý thuyết vai trò. 19 1.1.2. Lý thuyết truyền thông. 20 1.2. Những khái niệm công cụ. 22 1.2.1. Khái niệm Trẻ em. 22 1.2.2. Khái niệm Quyền trẻ em 23 1.2.3. Khái niệm nhận thức. 24 Chương 2. Kết quả nghiên cứu 25 2.1. Thực trạng nhận thức của trẻ em, gia đình và cộng đồng về Quyền trẻ em. 25 2.1.1. Trẻ em với vấn đề Quyền trẻ em. 25 2.1.2. Gia đình với vấn đề quyền trẻ em. 36 2.1.3. Cộng đồng với vấn đề Quyền trẻ em. 42 2.2. Truyền thông - vận động xã hội về Quyền trẻ em. 48 2.2.1. Các kênh truyền thông. 49 2.2.2. Đánh giá của cộng đồng, trẻ em về các kênh truyền thông. 57 2.2.3. Tổ chức hoạt động truyền thông 63 2.2.4. Truyền thông - vận động xã hội về quyền trẻ em và việc thay đổi nhận thức của cộng đồng. 68 Kết luận và kiến nghị 71 1. Kết luận. 71 1.1. Thực trạng nhận thức của người dân Hà Nội về quyền trẻ em. 71 1.2. Vai trò của truyền thông trong công tác quyền trẻ em. 72 2. Kiến nghị . 73 2.1. Về truyền thông. 73 2.2. Với nhóm lãnh đạo và cán bộ GDGĐ&TE. 73 2.3. Với cộng đồng nói chung. 74 2.4. Với gia đình. 74 Tài liệu tham khảo Phụ lục

docx102 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 6526 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Nhận thức của người dân Hà Nội về quyền trẻ em, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
.9%. Có thể nói, những kênh “phổ thông” như đài, truyền hình vẫn chiếm ưu thế trong việc cung cấp thông tin nói chung và về quyền trẻ em nói riêng. Các loại hình như báo, tạp chí, sách và Internet chưa được người dân tiếp cận nhiều do những nguyên nhân khác nhau như điều kiện kinh tế, quỹ thời gian, sở thích, mức độ hấp dẫn.v.v. “Tôi thấy, kênh truyền thông có hiệu quả nhất hiện nay vẫn là truyền hình vì kênh này tất cả mọi người đều xem được. Vấn đề quan trọng là phải xây dựng các kịch bản như thế nào cho hấp dẫn để mọi người thích xem”(TLN người dân quận Hai Bà Trưng – Hà Nội, nam, 40tuổi) Một trong những lý do giải thích vì sao báo chí vẫn chưa được cộng đồng đánh giá cao: “Báo thì cũng chỉ nói tới một chút thôi còn chủ yếu là đăng những chuyện hình sự làm cho độc giả thích thú và tò mò” (TLN trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt, phường Thanh Nhàn, Hà Nội, nam, 14 tuổi). Việc tiếp cận các thông tin về quyền trẻ em có hiệu quả hay không phụ thuộc rất nhiều vào sở thích của công chúng. Biểu đồ sau sẽ cho ta thấy: Có thể dễ dàng nhận thấy, truyền hình vẫn là kênh được cộng đồng ưa thích nhất trong việc truyền tải các thông tin về quyền trẻ em(71.2%). Sở dĩ có chỉ số như vậy là vì truyền hình vừa tác động vào thị giác với những hình ảnh động, vừa tác động vào thính giác. Hơn thế, gần đây, việc cải tiến lịch phát, nội dung phát các chương trình đã thu hút lượng khán giả lớn đối với loại kênh thông tin đại chúng này. Tiếp đến là đài phát thanh(47.1%). Đây là kênh thông tin có thể tiếp cận ở nhiều lúc, nhiều nơi khác nhau, chi phí cho việc mua sắm phương tiện phát thanh không cao, những thông tin trên đài phát thanh tương đối phong phú và hấp dẫn. Báo chí và sách được cộng đồng đánh giá ở mức tương đương. Intrernet là kênh vẫn còn ít người quan tâm và ưa thích. Nguyên nhân có thể là do điều kiện kinh tế – xã hội, thời gian còn hạn chế. * Đánh giá của cộng đồng về những mặt đã đạt được của truyền thông – vận động về Quyền trẻ em: - Các kênh truyền thông trong thời gian vừa qua đã góp phần vào việc nâng cao được nhận thức và giúp cộng đồng thay đổi hành vi trong việc thực hiện quyền trẻ em. “Truyền thông đã giúp cho nhân dân hiểu về quyền trẻ em và các chính sách liên quan, hiểu được trách nhiệm của Nhà nước”(PVBCT lãnh đạo UBND Thanh Trì, Hà Nội) - Hình thức truyền thông đa dạng, phong phú, bước đầu phù hợp với điều kiện từng địa phương, nhận thức của cộng đồng. “Tuyên truyền qua thông tin đại chúng, tờ rơi, tờ gấp. Qua hình thức thi văn hoá, văn nghệ, tiểu phẩm, qua tuyên truyền tư vấn trên hội nghị vì những loại hình này gần gũi, dễ hiểu, sát với trình độ nhận thức của người dân”(PVBCT lãnh đạo UBND Thanh Trì, TP. Hà Nội) “Các hoạt động vui chơi giải trí cho các em nhân dịp 1/6, Tết Trung thu, ngoài ra thứ 7 hàng tuần Đoàn thanh niên tổ chức cho các em sinh hoạt Đoàn, Đội. Tổ chức cho các em đi tham quan, thi tìm hiểu quyền và bổn phận của các em. Xã chúng tôi có một CLB “ông bà cha mẹ mẫu mực, con cháu hiếu thảo”. Chúng tôi vận động 1 năm đựơc 50 suất học bổng dành cho trẻ em nghèo. Hàng năm xã rót gần 40 triệu đồng cho các gia đình có trẻ em có nguy cơ bỏ học xã cho mượn không phải trả lãi để tạo điều kiện cho các gia đình duy trì việc học tập của các cháu. Số tiền vay đó, chúng tôi tạo điều kiện để gia đình các em trả mỗi tuần 20.000đ cho tới khi trả hết thì thôi. (TLN người dân, phường Thanh Nhàn, quận Hai Bà Trưng, Hà Nội) - Có đội ngũ cán bộ, cộng tác viên đông đảo, nhiệt tình, tâm huyết với công tác trẻ em. “Đa số có năng lực, nhiệt tình, trách nhiệm, hoàn thành tốt công tác”(PVBCT lãnh đạo UBND huyện Thanh Trì, Hà Nội) “Mỗi cụm dân cư có một cán bộ chuyên trách, 12 cộng tác viên”(TLN người dân Hai Bà Trưng, Hà Nội) - Đã có sự phối hợp với các ban ngành đoàn thể khác “Phối hợp với y tế, tư pháp, đoàn thanh niên, hội phụ nữ, kêu gọi hội bảo trợ trẻ em”(PVBCT cán bộ chuyên trách phong nghiệp vụ truyền thông thành phố Hà Nội) “Phối hợp với các cơ quan, tổ chức để vận động, tuyên truyền như tổ chức Plan, tổ chức Vương quốc Bỉ trao học bổng cho trẻ, Ngân hàng Thế giới chăm sóc sinh sản, giúp trẻ em khó khăn”(PVBCT cán bộ UBDS,GĐ&TE Hà Nội). * Đánh giá của cộng đồng về những mặt hạn chế của truyền thông – vận động về Quyền trẻ em. - Truyền thông chưa đúng đối tượng, chưa đúng thời điểm, mới chỉ tập trung vào những đợt, chiến dịch, phong trào.v.v. “Về công tác trẻ em ở phường chỉ chăm chú nhất là ngày mùng 1 tháng 6, ngày tết của các em đấy, thứ 2 là ngày khai trường, thứ 3 là tết trung thu và cùng với tết Nguyên đán, các trường hợp trẻ em có hoàn cảnh khó khăn thì phường phải trợ cấp....”(TLN Lãnh đạo trạm y tế, Hai Bà Trưng, Hà Nội, số 111, nữ, 40 tuổi) - Phối hợp chưa được tốt giữa các ban ngành, đặc biệt với nhà trường. “Thực tế hoạt động phối hợp giữa UBDSGĐTE cũng như các tổ chức xã hội khác với nhà trường trong thời gian qua chưa có nhiều và cũng chưa gắn bó. Theo tôi đưa hoạt động này vào nhà trường rất đúng. Đấy là môi trường để giáo dục quyền và bổn phận cho các em. Tuy nhiên, để truyền đạt cho các em một cách có hiệu quả nên tạo điều kiện cho các thầy cô giáo dự các lớp tập huấn về quyền trẻ em, các kỹ năng có liên quan đến công tác trẻ em. Có như vậy chắc chắn chúng tôi dạy sẽ hiệu quả hơn” (TLN Giáo viên, phường Liên Ninh, Thanh Trì, Hà Nội) - Công tác truyền thông về quyền trẻ em làm chưa được nhiều do cán bộ phải đảm nhiệm nhiều việc. “Về nội dung hoạt động của ban Dân số xã tôi thấy hoạt động về bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em có tiến bộ nhưng hoạt động truyền thông vận động quyền trẻ em làm còn rất hạn chế. Mảng hoạt động của trẻ em cần có người phụ trách cụ thể để đầu tư thời gian cho công tác truyền thông”. (TLN Lãnh đạo UBDSGĐ&TE, Hà Nội) “Đội ngũ cán bộ có đủ điều kiện, trình độ làm việc, tuy nhiên họ phải kiêm nhiệm quá nhiều việc nên không đủ đầu tư thời gian cho chương trình” (PVBCT Lãnh đạo UBND Huyện Thanh Trì, Hà Nội) - Các hoạt động tuyên truyền mới chỉ dừng lại ở một số hoạt động vui chơi giải trí và chưa đi vào trọng tâm các quyền của trẻ em. “Trong những năm gần đây công tác truyền thông có liên quan đến trẻ em tôi thấy làm rầm rộ hơn, hoạt động dành cho trẻ em ngày một nhiều hơn. Tuy nhiên, các hoạt động của các ban ngành đoàn thể trong thời gian qua cũng chỉ tập trung vào các hoạt động vui chơi giải trí là chính còn công tác truyền thông vận động quyền trẻ em tôi thấy thực tế làm được chưa nhiều (TLN Đoàn thanh niên, phường Thanh Nhàn, quận Hai Bà Trưng, Hà Nội) “Vấn đề trẻ em nói chung trong những năm gần đây nhận thức của cộng động có nhiều chuyển biến tiến bộ. Tuy nhiên, vấn đề quyền trẻ em chưa có chuyển biến nhiều vì công tác tuyên truyền cũng chưa đầu tư cả về mội dung và kinh phí để truyền thông về quyền trẻ em”. (TLN Người dân, nữ, 27 tuổi, huyện Thanh Trì, Hà Nội) - Truyền thông lồng ghép chưa mang lại hiệu quả. “Tích cực: tiết kiệm chi phí nhân lực. Tiêu cực:không đi sâu vào vấn đề trẻ em, không trọng tâm (PVBCT Lãnh đạo UBDS GĐ&TE Quận Hoàng Mai, Hà Nội) “Trong hoàn cảnh khó khăn, thì lồng ghép nhìn chung là tốt, tiết kiệm kinh phí và nguồn lực, nhưng khó đạt mục tiêu đề ra” (PVBCT Lãnh đạo UBDSGĐ&TE Huyện Thanh Trì, Hà Nội) - Truyền thông mới chỉ có tính chất một chiều mà chưa thực hiện được các kênh truyền thông hai chiều để có thể nhận biết kịp thời các thông tin, chia sẻ với cộng đồng về các vấn đề quyền trẻ em. 2.2.2.2. Đánh giá của trẻ em về các kênh truyền thông. Khi đánh giá về mức độ rất quan trọng của các kênh truyền thông trong việc cung cấp các thông tin về quyền trẻ em, trẻ em đã đánh giá như sau: Bảng 2.11. Đánh giá của trẻ em về mức độ “Rất quan trọng” của các kênh truyền thông trong việc cung cấp thông tin về quyền trẻ em. Đơn vị tính: % TRUYỀN HÌNH 65.8 Các loại sách 48 Đài phát thanh. 43.3 Báo chí 36.1 Internet 22.7 Theo đánh giá của chính trẻ em về mức độ quan trọng của các kênh thông tin đại chúng thì truyền hình vẫn chiếm tỷ lệ cao nhất 65.8%. Tầm quan trọng được xếp đứng thứ hai là sách(48%), tiếp đến là đài phát thanh, báo chí và cuối cùng là Internet chỉ có 22.7%. (Lưu ý rằng chỉ số này đã tăng lên đáng kể ở trẻ em) Đánh giá về kênh truyền hình, một ý kiến của trẻ em cho rằng kênh này có nhiều thông tin quan trọng, liên quan đến quyền của chúng. “Trên tivi, bọn cháu thường xem các kênh như ở VTV2 có các chương trình thiếu nhi dành cho trẻ em, những chương trình ca nhạc hoặc những bộ phim giải trí của trẻ em. Trên VTV2 có các chương trình cho trẻ em rất là hay, nó tuyên truyền về các quyền lợi của trẻ em và những việc của nước ta hiện nay đang làm cho trẻ em” (TLN trẻ em, huyện Thanh Trì, Hà Nội). 2.2.3. Tổ chức hoạt động truyền thông 2.2.3.1. Xác định đối tượng truyền thông. Một trong những vấn đề lớn đặt ra trong truyền thông là phải xác định rõ đối tượng của truyền thông là ai. Trả lời được câu hỏi đó thì công tác này mới đạt hiệu qủa bởi lẽ mỗi đối tượng khác nhau lại có những đặc điểm khác nhau về địa vị, giới tính, học vấn, dân tộc.v.v. thì cần những hình thức truyền thông cho phù hợp. Qua nghiên cứu định tính tại cộng đồng cho thấy, các đối tượng được cộng đồng nhận thức là đa dạng, đầy đủ các thành phần trong xã hội. “Lãnh đạo cấp uỷ, chính quyền cơ sở, các đoàn thể, cán bộ hội viên, gia đình, chính bản thân các em”(PVBCT Lãnh đạo UBDS,GĐ&TE Thanh Trì, Hà nội) “Các ban ngành, đoàn thể, gia đình và nhà trường”(PVBCT cán bộ chuyên trách UBDS,GĐ&TE phường Thanh Nhàn, quận Hai Bà Trưng, Hà Nội). "Trong những năm qua, vấn đề chăm sóc giáo dục trẻ em không chỉ là của riêng một tổ chức nào mà đòi hỏi các ngành, các cấp đều phải quan tâm cụ thể để cho thế hệ trẻ có đủ điều kiện về trình độ cũng như thể chất có thể tiếp xúc thuận lợi với xã hội, để học tập cũng như có công việc sau này (TLN Lãnh đạo, phường Quỳnh Mai, Hà Nội) Tuy nhiên, khi thực hiện công tác truyền thông đến các đối tượng thì lại rơi vào chung chung, không cụ thể cho từng đối tượng riêng nên hiệu qủa đạt được chưa như mong muốn. “Quá trình tổ chức triển khai truyền thông cũng như về mặt chiến lược hành động của chúng ta chưa phù hợp với với đòi hỏi của thời kỳ hiện nay. Từ đó, cần phải có một chiến lược cụ thể. Ví như là tuỳ theo loại đối tựơng thế nào thì mình phải có một hình thức truyền thông cụ thể như thế ấy. Nhờ thế, gia đình của trẻ và bản thân đứa trẻ tiếp cận được các thông tin hữu ích cho mình, để giải quyết cái vấn đề của chính gia đình mình trong những thời điểm cụ thể ". (PVS chuyên gia tư vấn Trung tâm Tư vấn và Dịch vụ Truyền thông, UBDSGĐTE) Bởi chưa xác định từng đối tượng cụ thể nên có tình trạng dàn trải, không đồng đều. “Đã có tác dụng nhưng dàn trải, có những vấn đề chưa rõ ràng do nhận thức chưa đồng đều”(PVBCT lãnh đạo UBDS,GĐ&trẻ em huyện Thanh Trì, Hà Nội) Chính vì thế, cần đặt ra vấn đề ưu tiên đối tượng có vai trò quan trọng nhất trong cộng đồng để từ đó hoạt động truyền thông sẽ có chuyển biến tích cực, hạn chế những khiếm khuyết của công tác này trong thời gian qua. Những nhận định dưới đây cho chúng ta thấy cần có sự thống nhất giữa cấp trên và cơ sở: “Rộng hơn, sâu hơn, ưu tiên đối tượng”(PVBCT lãnh đạo UBDSGĐ&TE Hà Nội) “Tất cả các đối tượng, tuy nhiên, chú trọng tới các đối tưọng có uy tín trong cộng đồng, là người trong gia đình và ngay cả chính các em”(PVBCT cán bộ chuyên trách UBDSGĐ&TE Thanh Trì, Hà Nội) 2.2.3.2. Kỹ năng truyền thông. Nhìn chung, các hình thức truyền thông về quyền trẻ em tương đối đa dạng. Đội ngũ cán bộ chuyên trách và cộng tác viên tuy bất cập song có thể vươn lên đáp ứng được nhu cầu, các hoạt động lồng ghép được thực hiện khá phổ biến tại các địa phương... Mặc dù vậy, công tác truyền thông vẫn chưa thoả mãn yêu cầu, hiệu quả còn thấp dẫn đến công tác quyền trẻ em gặp rất nhiều khó khăn trong triển khái thực hiện. Một trong những vấn đề/khâu trong quá trình truyền thông mà chúng ta cần phải xem xét lại, đó là kỹ năng truyền thông về quyền trẻ em . Kỹ năng truyền thông có ảnh hưởng rât lớn đến việc đưa các thông tin một cách chính xác, hiệu qủa đến từng đối tượng mà không gây phản cảm cho người tiếp nhận. Một vài ý kiến ngay từ cấp địa phương rất đáng lưu tâm về kỹ năng truyền thông hiện nay: “Thường thường, tâm lý người đi họp, nhất là nông thôn thì chỉ muốn họp mau mau chóng chóng xem có vấn đề gì còn đi về. Thế mà cứ nghe đọc tràng giang đại hải thì người ta chẳng muốn nghe đâu. Phải biết chắt lọc trong các văn bản, trong đó vấn đề gì anh phải nói. Khi nói phải để người ta biết anh nói gì, ví dụ anh dùng ngôn ngữ địa phương thì người ta dễ hiểu chứ anh dùng ngôn ngữ khoa học thì người ta không hiểu, hoặc là anh dùng kiến thức xa vời quá, sẽ khó có thể là phù hợp với nhận thức của người ta. Nói tóm lại, truyền thông phải có kỹ năng thì người nghe mới tiếp thu được. Sau này, cần hỏi lại người ta có nghe được gì? Người ta phải hiểu để mà truyền thông hai chiều, có chiều đi chiều lại để mình nắm, mình biết.Vì thế, tất nhiên phải đào tạo kỹ năng, chúng ta chưa có đào tạo bài bản, chuyên nghiệp thì ít ra cũng phải có tập huấn cho cán bộ truyền thông.”(TLN Lãnh đạo UBND, phường Thanh Nhàn, quận Hai Bà Trưng, Hà Nội, nam, 49 tuổi) Vậy, nguyên nhân của tình trạng thiếu các kỹ năng truyền thông là do đâu, một lãnh đạo của một cơ quan chuyên trách về truyên thông lý giải: “Do chưa được tập huấn về nghiệp vụ, kỹ năng truyền thông, họ phải thật sự là nòng cốt của công tác BV, CS &GDTE”(PVBCT lãnh đạo Phòng nghiệp vụ Truyền thông thành phố Hà Nội) 2.2.3.3. Nội dung truyền thông. Trong thời gian vừa qua, công tác truyền thông quyền trẻ em đã triển khai tập trung vào các nội dung về quyền, nghĩa vụ của trẻ em và cộng đồng, các Luật, chính sách liên quan và các vấn đề xã hội khác xoay quanh quyền trẻ em. “Quyền và bổn phận của trẻ em, trách nhiệm của gia đình, nhà trường và xã hội, các điều Luật liên quan đến trẻ em như Luật BVCS&GDTE, Luật Hôn nhân – Gia đình... Các quyền về chăm sóc sức khoẻ, quyền đi học, quyền vui chơi. Phương pháp chăm sóc, nuôi dạy con, các gương điển hình, phòng chống tệ nạn xã hội, ma tuý, mại dâm, bạo lực...”(PVBCT lãnh đạo UBDSGĐTE Hà Nội). “Tuyên truyền về quyền trẻ em, về Luật BVCS&GDTE mới, phòng tránh tai nạn thương tích cho trẻ em, phòng chống HIV, lạm dụng tình dục, chống lao động sớm, chống trẻ em lang thang”(PVBCT đại diện UBND Thanh Trì, Hà Nội) Mặc dù, các nội dung liên quan đến quyền trẻ em trong truyền thông là khá phong phú, đa dạng, nhưng trong nội dung truyền thông còn nhiều vướng mắc, chưa sâu sắc, thiếu thực tế, thiếu khoa học, còn chắp vá.v.v. Đây chính là những nguyên nhân phần nào đó đã khiến cho nhận thức của cộng đồng về quyền trẻ em còn thấp. “Chỉ đề cập đến những quyền trẻ em cơ bản chứ chưa đi sâu”(PVBCT trẻ em, học sinh, phường Quỳnh Mai, Hà Nội) “Nội dung, hình thức truyền thông không có tính hệ thống, không lợi ích(tính thực tế), không bài bản, cập nhật thông tin không đấy đủ, ý thức thực hiện còn mang tính hình thức”(PVBCT lãnh đạo UBDSGĐ&TE Hà Nội) Để khắc phục những hạn chế, khiếm khuyết trong công tác truyền thông hiện nay và phát huy những thế mạnh, những mặt đã làm được thì công tác truyền thông trong thời gian tới phải xác định được nội dung những vấn đề ưu tiên và hướng đến chính các em trong việc nâng cao nhận thức và thực hiện quyền của chính mình. Chỉ làm như vậy mới có thể huy động được hết nguồn lực thực hiện hiệu quả, đảm bảo tính sâu sắc, không dàn trải v.v… “Nội dung truyền thông cần phải truyền tải được các quyền và bổn phận của trẻ em, trang bị cho trẻ em những kiến thức liên quan đến chính trẻ. Những nội dung này phải được chuẩn bị kỹ và được truyền tải dưới nhiều hình thức rất khác nhau để phù hợp với đặc điểm tâm lý lứa tuổi và được các em và người nghe hưởng ứng nhiệt tình”(PVBCT đại diện UBDSGĐ&TE TP.Hà Nội) Trong các quyền trẻ em thì bốn nhóm quyền bao gồm quyền sống còn, quyền được bảo vệ, phát triển và quyền tham gia là những quyền cụ thể, thiết thực với trẻ em hiện nay phải được nghiên cứu, triển khai như là những nội dung trọng tâm cần được ưu tiên và thực hiện tốt trong thời gian tới. “Bốn nhóm quyền trẻ em và thực hiện có hiệu quả”(PVBCT chuyên viên UBDSGĐ&TE thành phố Hà Nội) “Lọc nội dung trọng tâm, ngành cần có bộ phận nghiên cứu kịp thời cho tuyên truyền, triển khai từ trên xuống, nội dung rõ ràng, kịp thời”(PVBCT lãnh đạo UBDSGĐ&TE huyện Thanh Trì, Hà Nội) Bên cạnh đó, trong quá trình truyền thông cũng cần phải chú ý đến những trường hợp đặc biệt, trẻ em có hoàn cảnh khó khăn. Hoạt động triển khai phải cụ thể, tránh phong trào đảm bảo tính hiệu quả. “Chú ý đến những trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt, trẻ em khuyết tật, có chương trình cụ thể, người thật việc thật để có tác động nhanh hơn, hiệu quả cao hơn”(PVBCT đại diện UBDSGĐ&TE phường Thanh Nhàn, quận Hai Bà Trưng, Hà Nội) “Rộng hơn, ưu tiên đối tượng có nguy cơ cao, có tính đặc thù”(PVBCT lãnh đạo UBDSGĐ&TE Hà Nội) 2.2.4. Truyền thông - vận động xã hội về quyền trẻ em và việc thay đổi nhận thức của cộng đồng. 2.2.4.1. Đối với đội ngũ lãnh đạo các cấp, ban ngành, đoàn thể. Truyền thông - vận động về quyền trẻ em đã và đang có tác động tích cực đến nhận thức, thái độ và hành vi của cộng đồng, mà trước hết là đội ngũ lãnh đạo các cấp như Đảng uỷ, chính quyền, lãnh đạo các ban ngành có liên quan về công tác quyền trẻ em. Đây là những kết quả ban đầu rất đáng xem trọng bởi lẽ đội ngũ này có vai trò tích cực trong việc ủng hộ/cản trở những cam kết chính trị, thực hiện đường lối trong quá trình triển khai thực hiện quyền trẻ em ở các cấp từ trung ương đến địa phương, cơ sở. “Làm chuyển biến nhận thức của các cấp Đảng uỷ, chính quyền về việc bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em, là việc quan trọng không thể thiếu với thế giới ngày mai”(PVBCT lãnh đạo UBDSGĐ&TE phường Quỳnh Mai, Hà Nội) “Được sự quan tâm chỉ đạo chặt chẽ sát sao của cấp uỷ, chính quyền cơ sở, các ban ngành các cấp tham gia nhiệt tình”(PVBCT lãnh đạo UBSDGĐ&TE thành phố Hà Nội) 2.2.4.2. Đối với người dân. Với người dân thì truyền thông - vận động về quyền trẻ em càng quan trọng bởi lẽ chính họ mới là người trực tiếp thực hiện quyền trẻ em trong đời sống hàng ngày. Một khi người dân thay đổi nhận thức dẫn đến hành vi và ứng xử với trẻ em cũng sẽ thay đổi theo hướng tích cực, là điều kiện để trẻ em được thực hiện quyền của mình hướng tới sự phát triển toàn diện. Hiệu qủa của công tác trên đã được chính người dân thừa nhận. “Nhân dân hiểu khá tốt về Luật BVCS&GDTE, không phân biệt trai gái, trẻ được đối xử, chăm sóc như nhau về mọi quyền, khi đau ồm được chăm sóc tại cơ sở y tế, không phân biệt con chung, con riêng, con ngoài giá thú. Căn cứ vào Luật Bảo vệ, Chăm sóc và Giáo dục trẻ em(1991) được tuyên truyền đến toàn dân nên ý thức của người dân được nâng cao trong việc đối xử, chăm sóc trẻ em”(PVBCT người dân xã Liên Ninh, huyện Thanh Trì, Hà Nội) Những người quản lý, lãnh đạo cộng đồng cũng nhận xét về hiệu quả của công tác truyền thông- vận động xã hội về quyền trẻ em. “Nhân dân hiểu, nắm được những vấn đề cơ bản của Luật BVCS&GDTE nói riêng và quyền trẻ em nói chung, có ý thức bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em với phương châm dành tất cả những gì tốt nhất cho các em”(PVBCT đại diện UBND xã Liên Ninh, huyện Thanh Trì, Hà Nội) 2.2.4.3. Đối với trẻ em. Truyền thông - vận động về quyền trẻ em không chỉ nhằm vào hai đối tượng đã đề cập bên trên mà còn nhằm vào chính trẻ em. Trẻ em là đối tượng đặc biệt được truyền thông để hiểu biết về các quyền của chính mình và trên cơ sở hiểu biết mà đưa những quyền đó vào trong hoạt động thực tiễn. Truyền thông về quyền trẻ em đã có tác động, ảnh hưởng đến cuộc sống hàng ngày, đến tâm tư, nguyện vọng của các em. “Cuộc sống của em thoải mái, nguyện vọng của em đều được thực hiện”(PVBCT trẻ em nam, phường Thanh Nhàn, quận Hai Bà Trưng) “Được sự quan tâm giúp đỡ của mọi người, các cấp các ngành cũng giúp chúng em thực hiện tốt bổn phận”(PVBCT trẻ em nam, học sinh, phường Thanh Nhàn, quận Hai Bà Trưng, Hà Nội). KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 1. Kết luận. 1.1. Thực trạng nhận thức của người dân Hà Nội về quyền trẻ em. * Qua 15 năm thực hiện Cương trình Hành động quốc gia vì trẻ em Việt Nam, triển khai thi hành Luật BVCS&GDTE (1991 – 2005) và 5 năm thực hiện kế hoạch truyền thông – vận động xã hội về quyền trẻ em (2001-2005) trên bình diện toàn quốc đã đạt được những thành công đáng ghi nhận. Nhận thức của cộng đồng xã hội về quyền trẻ em đã được nâng lên ở mức đáng kể, nhưng vẫn có thể nói là chưa thực sự sâu sắc, vững chắc và đầy đủ giữa các nhóm xã hội trong cộng đồng về mức độ hiểu biết khác nhau về quyền trẻ em. Rõ ràng trong lĩnh vực này còn không ít những bất cập và hạn chế. Đây là điểm cần lưu ý khi xây dựng các chương trình truyền thông vận động về quyền trẻ em trong giai đoạn tiếp theo. * Truyền thông vận động về quyền trẻ em đã có tác động tích cực đến nhận thức của người dân, cán bộ, gia đình và trẻ em tại cộng đồng. Tuy nhiên, việc thực hiện tốt mới chỉ dừng lại ở một số nội dung đã thành truyền thống có tính đạo lý như quyền được giáo dục, chăm sóc sức khoẻ, bảo vệ khỏi bị xâm hại v.v… Một số nhóm quyền như quyền tham gia ý kiến, quyền vui chơi giải trí, quyền có tài sản riêng… có tỷ lệ người nhận thức và thực hiện chưa cao. Nhận thức và hiểu biết về quyền trẻ em, Luật BVCS&GDTE đã khá rộng rãi, tuy nhiên chẳng những kém sâu sắc mà còn chưa toàn diện. * Nhận thức về quyền trẻ em cũng như Luật BVCS&GDTE của một số cán bộ lãnh đạo, thậm chí cán bộ DSGĐTE, cán bộ chuyên trách DSGĐTE còn nhiều bất cập, một số còn hiểu lơ mơ, hoặc còn chung chung theo kiểu sáo ngữ, khẩu hiệu hành động và chưa sâu sắc, thiếu tính bền vững. * Gia đình và cộng đồng đánh giá khá cao hiệu quả của việc truyền thông, vận động về quyền trẻ em. Trong đó chăm sóc sức khoẻ và giáo dục là 2 lĩnh vực được quan tâm và thực hiện tốt nhất. Tuy nhiên, vẫn còn một số khía cạnh thực hiện chưa tốt như quyền tham gia ý kiến, quyền có tài sản riêng, quyền vui chơi giải trí, tự do… * Người dân trong cộng đồng rất ủng hộ các hoạt động truyền thông – vận động xã hội về quyền trẻ em. Sự ủng hộ đó đã được thể hiện bằng những hành động rất tích cực, tham gia vào các hoạt động truyền thông về quyền trẻ em, cũng như tạo điều kiện tốt nhất chăm sóc, bảo vệ trẻ em trong gia đình. 1.2. Vai trò của truyền thông trong công tác quyền trẻ em. * Truyền thông, đặc biệt là truyền hình, đài phát thanh, báo chí… có vai trò tích cực trong phổ biến quyền trẻ em. Trong những năm qua, hầu hết các kênh truyền thông đã được huy động để phục vụ cho công tác truyền thông – vận động về quyền trẻ em. Tuy vậy, nội dung thông tin và phương thức chưa thực sự có ấn tượng và hiệu quả cao, do đó sức lan toả chưa mạnh, chưa cạnh tranh được với những thông tin kinh tế – xã hội và các chương trình thể thao – giải trí khác. Bên cạnh đó, các kênh truyền thông trực tiếp được cộng đồng kỳ vọng và đánh giá cao, có hiệu quả như: gia đình, các cán bộ chuyên trách DSGĐTE, nhà trường chưa phát huy hiệu quả cao được như tiềm năng sẵn có. Nhưng hoàn toàn có thể nói rằng công tác truyền thông đã thành công ở mức độ thức tỉnh của cộng đồng về sự cần thiết thực hiện quyền trẻ em và Luật BVCS&GDTE. * Một số hình thức truyền thông được người dân trong cộng đồng đánh giá cao như: Truyền hình, đài (rađio), tuyên truyền trực tiếp đến các gia đình hoặc qua các lớp tập huấn tại địa phương. * Nhìn chung, trong thời gian qua, các hoạt động truyền thông – vận động xã hội vì trẻ em đã được quan tâm thực hiện, song chủ yếu là lồng ghép với các hoạt động, chương trình khác. Nội dung truyền thông còn chung chung, đại khái, chưa sâu sát với thực tế. Hoạt động truyền thông ngoài những “chiến dịch” lớn theo mùa vụ, số còn lại được thực hiện lẻ tẻ thiếu tính thường xuyên. Đây chính là một trong những nguyên nhân chủ yếu dẫn đến những bất cập trong công tác truyền thông về quyền trẻ em trong thời gian vừa qua. 2. Kiến nghị . 2.1. Về truyền thông. - Các hoạt động thông tin – giáo dục – tuyên truyền cần được tiến hành liên tục, thường xuyên, tránh tình trạn chạy theo phong trào, chỉ mang tính bề nổi, theo đơn đặt hàng. Xu hướng tuyên truyền thành chiến dịch, bên cạnh mặt tích cực là tập trung, tác động mạnh cũng cần chú ý tránh tính hình thức mà yếu thực chất. Phải chủ động triển khai để truyền thông giáo dục trở thành nhiều đợt sóng liên tục dẫn đến tác động thay đổi hành vi cho cộng đồng. - Tiếp tục chủ trương duy trì hình thức truyền thông theo diện rộng kết hợp với các truyền thông chuyên biệt (như tuyên truyền đến tận hộ gia đình hoặc mở các lớp tập huấn về quyền trẻ em cho đối tượng cán bộ, giáo viên và cả người dân cộng đồng, thích hợp từng đối tượng) nhằm nâng cao nhận thức, kỹ năng sống, thay đổi hành vi của cộng đồng. - Cần có và chủ động có các hình thức tuyên truyền phong phú, thích hợp với từng khu vực, vùng miền, nhóm xã hội không chỉ nhằm nâng cao nhận thức thay đổi hành vi mà còn nâng cao kỹ năng sống cho chính trẻ em và cộng đồng. - Cần duy trì, tăng cường thời lượng phát và nâng cao chất lượng của các phương thức truyền thông được người dân đánh giá cao như truyền hình, đài truyền thanh (rađio), tuyên truyền trực tiếp. - Đẩy mạnh đào tạo bồi dưỡng nguồn nhân lực làm công tác truyền thông, cập nhật thông tin, phương pháp và kỹ năng truyền thông – vận động Quyền trẻ em cho đông đảo đội ngũ cán bộ và những tình nguyện viên làm công tác truyền thông về quyền trẻ em. 2.2. Với nhóm lãnh đạo và cán bộ GDGĐ&TE. - Cần mở các khoá đào tạo và bồi dưỡng các kiến thức và kỹ năng liên quan đến việc chăm sóc, bảo vệ và giáo dục trẻ em cho các nhóm cán bộ hoạt động trong lĩnh vực GDGĐ&TE. Thứ nhất, nhằm nâng cao hiểu biết pháp Luật của cán bộ. Thứ hai, cung cấp cho họ những kỹ năng và kinh nghiệm cần thiết để cho các hoạt động truyền thông – vận động về quyền trẻ em cũng như công tác BVCS&GDTE. - Thực hiện phối hợp chặt chẽ giữa cơ quan Đảng, Chính quyền, Đoàn thể, tổ chức, các cơ quan chức năng, nhiệm vụ trong chương trình hành động vì trẻ em. - Tăng cường hoạt động phổ biến, tuyên truyền số liệu, kết quả nghiên cứu… thu được trong hoạt động vì trẻ em nhằm giúp cơ quan nghiên cứu và hoạt động thực tiễn có cơ sở để triển khai các chiến lược, hành động vì trẻ em có hiệu quả cũng như góp phần xây dựng những chính sách cho trẻ em. 2.3. Với cộng đồng nói chung. - Mở thêm nhiều hoạt động truyền thông – vận động về quyền trẻ em với các hình thức đa dạng, phong phú, thu hút cộng đồng tham gia, tạo nhân tố tích cực đẩy mạnh hoạt động vì trẻ em. - Tổ chức các hoạt động bề nổi hội diễn văn nghệ, các cuộc thi hiểu biết về Luật BVCS&GDTE, quyền trẻ em cho trẻ em vào các ngày lễ, ngày nghỉ, trong đó các em sẽ trực tiếp tham gia tổ chức thực hiện các hoạt động đó, người lớn chỉ có vai trò hướng dẫn. 2.4. Với gia đình. - Gia đình cần tạo điều kiện cho trẻ em được tham gia vào các quyết định liên quan đến trẻ em. Qua đó cũng tạo cho các em tính tự lập, sống có trách nhiệm với bản thân và với cộng đồng. - Nhân rộng các mô hình gia đình văn hoá tiên tiến, tạo thành những mô hình gia đình khuôn mẫu cho cộng đồng noi theo. - Có các chương trình giáo dục tuyên truyền cho các bậc ông, bà, cha, mẹ nhằm cung cấp kiến thức cơ bản về quyền trẻ em và những phương pháp giáo dục tốt nhất cho trẻ em. TÀI LIỆU THAM KHẢO Một số văn kiện của Đảng và Nhà nước về bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em, NXB Chính trị Quốc gia, 1996. “Chúng ta hãy cùng nhau bảo vệ Quyền trẻ em” – Uỷ ban Bảo vệ và Chăm sóc Trẻ em Việt Nam – Radda Barnen. “Công ước Quốc tế của Liên Hợp Quốc về Quyền trẻ em”, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1997. “Điều tra kiến thức, thái độ và hành vi phục vụ xây dựng chiến lược truyền thông - vận động về Quyền trẻ em giai đoạn 2006 - 2010”, Trịnh Hoà Bình và cộng sự, Báo cáo khảo sát Xã hội học, 2005. “Hoạt động tư vấn – xây dựng chương trình truyền thông – vận động Quyền trẻ em giai đoạn 2001 - 2005”, Trịnh Hoà Bình và cộng sự, Plan Hà Nội tài trợ, Hà Nội, 2001. “Lạm dụng trẻ em ở Việt Nam – Vấn đề đặt ra trong xã hội hiện đại”, Thân Trung Dũng, Tạp chí Gia đình và Trẻ em, kỳ I tháng 8/2005. “Luật Bảo vệ, Chăm sóc và Giáo dục Trẻ em”, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2005. “Nhận thức của Trẻ em về Quyền trẻ em”, Trịnh Hoà Bình – Thân Trung Dũng, Tạp chí Gia đình và Trẻ em, kỳ I tháng 4/2006. “Nhận thức và dư luận xã hội qua 10 năm thực hiện Luật Bảo vệ Chăm sóc và Giáo dục Trẻ em”, Trịnh Hoà Bình, Đặng Nam và cộng sự – Chuyên luận, Trung tâm truyền thông – vận động - xã hội, Hà Nội, 2001. “Những điều cha mẹ cần biết về Quyền trẻ em”, UNICEF – Uỷ Ban Bảo vệ và Chăm sóc Trẻ em Việt Nam. “Những mục tiêu chương trình hành động quốc gia vì trẻ em”, Uỷ Ban Bảo vệ và Chăm sóc Trẻ em Việt Nam. “Phương pháp nghiên cứu xã hội học”, Phạm Văn Quyết, Nguyễn Quý Thanh, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, 2001. “Quyền phụ nữ và trẻ em: kết quả và thể hiện qua các chương trình UNICEF”, Công ty Tư vấn Nghiên cứu Dân số (POPCON), Hà Nội, 4/2000. “Quyền trẻ em trong pháp Luật quốc gia và quốc tế”, (tuyển chọn), Vũ Ngọc Bình, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1995. “Tăng cường lãnh đạo công tác bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em”, Uỷ Ban Bảo vệ và Chăm sóc Trẻ em Việt Nam. MỤC LỤC Tài liệu tham khảo Phụ lục LỜI CẢM ƠN Em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới tất cả các thầy cô giáo trong và ngoài khoa Xã hội học đã nhiệt tình giảng dạy, hướng dẫn, giải đáp và trang bị cho em những kiến thức quý báu trong suốt 4 năm học vừa qua. Trước hết em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới ThS. Lê Thái Thị Băng Tâm, người đã nhiệt tình chỉ bảo, hướng dẫn em trong suốt thời gian làm khoá luận. Em xin chân thành cảm ơn TS. Trịnh Hoà Bình - Viện Xã hội học - Viện Khoa học Xã hội Việt Nam đã cho sử dụng nguồn số liệu và tận tình góp ý kiến cho khoá luận. Qua đây, em muốn gửi lời cảm ơn tới gia đình, bạn bè, các anh chị khoá trên và tất cả những người đã nhiệt tình, động viên giúp đỡ em trong quá trình làm khoá luận. Song do hạn chế về trình độ và thời gian nên khó tránh khỏi những sai sót trong quá trình thực hiện đề tài. Rất mong nhận được ý kiến đóng góp của các thầy, cô giáo và các bạn, những người quan tâm đến đề tài. Em xin trân trọng cảm ơn những đóng góp quý báu đó! Hà Nội, tháng 5 năm 2006 Sinh viên Đào Thị Lê Na QUY ƯỚC VỀ CỤM TỪ VIẾT TẮT DSGĐ&TE Dân số, Gia đình và Trẻ em BVCS&GDTE Bảo vệ , Chăm sóc và Giáo dục Trẻ em Luật BVCS&GDTE Luật Bảo vệ Chăm sóc và Giáo dục Trẻ em PVBCT Phỏng vấn bán cấu trúc PVS Phỏng vấn sâu SL Số lượng TLN Thảo luận nhóm UBDSGĐ&TE Uỷ ban dân số gia đình và trẻ em UNICEF Quỹ Nhi đồng Liên Hợp Quốc PHỤ LỤC 1 Giới thiệu chung về đề tài: "Điều tra cơ bản kiến thức, thái độ và hành vi của cộng đồng phục vụ xây dựng chiến lược truyền thông - vận động về quyền trẻ em giai đoạn 2006-2010" "Điều tra cơ bản kiến thức, thái độ và hành vi của cộng đồng phục vụ xây dựng chiến lược truyền thông - vận động về quyền trẻ em giai đoạn 2006-2010" được thực hiện bởi Viện xã hội học do tiến sĩ Trịnh Hoà Bình làm chủ nhiệm, Vụ Truyền thông - Uỷ ban Dân số Gia đình & Trẻ em chủ trì, dưới sự tài trợ của UNICEF. Dưới đây là những thông tin cơ bản về đề tài. 1. Mục tiêu của đề tài. 1.1. Tìm hiểu mức độ hiểu biết, thái độ, hành vi và những mong muốn chủ yếu của gia đình, trẻ em và cộng đồng về việc thực hiện các quyền trẻ em. 1.2. Đánh giá thực trạng nguồn lực và sử dụng nguồn lực trong hoạt động quyền trẻ em (Chính phủ/địa phương, các tổ chức quốc tế). Sự tham gia của các lực lượng xã hội vào các hoạt động truyền thông vận động về quyền trẻ em trong thời gian gần đây. 1.3. Đánh giá cơ bản tác động của một số chính sách với việc thực hiện quyền trẻ em tại cộng đồng, nhất là với các trẻ đối tượng đặc biệt khó khăn. 1.4. Đánh giá những thành công và hạn chế trong công tác truyền thông vận động thực hiện quyền trẻ em; Rút ra các bài học kinh nghiệm trong việc triển khai công tác này ở các địa phương. 1.5. Đề xuất một số giải pháp và khung chiến lược cho chiến lược truyền thông vận động về quyền trẻ em giai đoạn 2006-2010. 2. Nội dung nghiên cứu. 2.1. Sự hiểu biết, thái độ của gia đình, trẻ em và cộng đồng về nội dung chủ yếu của quyền trẻ em; một số hành vi/thói quen liên quan đến thực hiện quyền trẻ em của gia đình, trẻ em và cộng đồng; 2.2. Nhu cầu/ mong muốn chủ yếu của gia đình, trẻ em và cộng đồng về sự hiểu biết, kiến thức và kỹ năng thực hiện quyền trẻ em trong thời gian tới. 2.3. Các nguồn lực (chính phủ, địa phương, các dự án, cộng đồng) và việc sử dụng các nguồn lực vào các hoạt động truyền thông vận động về quyền trẻ em trong thời gian gần đây; 2.4. Các chính sách và tác động của các hoạt động truyền thông tới việc thực hiện quyền trẻ em; 2.5. Kết quả và hạn chế trong công tác truyền thông vận động về thực hiện quyền trẻ em; nguyên nhân của kết quả và hạn chế. 2.6. Đề xuất khung cho chiến lược truyền thông vận động về quyền trẻ em giai đoạn 2006-2010. 3. Đối tượng và phạm vi điều tra 3.1. Đối tượng Các hộ gia đình có trẻ em (ông/bà, bố/mẹ và trẻ em) và một số giáo viên bậc cơ sở sẽ được lựa chọn làm đơn vị khảo sát chính; Lãnh đạo Đảng, chính quyền cấp tỉnh /thành phố, huyện/quận và xã/phường; (dưới đây xin gọi chung là: tỉnh, huyện, xã) Lãnh đạo các tổ chức xã hội cấp tỉnh, huyện và xã; Cán bộ làm công tác DS-GĐ-TE tại các tỉnh, huyện và xã; Cộng tác viên DSGĐTE ở cơ sở; Một số cơ quan thông tấn báo chí, phát thanh (truyền hình/báo/tạp chí); Một số tổ chức quốc tế có liên quan đến các hoạt động quyền trẻ em (UNICEF/Plan/SCUS/SCUK). 3.2. Phạm vi. Nhằm đảm bảo yêu cầu và tính chất quốc gia, nghiên cứu này sẽ chú ý đầy đủ đến tiêu chí vùng, miền cũng như các tiêu chí đại diện khác. Yêu cầu này liên quan chặt chẽ đến phương pháp, kỹ thuật và loại hình triển khai nghiên cứu. Xuất phát từ yêu cầu đó, trong khuôn khổ những hạn chế về nguồn lực và thời gian cuộc nghiên cứu - khảo sát đã được thực hiện trên phạm vi 8 tỉnh đại diện cho 8 vùng sinh thái. Sự lựa chọn này vừa khả thi vừa bảo đảm tính khoa học. Trên thực tế, nhóm đề tài đã triển khai mọi công đoạn của cuộc khảo sát theo đúng phương án, tiến độ cũng như huy động nhân lực khoa học. 1 - Tây Bắc: Hòa Bình; 2 - Đông Bắc: Lao Cai (địa phương có dự án Truyền thông của UNICEF); 3 - Đồng bằng Sông Hồng: Hưng Yên; 4 - Bắc Trung Bộ: Thanh Hóa; 5 - Duyên hải Nam Trung Bộ: Quảng Ngãi; 6 - Tây Nguyên: Kon Tum (địa phương có dự án Truyền thông của UNICEF); 7 - Đông Nam Bộ: Bình Thuận; 8 - Tây Nam bộ: Đồng Tháp (địa phương có dự án Truyền thông của UNICEF). * Tại mỗi tỉnh chọn 02 huyện và 01 quận/thị xã; mỗi huyện chọn 2 xã; mỗi quận/thị xã chọn 2 phường. Bên cạnh 8 tỉnh đại diện cho các khu vực trên, Hà Nội (địa phương có dự án Truyền thông của UNICEF) và thành phố Hồ Chí Minh cũng là những địa bàn được khảo sát bởi tính chất trọng yếu cũng như những kết quả đã đạt được của hoạt động truyền thông – vận động quyền trẻ em từ trước đến nay. (Tại mỗi thành phố đã chọn 02 quận và 01 huyện). Các huyện/thị xã/quận và xã/phường được chọn đáp ứng tính đại diện cho tỉnh/thành, nghĩa là ở mức trung bình/trung bình tiên tiến của tỉnh/thành. Như vậy, trên phạm vi cả nước, đã điều tra: - 18 huyện và 12 quận/thị xã; Tổng cộng: 30 quận/huyện - 36 xã và 24 phường. Tổng cộng: 60 xã/phường 4. Phương pháp chọn mẫu và quy mô mẫu điều tra 4.1. Phương pháp chọn mẫu - Chọn tỉnh: theo chủ định của nhóm nghiên cứu - Chọn huyện/quận: ngẫu nhiên theo danh sách, có lưu ý đến khoảng cách. 4.2. Quy mô mẫu điều tra a. Phỏng vấn qua bảng hỏi soạn sẵn: Cỡ mẫu đã được thực hiện là (tính chung): - Ông bà\ cha mẹ của trẻ: 3003 mẫu - Trẻ em: 3005 mẫu - Giáo viên: 1022 mẫu Tổng số mẫu định lượng: 7.030 mẫu (Các thống kê, phân tích định lượng trong báo cáo đều dựa trên cơ sở cỡ mẫu này) b. Thực hiện các phỏng vấn sâu, thảo luận nhóm trọng tâm. Đây là một phần việc đòi hỏi có sự giúp đỡ của các cán bộ có nhiều kinh nghiệm nên nhóm đề tài trong quá trình thực hiện hoạt động đã đặc biệt chú ý đến khâu đào tạo, tập huấn và thống nhất bộ công cụ. Kết quả công việc cụ thể này tại địa bàn khảo sát như sau: - Phỏng vấn sâu/ bán cấu trúc:Mỗi tỉnh 10 mẫu + Chủ nhiệm UBDSGDTE tỉnh và 3 huyện/quận (4) + Đại diện UBND (1) + 2 Trẻ em đang đi học và 1 trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn (3) + 1 cán bộ chuyên trách huyện (1) + 1 cộng tác viên tuyến cơ sở (1) Tổng số phỏng vấn bán cấu trúc: 10 mẫu x 10 tỉnh/thành = 100 mẫu - Thảo luận nhóm trọng tâm: Mỗi quận/huyện chọn 1 xã đại diện (mỗi nhóm 10 người); Tại xã/phường đại diện này đã thực hiện 5 thảo luận nhóm, bao gồm: + Nhóm lãnh đạo chính quyền, đoàn thể + Nhóm giáo viên Tiểu học và THCS + Nhóm đoàn thanh niên + Nhóm hộ gia đình và cộng đồng(cha mẹ trẻ) + Nhóm trẻ em (gồm cả trẻ khó khăn) ® Tổng số có 150 thảo luận nhóm. (30 xã/phường x 5 nhóm) Và số người được huy động tham dự là 150 nhómx10 người=1.500 người c. Thực hiện các phỏng vấn chuyên gia, tìm hiểu quan điểm và đánh giá của các tổ chức quốc gia, quốc tế và một số cơ quan truyền thông * Phỏng vấn sâu các chuyên gia am hiểu vấn đề mà đề tài quan tâm. Các chuyên gia này hoặc là nhà nghiên cứu, hoạt động xã hội hoặc công tác ở một số lĩnh vực, bộ, ngành: UBDSGDTE; Bộ Y tế; HLHPN; ĐTNCS HCM, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính, Bộ Lao động Thương binh và xã hội, Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Tư pháp, Toà an, Viện Kiểm sát nhân dân, Hội Bảo trợ trẻ em v.v… * Tìm hiểu quan điểm và đánh giá của một số tổ chức quốc tế về vấn đề quan tâm của đề tài (cán bộ chương trình của UNICEF/Plan/SCUK/Wolrd Vision, RaddaBarnen, Teer des homes…). * Tìm hiểu quan điểm và đánh giá của một số cơ quan truyền thông (báo/truyền hình/phát thanh) về vấn đề đề tài quan tâm: Báo Nhân dân, Thông tấn xã Việt Nam, trang Web Đảng cộng sản, báo Gia đình và Xã hội, báo Tiền phong, báo Thiếu niên tiền phong, báo Nhi đồng, báo Hoa học trò, Tạp chí Gia đình và Trẻ em, Truyền hình Vì Trẻ em, Phát thanh thiếu nhi (Đài TNVN) … Tổng cộng: 30 ca phỏng vấn chuyên gia 5. Phương pháp thu thập thông tin và xử lý thông tin 5.1. Thu thập thông tin. Bên cạnh việc thu thập các báo cáo, thông tin - số liệu và phân tích các tài liệu có sẵn về tình hình thực hiện công tác Dân số, Gia đình và Trẻ em ở cộng đồng do các địa phương và cơ quan trong vùng cung cấp, chúng tôi sẽ sử dụng các phương pháp lấy thông tin qua phỏng vấn Xã hội học kết hợp cả hai phương pháp định tính và định lượng trong việc thu thập và phân tích số liệu. Hai kỹ thuật cơ bản được sử dụng là phỏng vấn sâu (Semi-structured indepth interview) và phỏng vấn bằng bảng hỏi (Structured interview) nhằm mục đích vừa đo được mối tương quan và tác động giữa các biến số trong mô hình thống kê, vừa thu được các thông tin chiều sâu để giải thích tốt hơn các kết quả thu thập được. Phương pháp thu thập thông tin hồi cố về các sự kiện, biến cố về truyền thông, vận động, tiếp nhận thông tin đã xảy ra trong quá khứ (Retrospective) đòi hỏi các điều tra viên phải được huấn luyện kỹ lưỡng, tuân thủ nghiêm ngặt quá trình khảo sát, cũng như được trang bị các kiến thức về tâm lý, xã hội học cần thiết cho việc tiếp xúc đối tượng. 5.2. Xử lý thông tin - Xử lý các thông tin định lượng từ các bảng hỏi dựa trên phần mềm SPSS 11.5. - Tính toán định lượng theo tần suất và tương quan đa chiều; - Xử lý các thông tin định tính theo phương pháp phần mềm Haperresearch. - Dùng phương pháp so sánh cùng hạng. - Dùng phương pháp so sánh khác nhóm với cùng một tiêu chí so sánh. PHỤ LỤC 2 CÔNG ƯỚC CỦA LIÊN HỢP QUỐC VỀ QUYỀN TRẺ EM Điều 1: Định nghĩa trẻ em: Trẻ em được xác định là người dưới 18 tuổi, trừ khi Luật pháp quốc gia công nhận tuổi thành niên sớm hơn. Điều 2: Không phân biệt đối xử: Tất cả các quyền đều áp dụng cho tất cả trẻ em mà không có ngoại lệ. Chính Nhà nước có nghĩa vụ bảo vệ trẻ em chống lại bất kỳ hình thức phân biệt đối xử nào và có nhữngbiện pháp tích cực để đẩy mạnh quyền trẻ em. Điều 3: Lợi ích tốt nhất của trẻ em: Tất cả các hành động có liên quan đến trẻ em cần tính đến đầy đủ lợi ích tốt nhất của trẻ em. Nhà nước phải đem lại cho trẻ em sự chăm sóc đầy đủ trong trường hợp cha mẹ hoặc những người khác có trách nhiệm không làm được việc ấy. Điều 4: Thực hiện các quyền: Nhà nước phải làm hết sức mình để thực hiện các quyền được nêu ra trong công ước. Điều 5: Hướng dẫn của cha mẹ và phát triển các năng lực của trẻ em: Nhà nước phải tôn trọng các quyền và trách nhiệm của cha mẹ và các thành viên trong gia đình mở rộng, để hướng dẫn trẻ em một cách phù hợp với sự phát triển năng lực của các em. Điều 6: Sống còn và phát triển: Mọi trẻ em có quyền cố hữu được sống và Nhà nước có nghĩa vụ bảo đảm sự tồn tại và phát triển của trẻ em. Điều 7: Họ tên và quốc tịch: Trẻ em có quyền được có họ tên khi ra đời. Trẻ em cũng có quyền mang một quốc tịch và trong chừng mực có thể, được biết cha mẹ mình và được cha mẹ chăm sóc. Điều 8: Duy trì bản sắc: Nhà nước có nghĩa vụ bảo vệ, và nếu cần thiết phục hồi những nét cơ bản trong bản sắc của trẻ em. Điều này bao gồm họ tên, quốc tịch và quan hệ gia đình. Điều 9: Cách ly với cha mẹ: Trẻ em có quyền sống với cha mẹ, trừ khi việc này không thích hợp với lợi ích tốt nhất của các em. Trẻ em cũng có quyền duy trì tiếp xúc với cả cha mẹ và nếu sống xa một người hay cả hai người. Điều 10: Đoàn tụ gia đình: Trẻ em và cha mẹ có quyền rời khỏi bất kỳ nước nào cũng như trở về đất nước của mình nhằm đoàn tụ gia đình hoặc duy trì quan hệ giữa con cái với cha mẹ. Điều 11: Đưa đi bất hợp pháp và không mang trở về: Nhà nước có nghĩa vụ phòng ngừa và giải cứu việc bắt cóc hay giữ lại trẻ em ở nước ngoài bởi cha hoặc mẹ hay một bên thứ ba. Điều 12: Ý kiến của trẻ em: Trẻ em có quyền tự do bày tỏ ý kiến của mình và ý kiến của trẻ em phải được xem xét trong mọi vấn đề hoặc thủ tục ảnh hưởng đến trẻ em. Điều 13: Tự do ngôn luận: Trẻ em có quyền bày tỏ các quan điểm của mình, thu nhận thông tin và làm cho người khác biết đến các ý kiến và thông tin, bất kể sự cách biệt giữa các nước. Điều 14: Tự do tư tưởng, tín ngưỡng và tôn giáo: Nhà nước phải tôn trọng quyền của trẻ em được tự do tư tưởng, tín ngưỡng và tôn giáo theo sự hướng dẫn thích hợp của cha mẹ. Điều 15: Tự do kết giao: Trẻ em có quyền gặp gỡ những trẻ em khác, gia nhập hoặc lập hội. Điều 16: Bảo vệ sự riêng tư: Trẻ em có quyền được bảo vệ chống lại sự can thiệp vào đời tư, vào gia đình, nơi ở và thư tín của các em, chống lại những điều nói xấu và vu cáo. Điều 17: Được tiếp xúc với thông tin thích hợp: Nhà nước phải đảm bảo cho trẻ em được tiếp xúc với những thông tin và tài liệu có xuất xứ từ các nguồn khác nhau, phải khuyến khích các phương tiện thông tin đại chúng truyền bá những thông tin có lợi ích về xã hội và văn hoá đối với trẻ em, Nhà nước phải có những biện pháp bảo vệ trẻ em chống lại những tài liệu nguy hại. Điều 18: Trách nhiệm của cha mẹ: Cha mẹ có trách nhiệm hàng đầu trong việc nuôi dạy con cái và Nhà nước phải giúp họ thực hiện trách nhiệm ấy. Nhà nước phải giúp đỡ một cách thích hợp cha mẹ trong việc nuôi dạy con cái. Điều 19: Bảo vệ chống lại sự lạm dụng và sao nhãng: Nhà nước phải bảo vệ trẻ em chống lại tất cả các hình thức ngược đãi của cha mẹ hay của những người khác chịu trách nhiệm chăm sóc trẻ em và phải lập ra những chương trình xã hội thích hợp để ngăn ngừa sự lạm dụng và điều trị cho nạn nhân. Điều 20: Bảo vệ trẻ em không gia đình: Nhà nước có nghĩa vụ bảo vệ đặc biệt trẻ em bị tước đoạt môi trường gia đình và bảo đảm cho trẻ em được hưởng một sự chăm sóc thích hợp, thay thế cho sự chăm sóc của gia đình, hoặc có những cơ sở nuôi dạy trong các trường hợp này. Các cố gắng liên quan đến việc thực hiện nghĩa vụ này phải quan tâm thích đáng đến hoàn cảnh văn hoá của trẻ em. Điều 21: Cho nhận con nuôi: Tại những nước được phép cho nhận con nuôi, việc này chỉ được thực hiện vì lợi ích tốt nhất của trẻ em và chỉ với sự cho phép của nhà chức trách có thẩm quyền với các đảm bảo cần thiết cho trẻ em. Điều 22: Trẻ em tị nạn: Phải bảo vệ đặc biệt trẻ em tị nạn hoặc những trẻ em tìm kiếm quy chế tị nạn. Chính Nhà nước có nghĩa vụ cộng tác với các tổ chức cơ quyền thực hiện việc bảo vệ và giúp đỡ đó. Điều 23: Trẻ em tàn tật: Trẻ em tàn tật có quyền được chăm sóc, giáo dục và đào tạo đặc biệt để giúp các em có cuộc sống trọn vẹn, đầy đủ trong phẩm giá nhằm đạt được một mức độ tự lập và hoà nhập vào xã hội ở mức lớn nhất có thể. Điều 24: Sức khoẻ vàơẻ sở chăm sóc sức khoẻ: Trẻ em có quyền được hưởng tình trạng sức khoẻ cao nhất có thể có và được chăm sóc về y tế. Nhà nước phải đặc biệt chú trọng đến việc chăm sóc sức khoẻ ban đầu và phòng bệnh, đến giáo dục sức khoẻ và hạ thấp tỷ lệ tử vong ở trẻ em. Nhà nước phải khuyến khích hợp tác quốc tế về mặt này và cố gắng đảm bảo không một trẻ em nào bị tước đoạt quyền được hưởng những dịch vụ hiệu quả về chăm sóc sức khoẻ. Điều 25: Định kỳ xem xét nơi gửi trẻ: Trẻ em được Nhà nước sắp xếp đến ở một nơi nào đó vì lý do chăm sóc, bảo vệ hay chữa trị thì có quyền được xem xét lại việc gửi này theo định kỳ. Điều 26: An toàn xã hội: Trẻ em có quyền được hưởng an toàn xã hội, trong đó có bảo hiểm xã hội. Điều 27: Mức sống: Mọi trẻ em có quyền được có mức sống thích hợp cho sự phát triển thể chất, trí tuệ, tinh thần, đạo đức và xã hội của mình. Cha mẹ có trách nhiệm hàng đầu trong việc bảo đảm cho trẻ em được hưởng mức sống ấy. Nhà nước có nhiệm vụ này được thực hiện. Trách nhiệm của Nhà nước có thể bao gồm giúp đỡ vật chất cho cha mẹ và con cái. Điều 28: Giáo dục: Trẻ em có quyền được học tập và Nhà nước có nghĩa vụ bảo đảm rằng giáo dục tiểu học là bắt buộc và miễn phí, khuyến khích tổ chức những hình thức khác nhau của giáo dục trung học đến được với mọi trẻ em và làm cho giáo dục đại học có được với mọi người trên cơ sở khả năng. Kỷ luật nhà trường phải tôn trọng các quyền và nhân phẩm của trẻ em. Nhà nước phải tham gia hợp tác quốc tế để thực hiện quyền này. Điều 29: Mục tiêu giáo dục: Giáo dục phải nhằm phát triển nhân cách, tài năng, các khả năng tinh thần và thể chất của trẻ em đến mức cao nhất. Giáo dục phải chuẩn bị cho trẻ em một cuộc sống tích cực ở tuổi người lớn trong một xã hội tự do và khuyến khích trẻ em lòng kính trọng cha mẹ, bản sắc, văn hoá, ngôn ngữ và các giá trị của mình cũng như nguồn gốc văn hoá và các giá trị của người khác. Điều 30: Trẻ em các dân tộc thiểu số hay bản địa: Trẻ em thuộc những cộng đồng thiểu số hoặc những nhóm dân số hoặc những nhóm dân cư bản địa có quyền được hưởng đời sống văn hoá của riêng mình, theo tôn giáo của mình và sử dụng ngôn ngữ riêng của mình. Điều 31: Vui chơi, giải trí và các hoạt động văn hoá: Trẻ em có quyền vui chơi, giải trí và tham gia các hoạt động văn hoá nghệ thuật. Điều 32: Lao động trẻ em: Trẻ em có quyền được bảo vệ không phải làm những công việc gây tổn hại đến sức khoẻ, giáo dục và sự phát triển của các em. Nhà nước phải ấn định tối thiểu cho việc tuyển bộ lao động và qui định những điều kiện lao động. Điều 33: Lạm dụng ma tuý: Trẻ em có quyền bảo vệ chống lại việc sử dụng các chất hướng thần và ma tuý, và chống lại việc huy động tham gia vào việc sản xuất và phân phát chất này. Điều 36 Những hình thức bóc lột khác: Trẻ em có quyền được bảo vệ chống lại tất cả các hình thức bóc lột gây nguy hại đến bất kỳ phương diện nào của phúc lợi trẻ em dù không được nói đến trong các điều 32, 33, 34 và 35. Điều 34: Bóc lột tình dục: Nhà nước phải bảo vệ trẻ em chống lại sự lạm dụng và bóc lột tình dục, kể cả mại dâm và việc trẻ em liên quan đến văn hoá phẩm khiêu dâm. Điều 35: Chống buôn bán và bắt cóc: Trách nhiệm của Nhà nước là phải làm hết sức mình để ngăn ngừa việc buôn bán và bắt cóc trẻ em. Điều 37: Không một trẻ em nào bị tra tấn, trừng phạt và đối xử tàn bạo, bắt bớ và giam giữ không hợp pháp: Cấm áp dụng án tử hình và tù chung thân cho những tội không có cơ hội phóng thích do những người dưới 18 tuổi phạm phải. Bất kỳ trẻ em nào bị tước đoạt tự do đều phải được giam giữ tách riêng với người lớn trừ phi không nên làm như vậy vì lợi ích tốt nhất của trẻ em. Trẻ em bị giam giữ có quyền được hưởng sự giúp đỡ về pháp lý và các sự giúp đỡ thích hợp khác cũng như duy trì quan hệ với gia đình. Điều 37: Tra tấn và tước đoạt sự tự do: Không một trẻ em nào bị tra tấn, trừng phạt và đối xử tàn bạo, bắt bớ và giam giữ không hợp pháp. Cấm áp dụng án tử hình và tù chung thân cho những tội không có cơ hội phóng thích do những người dưới 18 tuổi phạm phải. Bất kỳ trẻ em nào bị tước đoạt tự do đều phải được giam giữ tách riêng với người lớn trừ phi không nên làm như vậy vì lợi ích tốt nhất của trẻ em. Trẻ em bị giam giữ có quyền được hưởng sự giúp đỡ về pháp lý và các sự giúp đỡ thích hợp khác cũng như duy trì quan hệ với gia đình. Điều 38: Xung đột vũ trang: Các quốc gia thành viên phải áp dụng tất cả các biện pháp có thể để đảm bảo cho trẻ em dưới 15 tuổi không tham gia trực tiếp vào chiến sự. Không tuyển trẻ em dưới 15 tuổi vào quân đội. Các nước cũng đảm bảo việc bảo vệ và chăm sóc những trẻ em bị ảnh hưởng bởi xung đột vũ trang như ghi trong luật pháp quốc tế có liên quan. Điều 39: Chăm sóc phục hồi: Nhà nước có nghĩa vụ bảo đảm rằng những trẻ em là nạn nhân của các xung đột vũ trang, tra tấn, sao nhãng, bóc lột hay ngược đãi, được điều trị thích đáng để phục hội và hội nhập trở lại xã hội. Điều 40: Áp dụng tư pháp với người chưa thành niên: Trẻ em làm trái pháp luật có quyền được đối xử nhằm nâng cao ý thức của các em về nhân phẩm và giá trị cá nhân, có xem xét đến tuổi của các em và nhằm hội nhập các em trở lại xã hội. Trẻ em có quyền được hưởng những đảm bảo cơ bản cũng như sự trợ giúp về pháp lý hoặc các sự trợ giúp khác cho việc bảo vệ mình. Phải tránh sử dụng nếu có thể được những biện pháp tư pháp và đưa trẻ em vào những cơ sở, trung tâm giam giữ. Điều 41 Tôn trọng những tiêu chuẩn cao hơn: Ở đâu có các tiêu chuẩn cao hơn so với các tiêu chuẩn nêu ra trong Công ước được áp dụng trong luật pháp quốc gia và quốc tế liên quan đến quyền trẻ em thì phải tôn trọng những tiêu chuẩn cao hơn. Điều 41: Tôn trọng những tiêu chuẩn cao hơn: Ở đâu có các tiêu chuẩn cao hơn so với các tiêu chuẩn nêu ra trong Công ước được áp dụng trong Luật pháp quốc gia và quốc tế liên quan đến quyền trẻ em thì phải áp dụng những tiêu chuẩn cao hơn đó.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docxNhận thức của người dân Hà Nội về quyền trẻ em.docx
Luận văn liên quan