Nội dung cơ bản của quyền tự do thành lập doanh nghiệp theo pháp luật hiện hành

Để nguyên tắc này có tính khả thi, không tượng trưng, hình thức, hơn nữa để nâng cao chất lượng xét xử, tôi cho rằng trong thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm, số lượng thành viên Hội thẩm nhân dân nên ít hơn Thẩm phán. Đặc biệt để Hội thẩm nhân dân đảm đương được chức trách, nhiệm vụ của mình cần tiêu chuẩn hóa đội ngũ Hội thẩm nhân dân, Hội thẩm nhân dân phải có trình độ cử nhân Luật hoặc đã qua công tác pháp luật từ 3 - 5 năm, phải qua lớp bồi dưỡng nghiệp vụ xét xử; cần quy định về mặt tổ chức, cụ thể: Đoàn Hội thẩm nhân dân là một tổ chức chính trị xã hội không chịu sự quản lý của Chánh án Tòa án nhân dân cùng cấp, có kinh phí hoạt động riêng. Đoàn Hội thẩm có Trưởng đoàn và Phó trưởng đoàn làm việc theo chế độ chuyên trách là người trực tiếp quản lý, phân công việc tham gia xét xử của Hội thẩm nhân dân. Theo đó, cơ chế phối hợp với Tòa án sẽ là: sau khi lên lịch xét xử, Tòa án gửi cho Trưởng đoàn Hội thẩm để sắp xếp, phân công Hội thẩm nhân dân tham gia xét xử và gửi văn bản phân công cho Tòa án để ban hành quyết định đưa vụ án ra xét xử. Làm như vậy, một mặt giảm bớt công việc cho Tòa án, mặt khác việc lựa chọn Hội thẩm nhân dân tham gia xét xử các vụ án cụ thể trở nên khách quan hơn. Đặc biệt trong thời gian chuẩn bị xét xử Hội thẩm nhân dân phải hết sức nỗ lực trong việc nghiên cứu hồ sơ, xem xét những tình tiết, tài liệu liên quan đến vụ án, nguyên nhân và điều kiện làm phát sinh vụ án, trên cơ sở đó Hội thẩm nhân dân phải chuẩn bị cho mình một kế hoạch thẩm vấn tại phiên tòa, có như vậy mới chủ động khi tham gia xét xử và thể hiện sự "ngang quyền" với Thẩm phán được. Đi đôi với việc tiêu chuẩn hóa đội ngũ Hội thẩm nhân dân, cần phải có một chính sách đãi ngộ, chế độ bồi dưỡng thỏa đáng, thích hợp đối với Hội thẩm nhân dân, để tương tầm với trọng trách mà pháp luật quy định.

doc17 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 2472 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nội dung cơ bản của quyền tự do thành lập doanh nghiệp theo pháp luật hiện hành, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
tòa án là cơ quan thực hiện chức năng xét xử, tức là làm trọng tài phân xử quan điểm giữa bên buộc tội và bên gỡ tội, mà tự mình không có chức năng buộc tội nên tòa án chỉ xem xét những hành vi theo tội danh mà Viện kiểm sát truy tố và tòa án đã quyết định đưa ra xét xử. Quy định này cũng bảo đảm cho bị cáo thực hiện đầy đủ quyền bào chữa của mình. Tòa án không dược xét xử những người và những hành vi chưa được viện kiểm sát truy tố và không xét xử bị cáo theo tội danh nặng hơn tội danh mà viện kiểm sát truy tố. Việc rút quyết định truy tố. Trước khi mở phiên tòa, nếu xét thấy có căn cứ để rút một phần hay toàn bộ quyết định truy tố thì kiểm sát viên được phân công thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử vụ án báo cáo đề xuất lãnh đạo viện kiểm sát xem xét quyết định. Việc rút quyết định truy tố phải được thể hiện thành văn bản và phải nêu rõ lí do. Nếu viện kiểm sát rút toàn bộ quyết định truy tố thì tòa án ra quyết định đình chỉ vụ án. Nếu chỉ rút một phần quyết định truy tố thì hội đồng xét xử chỉ xét xử phần không rút truy tố. Nội quy phiên tòa và biện pháp xử lý đố với người vi phạm trật tự phiên tòa. Để giữ gìn trật tự phiên tòa, trước khi bắt đầu phiên tòa thư kí tòa ánphổ biến nội quy phiên tòa và hướng dẫn những người tham gia tố tụng cách xưng hô tại phiên tòa. Việc quy định nội quy phiên tòa để nhằm đảm bảo cho việc xét xử được trang nghiêm, bảo đảm an toàn về tính mạng, sức khỏe, nhâm phẩm, danh dự cho những người tham gia phiên tòa; tạo điều kiện cho việc xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Việc điều khiển và duy trì kỷ luật phiên tòa do chủ tọa phiên tòa đảm nhận, mọi người tham gia phiên tòa phải có thái độ tôn trọng hội đồng xét xử tuân theo sự điều khiển của chủ tọa phiên tòa. Những người vi phạm nội quy phiên tòa sẽ bị xử lý hành chính , và thẩm quyền xử lý vi phạm được giao cho chủ tọa phiên tòa. Việc ra bản án và các quyết định của Tòa án. Theo điều 199 bộ luật tố tụng hình sự việc ra bản án cần tuân thủ triệt để nguyên tắc tòa án xét xử tập thể và quyết định đa số. Bản án của tòa án quyết định bị cáo có phạm tội hay không phạm tội, hình phạt và các biện pháp tư pháp khác. Khi đó quyết định của hội đồng xét xử có thể được thông qua tại phòng xét xử hoặc tại phòng nghị án, quyết định đó được thể hiện trong bản án. Các quyết định được thông qua bằng hình thức biểu quyết theo đa số, còn các quyết định như hoãn phiên tòa, giải quyết yêu cầu của người tham gia tố tụng, được hội đồng xét xử theo luận và thông qua tại phòng xử án. Biên bản phiên tòa. Tại phiên tòa, trong quá trình xét xử, thư kí tòa án có nhiệm vụ ghi rõ mội diễn biến ở phiên tòa. Biên bản phiên tòa là văn bản thể hiện đầy đủ, khách quan toàn bộ diễn biến phiên tòa từ khi bắt đầu cho đến khi kết thúc phiên tòa. Biên bản phiên tòa là tài liệu quan trọng giúp cho tòa án cấp trên xem xét trong xét xử theo trình tự phúc thẩm hoặc giám đốc thẩm đối với việc xét xử của tòa án cấp dưới. Kết thúc phiên tòa chủ tọa phiên tòa phải kiểm tả biên bản nhằm phát hiện ra những sai xót để kịp thời sửa đổi và bổ sung. Nhằm đảm bảo tính khách quan, công khai của phiên tòa xét xử thì biên bản phiên tòa có thể cho những người liên quan tại phiên tòa xét xử xem, và họ có quyền được ghi những sửa đổi, bổ sung vào biên bản. HOÀN THIỆN CÁC QUY ĐỊNH CHUNG CỦA BỘ LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VỀ THỦ TỤC TỐ TỤNG TẠI PHIÊN TÒA SƠ THẨM. Có lẽ điểm hạn chế lớn nhất cần khắc phục trong phần các quy định chung của bộ luật tố tụng hình sự về thủ tục tố tụng tại phiên tòa sơ thẩm là việc quy định thành phần hội đồng xét xử. Như đã trình bày ở phần lí luận chung bên trên theo quy định tại Điều 185 bộ luật tố tụng hình sự thì đa số các thành viên trong hội đồng xét xử sơ thẩm vụ án hình sự là hội thẩm: một thẩm phán và hai hội thẩm; hay với những vụ án quan trọng thì sẽ là hai thẩm phán và ba hội thẩm. Nhưng thực tế cho thấy các hội thẩm thường là những người đại diện cho quần chúng nhân dân, được nhân dân cử ra. Với nhiệm vụ chủ yếu là giám sát việc xét xử phiên tòa, cộng với việc không có trình độ chuyên môn về xét xử, yếu kém về nghiệp vụ cho nên việc quy định số lượng của họ nhiều hơn số lượng thẩm phán là hoàn toàn không phù hợp. Vì vậy nguyên tắc “khi xét xử thẩm phán và hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật” trong nhiều trường hợp chỉ mang tính hình thức dễ dẫn đến việc xét xử thiếu công bắng, khách quan làm oan, sai vụ án cũng như người vô tội. Do đó, để nhằm hoàn thiện quy định trên theo tôi thì Điều 185 bộ luật tố tụng hình sự cần được sửa đổi, bổ sung theo hướng quy định các thẩm phán phải chiến đa số trong hội đồng xét xử sơ thẩm. Có như vậy mới đảm bảo cho việc xét xử vụ án tại phiên tòa sơ thẩm có tính chính xác cáo hơn, hạn chế khả năng vụ án sẽ bị kháng cáo phúc thẩm, hay các thủ tục tố tụng khác làm cho việc thi hành quyết định bản án trậm chễ, cũng như sự tồn đọng án. KẾT LUẬN Như vậy, trên đây là toàn bộ quá trình nghiên cứu về quy định chung tại phiên tòa xét xử sơ thẩm. Mặc dù các nhà lập pháp đã quy định hết sức rõ ràng và chi tiết về trình tự, thủ tục, số lượng, nguyên tắc trong quá trình xét xử sơ thẩm, nhưng vẫn còn có những điểm khiếm khuyết nhất định cần phải sửa đổi bổ sung. Nhằm hoàn thiện những quy định của pháp luật, làm cho hệ thống tư pháp của nước ta ngày càng có vị thế trong hệ thống các cơ quan của nhà nước cững như tạo niềm tin trong lòng quần chúng nhân dân. Các quy định tại Chương XVIII của BLTTHS: Theo quy định của BLTTHS thì khi xét xử, thẩm phán và hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật (Điều 16); toà án xét xử tập thể và quyết định theo đa số (Điều 17). Mặt khác, theo quy định tại Điều 185 BLTTHS thì đa số các thành viên trong HĐXX là hội thẩm. Tuy nhiên, thực tiễn xét xử cho thấy do các hội thẩm thường là những người không có trình độ chuyên môn, nghiệp vụ về xét xử nên khi tham gia vào quá trình xét xử, họ thường có tâm lí ỷ lại và phụ thuộc vào thẩm phán chủ toạ phiên toà. VÌ vậy, trên thực tế nguyên tắc “khi xét xử thẩm phán và hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật” trong nhiều trường hợp chỉ mang tính hình thức dễ dẫn đến việc xét xử oan, sai. Để khắc phục thực trạng này, chúng tôi cho rằng Điều 185 BLTTHS cần được sửa đổi, bổ sung theo hướng quy định các thẩm phán phải chiếm đa số trong HĐXX. Thứ năm, các quy định tại Chương XVIII của BLTTHS: Cần chuyển các điều từ 184 đến 186 của Chương này về Chương… Toà án và bổ sung một điều luật mới về hình thức phiên toà quy định về vị trí ngồi của HĐXX, các chủ thể của bên buộc tội, bên bào chữa và các chủ thể khác tham gia phiên toà; về sự có mặt của công tố viên trước khi HĐXX vào pḥng xử án. Quy định tại Điều 185 BLTTHS hiện hành cần sửa đổi bổ sung với nội dung như sau: “HĐXX sơ thẩm có thể chỉ có một thẩm phán hoặc gồm hai thẩm phán và một hội thẩm. Trong trường hợp vụ án có tính chất nghiêm trọng, phức tạp thì HĐXX có thể gồm ba thẩm phán và hai hội thẩm. Đối với vụ án mà bị cáo bị đưa ra xét xử về tội theo khung hình phạt có mức cao nhất là tử hình thì Hội đồng xét xử gồm ba Thẩm phán và hai Hội thẩm…”. TS. Nguyễn Đức Mai, Thẩm phán Tòa án quân sự Trung ương Theo: Tạp chí Luật học, số 07  năm 2008 đột phá ở phiên tòa sơ thẩm Tranh tụng không chỉ diễn ra ở phiên tòa sơ thẩm nhưng cần xác định tranh tụng ở phiên ṭa sơ thẩm là khâu đột phá vì xét xử sơ thẩm là giai đoạn trung tâm trong tiến trình tố tụng. Do vậy cần sửa đổi bổ sung các quy định cụ thể của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 để phiên tòa sơ thẩm có tính tranh tụng. Trước hết, cần sửa Điều 10 theo hướng xác định tòa án - cơ quan xét xử - không có trách nhiệm chứng minh tội phạm. Tòa cũng có nhiệm vụ bảo vệ pháp luật nhưng thực hiện nhiệm vụ đó thông qua chức năng xét xử của mình. Tòa không phải là người truy tố bị cáo nên không có nghĩa vụ chứng minh tội phạm. Nghĩa vụ chứng minh tội phạm thuộc về cơ quan tố tụng thực hiện chức năng buộc tội (cơ quan điều tra, VKS). Muốn như vậy, phải bỏ những thẩm quyền không phù hợp với chức năng xét xử của tòa như thẩm quyền khởi tố vụ án hình sự (khoản 1 Điều 104), thẩm quyền được xét xử bị cáo theo khoản khác với khoản mà VKS truy tố trong cùng một điều luật theo hướng nặng hơn (khoản 2 Điều 196). Sửa đổi các quy định về thủ tục xét hỏi tại phiên tòa để đảm bảo tính tranh tụng theo hướng nên quy định chỉ các bên tranh tụng (bên buộc tội là VKS và người bị hại; bên bào chữa là người bào chữa và bị cáo) mới tham gia vào thủ tục xét hỏi. Tòa không phải là bên tranh tụng nên không tham gia xét hỏi mà chỉ điều khiển quá trình xét hỏi. Bỏ quy định về việc thẩm phán trả hồ sơ để điều tra bổ sung (Điều 179 và Điều 199). Chỉ nên quy định trường hợp duy nhất mà thẩm phán có quyền trả hồ sơ yêu cầu bổ sung là khi phát hiện có những vi phạm tố tụng nghiêm trọng cản trở việc xét xử của tòa (như VKS chưa tống đạt cáo trạng cho bị cáo). Còn vấn đề chứng cứ đã đủ hay chưa, có thể xử được hay không, chứng cứ nào quan trọng không phải là sự quan tâm của tòa vì người phải quan tâm về việc này là VKS. Tòa chỉ cần quan tâm là VKS có chứng minh được cáo trạng hay không. VKS không chứng minh được thì tòa tuyên vô tội và ngược lại. Chỉ có thể có phiên tòa sơ thẩm tranh tụng khi tòa trở về vai trò đích thực là trọng tài vô tư khách quan, chỉ xét xử chứ không buộc tội thay cho VKS hay cùng VKS buộc tội bị cáo. Đến lúc đó, đương nhiên VKS không còn chỗ dựa nữa. VKS sẽ không thể không tranh tụng. Khi VKS đã sẵn sàng tranh tụng có nghĩa là việc truy tố bị cáo đã được cân nhắc, xem xét thận trọng từ chứng cứ đến tội danh... Thừa nhận mô hình tố tụng hình sự Việt Nam hiện nay là mô hình pha trộn và định hướng hoàn thiện là xây dựng mô hình pha trộn thiên về tranh tụng là giải pháp cần thiết và đúng đắn, phù hợp với yêu cầu của cải cách tư pháp ở nước ta hiện nay và phù hợp với trào lưu chung của lịch sử tố tụng hình sự trên thế giới. TS NGUYỄN THÁI PHÚC, Vụ trưởng - Trưởng Cơ quan đại diện Bộ Tư pháp tại TP.HCM Thứ hai, cần sửa đổi, bổ sung các quy định của BLTTHS về vấn đề tranh tụng, cụ thể : Điều 10 của BLTTHS quy định trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về các cơ quan tiến hành tố tụng, trong đó có Tòa án, trách nhiệm chứng minh bị cáo có tội hay không có tội tại phiên tòa đó là của HĐXX. Do vậy, hiện nay tại phiên tòa, HĐXX cũng tiến hành một số hoạt động tố tụng để chứng minh tội phạm. Ví dụ: HĐXX sẽ nhắc hoặc công bố lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra nếu lời khai của họ tại phiên tòa có mâu thuẫn với lời khai tại cơ quan điều tra, bị cáo không khai, vắng mặt hoặc đã chết ( Điều 208 ). Như vậy, phải chăng Tòa án cũng là một cơ quan có chức năng buộc tội ? Do việc quy định không rõ ràng về trách nhiệm chứng minh tội phạm của các chủ thể tại phiên tòa nên có quan điểm cho rằng TTHS Việt Nam thuộc hệ tố tụng xét hỏi, các giai đoạn từ khởi tố, điều tra, truy tố và xét xử đều là các tầng nấc liên tiếp khác nhau của quá trình buộc tội. Để Tòa án đúng là “cơ quan xét xử, cầm cân nảy mực” và đảm bảo cho việc tranh tụng tại phiên tòa diễn ra dân chủ, bình đẳng, khách quan thì cần phải xác định rõ vai trò của HĐXX tại phiên  tòa là người trọng tài giữa bên buộc tội và bên bào chữa để phán quyết về vụ án. Mặt khác, do BLTTHS chưa quy định tranh tụng là nguyên tắc cơ bản của TTHS nên các quy định của Bộ luật chưa cụ thể hóa đầy đủ tính chất tranh tụng tại phiên tòa. Một số quy định của Bộ LTTHS đặt gánh nặng trách nhiệm chứng minh tội phạm lên vai HĐXX (ví dụ Điều 207 quy định : “khi xét hỏi từng người, chủ tọa phiên tòa hỏi trước rồi đến các Hội thẩm, sau đó đến Kiểm sát viên, người bào chữa …”). Vì vậy, chính các chủ thể tham gia tranh tụng (Kiểm sát viên, Luật sư …) cũng chưa ý thức đầy đủ về quyền và nghĩa vụ của mình trong tranh tụng. Việc xét hỏi tại phiên tòa là một giai đoạn của quá trình tranh tụng tại phiên tòa, cho nên cần phải để các bên tranh tụng thực hiện trách nhiệm chứng minh (VKS, người bào chữa…) tiến hành xét hỏi là chủ yếu, còn HĐXX thực hiện việc giám sát, duy trì trình tự xét hỏi và có quyền tham gia vào quá trình xét hỏi ở bất kỳ thời điểm nào khi thấy cần thiết phải làm sáng tỏ các tình tiết của vụ án chưa được các bên làm rõ trong quá trình xét hỏi. BLTTHS cần xác định rõ tại phiên tòa vai trò của HĐXX chỉ là người “trọng tài” giữa bên buộc tội và bào chữa để ra phán quyết về vụ án, còn việc xét hỏi theo hướng buộc tội là trách nhiệm của Kiểm sát viên, việc xét hỏi gỡ tội hoặc giảm nhẹ TNHS cho bị cáo là trách nhiệm của người bào chữa. Vì vậy, đề nghị sửa đổi các quy định về xét hỏi theo hướng : khi xét hỏi, Kiểm sát viên hỏi trước, sau đó đến người bào chữa, người bảo vệ quyền lợi của đương sự, các thành viên HĐXX có thể hỏi bất kỳ ở thời điểm nào nếu xét thấy cần thiết nhằm làm sáng tỏ các tình tiết về vụ án hoặc mang tính chất nêu vấn đề để các bên tập trung xét hỏi làm rõ, còn việc hỏi để buộc tội và gỡ tội dành cho Kiểm sát viên và người bào chữa. Thực tiễn cho thấy trong quá trình tranh tụng tại phiên tòa, nhiều khi những câu hỏi, đáp của các bên tranh tụng không đi thẳng vào vấn đề, không giải quyết thỏa đáng những mâu thuẫn, khúc mắc còn tồn tại nên cần có những quy định cụ thể và chi tiết hơn nữa về quyền và nghĩa vụ của Kiểm sát viên và người bào chữa trong quá trình tranh tụng, thúc đẩy sự chủ động tranh tụng của Kiểm sát viên và Luật sư. Để tạo ra một cơ chế  thực sự dân chủ và bình đẳng tại phiên tòa, tạo điều kiện để thực hiện một cách có hiệu quả nhất quyền buộc tội và gỡ tội, những quy định này phải được quy định trong văn bản tố tụng có giá trị pháp lý cao nhất là BLTTHS. BLTTHS không quy định bắt buộc tất cả các vụ án hình sự đều phải có sự tham gia của người bào chữa nên trong thực tiễn phần lớn các vụ án hình sự không có người bào chữa tham gia. Các điều 49, 50 của Bộ luật không quy định quyền thu thập chứng cứ của bị can, bị cáo trong trường hợp họ không có người bào chữa. Để bị can, bị cáo thực hiện quyền bào chữa của mình và đảm bảo việc chứng minh của các cơ quan tiến hành tố tụng được khách quan, toàn diện, cần bổ sung quyền thu thập chứng cứ của bị can, bị cáo trong trường hợp họ không thể thu thập được thì có thể yêu cầu cơ quan tiến hành tố tụng thu thập chứng cứ. Cũng cần bổ sung quy định trách nhiệm của cơ quan tiến hành tố tụng phải tiến hành điều tra, thu thập chứng cứ theo yêu cầu của bị can, bị cáo, nếu chứng cứ đó có lợi cho họ trong việc bào chữa. Ngoài ra, trong thực tiễn xét xử những trường hợp bị cáo có những lý lẽ (có thể là chưa phù hợp với thực tế khách quan) nhằm bào chữa cho hành vi phạm tội của mình, thì thường bị coi là có thái độ không thành khẩn nhận tội và nhiều trường hợp đã được nhận định trong bản án để đánh giá nhân thân của bị cáo…Để thực sự đảm bảo nguyên tắc bình đẳng giữa Kiểm sát viên, bị cáo, người bào chữa trong BLTTHS cần quy định: “Bị cáo có quyền sử dụng những biện pháp và cách thức mà pháp luật không cấm để bào chữa trước tòa, không bị coi là những tình tiết đánh giá về nhân thân cũng như về ý thức của họ. Chức năng của Tòa án trong TTHS là xét xử, có ý nghĩa là vai trò Tòa án là người trọng tài đứng giữa bên buộc tội và bên bào chữa để giải quyết vụ án. Bởi vậy, Tòa án chỉ có thể thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm pháp lý thuộc về chức năng xét xử. Khởi tố vụ án hình sự tuy chưa phải là buộc tội đối với một người cụ thể nhưng đó là nhiệm vụ thuộc về chức năng buộc tội. Điều 13, Điều 104 của BLTTHS quy định Tòa án có quyền khởi tố vụ án hình sự là chưa phù hợp. Nếu nhằm mục đích không làm oan người vô tội, không bỏ lọt tội phạm thì chỉ nên quy định Tòa án được quyền yêu cầu VKS khởi tố vụ án nếu qua việc xét xử tại phiên tòa mà phát hiện được tội phạm hoặc người phạm tội mới là đủ. Để nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động tranh tụng tại các phiên tòa hình sự, theo chúng tôi cần tiến hành đồng bộ các giải pháp khác nhau, đó là: các giải pháp pháp lý; các giải pháp về tổ chức; các giải pháp về con người, các giải pháp vật chất – kỹ thuật và có chính sách tiền lương và chế độ đãi ngộ thỏa đáng phù hợp với hoạt động đặc thù của Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán…Các giải pháp này liên quan chặt chẽ và tác động qua lại lẫn nhau, giải pháp này là tiền đề và điều kiện để tiến hành các giải pháp kia và ngược lại. Các giải pháp về hoàn thiện các quy định của pháp luật TTHS hiện hành liên quan đến hoạt động tranh tụng tại phiên tòa hình sự có ý nghĩa quan trọng, góp phần thiết thực vào quá trình tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật; giải quyết các vấn đề vướng mắc, tồn tại trong thực tiễn điều tra, truy tố và xét xử các vụ án hình sự và cải cách hệ thống các cơ quan tiến hành tố tụng các cấp; nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động điều tra, truy tố và xét xử các vụ án hình sự ở nước ta. 3.2. Một số giải pháp về nâng cao chất lượng tranh tụng của kiểm sát viên tại phiên tòa 3.2.1. Tiếp tục hoàn thiện các quy định pháp luật về tranh tụng Chúng tôi cho rằng việc kết hợp một số yếu tố của hệ thống tố tụng tranh tụng để xây dựng hệ thống tố tụng ở nước ta theo kiểu bán tranh tụng là phù hợp, bởi vì nó đáp ứng được nhu cầu hội nhập quốc tế và cải cách Tư pháp ở nước ta trong giai đoạn hiện nay. Vì vậy, các quy định trong BLTTHS sẽ được sửa đổi trong thời gian tới có liên quan đến tranh tụng cần được xây dựng theo các hướng sau: - Tranh tụng phải được ghi nhận là một trong những nguyên tắc cơ bản của TTHS giữ vai trò chi phối và định hướng cho hoạt động và hành vi tố tụng của tất cả các chủ thể tham gia vào quá trình giải quyết các vụ án hình sự phù hợp với chức năng tố tụng của các chủ thể đó theo quy định của pháp luật; - Quy định đầy đủ các điều kiện bảo đảm cần thiết để các chủ thể thuộc bên buộc tội và bào chữa bình đẳng với nhau trong tranh tụng. Các quy định cụ thể trong BLTTHS hiện hành cần được sửa đổi, bổ sung như sau: 1) Điều 211 BLTTHS: Về trình tự tranh luận, bị cáo và người bào chữa phải là người phát biểu sau cùng, vì khi trình bày lời bào chữa, bị cáo và người bào chữa phải thể hiện quan điểm của mình không chỉ đối với lời luận tội của kiểm sát viên mà còn đối với cả ý kiến của người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền, nghĩa vụ liên quan, người đại diện hoặc người bảo vệ quyền lợi của họ. Vì vậy, cần đổi vị trí giữa khoản 2 và khoản 3 của Điều 211 mới phù hợp với logic tranh luận. 2) Quy định về các điều kiện bảo đảm sự bình đẳng của các bên tranh tụng: Trong TTHS, bên bào chữa và các bên buộc tội chỉ có thể bình đẳng với nhau khi các bên đều được bảo đảm các điều kiện cần thiết để thực hiện có hiệu quả chức năng của mình theo quy định của pháp luật. Các điều kiện này không chỉ bao gồm bảo đảm về mặt pháp lý (các quyền và nghĩa vụ pháp lý mà pháp luật giành cho các chủ thể của mỗi bên ở từng giai đoạn tố tụng cụ thể ) mà còn cả các bảo đảm khác. BLTTHS hiện hành quy định chưa đầy đủ các điều kiện bảo đảm sự bình đẳng của bên buộc tội và bên bào chữa trên thực tế. Điều đó thể hiện ở một số vấn đề sau đây: a) Điều 56 BLTTHS đã hạn chế khả năng lựa chọn người bào chữa của bị can, bị cáo khi không quy định những thân thích của bị can, bị cáo ( như ông , bà, cha mẹ, anh chị em ruột, ... có trình độ cử nhân luật ) có thể là người bào chữa cho họ. Vì vậy, chúng tôi cho rằng cần mở rộng diện những người có thể là người bào chữa bằng cách bổ sung thêm cụm từ “hoặc người thân thích” vào sau cụm từ “người đại diện hợp pháp” ở điểm b khoản 1 Điều 56 BLTTHS. Sự mở rộng này cũng phù hợp với quy định tại khoản 2 của Điều luật này vì họ không thuộc diện những người không được bào chữa cho bị can, bị cáo. b) Điều 10 BLTTHS* Theo quy định này, trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về các cơ quan tiến hành tố tụng. Bị can, bị cáo có quyền nhưng không buộc phải chứng minh là mình vô tội. Tuy nhiên trong thực tế xét xử vẫn còn không ít trường hợp mặc dù các chứng cứ hoặc một số tình tiết của vụ án (vì những lý do nào đó) không làm rõ được ở giai đoạn điều tra và tại phiên tòa cũng không thể làm sáng tỏ được hoặc giữa chứng cứ mâu thuẫn với nhau, nhưng Hội đồng xét xử vẫn dựa vào các chứng cứ và tình tiết đó để kết tội và xử phạt bị cáo. Điều đó đã dẫn đến một số trường hợp xử phạt oan sai người vô tội (ví dụ: vụ án Vườn điều). Để khắc phục những biểu hiện thiếu dân chủ đó, cần bổ sung nội dung sau vào cuối điều luật này: “Không được sử dụng những chứng cứ chưa được làm sáng tỏ hoặc mâu thuẫn với nhau làm căn cứ để kết tội và xử phạt bị cáo” Tác giả: ThS. Nguyễn Ngọc Khanh Source: Tạp chí Luật học, số 7 năm 2008 1. Bộ luật tố tụng hình sự (BLTTHS) đầu tiên của nước Cộng hoà xă hội chủ nghĩa Việt Nam được Quốc hội thông qua ngày 28/6/1988. Qua hai lần sửa đổi, bổ sung (ngày 22/12/1992 và ngày 26/11/2003) nhiều chế định của Bộ luật được sửa đổi, bổ sung đáng kể nhưng các quy định của Bộ luật về hoạt động của người bào chữa tại phiên toà hầu như không có sự thay đổi. Thực tế áp dụng các quy định của BLTTHS trong thời gian qua cho thấy các quy định của BLTTHS về vai trò của người bào chữa tại phiên toà(1) chưa thực sự hợp lí và còn nhiều bất cập khi áp dụng những quy định này trong thực tiễn. Trong khoa học luật tố tụng hình sự gần đây đă có một số công trình đề cập những bất cập đó.(2) Trong bài viết này chúng tôi tiếp cận vấn đề dưới góc độ so sánh vị trí của người bào chữa tại phiên toà theo luật tố tụng hình sự Việt Nam và trong hệ thống tố tụng hình sự của Úc với mong muốn rút ra được những bài học bổ ích và đưa ra những kiến nghị sửa đổi một số quy định của BLTTHS hiện hành về vấn đề này. Trong BLTTHS Việt Nam hiện hành, vị trí của người bào chữa tại phiên toà hình sự sơ thẩm được quy định tại các điều luật sau: Điều 19 (đảm bảo quyền bình đẳng trước toà án), Điều 190 (sự có mặt của người bào chữa), Điều 207 (trình tự xét hỏi), các điều từ Điều 209 đến Điều 215 (quy định về thủ tục xét hỏi, xem xét vật chứng, xem xét tại chỗ…), Điều 217 (trình tự phát biểu khi tranh luận) và Điều 218 (đối đáp). Theo quy định của Điều 19 BLTTHS, tại phiên toà, người bào chữa có quyền bình đẳng với kiểm sát viên, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự và những người tham gia tố tụng khác trong việc đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, đưa ra yêu cầu và tranh luận dân chủ trước toà án. Toà án có trách nhiệm tạo điều kiện cho người bào chữa thực hiện những quyền này để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị cáo. Tại phiên toà, vai trò của người bào chữa trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị cáo được thể hiện trong thủ tục xét hỏi và thủ tục tranh luận. 2. Vai trò của người bào chữa trong thủ tục xét hỏi được quy định tại khoản 2 Điều 207 BLTTHS như sau: “Khi xét hỏi từng người, chủ tọa phiên ṭa hỏi trước rồi đến các hội thẩm, sau đó đến kiểm sát viên, người bào chữa, người bảo vệ quyền lợi của đương sự. Những người tham gia phiên ṭa cũng có quyền đề nghị với chủ tọa phiên ṭa hỏi thêm về những tình tiết cần làm sáng tỏ. Người giám định được hỏi về những vấn đề có liên quan đến việc giám định”. Có thể nói quy định tại khoản 2 Điều 207 BLTTHS là biểu hiện sinh động nhất của hệ thống tố tụng xét hỏi đă và đang tồn tại ở Việt Nam và một số nước, ví dụ như Trung Quốc. Theo quy định tại khoản 2 Điều 207 BLTTHS Việt Nam, khi xét hỏi người có quyền đặt câu hỏi đầu tiên là thẩm phán, sau đó đến hội thẩm, rồi đến kiểm sát viên. Chỉ sau khi những người tiến hành tố tụng kết thúc việc xét hỏi th́ người bào chữa và người bảo vệ quyền lợi của đương sự mới có quyền đặt câu hỏi. Trên thực tế, các câu hỏi đối với người bị xét hỏi đại đa số được đặt ra bởi thẩm phán, hội thẩm và kiểm sát viên. Khi những người này tiến hành xét hỏi, thông thường chủ toạ phiên toà không khống chế về mặt thời gian nhưng khi người bào chữa đặt câu hỏi với người bị xét hỏi, họ thường bị chủ toạ phiên toà ngắt lời và hạn chế thời gian hỏi.(3) Câu hỏi đặt ra ở đây là: Vai trò của thẩm phán (và cả hội thẩm) trong thủ tục xét hỏi nói riêng, tại phiên toà nói chung là gì? Họ là những người “trọng tài” đứng ra phân xử giữa bên buộc tội và bên gỡ tội hay họ là những người xét hỏi? Những người ủng hộ hệ thống tố tụng xét hỏi có thể biện hộ rằng tại phiên toà, thẩm phán đóng vai trò là trọng tài nhưng việc họ có quyền xét hỏi không mâu thuẫn với việc họ thực hiện vai trò của người trọng tài. Không những thế, việc xét hỏi còn có thể giúp họ đưa ra được quyết định đúng đắn về việc giải quyết vụ án. Tuy nhiên, theo quan điểm của chúng tôi, quy định này chưa thực sự hợp lí. Tham khảo quy định của pháp luật các nước có hệ thống tố tụng tranh tụng nói chung, của pháp luật Úc nói riêng có thể thấy rằng vai trò của thẩm phán tại phiên toà ở những nước này hoàn toàn khác với vai trò của thẩm phán tại phiên toà ở Việt Nam. Trong hệ thống tố tụng tranh tụng, tại phiên toà, thẩm phán thực sự là người “trọng tài” (umpire), lắng nghe ý kiến các bên để đưa ra quyết định cuối cùng.(4) Họ không trực tiếp tiến hành việc xét hỏi như ở Việt Nam. Theo Koppen và Penrod,(5) trong hệ thống tố tụng tranh tụng, thủ tục tố tụng là cuộc đấu tranh giữa bên buộc tội và bên gỡ tội. Hệ thống này coi trọng sự trình bày của các bên và sự cung cấp chứng cứ của các bên tại phiên toà hơn là những chứng cứ có sẵn trong hồ sơ. Tại phiên toà, công tố viên và luật sư bào chữa bình đẳng trong việc đưa ra chứng cứ và kiểm tra người làm chứng của bên kia. V́ là hệ thống tố tụng hình sự tranh tụng nên thủ tục xét hỏi không được đặt ra như ở Việt Nam. Tuy nhiên, luật cho phép công tố viên và người bào chữa được đặt câu hỏi đối với bị cáo và người làm chứng được yêu cầu triệu tập bởi bất cứ bên nào. Xét dưới góc độ nhất định việc xét hỏi vẫn được tiến hành nhưng chủ thể của việc xét hỏi là công tố viên và luật sư chứ không phải là thẩm phán và bồi thẩm đoàn. Trong hệ thống này, thẩm phán được xác định là “trọng tài” thực thụ, là người kiểm tra các chứng cứ (gatekeeper for evidence), xác định những chứng cứ nào có giá trị sử dụng và hướng dẫn bồi thẩm đoàn trong việc đánh giá chứng cứ. Có thể sẽ là khập khiễng khi so sánh vai trò của luật sư trong thủ tục xét hỏi theo quy định của pháp luật Việt Nam với vai trò của luật sư tại phiên toà theo quy định của pháp luật Úc v́ hai nước này có hai hệ thống tố tụng hình sự khác nhau. Cũng không thể mang các quy định của pháp luật của một nước theo hệ thống common law như Úc để áp dụng vào thực tiễn một nước theo hệ thống civil law như Việt Nam. Tuy nhiên, qua việc nghiên cứu hệ thống tố tụng tranh tụng của Úc, chúng ta có thể nhận thấy những điểm ưu việt của hệ thống tố tụng này và rút ra bài học, cân nhắc những điểm ưu việt đó khi tiến hành sửa đổi các quy định tương ứng trong BLTTHS. Chúng tôi cho rằng điểm ưu việt lớn nhất của hệ thống tố tụng tranh tụng là vai trò của thẩm phán được xác định rơ ràng, bởi họ là người trọng tài công minh, đứng giữa bên buộc tội và bên gỡ tội. Với tư cách là người trọng tài, họ không tham gia vào việc xét hỏi mà chỉ kiểm tra, đánh giá chứng cứ các bên đưa ra. Ở Việt Nam, thẩm phán vừa là người tiến hành xét hỏi vừa là người phân xử. Khi tiến hành xét hỏi, thẩm phán phải xét hỏi một cách khách quan, toàn diện và đầy đủ nhưng trên thực tế th́ khi xét hỏi thẩm phán cũng như kiểm sát viên thường chỉ tập trung vào các chứng cứ buộc tội đối với bị cáo. Khi nghiên cứu hệ thống tố tụng xét hỏi, các học giả phương Tây cho rằng hệ thống tố tụng này được xem như một cuộc điều tra (an inquest);(6) nhà nước chỉ quan tâm đến kết quả của quá trình tố tụng và muốn những người làm công tác điều tra t́m ra càng nhiều sự thật càng tốt(7) và hệ thống này quan tâm đến chứng cứ trong hồ sơ hơn là chứng cứ được đưa ra tại phiên toà.(8) Hơn thế nữa, họ cho rằng v́ truớc khi xét xử thẩm phán đă nghiên cứu hồ sơ nên dễ có cái nhìn định kiến đối với bị cáo. McEwan cho rằng trong hệ thống tố tụng xét hỏi, sự xét hỏi được định hướng bởi niềm tin rằng tội phạm (được đem ra xét xử) chắc chắn đă được thực hiện.(9) Dường như những nhận định trên rất đúng với thực tiễn tố tụng hình sự Việt Nam. Một sự khác biệt nữa giữa hệ thống tố tụng xét hỏi và hệ thống tố tụng tranh tụng mà sự khác biệt này dẫn đến các quy định của pháp luật về thủ tục xét hỏi tại phiên toà khác nhau, đó là sự khác nhau trong việc phân định các chức năng truy tố, xét xử và bào chữa. Trong hệ thống tố tụng tranh tụng, sự phân định này rất rơ ràng: Công tố viên giữ quyền công tố, luật sư có chức năng bào chữa và thẩm phán đóng vai trò của người “trọng tài”. Trong hệ thống tố tụng tranh tụng, thẩm phán không tham gia vào việc xét hỏi như ở Việt Nam. Sự chuyên biệt hoá vai trò của thẩm phán với tư cách là người trọng tài giúp họ thực hiện chức năng của mình tốt hơn và đánh giá chứng cứ một cách khách quan hơn. Ngược lại, trong hệ thống tố tụng xét hỏi, chức năng của thẩm phán và chức năng của kiểm sát viên dường như bị chồng chéo. Theo quy định tại Điều 10 BLTTHS Việt Nam, trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về các cơ quan tiến hành tố tụng (bao gồm cơ quan điều tra, viện kiểm sát và toà án). Tại phiên toà, thẩm phán ngoài trách nhiệm của người “trọng tài” còn mang trách nhiệm chung là chứng minh tội phạm, giống như kiểm sát viên. Việc BLTTHS quy định thẩm phán là người đặt câu hỏi đầu tiên đối với người bị xét hỏi cũng phần nào thể hiện trách nhiệm của thẩm phán trong việc chứng minh tội phạm. Gần đây, trong khoa học luật tố tụng hình sự Việt Nam, một số tác giả đă đề xuất sửa đổi các quy định của BLTTHS về thủ tục xét xử theo hướng quy định chủ thể của việc xét hỏi chỉ là kiểm sát viên và người bào chữa, người bảo vệ quyền lợi của đương sự.(10) Thẩm phán và hội thẩm không tham gia xét hỏi mà chỉ đặt câu hỏi khi thấy cần thiết làm sáng tỏ các câu trả lời của người bị xét hỏi. Chúng tôi đồng ý với đề xuất này. Cụ thể, chúng tôi kiến nghị sửa đổi trình tự xét hỏi tại phiên toà (khoản 2 Điều 207 BLTTHS) theo hướng quy định khi xét hỏi kiểm sát viên hỏi trước rồi đến người bào chữa và người bảo vệ quyền lợi của đương sự. Thẩm phán và hội thẩm chỉ đặt câu hỏi khi thấy cần làm rơ các tình tiết trong lời khai của người bị xét hỏi. 3. Có thể nói, vai trò của người bào chữa trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị cáo tại phiên toà được thể hiện rơ nét nhất trong thủ tục tranh luận tại phiên toà. Theo quy định tại Điều 217 BLTTHS, sau khi kiểm sát viên trình bày lời luận tội, nếu bị cáo có người bào chữa th́ người bào chữa trình bày bản bào chữa của mình cho bị cáo. Bị cáo có quyền bổ sung ý kiến bào chữa. Theo quy định của Điều 218 BLTTHS, người bào chữa có quyền trình bày ý kiến của mình về bản luận tội của kiểm sát viên và đưa ra đề nghị của mình. Họ có quyền đáp lại ý kiến của kiểm sát viên và của những người tham gia tranh luận khác. Khi kiểm sát viên, người bào chữa và những người tham gia tranh luận khác tranh luận, chủ toạ phiên toà không được hạn chế thời gian tranh luận, tạo điều kiện để người tham gia tranh luận trình bày hết ý kiến nhưng có quyền cắt những ý kiến không liên quan đến vụ án. Để đảm bảo việc tranh luận tại phiên toà, Điều 218 BLTTHS quy định chủ toạ phiên toà có quyền đề nghị kiểm sát viên phải đáp lại những ý kiến có liên quan đến vụ án của người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác mà những ý kiến đó chưa được kiểm sát viên tranh luận. Thực tiễn tố tụng hình sự Việt Nam những năm qua cho thấy, kể từ khi Nghị quyết của Bộ chính trị số 08/NQ-TW ngày 02/01/2001 về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới và Nghị quyết của Bộ chính trị số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 được ban hành, thủ tục tranh tụng tại phiên toà hình sự được coi trọng hơn rất nhiều so với trước đây và người bào chữa được tạo điều kiện tốt hơn để tham gia tranh tụng với kiểm sát viên và những người tham gia tố tụng khác tại phiên toà. Tuy nhiên, thực tiễn cũng cho thấy việc áp dụng các quy định của BLTTHS về thủ tục tranh tụng tại phiên toà còn tồn tại một số bất cập. Cụ thể là: Thứ nhất, khi người bào chữa trình bày bản bào chữa của mình, họ có thể bị chủ toạ phiên toà hạn chế về mặt thời gian. Ví dụ, trong phiên xử Bùi Tiến Dũng ngày 03/8/2007, chủ toạ phiên toà hạn chế mỗi người bào chữa chỉ được nói trong 10 phút. Luật sư Phạm Hồng Hải đứng dậy phát biểu: “Theo quy định, chủ toạ không được hạn chế thời gian tranh luận của các luật sư”(11). Thứ hai, có những trường hợp, khi người bào chữa trình bày, hội đồng xét xử tạo điều kiện cho họ trình bày nhưng sau đó tuyên bố “không chấp nhận ý kiến của người bào chữa” mà không nêu lí do không chấp nhận. Theo kết quả khảo sát năm 2006,(12) kể từ khi Nghị quyết số 08/NQ-TW được ban hành, tình trạng này không còn nhiều song thỉnh thoảng vẫn xảy ra trong thực tế. Thứ ba, khi người bào chữa đưa ra vấn đề yêu cầu tranh luận với kiểm sát viên, trong nhiều trường hợp kiểm sát viên không đáp lại ý kiến của người bào chữa và chủ toạ phiên toà cũng không yêu cầu kiểm sát viên đối đáp với người bào chữa.(13) Theo quy định tại Điều 218 BLTTHS, chủ toạ phiên toà có quyền đề nghị kiểm sát viên phải đáp lại ý kiến của người bào chữa nếu ý kiến đó chưa được kiểm sát viên tranh luận. Tuy nhiên, v́ đây là quyền của chủ toạ phiên toà nên chủ toạ phiên toà có thể thực hiện, có thể không. Theo chúng tôi luật nên quy định đây vừa là quyền vừa là nghĩa vụ của chủ toạ phiên toà, có nghĩa là khi người bào chữa hoặc người tham gia tranh luận khác đưa ra vấn đề yêu cầu tranh luận với kiểm sát viên, nếu vấn đề đó chưa được tranh luận mà kiểm sát viên không tự nguyện tham gia tranh luận, chủ toạ phiên toà phải yêu cầu kiểm sát viên đáp lại ý kiến của người bào chữa hoặc người tham gia tranh luận khác, có như vậy mới đảm bảo việc tranh luận công khai tại phiên toà theo tinh thần cải cách tư pháp. Ở Úc nói riêng và ở các nước theo hệ thống tố tụng tranh tụng nói chung, việc tranh luận tại phiên toà được thực hiện rất nghiêm túc, công khai. Bản chất của hệ thống tố tụng tranh tụng là “sự tranh căi giữa các bên”(14) và như đă nói ở phần trên, hệ thống tố tụng này coi trọng việc trực tiếp trình bày của các bên tại phiên toà hơn là những chứng cứ có trong hồ sơ. Bởi vậy, tất cả các tình tiết được đưa ra bởi bên buộc tội và bên gỡ tội tại phiên toà đều phải được tranh luận công khai. Ở Việt Nam, có thể thấy các quy định của pháp luật về chủ thể tham gia và trình tự tranh luận tại phiên toà tương đối hợp lí. Tuy nhiên, luật chưa có được quy định đủ chặt để đảm bảo những quy định này được thực thi trên thực tế. Chúng tôi kiến nghị: Điều 218 BLTTHS cần sửa đổi theo hướng quy định khi người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác đưa ra các tình tiết yêu cầu kiểm sát viên tranh luận, kiểm sát viên có nghĩa vụ phải đáp lại ý kiến đó nếu những ý kiến đó chưa được kiểm sát viên tranh luận. Chủ toạ phiên toà phải có trách nhiệm đảm bảo việc đối đáp giữa kiểm sát viên, người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác. 4. Kể từ khi Nghị quyết của Bộ chính trị số 08/NQ-TW được ban hành năm 2001, có thể nói rằng mặc dù các quy định của BLTTHS (2003) về thủ tục tố tụng tại phiên toà không có sự thay đổi so với trước đây song trên thực tế, vai trò của luật sư bào chữa tại phiên toà dần dần được đánh giá cao hơn. Tuy nhiên, thực tiễn cho thấy do nhiều nguyên nhân (như các quy định về thủ tục xét hỏi chưa hợp lí; quy định về trách nhiệm của chủ toạ phiên toà trong thủ tục tranh luận chưa chặt chẽ và do những người tiến hành tố tụng chưa thực sự triệt để tuân thủ các quy định của pháp luật…), người bào chữa chưa thực sự phát huy hết được vai trò của mình trong việc bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của bị cáo. Chúng tôi đề xuất sửa đổi các quy định của Điều 207 (trình tự xét hỏi) và Điều 218 (đối đáp) nhằm đề cao hơn nữa vai trò của người bào chữa tại phiên toà và tạo điều kiện cho họ thực hiện chức năng cao cả của mình là bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của bị cáo. Với sự thay đổi này, hệ thống tố tụng hình sự Việt Nam sẽ dần dần chuyển từ hệ thống tố tụng xét hỏi sang hệ thống tố tụng hỗn hợp. Hệ thống này, theo chúng tôi, về cơ bản vẫn giữ bản chất của hệ thống tố tụng xét hỏi nhưng bên cạnh đó đúc rút những điểm ưu việt của hệ thống tố tụng tranh tụng; việc tranh tụng tại phiên toà được đặt ra thành một nguyên tắc trong tố tụng hình sự. Việc thay đổi này hoàn toàn phù hợp với tinh thần cải cách tư pháp. Đối với người bào chữa, hệ thống tố tụng hỗn hợp sẽ mang lại cho họ cơ hội tốt hơn để tham gia vào thủ tục xét hỏi và thủ tục tranh luận tại phiên toà để bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của bị cáo./. Chú thích: (1). Trong bài viết này chúng tôi chỉ đề cập vị trí của người bào chữa tại phiên toà hình sự sơ thẩm. (2.Xem: Hoàng Thị Sơn, “Thực tiễn thực hiện quyền tự bào chữa và nhờ người khác bào chữa”, Tạp chí luật học số 4/2002; Hoàng Thị Sơn, “Thực hiện nguyên tắc đảm bảo quyền bào chữa của bị can, bị cáo trong tố tụng hình sự”, Luận án tiến sĩ, 2003; Nguyễn Huy Thiệp, Một vài ý kiến về cải cách tư pháp với hoạt động của luật sư tại phiên toà, Nguồn: ong.asp; Lê Phú Thịnh, Cải cách tư pháp – Góc nhìn từ một phiên toà hình sự sơ thẩm – ý kiến của luật sư vẫn chưa được tôn trọng, Nguồn: hanoi.org.vn/traodoi/caicach_tuphap.asp#top; Nguyễn Văn Chiến, Nâng cao kĩ năng tranh tụng của luật sư Việt Nam bên thềm hội nhập, Nguồn: hanoi.org.vn/vande/nangcaokynangtranhtung.asp#top. (3).Xem: Hoàng Thị Sơn, Thực hiện nguyên tắc đảm bảo quyền bào chữa của bị can, bị cáo trong tố tụng hình sự, Luận án tiến sĩ, 2003. (4).Xem: Peter J. Van Koppen và Steven D. Penrod, So sánh hệ thống tố tụng tranh tụng và hệ thống tố tụng xét hỏi trong cuốn “Hệ thống tụng tranh tụng và hệ thống tố tụng xét hỏi – Viễn cảnh của các hệ thống tố tụng hình sự”, Nxb. Kluwer Academic/Plenum Pubishers, 2003 và Jenny McEwan, Chứng cứ và thủ tục tố tụng tranh tụng – Luật hiện đại, Nxb. Hart Publishing, 1998. (5).Xem: Koppen and Penrod, Sđd. (6).Xem: Koppen and Penrod, Sđd. (7).Xem: McEwan, Sđd. (8).Xem: Koppen and Penrod, Sđd. (9).Xem: Mc Ewan, Sđd. (10).Xem: Nguyễn Huy Thiệp, Tlđd. (11).Xem: 3B9C0156/. (12). Khảo sát được tiến hành bởi tác giả để phục vụ cho việc viết luận án tiến sĩ với đề tài: “Vai trò của luật sư bào chữa ở Việt Nam”. (13).Xem: Lê Phú Thịnh, Tlđd. (14).Xem: Koppen and Penrod, Sđd. Nguyên tắc việc xét xử của Tòa án nhân dân có Hội Thẩm nhân dân tham gia, Hội thẩm ngang quyền với Thẩm phán: Thực tiễn và những bất cập Nguyên tắc việc xét xử của Tòa án nhân dân có Hội Thẩm nhân dân tham gia, Hội thẩm ngang quyền với Thẩm phán: Thực tiễn và những bất cập Một trong những đặc trưng của Nhà nước ta là Nhà nước của dân, do dân, vì dân, tất cả quyền lực thuộc về nhân dân. Bản thân chế định Hội thẩm là sự thể hiện tư tưởng " lấy dân làm gốc", bảo đảm nguyên tắc thực hiện quyền lực của nhân dân trong hoạt động xét xử của Tòa án. Tòa án là cơ quan quyền lực của Nhà nước, Nhà nước thông qua Tòa án để thực hiện quyền lực tư pháp của mình. Chính bằng hoạt động xét xử, Tòa án giáo dục công dân trung thành với Tổ quốc, tôn trọng pháp luật, đấu tranh phòng và chống tội phạm, bảo vệ lợi ích của nhân dân. Hội thẩm bằng sự tham gia của mình vào Hội đồng xét xử mà thực hiện quyền lực tư pháp và thông qua đó để nhân dân tham gia một cách có hiệu quả vào công tác quản lý Nhà nước nói chung, hoạt động của Tòa án nói riêng. Tại Điều 129 Hiến pháp 1992 quy định: " Việc xét xử của Tòa án nhân dân có Hội thẩm nhân dân, của Tòa án Quân sự có Hội thẩm quân nhân tham gia theo quy định của pháp luật. Khi xét xử Hội thẩm ngang quyền với Thẩm phán". Như vậy, nguyên tắc thực hiện chế độ xét xử có Hội thẩm nhân dân tham gia, Hội thẩm ngang quyền với Thẩm phán là một nguyên tắc Hiến định, nhưng tham gia cụ thể như thế nào lại do Luật tố tụng Hình sự, Dân sự… quy định. Vì là một nguyên tắc Hiến định nên nếu việc xét xử của Tòa án nhân dân mà không có Hội thẩm nhân dân  tham gia thì sẽ không chỉ là vi phạm Luật tố tụng mà còn là vi phạm Hiến pháp. Nguyên tắc này có ý nghĩa hết sức quan trọng trong xét xử, bởi việc tham gia của Hội thẩm giúp cho Tòa án xét xử không chỉ đúng Pháp luật mà còn phù hợp với nguyện vọng của nhân dân. Hội thẩm có đời sống chung trong cộng đồng, trong tập thể lao động, nên Hội thẩm hiểu sâu hơn tâm tư nguyện vọng của quần chúng, nắm bắt được dư luận quần chúng nhân dân. Khi được cử hoặc bầu làm Hội thẩm nhân dân, Hội thẩm không tách khỏi hoạt động lao động sản xuất của cơ quan, đơn vị, cơ sở của mình. Với vốn hiểu biết thực tế, kinh nghiệm trong cuộc sống, với sự am hiểu về phong tục tập quán ở địa phương, Hội thẩm sẽ bổ sung cho Thẩm phán những kiến thức xã hội cần thiết trong quá trình xét xử để có được một phán quyết đúng pháp luật, được xã hội đồng tình ủng hộ. Tại Hội nghị học tập của ngành cán bộ Tư pháp năm 1950 Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nói: "Trong công tác xử án phải công bằng, liêm khiết, trong sạch. Như thế cũng chưa đủ. Không chỉ giới hạn hoạt động của mình trong khung Tòa án mà phải gần dân, hiểu dân, giúp dân, học dân…". Muốn đưa ra phán quyết đúng, giải quyết các tranh chấp đúng pháp luật, hợp với lẽ công bằng, xử phạt đúng người, đúng tội, hiển nhiên đòi hỏi những người làm công tác xét xử phải có đạo đức trong sáng, có bản lĩnh, có trình độ chuyên môn và nghiệp vụ vững vàng. Ngoài ra, để Hội đồng xét xủ có phán quyết đúng đắn, đòi hỏi họ cũng phải có kiến thức và vốn hiểu biết cuộc sống, có kinh nghiệm hoạt động xã hội. Vì thế pháp luật quy định khi xét xử có Hội thẩm nhân dân tham gia là sự bổ sung cần thiết cho những lĩnh vực đó. Hơn nữa, Hội thẩm là đại diện của các giới, các ngành, các tổ chức xã hội, nghề nghiệp, hội thẩm có thể phản ánh một cách khách quan cách nhìn nhận về sự kiện, vụ việc từ suy nghĩ, tâm tư của quần chúng nhân dân, chứ không phải từ góc độ của một luật gia thuần túy. Thực tế cho thấy những người được bầu làm Hội thẩm là những người có uy tín trong xã hội, được quần chúng tín nhiệm và có ảnh hưởng nhất định trong xã hội, họ thường là những người có lối sống gương mẫu, có phẩm chất tốt, là tấm gương trong lao động, công tác, nhân dân tin cậy vào sự công minh và vô tư của họ. Qua sự tham gia xét xử của Hội thẩm, uy tín của cơ quan xét xử ngày càng được nâng cao và được nhân dân tin cậy ủng hộ, đồng thời Hội thẩm còn đóng vai trò to lớn trong công tác tuyên truyền giáo dục pháp luật. Bằng vai trò cá nhân, Hội thẩm đóng góp nhất định trong việc giữ gìn " tình làng nghĩa xóm" ổn định xã hội, phòng chống tội phạm. Pháp luật không chỉ quy định khi xét xử Hội đồng xét xử phải có Hội thẩm nhân dân tham gia mà còn quy định khi xét xử Hội thẩm ngang quyền với Thẩm phán, tức là Hội thẩm nhân dân cùng Thẩm phán quyết định giải quyết mọi vấn đề của vụ án không kể về nội dung hay thủ tục tố tụng. Mặc dù Hội thẩm không phải là cán bộ trong biên chế Tòa án mà là người của cơ quan, tổ chức được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền bầu hoặc cử làm đại diện cho nhân dân tham gia vào hoạt động xét xử của Tòa án, nhưng khi tham gia xét xử Hội thẩm lại ngang quyền với Thẩm phán, từ việc đọc hồ sơ vụ án, nghiên cứu chứng cứ, cho đến việc ra quyết định giải quyết vụ án. Đây là điều quan trọng để Hội thẩm nhân dân thực sự pháp huy được vai trò là đại diện cho quần chúng nhân dân của mình. Tuy Hội thẩm nhân dân ngang quyền với Thẩm phán, nhưng Hội thẩm chỉ chính thức bắt đầu tham gia tố tụng và trở thành thành viên của Hội đồng xét xử khi có Quyết định đưa vụ án ra xét xử. Là một trong những người tiến hành tố tụng Hội thẩm nhân dân có một vị trí pháp lý khá quan trọng, số lượng Hội thẩm nhân dân chiếm 2/3 trong thành phần Hội đông xét xử sơ thẩm; đối với những vụ án phức tạp, tính chất nghiêm trọng, số lượng Hội thẩm nhân dân có thể lên đến 3 người trong tổng số 5 thành viên của Hội đồng xét xử. Như vậy, trong thành phần của Hội đồng xét xử sơ thẩm, số lượng Hội thẩm nhân dân bao giờ cũng chiếm tỷ lệ cao hơn so với Thẩm phán. Đây là một lợi thế để các Hội thẩm nhân dân thể hiện "ngang quyền" trên tinh thần dân chủ.Tuy nhiên, thực tế phải thẳng thắn nhìn nhận, khi trình độ, điều kiện giữa Hội thẩm nhân dân và Thẩm phán có một khoảng cách quá xa thì việc thực hiện nguyên tắc " ngang quyền" của Hội thẩm khi tham gia xét xử cũng chỉ mang tính tượng trưng, hình thức.Trên thực tế một Thẩm phán phải có trình độ thấp nhất là cử nhân Luật, phải qua lớp đào tạo nghiệp vụ xét xử tại Học viện tư pháp, có thời gian công tác Pháp luật từ 4 năm trở lên ( đối với cấp huyện), từ 6 năm trở lên (đối với cấp tỉnh).Thẩm phán hoạt động xét xử lâu dài,tích lũy được nhiều kinh nghiệm, Thẩm phán có nhiệm vụ thụ lý hồ sơ vụ án, có quyền tiến hành các hoạt động theo tố tụng như: ghi lời khai, thu thập chứng cứ và tiếp xúc với các đương sự trong thời gian khá dài….Đó là điều kiện đưa ra những quyết định đúng đắn về vụ án. còn đối với Hội thẩm nhân dân chưa được đào tạo bài bản, không được trang bị kiến thức cơ bản về pháp luật mà chỉ sau khi được bầu họ mới được tham dự một số buổi tập huấn ngắn hạn về kiến thức Pháp luật và nghiệp vụ xét xử, nên việc xem xét các vấn đề đặt ra đối với họ chủ yếu bằng kinh nghiệm sống chứ không hoàn toàn dựa trên cơ sở pháp luật. Sự tham gia xét xử của Hội thẩm nhân dân là cần thiết nhưng phần lớn Hội thẩm nhân dân không có trình độ chuyên môn nghiệp vụ, hiểu biết Pháp luật không sâu thì làm sao họ có thể " ngang quyền" với Thẩm phán khi xét xử được. Hơn nữa,  quy định về chế độ nghiên cứu hồ sơ của Hội thẩm nhân dân cũng còn nhiều bất cập, trong thời gian quá ngắn (kể từ khi Tòa án ra Quyết định xét xử thì Hội thẩm nhân dân mới chính thức tham gia nghiên cứu, xét xử vụ án đó), hơn nữa đã là Hội thẩm nhân dân thì sẽ được tham gia xét xử tất cả các loại án từ hình sự, dân sự, đến hành chính, kinh tế, lao động… Với trình độ. kiến thức Pháp luật của Hội thẩm nhân dân như hiện nay, trong thời gian nghiên cứu hồ sơ ít hơn Thẩm phán, thì Hội thẩm nhân dân không có đủ điều kiện để đánh giá hết các chứng cứ trong hồ sơ để có quyết định đúng đắn về vụ án, nhất là đối với những vụ án có nhiều tình tiết phức tạp như án dân sự về tranh chấp đất đai, thừa kế, những vụ án hình sự có nhiều bị cáo tham gia, hồ sơ dày đến hàng trăm bút lục… Phải khẳng định rằng, việc xét xử các vụ án là hết sức phức tạp. đòi hỏi các thành viên Hội đồng xét xử phải tinh thông nghiệp vụ, nắm chắc pháp luật, am hiểu xã hội. Đòi hỏi đặt ra là như vậy, nhưng theo các quy định hiện hành về tiêu chuẩn để được bầu làm Hội thẩm nhân dân thì nêu rất chung chung là “có kiến thức pháp lý”, vậy căn cứ vào đâu để đánh giá một người là có kiến thức pháp lý? Với quy định chưa rõ ràng này việc tham gia xét xử của Hội thẩm nhân dân còn mang tính cơ cấu và hình thức. Số Hội thẩm nhân dân có bằng cấp về pháp luật chiếm tỷ lệ rất thấp. Hơn nữa theo quy định của pháp luật hiện hành thì Hội thẩm nhân dân cũng như thẩm phán khi có tỷ lệ vụ việc do mình tham gia xét xử, giải quyết bị hủy, sửa do lỗi chủ quan của Hội đồng xét xử thì ngoài việc không được xét thưởng, còn bị xem xét mức độ để có thể đề nghị miễn hoặc bãi nhiệm, nhưng trên thực tế, nếu trách nhiệm của Hội thẩm nhân dân được xác định một cách rõ ràng đối với các bản án bị hủy, cải, sửa thì e rằng không ai dám chấp nhận làm Hội thẩm nhân dân trong một điều kiện với tiêu chuẩn, chế độ như hiện nay. Để nguyên tắc này có tính khả thi, không tượng trưng, hình thức, hơn nữa để nâng cao chất lượng xét xử, tôi cho rằng  trong thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm, số lượng thành viên Hội thẩm nhân dân nên ít hơn Thẩm phán. Đặc biệt để Hội thẩm nhân dân đảm đương được chức trách, nhiệm vụ của mình cần tiêu chuẩn hóa đội ngũ Hội thẩm nhân dân, Hội thẩm nhân dân phải có trình độ cử nhân Luật hoặc đã qua công tác pháp luật từ 3 - 5 năm, phải qua lớp bồi dưỡng nghiệp vụ xét xử; cần quy định về mặt tổ chức, cụ thể: Đoàn Hội thẩm nhân dân là một tổ chức chính trị xã hội không chịu sự quản lý của Chánh án Tòa án nhân dân cùng cấp, có kinh phí hoạt động riêng. Đoàn Hội thẩm có Trưởng đoàn và Phó trưởng đoàn làm việc theo chế độ chuyên trách là người trực tiếp quản lý, phân công việc tham gia xét xử của Hội thẩm nhân dân. Theo đó, cơ chế phối hợp với Tòa án sẽ là: sau khi lên lịch xét xử, Tòa án gửi cho Trưởng đoàn Hội thẩm để sắp xếp, phân công Hội thẩm nhân dân tham gia xét xử và gửi văn bản phân công cho Tòa án để ban hành quyết định đưa vụ án ra xét xử. Làm như vậy, một mặt giảm bớt công việc cho Tòa án, mặt khác việc lựa chọn Hội thẩm nhân dân tham gia xét xử các vụ án cụ thể trở nên khách quan hơn. Đặc biệt trong thời gian chuẩn bị xét xử Hội thẩm nhân dân phải hết sức nỗ lực trong việc nghiên cứu hồ sơ, xem xét những tình tiết, tài liệu liên quan đến vụ án, nguyên nhân và điều kiện làm phát sinh vụ án, trên cơ sở đó Hội thẩm nhân dân phải chuẩn bị cho mình một kế hoạch thẩm vấn tại phiên tòa, có như vậy mới chủ động khi tham gia xét xử và thể hiện sự "ngang quyền" với Thẩm phán được. Đi đôi với việc tiêu chuẩn hóa đội ngũ Hội thẩm nhân dân, cần phải có một chính sách đãi ngộ, chế độ bồi dưỡng thỏa đáng, thích hợp đối với Hội thẩm nhân dân, để tương tầm với trọng trách mà pháp luật quy định. Pháp luật hiện hành trao cho Hội thẩm nhân dân quyền năng pháp lý khá lớn, song chưa có cơ chế để Hội thẩm nhân dân phát huy vai trò, nhiệm vụ của mình, do vậy hoạt động còn mang tính hình thức. Muốn giải quyết vấn đề này, đòi hỏi phải có các phương án và giải pháp đồng bộ cùng với sự tham gia tích cực, trách nhiệm từ nhiều phía. Trên cơ sở tổng kết thực tiễn, chế định về Hội thẩm nhân dân cần phải được nghiên cứu, sửa đổi để bảo đảm yếu tố khoa học và tính pháp lý trong hoạt đông xét xử của Tòa án. Trần Kỳ

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docBamp192I T7852P H7884C K7922 TTHS.doc
  • docBamp192I T7852P H7884C K7922 TH431416NG M7840I 1.doc
  • docBT H7884C K7922 2727844T 272AI.doc
Luận văn liên quan