Những quy định của pháp luật về hoạt động của tổ chức hành nghề luật sư nước ngoài tại Việt Nam

Quy định thứ hai nằm trong Phụ lục: nội dung áp dụng trực tiếp các cam kết của Việt Nam ban hành kèm theo Nghị quyết của Quốc hội số 71/2006/QH11 ngày 29/11/1006 phê chuẩn Nghị định thư gia nhập Tổ chức thương mại thế giới (WTO) của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, gồm bốn hình thức sau: a. Chi nhánh của tổ chức hành nghề luật sư nước ngoài b. Công ty luật trách nhiệm hữu hạn 100% vốn nước ngoài c. Công ty luật trách nhiệm hữu hạn dưới hình thức liên doanh d. Công ty luật hợp danh giữa tổ chức hành nghề luật sư nước ngoài và Công ty luật hợp danh Việt Nam + Cuối cùng là theo khoản 1, Điều 69, Luật Luật sư 2006 quy định ba hình thức: a. Chi nhánh của tổ chức hành nghề luật sư nước ngoài b. Công ty luật trách nhiệm hữu hạn 100% vốn nước ngoài c. Công ty luật trách nhiệm hữu hạn dưới hình thức liên doanh Như vậy, ngoài hai hình thức là Chi nhánh và Công ty luật trách nhiệm hữu hạn 100% vốn nước ngoài được quy định trong cả ba văn bản trên thì hai hình thức còn lại là Công ty luật hợp danh giữa tổ chức hành nghề luật sư nước ngoài và Công ty luật hợp danh Việt Nam và Công ty luật trách nhiệm hữu hạn dưới hình thức liên doanh đều không được quy định trong tất cả ba văn bản. Điều này cho thấy tính thiếu đồng bộ của hệ thống pháp luật và rất cần được khắc phục.

doc80 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 5230 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Những quy định của pháp luật về hoạt động của tổ chức hành nghề luật sư nước ngoài tại Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ờ sau đây : + Bản sao Giấy phép thành lập Tổ chức hành nghề luật sư nước ngoài tại Việt Nam; + Giấy tờ chứng minh về trụ sở của Tổ chức hành nghề luật sư nước ngoài tại Việt Nam. Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận đủ hồ sơ hợp lệ, Sở Tư pháp phải cấp Giấy đăng ký hoạt động cho tổ chức hành nghề luật sư nước ngoài. - Trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày được cấp Giấy đăng ký hoạt động, Tổ chức hành nghề luật sư nước ngoài tại Việt Nam phải đăng báo địa phương hoặc báo trung ương trong ba số liên tiếp; thông báo bằng văn bản cho Đoàn luật sư, cơ quan thuế của địa phương, nơi đặt trụ sở của tổ chức hành nghề luật sư nước ngoài tại Việt Nam về các nội dung chủ yếu sau đây : + Tên gọi, địa chỉ trụ sở của tổ chức hành nghề luật sư nước ngoài tại Việt Nam; + Lĩnh vực hành nghề; +Họ tên của Trưởng Chi nhánh, Giám đốc Công ty luật nước ngoài, Giám đốc Công ty luật hợp danh nước ngoài và Việt Nam 6.2. Thay đổi nội dung Giấy phép thành lập Nghị định 42/CP, Nghị định 92/1998/NĐ-CP và hai Thông tư hướng dẫn của Bộ Tư pháp là Thông tư 791/1995/TT-LSTVPL và Thông tư 08/1999/TT-BTP cho phép tổ chức luật sư nước ngoài được thay đổi Giấy phép đặt Chi nhánh về các nội dung sau: Thay đổi tên gọi Thay đổi trụ sở Thay đổi người đại diện (Trưởng Chi nhánh) Thay đổi danh sách luật sư Thay đổi lĩnh vực hành nghề tư vấn pháp luật Nghị định 87/2003/NĐ-CP chỉ quy định bốn nội dung được thay đổi là tên gọi, trụ sở, Trưởng Chi nhánh, Giám đốc Công ty luật nước ngoài, Giám đốc Công ty luật hợp danh nước ngoài và Việt Nam và lĩnh vực hành nghề. Tổ chức luật sư nước ngoài muốn thay đổi các nội dung trong Giấy phép phải làm đơn xin phép Bộ Tư pháp và chỉ được thay đổi khi có văn bản chấp thuận của Bộ Tư pháp. Trong một thời hạn nhất định kể từ khi văn bản chấp thuận cho thay đổi nội dung Giấy phép của Bộ Tư pháp có hiệu lực, tổ chức luật sư nước ngoài phải đăng ký việc thay đổi tại Sở Tư pháp địa phương nơi đặt trụ sở. 6.3. Gia hạn hoạt động Thủ tục xin gia hạn hoạt động của tổ chức luật sư nước ngoài chỉ được quy định tại Nghị định 42/CP và Nghị định 92/1998/NĐ-CP vì hai văn bản này chỉ cho phép tổ chức luật sư nước ngoài hoạt động với thời hạn là 5 năm và được phép gia hạn hoạt động; Nghị định 87/2003/NĐ-CP không hạn chế thời hạn hoạt động của tổ chức luật sư nước ngoài nên không đặt ra vấn đề gia hạn hoạt động. Thủ tục này bao gồm các bước: Chậm nhất 60 ngày trước khi hết hạn hoạt động, Chi nhánh tổ chức luật sư nước ngoài phải gửi Bộ Tư pháp một bộ hồ sơ gồm: + Đơn xin gia hạn hoạt động + Báo cáo tóm tắt hoạt động của Chi nhánh trong thời gian hoạt động tại Việt Nam. Bộ Tư pháp lấy ý kiến ủy ban nhấn dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương nơi đặt trụ sở Chi nhánh và ra quyết định cho phép hoặc từ chối gia hạn hoạt động của Chi nhánh Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được quyết định của Bộ Tư pháp, Chi nhánh phải đăng ký gia hạn hoạt động với Sở Tư pháp. 6.4. Chấm dứt hoạt động Theo Nghị định 42/CP và Nghị định 92/1998/NĐ-CP, tổ chức luật sư nước ngoài chấm dứt hoạt động trong các trường hợp sau: Hết hạn hoạt động ghi trong Giấy phép mà không được gia hạn Tự chấm dứt hoạt động Bị thu hồi hoặc bị tước quyền sử dụng Giấy phép Tổ chức luật sư nước ngoài được phép đặt Chi nhánh đã chấm dứt hoạt động tại nước nơi tổ chức luật sư đó mang quốc tịch (Nghị định 42/CP không có quy định này). Nghị định 87/2003/NĐ-CP chỉ quy định hai trường hợp chấm dứt hoạt động của tổ chức luật sư nước ngoài là: Tự chấm dứt hoạt động Hoặc bị thu hồi Giấy phép Về thủ tục chấm dứt hoạt động, gồm các bước sau: Đối với trường hợp tự chấm dứt hoạt động, tổ chức luật sư nước ngoài có các nghĩa vụ sau: + Báo cáo Bộ Tư pháp bằng văn bản chậm nhất 60 ngày (Nghị định 42/CP và Nghị định 92/1998/NĐ-CP) hoặc 30 ngày (Nghị định 87/2003/NĐ-CP) trước thời điểm dự kiến chấm dứt hoạt động. + Thanh toán đầy đủ các nghĩa vụ tài chính, các khoản nợ, trả trụ sở, thanh lý hợp đồng lao động, hợp đồng với khách hàng và giải quyết các vấn đề khác liên quan đến việc chấm dứt hoạt động trước thời điểm chấm dứt hoạt động (Nghị định 87/2003/NĐ-CP) hoặc trong thời hạn 90 ngày kể từ ngày chấm dứt hoạt động (Nghị định 42/CP và Nghị định 92/1998/NĐ-CP) Đối với trường hợp bị thu hồi hoặc bị tước quyền sử dụng Giấy phép, tổ chức luật sư nước ngoài phải thanh toán đầy đủ các nghĩa vụ tài chính, các khoản nợ, thanh lý hợp đồng lao động, hợp đồng với khách hàng và báo cáo bằng văn bản cho Bộ Tư pháp, Sở Tư pháp, Đoàn luật sư và cơ quan thuế của địa phương nơi đặt trụ sở về việc hoàn tất thủ tục nói trên; nộp lại Giấy phép cho Bộ Tư pháp, Giấy đăng ký hoạt động cho Sở Tư pháp và nộp con dấu cho cơ quan có thẩm quyền cấp và đăng ký việc sử dụng con dấu (Nghị định 87/2003/NĐ-CP) 6.5. Một số quy định khác Ngoài các thủ tục nói trên, có một số quy định về thủ tục đối với tổ chức luật sư nước ngoài chỉ riêng Nghị định 87/2003/NĐ-CP mới có, đó là: Thủ tục hợp nhất Công ty luật nước ngoài (quy định tại Điều 25 Nghị định 87/2003/NĐ-CP và Điều 7 Thông tư 06/2003/TT-BTP) Thủ tục sáp nhập Công ty luật nước ngoài (quy định tại Điều 26 Nghị định 87/2003/NĐ-CP và Điều 8 Thông tư 06/2003/TT-BTP) Thủ tục tạm ngừng hoạt động đối với tổ chức hành nghề luật sư nước ngoài (quy định tại Điều 27 Nghị định 87/2003/NĐ-CP và Điều 9 Thông tư 06/2003/NĐ-CP) trong hai trường hợp: + Tự quyết định tạm ngừng hoạt động + Bị xử phạt hành chính với hình thức đình chỉ hoạt động có thời hạn: Thủ tục chuyển tiếp đối với Giấy phép: Chi nhánh được cấp Giấy phép theo Nghị định 92/1998/NĐ-CP mà Giấy phép còn hiệu lực thì được tiếp tục hành nghề đến khi Giấy phép hết hiệu lực; sau khi Giấy phép hết hiệu lực mà muốn tiếp tục hành nghề dưới hình thức Chi nhánh thì phải gửi đơn tới Bộ Tư pháp xin đổi lại Giấy phép đặt Chi nhánh, sau đó phải tiến hành lại thủ tục đăng ký hoạt động theo Điều 21, 22 Nghị định 87/2003/NĐ-CP Thủ tục chuyển đổi Chi nhánh thành Công ty luật nước ngoài: tổ chức luật sư nước ngoài phải có hồ sơ xin chuyển đổi gửi Bộ Tư pháp gồm các giấy tờ sau: + Đơn xin chuyển đổi Chi nhánh thành Công ty luật nước ngoài + Bản sao Giấy phép đặt Chi nhánh tại Việt Nam + Điều lệ của Công ty luật nước ngoài + Quyết định cử Giám đốc Công ty luật nước ngoài Bộ Tư pháp sẽ cấp Giấy phép thành lập Công ty luật nước ngoài, sau đó, tổ chức luật sư nước ngoài phải tiến hành thủ tục đăng ký hoạt động, đăng báo theo quy định tại Điều 21, 22 Nghị định 87/2003/NĐ-CP. Trên đây là các quy định về thủ tục hoạt động đối với tổ chức luật sư nước ngoài, bao gồm các thủ tục xin phép hoạt động, đăng ký hoạt động, gia hạn hoạt động, chấm dứt hoạt động và một số thủ tục khác. Có thể nhận xét các thủ tục về xin phép hoạt động, đăng ký hoạt động hay chấm dứt hoạt động theo pháp luật Việt Nam trước đây được quy định khá rõ ràng, không quá phức tạp và không tạo ra nhiều khó khăn cho tổ chức luật sư nước ngoài. 7. Các quyền và nghĩa vụ của tổ chức hành nghề luật sư nước ngoài 7.1. Các quyền của tổ chức hành nghề luật sư nước ngoài Các quyền được quy định chung trong cả ba Nghị định: Được tư vấn pháp luật nước ngoài, pháp luật quốc tế theo các nội dung, lĩnh vực đã được ghi trong Giấy phép Được ký kết hợp đồng hợp tác với tổ chức tư vấn pháp luật Việt Nam để thực hiện việc tư vấn pháp luật Được nhận tiền thù lao trên cơ sở thoả thuận với khách hàng Được thuê lao động Việt Nam, lao động nước ngoài không phải là luật sư. Được nhập khẩu các phương tiện cần thiết cho hoạt động của Chi nhánh theo quy định của pháp luật Chi nhánh, luật sư nước của Chi nhánh được chuyển ra nước ngoài thu nhập từ việc hành nghề tư vấn pháp luật theo quy định của pháp luật Việt Nam. Được nhận công dân Việt Nam có bằng cử nhân luật tập sự hành nghề tư vấn pháp luật tại Chi nhánh Ngoài các quyền trên, Nghị định 87/2003/NĐ-CP có quy định thêm các quyền sau đối với tổ chức luật sư nước ngoài: Được tư vấn pháp luật Việt Nam (trong hai trường nhất định) Được thuê luật sư nước ngoài có Giấy phép hành nghề tại Việt Nam Được thuê luật sư Việt Nam 7.2. Các nghĩa vụ đối với tổ chức luật sư nước ngoài Các nghĩa vụ tài chính Các nghĩa vụ tài chính đối với tổ chức luật sư nước ngoài theo quy định của pháp luật Việt Nam bao gồm các nghĩa vụ nộp thuế và nộp các khoản lệ phí. Nghĩa vụ nộp thuế + Trong giai đoạn Nghị đinh 42/CP có hiệu lực, ngày 23/01/1997, Bộ Tài chính đã ban hành Thông tư số 04/TT-TCT hướng dẫn một số điểm về chính sách thuế đối với Chi nhánh tổ chức luật sư nước ngoài tại Việt Nam. Theo đó, Chi nhánh tổ chức luật sư nước ngoài tại Việt Nam sẽ phải nộp các loại thuế sau: thuế doanh thu (trên cơ sở Luật thuế doanh thu năm 1990, sửa đổi, bổ sung các năm 1993 và 1995), thuế lợi tức (trên cơ sở Luật thuế lợi tức năm 1990, sửa đổi, bổ sung năm 1993), thuế chuyển lợi nhuận ra nước ngoài (trên cơ sở Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam 1988 và các văn bản hướng dẫn thực hiện), thuế môn bài, thuế xuất khẩu, nhập khẩu (nếu có hành vi xuất khẩu, nhập khẩu) và các loại thuế khác theo quy định của pháp luật. + Trong giai đoạn Nghị định 92/1998/NĐ-CP có hiệu lực thi hành, Chi nhánh tổ chức luật sư nước ngoài có nghĩa vụ phải nộp các khoản thuế sau: thuế giá trị gia tăng (trên cơ sở Luật thuế giá trị gia tăng năm 1997, thay thế cho Luật thuế doanh thu, và các văn bản hướng dẫn thi hành), thuế thu nhập doanh nghiệp (trên cơ sở Luật thuế thu nhập doanh nghiệp năm 1997, thay thế cho Luật thuế lợi tức, và các văn bản hướng dẫn thi hành), thuế chuyển lợi nhuận ra nước ngoài (trên cơ sở Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 1996 và các văn bản hướng dẫn thi hành), thuế môn bài, thuế xuất khẩu, nhập khẩu (nếu có hành vi xuất khẩu, nhập khẩu) và các loại thuế khác theo quy định của pháp luật. + Trong giai đoạn Nghị định 87/2003/NĐ-CP có hiệu lực thi hành, Chi nhánh tổ chức luật sư nước ngoài cũng phải nộp các loại thuế tương tự như trên, bao gồm: thuế giá trị gia tăng, thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế chuyển lợi nhuận ra nước ngoài, thuế môn bài, thuế xuất khẩu, nhập khẩu (nếu có hành vi xuất khẩu, nhập khẩu) và các loại thuế khác. Nghĩa vụ nộp các khoản lệ phí Đối với nghĩa vụ này, có hai văn bản hướng dẫn thi hành là Thông tư liên Bộ Tư pháp – Tài chính số 842/LB-TT ngày 21/09/1995 quy định chế độ thu, quản lý, sử dụng lệ phí cấp Giấy phép đặt Chi nhánh của tổ chức luật sư nước ngoài tại Việt Nam, gia hạn hoạt động của Chi nhánh, thay đổi nội dung Giấy phép và Quyết định số 75/2004/QĐ-BTC của Bộ trưởng Bộ Tài chính ngày 16/09/2004 quy định chế độ thu, nộp, quản lý và sử dụng lệ phí cấp Giấy phép thành lập, đăng ký, hành nghề đối với tổ chức luật sư nước ngoài, luật sư nước ngoài tại Việt Nam, thay thế cho Thông tư 842/LB-TT nói trên. Theo quy định của Thông tư 842/LB-TT, tổ chức luật sư nước ngoài sẽ có nghĩa vụ nộp lệ phí khi thực hiện một trong các hành vi sau: + Xin cấp Giấy phép đặt Chi nhánh + Xin gia hạn hoạt động của Chi nhánh + Xin thay đổi nội dung Giấy phép Theo Quyết định 75/2004/QĐ-BTC, tổ chức luật sư nước ngoài có nghĩa vụ nộp lệ phí khi thực hiện một trong các hành vi sau: + Xin cấp Giấy phép thành lập + Đăng ký hoạt động + Xin thay đổi nội dung Giấy phép Các nghĩa vụ khác Các nghĩa vụ được quy định chung trong cả ba Nghị định về hành nghề của tổ chức luật sư nước ngoài tại Việt Nam: + Phải thực hiện chế độ kế toán, thống kê theo quy định của pháp luật Việt Nam về kế toán, thống kê; mở tài khoản bằng tiền nước ngoài và tiền Việt Nam tại một ngân hàng Việt Nam, ngân hàng liên doanh hoặc ngân hàng nước ngoài được phép hoạt động tại Việt Nam và thực hiện mọi khoản thu, chi thông qua các tài khoản đó. + Phải chấp hành nghiêm chỉnh các quy định về quản lý ngoại hối của Việt Nam + Phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại vật chất do lỗi của luật sư của mình gây ra cho khách hàng + Phải mua bảo hiểm nghề nghiệp cho luật sư của mình hành nghề tại Việt Nam theo quy định của pháp luật Việt Nam. + Phải báo cáo bằng văn bản định kỳ 6 tháng và một năm hoặc báo cáo đột xuất theo yêu cầu của cơ quan có thẩm quyền (Bộ Tư pháp và Sở Tư pháp địa phương nơi đặt trụ sở) về tổ chức, hoạt động của mình. Ngoài ra, Nghị định 42/CP và Nghị định 92/1998/NĐ-CP có quy định một số nghĩa vụ khác như: Chi nhánh tổ chức luật sư nước ngoài phải có ít nhất một luật sư làm việc thường xuyên tại Chi nhánh, không được phép thuê luật sư Việt Nam làm việc cho Chi nhánh. Như vậy là Chương 2 đã trình bày toàn bộ các quy định cơ bản đối với hoạt động của tổ chức hành nghề luật sư nước ngoài tại Việt Nam theo các Nghị định 42/CP, Nghị định 92/1998/NĐ-CP, Nghị định 87/2003/NĐ-CP và các văn bản có liên quan. Qua đó, ta phần nào hình dung được sư ra đời, phát triển của chế định về hoạt động của tổ chức hành nghề luật sư nước ngoài tại Việt Nam và cả những điểm còn hạn chế, thiếu sót của chế định này. Trong Chương 3, chúng ta sẽ tiếp tục phân tích các quy định pháp luật hiện hành và so sánh, đối chiếu với các quy định trước đây để có cái nhìn toàn diện nhất về chế định này ở Việt Nam. Chương III. Các quy định pháp luật hiện hành về hoạt động của tổ chức hành nghề luật sư nước ngoài tại việt nam Các quy định pháp luật hiện hành ở Việt Nam điều chỉnh về hoạt động của tổ chức hành nghề luật sư nước ngoài tại Việt Nam gồm có: Các cam kết gia nhập WTO của Việt Nam. Các cam kết của Việt Nam trong khuôn khổ Hiệp hội các quốc gia Đông Nam á (ASEAN) Nghị quyết của Quốc hội số 71/2006/QH11 ngày 29/11/2006 phê chuẩn Nghị định thư gia nhập Hiệp định thành lập Tổ chức thương mại thế giới (WTO) của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam Luật Luật sư số 65/2006/QH11 ngày 29/06/2006 và các văn bản hướng dẫn thi hành Các văn bản pháp luật có liên quan khác Nội dung Chương III được chia làm ba phần: Những quy định về hoạt động của tổ chức hành nghề luật sư nước ngoài theo các cam kết gia nhập WTO của Việt Nam. Các cam kết của Việt Nam về thương mại dịch vụ trong khuôn khổ ASEAN. Những quy định theo Luật Luật sư 2006, các văn bản hướng dẫn thi hành và các văn bản pháp luật có liên quan khác. Nội dung cụ thể như sau: 1. Những quy định về hoạt động của tổ chức hành nghề luật sư nước ngoài theo các cam kết gia nhập WTO của Việt Nam Các cam kết gia nhập WTO của Việt Nam về dịch vụ pháp lý được quy định cụ thể trong Biểu cam kết về dịch vụ, bao gồm các cam kết chung cho tất cả các ngành và phân ngành và các cam kết cụ thể cho từng ngành. Hoạt động của tổ chức hành nghề luật sư nước ngoài tại Việt Nam theo quy định của GATS là hoạt động thương mại dịch vụ theo phương thức “hiện diện thương mại”. Các cam kết chung của Việt Nam đối với phương thức này như sau: Về hạn chế tiếp cận thị trường, Việt Nam cam kết Không hạn chế, ngoại trừ: Trừ khi có quy định khác tại từng ngành, phân ngành cụ thể trong Biểu cam kết, doanh nghiệp nước ngoài được phép thành lập hiện diện thương mại tại Việt Nam dưới các hình thức hợp đồng hợp tác kinh doanh, doanh nghiệp liên doanh, doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài. Các nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài được phép thành lập văn phòng đại diện tại Việt Nam nhưng các văn phòng đại diện không được phép tham gia vào các hoạt động sinh lợi trực tiếp Chưa cam kết việc thành lập chi nhánh, trừ khi có quy định khác tại từng ngành và phân ngành cụ thể của Biểu cam kết Các điều kiện về sở hữu, hoạt động, hình thức pháp nhân và phạm vi hoạt động được quy định tại Giấy phép thành lập hoặc cho phép hoạt động và cung cấp dịch vụ, hoặc các hình thức chấp thuận tương tự khác, của nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài đang hoạt động tại Việt Nam sẽ không bị hạn chế hơn so với mức thực tế tại thời điểm Việt Nam gia nhập WTO. Các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài được cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam cho phép thuê đất để thực hiện dự án đầu tư của mình. Thời hạn thuê đất phải phù hợp với thời hạn hoạt động của các doanh nghiệp này, được quy định trong Giấy phép đầu tư. Thời hạn thuê đất sẽ được gia hạn khi thời gian hoạt động của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài được cơ quan có thẩm quyền gia hạn. Nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài được phép góp vốn dưới hình thức mua cổ phần trong các doanh nghiệp Việt Nam. Trong trường hợp này, tổng mức vốn cổ phần do các nhà đầu tư nước ngoài nắm giữ trong một doanh nghiệp không được vượt quá 30% vốn điều lệ của doanh nghiệp đó, trừ khi pháp luật Việt Nam có quy định khác hoặc cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam cho phép. Một năm sau khi gia nhập, hạn chế 30% cổ phần nước ngoài trong việc mua cổ phần của các doanh nghiệp Việt Nam sẽ được bãi bỏ, ngoại trừ đối với việc góp vốn dưới hình thức mua cổ phần trong các ngân hàng thương mại cổ phần và với những ngành không cam kết trong Biểu cam kết này. Với các ngành và phân ngành đã cam kết, mức cổ phần do các nhà đầu tư nước ngoài nắm giữ khi mua cổ phần tại các doanh nghiệp Việt Nam phải phù hợp với các hạn chế về tỉ lệ tham gia vốn của nước ngoài được quy định trong các ngành và phân ngành đó, bao gồm cả hạn chế dưới dạng thời gian chuyển đổi, nếu có. Về hạn chế đối xử quốc gia, Việt Nam cam kết Không hạn chế, ngoại trừ: Các khoản trợ cấp có thể chỉ dành cho các nhà cung cấp dịch vụ Việt Nam, nghĩa là các pháp nhân được thành lập trên lãnh thổ Việt Nam, hoặc một vùng của Việt Nam. Việc dành trợ cấp một lần để thúc đẩy và tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình cổ phần hoá không bị coi là vi phạm cam kết này. Chưa cam kết đối với các khoản trợ cấp dành cho nghiên cứu và phát triển. Chưa cam kết đối với các khoản trợ cấp trong các ngành y tế, giáo dục và nghe nhìn. Chưa cam kết đối với các khoản trợ cấp nhằm nâng cao phúc lợi và tạo công ăn việc làm cho đồng bào thiểu số. Các cam kết cụ thể của Việt Nam đối với phân ngành dịch vụ pháp lý thuộc nhóm ngành các dịch vụ kinh doanh, phương thức “hiện diện thương mại” như sau: Về hạn chế tiếp cận thị trường, Việt Nam cam kết: Tổ chức luật sư nước ngoài được phép thành lập hiện diện thương mại tại Việt Nam dưới các hình thức sau: Chi nhánh của tổ chức luật sư nước ngoài Công ty con của tổ chức luật sư nước ngoài Công ty luật nước ngoài Công ty hợp danh giữa tổ chức luật sư nước ngoài và công ty luật hợp danh Việt Nam Hiện diện thương mại của tổ chức luật sư nước ngoài được phép tư vấn luật Việt Nam nếu luật sư tư vấn đã tốt nghiệp đại học luật của Việt Nam và đáp ứng được các yêu cầu áp dụng cho luật sư hành nghề tương tự của Việt Nam. Về hạn chế đối xử quốc gia, Việt Nam cam kết: Không hạn chế. 2. Các cam kết của Việt Nam về thương mại dịch vụ trong khuôn khổ ASEAN Trong khuôn khổ Hiệp hội các quốc gia Đông Nam á (ASEAN), Việt Nam đã tham gia ký kết hai Hiệp định có liên quan tới lĩnh vực thương mại dịch vụ là Hiệp định khung ASEAN về dịch vụ năm 1995 và Hiệp định khung về tăng cường hợp tác kinh tế ASEAN năm 1998. Trong đó, Hiệp định khung ASEAN về dịch vụ điều chỉnh các nội dung cụ thể về lĩnh vực thương mại dịch vụ và các quy định cụ thể của Hiệp định này như sau: - Về mục tiêu: quy định tại Điều I, gồm 2 nhóm mục tiêu chính sau: + Tăng cường hợp tác trong lĩnh vực dịch vụ giữa các quốc gia thành viên nhằm nâng cao tính hiệu quả và cạnh tranh, tăng cường năng lực của các nhà cung ứng dịch vụ trong và ngoài ASEAN. + Tự do hoá thương mại dịch vụ bằng cách mở rộng chiều sâu và phạm vi tự do hoá vượt trên các cam kết mà các quốc gia thành viên đã cam kết tại GATS nhằm tạo ra một khu vực thương mại dịch vụ tự do. - Về lĩnh vực hợp tác: gồm bốn nhóm lĩnh vực chủ yếu sau: + Xây dựng và cải tiến cơ sở hạ tầng + Các thoả thuận về sản xuất, tiếp thị, mua bán + Nghiên cứu phát triển + Trao đổi thông tin - Về phưong thức thực hiện: các quốc gia thành viên sẽ cùng nhau đàm phán về các biện pháp ảnh hưởng đến thương mại. Kết quả của việc đàm phán này là mỗi quốc gia phải đưa ra một danh mục các cam kết cụ thể đối với từng lĩnh vực (và các cam kết này phải vượt trên các cam kết trong khuôn khổ GATS của quốc gia thành viên đó). Ngoài ra, các quốc gia thành viên có thể công nhận lẫn nhau về trình độ giáo dục, bằng cấp, giấy chứng nhận, Giấy phép trên cơ sở các thoả thuận hoặc Hiệp định. Như vậy, Hiệp định khung ASEAN về dịch vụ có ba điểm đáng lưu ý sau: * Thứ nhất, không chỉ nhằm đẩy mạnh tự do hoá thương mại dịch vụ, Hiệp định còn đề cao mục đích tăng cường hợp tác giữa các nước trong khu vực về lĩnh vực thương mại dịch vụ. * Thứ hai, về phạm vi, Hiệp định yêu cầu các quốc gia phải mở cửa thị trường dịch vụ sâu rộng hơn so với phạm vi các cam kết mở cửa thị trường mà quốc gia đó đã cam kết trong GATS. * Thứ ba, về phương thức, tương tự như WTO, Hiệp định cũng áp dụng phương thức đàm phán để đưa ra danh mục các cam kết cụ thể, 3. Những quy định theo Luật Luật sư 2006, các văn bản hướng dẫn thi hành và các văn bản pháp luật có liên quan khác Phần này sẽ phân tích các quy định của Luật Luật sư 2006, các văn bản hướng dẫn thi hành và các văn bản pháp luật có liên quan khác theo các tiêu chí tương tự như các tiêu chí đã phân tích đối với các Nghị định 42/CP, Nghị định 92/1998/NĐ-CP, Nghị định 87/2003/NĐ-CP và có bổ sung thêm các quy định mới ban hành. 3.1. Về khái niệm “Tổ chức hành nghề luật sư nước ngoài”, “Luật sư nước ngoài” Luật Luật sư 2006, Nghị định 28/2007/NĐ-CP ngày 26/02/2007 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Luật sư (sau đây sẽ gọi là Nghị định 28/2007/NĐ-CP), Thông tư 02/2007/TT-BTP ngày 25/04/2007 hướng dẫn một số quy định của Luật Luật sư, Nghị định quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luât Luật sư (sau đây sẽ gọi là Thông tư 02/2007/TT-BTP) đều không quy định khái niệm về “Tổ chức hành nghề luật sư nước ngoài” cũng như “Luật sư nước ngoài”. Hai yếu tố “được thành lập hợp pháp” và “đang hoạt động hợp pháp” ở nước ngoài theo các khái niệm trước đây đã được chuyển thành các điều kiện hành nghề đối với tổ chức hành nghề luật sư nước ngoài. Như vậy, có thể thấy quan điểm lập pháp của Luật Luật sư 2006 đã có nhiều thay đổi so với các văn bản trước đó, cụ thể là ở việc bỏ bớt các quy định không cần thiết. 3.2. Các quy định về bảo đảm đầu tư đối với tổ chức hành nghề luật sư nước ngoài Luật Luật sư 2006 không có một điều khoản riêng quy định về vấn đề bảo đảm đầu tư đối với tổ chức hành nghề luật sư nước ngoài mà chỉ quy định tại điểm đ và e, khoản 1, Điều 73 về các quyền của tổ chức hành nghề luật sư nước ngoài. Các biện pháp bảo đảm đầu tư cụ thể được quy định tại “Chương II – Bảo đảm đầu tư” của Luật Đầu tư 2005 bao gồm: - Bảo đảm về vốn và tài sản: không bị quốc hữu hóa, không bị tịch thu bằng biện pháp hành chính, trong trường hợp bị trưng mua, trưng dụng thì được thanh toán hoặc bồi thường theo giá thị trường. - Bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ theo quy định của pháp luật về sở hữu trí tuệ. - Bảo đảm mở cửa thị trường phù hợp với lộ trình đã cam kết, xoá bỏ các hạn chế về tiếp cận thị trường. - Bảo đảm quyền chuyển vốn và tài sản ra nước ngoài - Các biện pháp bảo đảm về môi trường đầu tư (ổn định chính sách, pháp luật, giải quyết tranh chấp) Như vậy, Luật Luật sư 2006 đã thực hiện đúng chức năng của nó là chỉ quy định các vấn đề chuyên môn đối với hoạt động luật sư, không dẫm chân lên các quy định của pháp luật về đầu tư như các văn bản trước đây. Hơn nữa, các biện pháp bảo đảm đầu tư theo Luật Đầu tư 2005 đã được mở rộng, đầy đủ và cụ thể hơn trước rất nhiều. 3.3. Về nguyên tắc hành nghề Luật Luật sư quy định nguyên tắc hành nghề chung cho luật sư, tổ chức hành nghề luật sư trong nước cũng như nước ngoài tại Điều 5 như sau: Tuân thủ Hiến pháp và pháp luật Tuân theo quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp luật sư Độc lập, trung thực, tôn trọng sự thật khách quan Sử dụng các biện pháp hợp pháp để bảo vệ tốt nhất quyền, lợi ích hợp pháp của khách hàng. Chịu trách nhiệm trước pháp luật về hoạt động nghề nghiệp luật sư 3.4. Về điều kiện hành nghề Các quy định về điều kiện hành nghề của Luật Luật sư 2006 đã được đơn giản hoá đi rất nhiều so với trước đây, chỉ bao gồm hai điều kiện cơ bản quy định tại Điều 68: Thứ nhất, tổ chức luật sư nước ngoài phải “đã được thành lập” và “đang hành nghề luật sư hợp pháp” tại nước ngoài Thứ hai, phải tôn trọng Hiến pháp và pháp luật của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Nhiều hạn chề về điều kiện hành nghề theo các quy định trước đây đã bị bãi bỏ. Đây là một thay đổi quan trọng của Luật Luật sư 2006, bởi với việc gia nhập tổ chức thương mại thế giới WTO, Việt Nam đã cam kết mở cửa thị trường dịch vụ và các quy định mang tính chất rào cản thương mại trước đây liên quan đến điều kiện hành nghề của tổ chức luật sư nước ngoài cần phải được xoá bỏ. 3.5. Về hình thức hành nghề Theo cam kết cụ thể của Việt Nam về phân ngành dịch vụ pháp lý, tổ chức hành nghề luật sư nước ngoài được phép hành nghề tại Việt Nam dưới bốn hình thức sau: Chi nhánh của tổ chức luật sư nước ngoài Công ty con của tổ chức luật sư nước ngoài Công ty luật nước ngoài Công ty hợp danh giữa tổ chức hành nghề luật sư nước ngoài và công ty luật hợp danh Việt Nam Theo Phụ lục, nội dung áp dụng trực tiếp các cam kết của Việt Nam ban hành kèm theo Nghị quyết của Quốc hội số 71/2006/QH11 ngày 29/11/2006 phê chuẩn Nghị định thư gia nhập Tổ chức thương mại thế giới (WTO) của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các hình thức hành nghề của tổ chức hành nghề luật sư nước ngoài tại Việt Nam gồm có: Chi nhánh của tổ chức hành nghề luật sư nước ngoài Công ty luật trách nhiệm hữu hạn 100% vốn nước ngoài Công ty luật trách nhiệm hữu hạn dưới hình thức liên doanh Công ty luật hợp danh giữa tổ chức hành nghề luật sư nước ngoài và công ty luật hợp danh Việt Nam Theo khoản 1, Điều 69, Luật Luật sư 2006, tổ chức hành nghề luật sư nước ngoài được phép hành nghề tại Việt Nam dưới các hình thức sau: Chi nhánh của tổ chức hành nghề luật sư nước ngoài Công ty luật trách nhiệm hữu hạn 100% vốn nước ngoài Công ty luật trách nhiệm hữu hạn dưới hình thức liên doanh Như vậy, ba văn bản thì có ba quy định khác nhau. Đây là một vấn đề cần xem xét. Tuy vậy, cũng có thể nhận xét là so với các quy định trước đây, các quy định hiện hành đã mở rộng hơn về hình thức hành nghề của tổ chức hành nghề luật sư nước ngoài, cụ thể là mới thêm loại hình Công ty trách nhiệm hữu hạn, không bó buộc các tổ chức hành nghề luật sư nước ngoài ở các hình thức hành nghề mang tính chất chịu trách nhiệm vô hạn như trước đây. Quy định này cũng tạo thêm thuận lợi cho các tổ chức hành nghề luật sư nước ngoài. 3.6. Về phạm vi hành nghề Phạm vi hành nghề của tổ chức hành nghề luật sư nước ngoài được quy định tại cam kết cụ thể đối với phân ngành dịch vụ pháp lý và Điều 70, Luật Luật sư 2006 với các nội dung chủ yếu sau: Tổ chức hành nghề luật sư nước ngoài được phép tư vấn pháp luật và thực hiện các dịch vụ pháp lý khác Được cử luật sư Việt Nam hoặc luật sư nước ngoài đã tốt nghiệp đại học luật của Việt Nam và đáp ứng được các điều kiện hành nghề luật sư của Việt Nam trong tổ chức hành nghề của mình tư vấn pháp luật Việt Nam. Về lĩnh vực tham gia tố tụng: không được cử luật sư nước ngoài tham gia tố tụng với tư cách là người bào chữa, người bảo vệ quyền lợi của đương sự, người đại diện, người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự trước cơ quan tiến hành tố tụng Việt Nam; được cử luật sư Việt nam trong tổ chức hành nghề của mình tham gia tố tụng với tư cách là người đại diện, người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự cho khách hàng trước Toà án Việt Nam đối với các vụ, việc mà tổ chức hành nghề luật sư nước ngoài thực hiện tư vấn pháp luật, trừ vụ án hình sự. Vậy là, nhìn lại các quy định trước đây, nếu như Nghị định 42/CP và Nghị định 92/1998/NĐ-CP đóng khung hoạt động của các tổ chức hành nghề luật sư nước ngoài trong việc tư vấn pháp luật nước ngoài, pháp luật quốc tế trong các lĩnh vực kinh doanh, đầu tư, thương mại, đến Nghị định 87/2003/NĐ-CP, việc các tổ chức luật sư nước ngoài được phép tư vấn pháp luật Việt Nam, tuy vẫn có những ràng buộc, nhưng cũng đã được coi là một sự thay đổi cực kỳ quan trọng. Đến nay, phạm vi hoạt động của tổ chức hành nghề luật sư nước ngoài lại một lần nữa được nới rộng, có thể nói là đã thông thoáng hơn rất nhiều. Với những quy định hiện hành thì tổ chức hành nghề luật sư trong nước được phép làm gì thì tổ chức hành nghề luật sư nước ngoài cũng có thể làm nấy, chỉ trừ việc tham gia tố tụng trong các vụ án hình sự. Quan trọng hơn, tổ chức hành nghề luật sư nước ngoài đã có thể thực hiện dịch vụ trọn gói (bao gồm cả hoạt động tư vấn lẫn hoạt động tham gia tố tụng nếu phát sinh tranh chấp) đối với các hợp đồng thương mại, đầu tư, sở hữu trí tuệ…, lĩnh vực chiếm ưu thế của họ. Có lẽ đây là sự thay đổi mà các tổ chức hành nghề luật sư nước ngoài mong đợi nhất ở Luật Luật sư 2006. 3.7. Thủ tục xin cấp Giấy phép thành lập, đăng ký hoạt động, thay đổi nội dung Giấy phép thành lập, Giấy đăng ký hoạt động; thủ tục sáp nhập, hợp nhất Công ty luật nước ngoài; quy định về tạm ngừng hoạt động, chấm dứt hoạt động và các quy định chuyển tiếp đối với tổ chức hành nghề luật sư nước ngoài 3.7.1. Thủ tục xin cấp Giấy phép thành lập, đăng ký hoạt động, đăng báo, thông báo về việc thành lập tổ chức hành nghề luật sư nước ngoài Thủ tục xin cấp Giấy phép thành lập: quy định tại Điều 78, Luật Luật sư 2006 Tổ chức hành nghề luật sư nước ngoài phải gửi một bộ hồ sơ xin cấp Giấy phép thành lập Chi nhánh, Công ty luật nước ngoài đến Bộ Tư pháp. Trong thời hạn 60 ngày kể từ ngày nhận đủ hồ sơ và lệ phí, Bộ Tư pháp xem xét cấp Giấy phép thành lập Chi nhánh, Công ty luật nước ngoài; trường hợp từ chối phải thông báo bằng văn bản Hồ sơ thành lập Chi nhánh gồm có: Đơn đề nghị thành lập Chi nhánh Bản sao giấy tờ chứng minh việc thành lập hợp pháp của tổ chức hành nghề luật sư nước ngoài do cơ quan, tổ chức có thẩm quyền nước ngoài cấp. Bản giới thiệu về hoạt động của tổ chức hành nghề luật sư nước ngoài Danh sách luật sư nước ngoài dự kiến làm việc tại Chi nhánh Quyết định cử luật sư làm Trưởng Chi nhánh Hồ sơ xin thành lập Công ty luật nước ngoài gồm có: Đơn đề nghị thành lập Công ty luật nước ngoài Bản sao giấy tờ chứng minh việc thành lập hợp pháp của tổ chức hành nghề luật sư nước ngoài do cơ quan, tổ chức có thẩm quyền nước ngoài cấp; bản sao Giấy đăng ký hoạt động của tổ chức hành nghề luật sư Việt Nam đối với hình thức liên doanh. Bản giới thiệu về hoạt động của tổ chức hành nghề luật sư nước ngoài; bản giới thiệu về hoạt động của tổ chức hành nghề luật sư Việt Nam đối với hình thức liên doanh. Danh sách luật sư nước ngoài dự kiến làm việc tại Công ty; danh sách luật sư Việt Nam dự kiến làm việc tại Công ty kèm theo bản sao Chứng chỉ hành nghề luật sư, bản sao Thẻ luật sư. Dự thảo Điều lệ Công ty luật nước ngoài; hợp đồng liên doanh đối với hình thức liên doanh Thủ tục đăng ký hoạt động, đăng báo, thông báo về việc thành lập tổ chức hành nghề luật sư nước ngoài: quy định tại Điều 79 Luật Luật sư và Điều 18, Nghị định 28/2007/NĐ-CP Về đăng ký hoạt động, trong thời hạn 60 ngày kể từ ngày được cấp Giấy phép thành lập, tổ chức hành nghề luật sư nước ngoài phải nộp hồ sơ đăng ký hoạt động tại Sở Tư pháp địa phương nơi đặt trụ sở, gồm có: Bản sao Giấy phép thành lập Chi nhánh, Công ty luật nước ngoài Giấy tờ chứng minh về trụ sở Trong thời hạn 10 ngày làm việc, Sở Tư pháp cấp Giấy đăng ký hoạt động cho tổ chức hành nghề luật sư nước ngoài Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày được cấp Giấy đăng ký hoạt động, tổ chức hành nghề luật sư nước ngoài phải đăng báo địa phương hoặc báo Trung ương trong ba số liên tiếp, phải thông báo bằng văn bản cho Đoàn luật sư, cơ quan thuế địa phương nơi đặt trụ sở về các nội dung chủ yếu sau: Tên gọi, địa chỉ trụ sở tổ chức hành nghề luật sư nước ngoài Lĩnh vực hành nghề Họ tên Trưởng Chi nhánh, Giám đốc Công ty luật nước ngoài. 3.7.2. Thay đổi nội dung Giấy phép thành lập, Giấy đăng ký hoạt động: quy định tại Điều 80 Luật Luật sư Tổ chức luật sư nước ngoài muốn thay đổi một trong các nội dung sau đây của Giấy phép thành lập thì phải làm đơn gửi Bộ Tư pháp và chỉ được thay đổi khi có sự chấp thuận của Bộ Tư pháp: Tên Chi nhánh, Công ty luật nước ngoài Thay đổi trụ sở từ tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương này sang tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương khác. Trưởng Chi nhánh, Giám đốc Công ty luật nước ngoài Lĩnh vực hành nghề Trong thời hạn 30 ngày kể từ khi nhận được văn bản chấp thuận của Bộ Tư pháp, tổ chức luật sư nước ngoài phải đăng ký việc thay đổi tại Sở Tư pháp địa phương nơi đặt trụ sở. Trong trường hợp thay đổi nội dung Giấy đăng ký hoạt động, tổ chức hành nghề luật sư nước ngoài được cấp lại Giấy đăng ký hoạt động. 3.7.3. Thủ tục sáp nhập, hợp nhất Công ty luật nước ngoài: quy định tại Điều 19, 20 Nghị định 28/2007/NĐ-CP Hai hay nhiều Công ty luật nước ngoài muốn hợp nhất thành một Công ty luật nước ngoài mới phải gửi hồ sơ xin phép đến Bộ Tư pháp gồm có: đơn xin hợp nhất, hợp đồng hợp nhất và hợp đồng thành lập Công ty mới. Trong thời hạn 10 ngày, Bộ Tư pháp cấp Giấy phép thành lập Công ty luật nước ngoài mới hoặc thông báo từ chối bằng văn bản. Công ty luật nước ngoài mới sau đó phải thực hiện các thủ tục đăng ký hoạt động, đăng báo, thông báo như phần trên. Một hoặc nhiều Công ty luật nước ngoài có thể sáp nhập vào một Công ty luật nước ngoài khác. Các bên liên quan phải chuẩn bị hợp đồng sáp nhập; Công ty luật nước ngoài nhận sáp nhập không phải đăng ký hoạt động mà chỉ làm thủ tục thay đổi nội dung Giấy phép theo Điều 80 Luật Luật sư. 3.7.4. Quy định về tạm ngừng hoạt động, chấm dứt hoạt động: Điều 21, 22 Nghị định 28/2007/NĐ-CP Các trường hợp tạm ngừng hoạt động và nghĩa vụ của tổ chức luật sư nước ngoài: Tự quyết định tạm ngừng hoạt động Bị xử phạt vi phạm hành chính với hình thức đình chỉ hoạt động có thời hạn Tổ chức hành nghề luật sư nước ngoài có nghĩa vụ thông báo bằng văn bản cho Bộ Tư pháp, Sở Tư pháp, Đoàn luật sư, cơ quan thuế địa phương nơi đặt trụ sở; thanh toán các nghĩa vụ tài chính, chịu trách nhiệm về các hợp đồng dịch vụ pháp lý, hợp đồng lao động đã ký. Các trường hợp chấm dứt hoạt động và nghĩa vụ của tổ chức luật sư nước ngoài: Tự chấm dứt hoạt động Bị thu hồi Giấy phép Tổ chức hành nghề luật sư nước ngoài có nghĩa vụ thông báo bằng văn bản cho Bộ Tư pháp, Sở Tư pháp, Đoàn luật sư, cơ quan thuế địa phương nơi đặt trụ sở; thanh toán các nghĩa vụ tài chính, thanh lý các hợp đồng dịch vụ pháp lý, hợp đồng lao động đã ký 3.7.5. Các quy định chuyển tiếp: quy định tại phần V, Thông tư 02/2007/TT-BTP Giấy phép thành lập, Giấy đăng ký hoạt động của tổ chức hành nghề luật sư nước ngoài tại Việt Nam được cấp theo Nghị định 87/2003/NĐ-CP tiếp tục có hiệu lực theo Luật Luật sư 2006. 3.8. Các quyền và nghĩa vụ của tổ chức hành nghề luật sư nước ngoài: quy định tại Điều 73 Luật Luật sư Tổ chức hành nghề luật sư nước ngoài có các quyền sau đây: Thực hiện dịch vụ pháp lý về các lĩnh vực ghi trong Giấy phép thành lập, Giấy đăng ký hoạt động Nhận thù lao từ khách hàng Thuê luật sư nước ngoài, luật sư Việt Nam, lao động nước ngoài, lao động Việt Nam Nhận người tập sự hành nghề luật sư Việt Nam vào tập sự hành nghề luật sư Chuyển thu nhập từ hoạt động hành nghề ra nước ngoài theo quy định của pháp luật Việt Nam Các quyền khác theo quy định của luật này, pháp luật về doanh nghiệp, pháp luật về đầu tư và các quy định pháp luật khác có liên quan. Tổ chức hành nghề luật sư nước ngoài có các nghĩa vụ sau đây: Hoạt động theo đúng lĩnh vực ghi trong Giấy phép thành lập, Giấy đăng ký hoạt động Thực hiện đúng những nội dung đã giao kết với khách hàng Bồi thường thiệt hại vật chất do lỗi của luật sư gây ra trong khi tư vấn pháp luật, đại diện ngoài tố tụng và các dịch vụ pháp lý khác. Mua bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp cho các luật sư hành nghề tại Việt Nam theo quy định của pháp luật về kinh doanh bảo hiểm Chấp hành quy định của pháp luật Việt Nam về lao động, kế toán, thống kê và thực hiện nghĩa vụ thuế, tài chính. Cụ thể, hiện nay, tổ chức hành nghề luật sư nước ngoài phải nộp các khoản thuế là thuế giá trị gia tăng, thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế môn bài, thuế xuất khẩu, nhập khẩu (nếu có hành vi xuất khẩu, nhập khẩu) và các khoản lệ phí xin cấp Giấy phép thành lập, đăng ký hoạt động và thay đổi nội dung Giấy phép. Nhập khẩu phương tiện cần thiết cho hoạt động theo quy định của pháp luật Việt Nam. Các nghĩa vụ khác theo quy định của luật này, pháp luật về doanh nghiệp, pháp luật về đầu tư và các quy định pháp luật khác có liên quan. Trên đây là các quy định cơ bản của pháp luật hiện hành về hoạt động của tổ chức hành nghề luật sư nước ngoài tại Việt Nam. So sánh với các quy định trước đây, ta rút ra một số nhận xét như sau: - Thứ nhất, hệ thống các quy định pháp luật hiện hành về hoạt động của tổ chức hành nghề luật sư nước ngoài không chỉ gói gọn trong Luật Luật sư và các văn bản hướng dẫn thi hành mà còn nằm trong các cam kết của Việt Nam khi gia nhập WTO và các văn bản pháp luật có liên quan (như pháp luật về đầu tư, pháp luật về doanh nghiệp, pháp luật về thuế…) - Thứ hai, các quy định pháp luật hiện hành, cụ thể là Luật Luật sư được xây dựng theo hướng đơn giản, ngắn gọn, đầy đủ, có kết cấu hợp lý hơn trước và chỉ tập trung quy định những vấn đề chuyên môn, thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật Luật sư. - Thứ ba, các quy định của Luật Luật sư đi theo hướng thông thoáng hơn, tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động của tổ chức hành nghề luật sư nước ngoài, cụ thể là ở việc giảm bớt các điều kiện hành nghề, mở rộng các hình thức hành nghề, phạm vi hành nghề của tổ chức hành nghề luật sư nước ngoài. Phần thứ ba. Một số kiến nghị và giải pháp hoàn thiện pháp luật về hoạt động của tổ chức hành nghề luật sư nước ngoài tại Việt nam Có thể nói rằng trong vòng hơn 12 năm qua, kể từ khi Nghị định 42/CP được ban hành mở đường cho các tổ chức luật sư nước ngoài vào Việt Nam, chế định về hoạt động của tổ chức hành nghề luật sư nước ngoài tại Việt Nam đã có những bước tiến rất nhanh. Một phần do đòi hỏi từ nhu cầu thực tiễn, nhưng quan trọng hơn, Nhà nước Việt Nam đã rất quan tâm tới hoạt động hành nghề của các tổ chức luật sư nước ngoài, bằng chứng là qua bốn văn bản đã ban hành, các quy định đối với hoạt động của tổ chức luật sư nước ngoài ngày càng được hoàn thiện, đầy đủ hơn và đi theo hướng mở cửa, tạo thuận lợi cho các tổ chức này. Tuy nhiên, cần phải nhìn nhận rằng ở Việt Nam chưa có một nền tảng kiến thức pháp lý đầy đủ, vững chắc, mang tính chuẩn hoá về thị trường dịch vụ pháp lý, hay nói đúng hơn, kiến thức về thị trường dịch vụ pháp lý của Việt Nam không xuất phát từ thực tiễn phát triển của đất nước. Các quốc gia có hệ thống các quy định pháp luật về thị trường dịch vụ pháp lý rất hoàn thiện như Mỹ, Anh, Pháp, úc…, họ đã có lịch sử phát triển thị trường dịch vụ pháp lý hàng trăm năm, từ đó đúc rút ra những quy định pháp luật. Nhưng ngay cả những quốc gia có lịch sử thị trường dịch vụ pháp lý ngắn hơn rất nhiều như Singapore, Trung Quốc hay Nhật, họ vẫn có hệ thống các quy định pháp luật đầy đủ, hoàn thiện hơn Việt Nam rất nhiều, đó là bởi vì thực tiễn thu hút đầu tư, tốc độ mở cửa, phát triển thị trường của các nước này là rất cao. Một điểm quan trọng cần lưu ý nữa đó là về thực tiễn thị trường dịch vụ pháp lý ở Việt Nam. Yếu tố thị trường mới chỉ xuất hiện ở Việt Nam từ đầu những năm 90 của thế kỷ trước. Với một thị trường đặc thù như thị trường dịch vụ pháp lý thì quả thật, mới chỉ thực sự phát triển trong vài năm trở lại đây. Hơn nữa, ý thức pháp luật của người dân, đặc biệt là các doanh nghiệp – những người luôn phải đồng hành với dịch vụ pháp lý – chưa cao. Dù xuất phát từ nhiều nguyên nhân như lịch sử, quan niệm, thói quen… nhưng điều này dẫn đến hai hệ quả không tốt là: thứ nhất, người dân nói chung và các doanh nghiệp nói riêng dễ phải gánh chịu các hậu quả không đáng có do không có ý thức tìm hiểu pháp luật trước khi thực hiện các công việc có liên quan đến pháp luật hay giao kết các hợp đồng kinh doanh, thương mại…; thứ hai, làm mất đi tiềm năng phát triển của thị trường dịch vụ pháp lý ở Việt Nam. Chắc chắn với chức năng quản lý xã hội của mình, Nhà nước phải có biện pháp để thay đổi tình hình trên. Nói như vậy để thấy một điều, thị trường dịch vụ pháp lý cũng như hệ thống các quy định của pháp luật Việt Nam về thị trường dịch vụ pháp lý muốn phát triển, hoàn thiện hơn trong tương lai thì nhất định phải hoàn thành hai nhiệm vụ cơ bản sau: Nhiệm vụ về nghiên cứu lý luận: trong thời gian tới, nhiệm vụ của các học giả, các nhà nghiên cứu pháp luật là phải xây dựng được nền tảng hệ thống kiến thức lý luận về thị trường dịch vụ pháp lý trong điều kiện Việt Nam, bao gồm hệ thống các nguyên tắc, khái niệm, nội hàm thuộc lĩnh vực dịch vụ pháp lý; xác định rõ vị trí, vai trò, chức năng của dịch vụ pháp lý trong tổng thể cơ cấu các ngành dịch vụ; xác định rõ những định hướng cơ bản để phát triển thị trường dịch vụ pháp lý trong tương lai; nghiên cứu cụ thể nhu cầu dịch vụ pháp lý ở Việt Nam, có tính đến sự phát triển trong tương lai, trên cơ sở đó xây dựng mô hình dịch vụ pháp lý phù hợp với điều kiện tình hình kinh tế, xã hội và chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, trong đó xác định rõ các loại hình dịch vụ pháp lý, các chủ thể cung cấp dịch vụ pháp lý, các hình thức cung cấp dịch vụ pháp lý cũng như các biện pháp quản lý đối với việc cung ứng dịch vụ pháp lý. Nhiệm vụ về xây dựng và phát triển thị trường dịch vụ pháp lý trong thực tiễn: như đã nói ở trên, rào cản lớn nhất đối với sự phát triển của thị trường dịch vụ pháp lý ở Việt Nam hiện nay không phải là khung pháp lý hay các quy định pháp luật mà nằm ở nhu cầu của xã hội, nằm ở ý thức của người dân. Vậy nên, nhiệm vụ quan trọng nhất của Nhà nước có lẽ không phải là ban hành thật nhiều Luật, Pháp lệnh hay Nghị định mà phải tăng cường ý thức chấp hành, tuân thủ pháp luật của người dân, tăng cường nguyên tắc pháp chế, mỗi công dân phải thầm nhuần nguyên tắc: mọi vấn đề đều phải được giải quyết trên cơ sở pháp luật. Nhà nước có thể thực hiện điều này thông qua việc tăng cường công khai, minh bạch, tạo nhiều phương thức để người dân tiếp xúc với pháp luật, hiểu rõ các quyền và nghĩa vụ của bản thân, tuyên truyền, phổ biến, giải thích pháp luật, trừng trị nghiêm minh các hành vi vi phạm pháp luật. Khi người dân đã có ý thức pháp luật, tự giác tuân thủ pháp luật thì chắc chắn nhu cầu về dịch vụ pháp lý sẽ tăng cao. Đó chính là con đường hợp lý nhất để phát triển thị trường dịch vụ pháp lý ở Việt Nam. Quay trở lại với các quy định về hoạt động của tổ chức hành nghề luật sư nước ngoài tại Việt Nam, sau quá trình nghiên cứu, phân tích, đánh giá cụ thể ở trên, luận văn xin được đưa ra một số kiến nghị cụ thể như sau: Thứ nhất, là quy định của pháp luật hiện hành về hình thức hành nghề của tổ chức hành nghề luật sư nước ngoài. Hiện nay, có ba quy định khác nhau về vấn đề này trong ba văn bản đang có hiệu lực thi hành: + Đầu tiên là trong Biểu cam kết về dịch vụ của Việt Nam khi gia nhập WTO, phần các cam kết cụ thể đối với phân ngành dịch vụ pháp lý, quy định bốn hình thức là: Chi nhánh của tổ chức hành nghề luật sư nước ngoài Công ty con của tổ chức hành nghề luật sư nước ngoài Công ty luật nước ngoài Công ty luật hợp danh giữa tổ chức hành nghề luật sư nước ngoài và Công ty luật hợp danh Việt Nam + Quy định thứ hai nằm trong Phụ lục: nội dung áp dụng trực tiếp các cam kết của Việt Nam ban hành kèm theo Nghị quyết của Quốc hội số 71/2006/QH11 ngày 29/11/1006 phê chuẩn Nghị định thư gia nhập Tổ chức thương mại thế giới (WTO) của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, gồm bốn hình thức sau: Chi nhánh của tổ chức hành nghề luật sư nước ngoài Công ty luật trách nhiệm hữu hạn 100% vốn nước ngoài Công ty luật trách nhiệm hữu hạn dưới hình thức liên doanh Công ty luật hợp danh giữa tổ chức hành nghề luật sư nước ngoài và Công ty luật hợp danh Việt Nam + Cuối cùng là theo khoản 1, Điều 69, Luật Luật sư 2006 quy định ba hình thức: Chi nhánh của tổ chức hành nghề luật sư nước ngoài Công ty luật trách nhiệm hữu hạn 100% vốn nước ngoài Công ty luật trách nhiệm hữu hạn dưới hình thức liên doanh Như vậy, ngoài hai hình thức là Chi nhánh và Công ty luật trách nhiệm hữu hạn 100% vốn nước ngoài được quy định trong cả ba văn bản trên thì hai hình thức còn lại là Công ty luật hợp danh giữa tổ chức hành nghề luật sư nước ngoài và Công ty luật hợp danh Việt Nam và Công ty luật trách nhiệm hữu hạn dưới hình thức liên doanh đều không được quy định trong tất cả ba văn bản. Điều này cho thấy tính thiếu đồng bộ của hệ thống pháp luật và rất cần được khắc phục. Thứ hai là về phạm vi hành nghề của tổ chức hành nghề luật sư nước ngoài cũng có sự quy định khác nhau trong hai văn bản đang có hiệu lực thi hành. Cụ thể, trong Phụ lục: nội dung áp dụng trực tiếp các cam kết của Việt Nam ban hành kèm theo Nghị quyết của Quốc hội số 71/2006/QH11, tổ chức hành nghề luật sư nước ngoài không được cử luật sư Việt Nam trong tổ chức hành nghề của mình tham gia tố tụng với tư cách là người đại diện, người bào chữa, người bảo vệ các quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự trước Toà án Việt Nam. Tuy nhiên, theo Điều 70 Luật Luật sư 2006, tổ chức hành nghề luật sư nước ngoài được cử luật sư Việt Nam trong tổ chức hành nghề của mình tham gia tố tụng với tư cách là người đại diện, người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự cho khách hàng trước Toà án Việt Nam đối với các vụ, việc mà tổ chức hành nghề luật sư nước ngoài thực hiện tư vấn pháp luật, trừ vụ án hình sự. Hai quy định này tự dẫm chân lên nhau và cần sớm có sự sửa đổi. Thứ ba, về phạm vi hoạt động của luật sư nước ngoài hành nghề trong tổ chức luật sư nước ngoài. Luật Luật sư 2006 cho phép luật sư nước ngoài nếu có bằng cử nhân luật của Việt Nam và đáp ứng đầy đủ các yêu cầu tương tự như đối với một luật sư Việt Nam thì được phép tư vấn pháp luật Việt Nam. Nhưng Điều 4, Luật Luật sư cũng quy định rõ: “Dịch vụ pháp lý của luật sư bao gồm tham gia tố tụng, tư vấn pháp luật, đại diện ngoài tố tụng cho khách hàng và các dịch vụ pháp lý khác”. Như vậy, nếu luật sư nước ngoài đã thoả mãn đầy đủ các yêu cầu như đối với một luật sư Việt Nam thì tại sao họ không được tham gia tố tụng? Theo quan điểm của WTO thì phải chăng đây là một hạn chế đối xử quốc gia? Và liệu trong tương lai quy định này có thể bị thay đổi? Trên đây là một số kiến nghị và giải pháp mà luận văn đưa ra đối với thị trường dịch vụ pháp lý ở Việt Nam nói chung và hoạt động của tổ chức hành nghề luật sư nước ngoài nói riêng. Những vấn đề này không thể bao quát hết toàn cảnh bức tranh thị trường dịch vụ pháp lý cũng như hoạt động của tổ chức hành nghề luật sư nước ngoài tại Việt Nam. Rất mong sẽ nhận được nhiều sự chia sẻ, đóng góp ý kiến của các thầy cô và các bạn sinh viên về vấn đề này. Kết luận Như vậy, với đề tài nghiên cứu “Những quy định của pháp luật về hoạt động của tổ chức hành nghề luật sư nước ngoài tại Việt Nam”, Luận văn về cơ bản đã thực hiện được các mục tiêu đề ra và đã làm sáng tỏ được các vấn đề sau: Thứ nhất là làm rõ các vấn đề về lý luận, bao gồm khái niệm, phân loại và đặc điểm, liên quan đến dịch vụ pháp lý và thị trường dịch vụ pháp lý; đồng thời trình bày thực tiễn sự hình thành và phát triển của dịch vụ pháp lý và thị trường dịch vụ pháp lý ở Việt Nam, qua đó giúp người đọc hình dung được các vấn đề cơ bản nhất liên quan đến lĩnh vực dịch vụ pháp lý ở Việt Nam. Thứ hai là nêu và phân tích có gắn với thực tiễn quá trình ra đời và phát triển của pháp luật về hoạt động của tổ chức hành nghề luật sư nước ngoài tại Việt Nam. Quá trình này có phân chia thành các giai đoạn cụ thể trên cơ sở các quy định của pháp luật. Thứ ba là phân tích cụ thể các quy định của pháp luật về hoạt động của tổ chức hành nghề luật sư nước ngoài của từng giai đoạn theo các tiêu chí xác định. Kèm theo quá trình phân tích có sự nhận xét, so sánh, đánh giá các điểm tương đồng và khác biệt giữa các giai đoạn, qua đó rút ra sự thay đổi của các quy định pháp luật về hoạt động của tổ chức hành nghề luật sư nước ngoài qua mỗi giai đoạn. Thứ tư là đưa ra các kiến nghị đối với việc mở rộng thị trường dịch vụ pháp lý ở Việt Nam và việc hoàn thiện các quy định của pháp luật hiện hành về hoạt động của tổ chức hành nghề luật sư nước ngoài tại Việt Nam. Danh mục tài liệu tham khảo Các tài liệu - Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI Đảng Cộng sản Việt Nam (1986) - Nhà xuất bản Tư pháp, Hoàn thiện pháp luật về luật sư ở Việt Nam, 2006. - Nhà xuất bản Tư pháp, Hướng dẫn thi hành Luật Luật sư, 2007. - Nhà xuất bản Tư pháp, Luật Luật sư và toàn bộ các văn bản hướng dẫn thi hành, 2007. - Tạp chí Khoa học pháp luật - Tạp chí Luật học - Tạp chí Nghiên cứu lập pháp - Trung tâm từ điển ngôn ngữ, Từ điển Tiếng Việt, 1998. - TS Nguyễn Đình Lộc, Về Pháp lệnh Luật sư năm 2001, Số chuyên đề về Pháp lệnh Luật sư năm 2001, Bộ Tư pháp và Tạp chí dân chủ pháp luật. - TS Hà Hùng Cường, Pháp lệnh về hành nghề luật sư ở Việt Nam. - Sự hình thành và phát triển nghề luật sư và tổ chức luật sư ở Việt Nam (w - Trường đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật thương mại quốc tế, 2006 Các văn bản pháp luật - Hiến pháp nước Việt Namcác năm 1946, 1959, 1980. - Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 1988, sửa đổi các năm 1990 và 1992. - Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 1996. - Luật Luật sư số 65/2006/QH11 ngày 29/06/2006. - Luật Thương mại năm 1997. - Luật thuế doanh thu, Luật thuế lợi tức năm 1990. - Luật thuế giá trị gia tăng 1997, Luật thuế giá trị gia tăng 2005; Luật thuế thu nhập doanh nghiệp 1997, Luật thuế thu nhập doanh nghiệp 2003. - Nghị định của Chính phủ số 42/CP ngày 08/07/1995 ban hành Quy chế hành nghề tư vấn pháp luật của tổ chức hành nghề luật sư nước ngoài tại Việt Nam. - Nghị định 92/1998/NĐ-CP về hành nghề tư vấn pháp luật của tổ chức luật sư nước ngoài tại Việt Nam. - Nghị định 87/2003/NĐ-CP về hành nghề của tổ chức luật sư nước ngoài, luật sư nước ngoài tại Việt Nam. - Nghị định 94/2001/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành Pháp lệnh Luật sư 2001. - Nghị định 28/2007/NĐ-CP quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Luật sư. - Nghị quyết của Quốc hội số 71/2006/QH11 ngày 29/11/2006 phê chuẩn Nghị định thư gia nhập Hiệp định thành lập Tổ chức thương mại thế giới (WTO) của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. - Pháp lệnh Luật sư năm 2001. - Pháp lệnh Tổ chức luật sư năm 1987. - Các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan khác.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docNhững quy định của pháp luật về hoạt động của tổ chức hành nghề luật sư nước ngoài tại Việt Nam.doc