ODA nguồn vốn cho đầu tư phát triển ở Việt Nam - Thực trạng và giải pháp

Lời mở đầu Sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước với mục tiêu phấn đấu đến năm2020 đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp đã đi được một chặng đường khá dài. Sau hơn 20 năm Đổi mới, Việt Nam đã đạt được những thành tựu phát triển kinh tế và tiến bộ xã hội vượt bậc, được dư luận trong nước và quốc tế thừa nhận rộng rãi: Nền kinh tế tăng trưởng liên tục với tốc độ bình quân 7,5%/năm, mức đói nghèo giảm từ trên 50% vào đầu những năm 90 xuống còn trên 10% vào năm 2008, hội nhập quốc tế sâu rộng và toàn diện đánh dấu bằng việc Việt Nam trở thành thành viên thứ 150 của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), được bầu là Ủy viên không thường trực của Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc, Việt Nam là thành viên tích cực của ASEAN, APEC, và nhiều Diễn đàn, tổ chức quốc tế khác, . Những thành tựu mà Việt Nam đạt được trong thời gian qua có phần đóng góp quan trọng của viện trợ phát triển như một phần trong sự nghiệp phát triển của Việt Nam. Trong thời gian qua, ODA thực sự là một nguồn vốn quan trọng đối với phát triển đất nước, ODA đã giúp chúng ta tiếp cận, tiếp thu những thành tựu khoa học công nghệ hiện đại, phát triển nguồn nhân lực, điều chỉnh cơ cấu kinh tế và tạo ra hệ thống cơ sở hạ tầng kinh tế -xã hội tương đối hiên đại. Tuy vậy, để đạt được mục tiêu trở thành nước công nghiệp vào năm 2020 chúng ta cần phải huy động và sử dụng hiệu quả hơn nữa các nguồn lực cho phát triển, trong đó ODA có một vai trò quan trọng. Do đó, một câu hỏi được đạt ra là liệu chúng ta có thẻ huy động được nhiều hơn và sử dụng hiệu quả hơn nguồn vốn ODA không? Có thể khẳng định ngay điều đó là là hoàn toàn có thể. Vậy những giải pháp nào cần được xúc tiến thực hiện để nâng cao hiệu quả quản lý và sử dụng ODA?. Với mong muốn giải đáp được câu hỏi trên và có một cái nhìn sâu hơn, toàn diện hơn về ODA. Vì vậy, em đã quyết định lựa chọn đề tài : “ODA nguồn vốn cho đầu tư phát triển ở Việt Nam – thực trạng và giải pháp” để thực hiện đề án môn học của mình. MỤC LỤC Trang Danh mục sơ đổ hình vẽ .3 Chương 1 : Những vấn đề lý luận chung về ODA 1. Nguồn vốn ODA 4 1.1 Khái niệm ODA .4 1.2 Đặc điểm của ODA 4 II. Vai trò của ODA đối với đầu tư phát triển ở Việt Nam 6 Chương 2 :Thực trạng huy động, sử dụng và quản lý ODA ở Việt Nam 1. Tình hình giải ngân ODA 8 2. Tính hiệu quả của việc sử dụng ODA 13 3. Hạn chế trong sử dụng và quản lý ODA 14 4. Một số nguyên nhân dẫn đến thành công, hạn chế trong quản lý và sử dụng ODA .15 5. Những bài học giá trị 16 Chương 3: Một số giải pháp tăng cường quản lý và sử dụng ODA I. Một số giải pháp chung .17 1. Về cơ chế chính sách .18 2. Về tổ chức thực hiện dự án 18 3. Về sử dụng ODA .19 II. Một số giải pháp tăng tốc độ giải ngân nguồn vốn ODA .19 1. Hài hòa thủ tục dự án .19 2. Giải quyết vốn đối ứng 20 3. Cải thiện chất lượng đầu vào .20 4. Tiếp tục hoàn thiện chính sách đền bù, tái định cư 21 III. Định hướng tương lai đối với ODA 21 Tài liêu tham khảo 24 Phụ lục các tổ chức, nhà tài trợ ODA cho Việt Nam .25

doc25 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 6957 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu ODA nguồn vốn cho đầu tư phát triển ở Việt Nam - Thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ra hệ thống cơ sở hạ tầng kinh tế -xã hội tương đối hiên đại. Tuy vậy, để đạt được mục tiêu trở thành nước công nghiệp vào năm 2020 chúng ta cần phải huy động và sử dụng hiệu quả hơn nữa các nguồn lực cho phát triển, trong đó ODA có một vai trò quan trọng. Do đó, một câu hỏi được đạt ra là liệu chúng ta có thẻ huy động được nhiều hơn và sử dụng hiệu quả hơn nguồn vốn ODA không? Có thể khẳng định ngay điều đó là là hoàn toàn có thể. Vậy những giải pháp nào cần được xúc tiến thực hiện để nâng cao hiệu quả quản lý và sử dụng ODA?. Với mong muốn giải đáp được câu hỏi trên và có một cái nhìn sâu hơn, toàn diện hơn về ODA. Vì vậy, em đã quyết định lựa chọn đề tài : “ODA nguồn vốn cho đầu tư phát triển ở Việt Nam – thực trạng và giải pháp” để thực hiện đề án môn học của mình. MỤC LỤC Trang Danh mục sơ đổ hình vẽ……………………………………………………………...3 Chương 1 : Những vấn đề lý luận chung về ODA Nguồn vốn ODA………………………………………………..4 Khái niệm ODA………………………………………..……….4 Đặc điểm của ODA……………………………………………..4 Vai trò của ODA đối với đầu tư phát triển ở Việt Nam…..……6 Chương 2 :Thực trạng huy động, sử dụng và quản lý ODA ở Việt Nam Tình hình giải ngân ODA………………………………………8 Tính hiệu quả của việc sử dụng ODA…………………………13 Hạn chế trong sử dụng và quản lý ODA………………………14 Một số nguyên nhân dẫn đến thành công, hạn chế trong quản lý và sử dụng ODA……………………………………….15 Những bài học giá trị…………………………………………..16 Chương 3: Một số giải pháp tăng cường quản lý và sử dụng ODA Một số giải pháp chung…………………………………………………...17 Về cơ chế chính sách……………………………………………….....18 Về tổ chức thực hiện dự án……………………………………………18 Về sử dụng ODA……………………………………………………...19 Một số giải pháp tăng tốc độ giải ngân nguồn vốn ODA………………...19 Hài hòa thủ tục dự án……………………………………………….....19 Giải quyết vốn đối ứng………………………………………………..20 Cải thiện chất lượng đầu vào……………………………………….....20 Tiếp tục hoàn thiện chính sách đền bù, tái định cư…………………..21 Định hướng tương lai đối với ODA……………………………………....21 Tài liêu tham khảo …………………………………………………………………..24 Phụ lục các tổ chức, nhà tài trợ ODA cho Việt Nam………………………………...25 DANH MỤC SƠ ĐỒ HÌNH VẼ Hình 1: Biểu đồ tình hình cam kết, ký kết và giải ngân ODA thời kỳ 1993 - 2008……9 Hình 2: Biểu đồ cơ cấu ODA theo ngành và theo lĩnh vực thời kỳ năm 1993 – 2008………………………………………………12 Bảng 1: Tỷ lệ giải ngân vốn ODA của Việt Nam và một số nước ASEAN giai đoạn2004-2008…………………………………...10 CHƯƠNG I NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ ODA I. NGUỒN VỐN ODA 1. Khái niệm ODA ODA bao gồm các khoản viện trợ không hoàn lại hoặc tín dụng ưu đãi của các chính phủ, các tổ chức liên chính phủ, các tổ chức phi chính phủ, các tổ chức thuộc hệ thống Liên Hợp Quốc, các tổ chức tài chính quốc tế dành cho cá nước đang và chậm phát triển. Các đồng vốn bên ngoài chủ yếu chảy vào các nước đang phát triển và chậm phát triển gồm có : ODA, tín dụng thương mại từ các ngân hàng, đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), viện trợ không hoàn lại của các tổ chức phi chính phủ(NGO) và tín dụng tư nhân. Các dòng vốn quốc tế này có những mối quan hệ rất chặt chẽ với nhau. Nếu một nước kém phát triển không nhận được vốn ODA đủ mức cần thiết để cải thiện các cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội thì cũng khó có thể thu hút được các nguồn FDI cũng như vay vốn tín dụng để mở rộng kinh doanh nhưng nếu chỉ tìm kiếm các nguồn ODA mà không tìm cách thu hút các nguồn vốn FDI và các nguồn tín dụng khác thì không có điều kiện tăng trưởng nhanh sản xuất, dịch vụ và sẽ không có đủ thu nhập để trả nợ vốn vay ODA. 2. Đặc điểm của ODA Như đã nêu trong khái niệm ODA là các khoản viên trợ không hoàn lại, viên trợ có hoàn lại hoặc tín dụng ưu đãi. Do vậy, ODA có những đặc điểm chủ yếu sau: Thứ nhất, vốn ODA mang tính ưu đãi. Vốn ODA có thời gian cho vay (hoàn trả vốn dài), có thời gian ân hạn dài. Chẳng hạn, vốn ODA của WB, ADB, JBIC có thời gian hoàn trả là 40 năm và thời gian ân hạn là 10 năm. Thông thường, trong ODA có thành tố viện trợ không hoàn lại, đây cũng chính là điểm phân biệt giữa viện trợ và cho vay thương mại. Thành tố cho không được xác định dựa vào thời gian cho vay, thời gian ân hạn và so sánh lãi suất viện trợ với mức lãi suất tín dụng thương mại. Sự ưu đãi ở đây là so sánh với tập quán thương mại quốc tế. Sự ưu đãi còn thể hiện ở chỗ vốn ODA chỉ dành cho các nước đang và chậm phát triển, vì mục tiêu phát triển. Có hai điều kiện cơ bản nhất để các nước đang và chậm phát triển có thể nhận được ODA là: Điều kiện thứ nhất: Tổng sản phẩm quốc nội (GDP) bình quân đầu người thấp. Nước có GDP bình quân đầu người càng thấp thì thường được tỷ lệ viện trợ không hoàn lại của ODA càng lớn và khả năng vay với lãi suất thấp và thời hạn ưu đãi càng lớn. Điều kiện thứ hai: Mục tiêu sử dụng vốn ODA của các nước này phải phù hợp với chính sách và phương hướng ưu tiên xem xét trong mối quan hệ giữa bên cấp và bên nhận ODA. Thông thường các nước cung cấp ODA đều có những chính sách và ưu tiên riêng của mình, tập trung vào một số lĩnh vực mà họ quan tâm hay có khả năng kỹ thuật và tư vấn. Đồng thời, đối tượng ưu tiên của các nước cung cấp ODA cũng có thể thay đổi theo từng giai đoạn cụ thể. Vì vậy, nắm bắt được xu hướng ưu tiên và tiềm năng của các nước, các tổ chức cung cấp ODA là rất cần thiết. Về thực chất, ODA là sự chuyển giao có hoàn lại hoặc không hoàn lại trong những điều kiện nhất định một phần tổng sản phẩm quốc dân từ các nước phát triển sang các nước đang phát triển. Do vậy, ODA rất nhạy cảm về mặt xã hội và chịu sự điều chỉnh của dư luận xã hội từ phía nước cung cấp cũng như từ phía nước tiếp nhận ODA. Thứ hai, vốn ODA mang tính rằng buộc. ODA có thể rằng buộc (hoặc rằng buộc một phần hoặc không ràng buộc) nước nhận về địa điểm chỉ tiêu. Ngoài ra mỗi nước cung cấp viện trợ cũng đều có những ràng buộc khác và nhiều khi các ràng buộc này rất chặt chẽ đối với nước nhận. Ví dụ, Nhật Bản quy định vốn ODA của Nhật đều được thực hiện bằng đồng Yên Nhật. Vốn ODA mang yếu tố chính trị: Các nước viện trợ nói chung đều không quên dành được lợi ích cho mình vừa gây ảnh hưởng chính trị vừa thực hiện xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ tư vấn vào nước tiếp nhận viện trợ. Chẳng hạn, Bỉ, Đức và Đan Mạch yêu cầu khoảng 50% viện trợ phải mua hàng hóa dịch vụ của nước mình. Canada yêu cầu tới 65%. Nhìn chung 22% viện trợ của DAC phải được sử dụng để mua hàng hóa và dịch vụ của các quốc gia viện trợ. Kể từ khi ra đời cho tới nay, viện trợ luôn chứa đựng hai mục tiêu cùng tồn tại song song. Mục tiêu thứ nhất là thúc đẩy tăng cường bền vững và giảm nghèo ở các nước đang phát triển. Động cơ nào đã thúc đẩy các nhà tài trợ đề ra mục tiêu này? Bản thân các nước phát triển nhìn thấy lợi ích của mình trong việc hỗ trợ, giúp đỡ các nước đang phát triển để mở mang thị trường tiêu thụ sản phẩm và thị trường đầu tư. Viện trợ thường gắn với các điều kiện kinh tế xét về lâu về dài, các nhà tài trợ sẽ có lợi về mặt an ninh, kinh tế, chính trị kinh tế các nước nghèo tăng trưởng. Mục tiêu mang tính cá nhân này được kết hợp với tinh thần nhân đạo, tính cộng đồng. Vì một số vấn đề mang tính toàn cầu như sự bùng nổ dân số thế giới, bảo vệ môi trường sống, bình đẳng giới, phòng chống dịch bệnh, giải quyết các xung đột sắc tộc, tôn giáo v.v…đòi hỏi sự hợp tác, nỗ lực của cả cộng đồng quốc tế không phân biệt nước giàu, nước nghèo. Mục tiêu thứ hai là tăng cường vị thế chính trị của các nước tài trợ. Các nước phát triển sử dụng ODA như một công cụ chính trị: xác định vị thế và ảnh hưởng của mình tại các nước và khu vực tiếp nhận ODA. Ví dụ, Nhật Bản hiện là nhà tài trợ hàng đầu thế giới và cũng là nhà tài trợ đã sử dụng ODA như một công cụ đa năng về chính trị và kinh tế. ODA của Nhật không chỉ đưa lại lợi ích cho nước nhận mà còn mang lại lợi ích cho chính họ. Trong những năm cuối thập kỷ 90, khi phải đối phó với những suy thoái nặng nề trong khu vực, Nhật Bản đã quyết định trợ giúp tài chính rất lớn cho các nước Đông Nam Á là nơi chiếm tỷ trọng tương đối lớn về mậu dịch và đầu tư của Nhật Bản, Nhật đã dành 15 tỷ USD tiền mặt cho các nhu cầu vốn ngắn hạn chủ yếu là lãi suất thấp và tính bằng đồng Yên và dành 15 tỷ USD cho mậu dịch và đầu tư có nhân nhượng trong vòng 3 năm. Các khoản cho vay tính bằng đồng Yên và gắn với những dự án có các công ty Nhật tham gia. Viện trợ của các nước phát triển không chỉ đơn thuần là việc trợ giúp hữu nghị mà còn là một công cụ lợi hại để thiết lập và duy trì lợi ích kinh tế và vị thế chính trị cho các nước tài trợ. Những nước cấp tài trợ đòi hỏi nước tiếp nhận phải thay đổi chính sách phát triển cho phù hơp với lợi ích cảu bên tài trợ. Khi nhận viện trợ các nước nhận cần cân nhắc kỹ lưỡng những điều kiện của nhà tài trợ. Khi nhận viện trợ các nước mắt mà đánh mất những quyền lợi lâu dài. Quan hệ hỗ trợ phát triển phải đảm bảo tôn trọng toàn vẹn lãnh thổ của nhau, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng và cùng có lợi. Thứ ba, ODA là nguồn vốn có khả năng gây nợ. Khi tiếp nhận và sử dụng nguồn vốn ODA do tính chất ưu đãi nên gánh nặng nợ thường chưa xuất hiện. Một số nước do không sử dụng hiệu quả ODA có thể tạo nên sự tăng trưởng nhất thời nhưng sau một thời gian lại lâm vào vòng nợ nần do không có khả năng trả nợ. Vấn đề là ở chỗ vốn ODA không có khả năng đầu tư trực tiếp cho sản xuất, nhất là cho xuất khẩu trong khi việc trả nợ lại dựa vào xuất khẩu thu ngoại tệ. Do đó, trong khi hoạch định chính sách sử dụng ODA phải phối hợp với các nguồn để tăng cường sức mạnh kinh tế và khả năng xuất khẩu. I. VAI TRÒ CỦA ODA ĐỐI VỚI ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN Ở VIÊT NAM Xuất phát từ kinh nghiệm của các nước trong khu vực như: Hàn Quốc, Malaixia và từ tình hình thực tế trong nước, trong những năm gần đây Việt Nam đã và đang thực hiện chiến lược phát triển kinh tế với xu hướng mở rộng và đa dạng hóa các mối quan hệ kinh tế quốc tế. Một trong những mục tiêu chính trong chiến lược này là thu hút ODA cho phát triển kinh tế. Vai trò của ODA được thể hiện ở một số điểm chủ yếu sau: Thứ nhất, ODA là nguồn bổ sung vốn quan trọng cho đầu tư phát triển. Sự nghiệp CNH, HĐH mà Việt Nam đang thực hiện đòi hỏi một khối lượng vốn đầu tư rất lớn mà nếu huy động trong nước thì không thể đáp ứng được. Do đó, ODA trở thành nguồn vốn từ bên ngoài quan trọng để đáp ứng nhu cầu vốn cho đầu tư phát triển. Trải qua hai cuộc kháng chiến, những cơ sở hạng tầng đã không còn gì, nhưng cho đến nay hệ thống hạ tầng, bưu chính viễn thông, điện đường trường trạm , y tế đã được nâng cao rất nhiều. Các khu công nghiệp chế xuất, khu công nghệ cao đã tạo ra môi trường hết sức thuận lợi cho sự hoạt động của các doanh nghiệp trong và ngoài nước. Thứ hai, ODA giúp cho việc tiếp thu những thành tựu khoa học, công nghệ hiện đại và phát triển nguồn nhân lực. Một trong những yếu tố quan trọng góp phần đẩy nhanh quá trình CNH,HĐH đất nước đó là yếu tố khoa học công nghệ và khả năng tiếp thu những thành tựu khoa học tiên tiến của đội ngũ lao động. Thông qua các dự án ODA các nhà tài trợ có những hoạt động nhằm giúp Việt Nam nâng cao trình độ khoa học công nghệ và phát triển nguồn nhân lực như: cung cấp các tài liệu kỹ thuật, tổ chức các buổi hội thảo với sự tham gia của những chuyên gia nước ngoài, cử các cán bộ Việt Nam đi học ở nước ngoài, tổ chức các chương trình tham quan học tập kinh nghiệm ở những nước phát triển, cử trực tiếp chuyên gia sang Việt Nam hỗ trợ dự án và trực tiếp cung cấp những thiết bị kỹ thuật, dây chuyền công nghệ hiện đại cho các chương trình, dự án. Thông qua những hoạt động này các nhà tài trợ sẽ góp phần đáng kể vào việc nâng cao trình độ khoa học công nghệ và phát triển nguồn nhân lực của Việt Nam và đây mới chính là lợi ích căn bản, lâu dài đối với chúng ta. Thứ ba, ODA giúp cho việc điều chính cơ cấu kinh tế. Các dự án ODA mà các nhà tài trợ dành cho Việt Nam thường ưu tiên vào phát triển cơ sở hạ tầng kinh tế kỹ thuật, phát triển nguồn nhân lực tạo điều kiện thuận lợi cho việc phát triển cân đối giữa các ngành, các vùng khác nhau trong cả nước. Bên cạnh đó còn có một số dự án giúp Việt Nam thực hiện cải cách hành chính nâng cao hiệu quả hoạt động của các cơ quan quản lý nhà nước. Tất cả những điều đó góp phần vào việc điều chính cơ cấu kinh tế ở Việt Nam. Thứ tư, ODA góp phần tăng khả năng thu hút FDI và tạo điều kiện để mở rộng đầu tư phát triển. Các nhà đầu tư nước ngoài khi quyết định bỏ vốn đầu tư vào một nước, trước hết họ quan tâm tới khả năng sinh lợi của vốn đầu tư tại nước đó. Do đó, một cơ sở hạ tầng yếu kém như hệ thống giao thông chưa hoàn chỉnh, phương tiện thông tin liên lạc thiếu thốn và lạc hậu, hệ thống cung cấp năng lượng không đủ cho nhu cầu sẽ làm nản lòng các nhà đầu tư vì những phí tổn mà họ phải trả cho việc sử dụng các tiện nghi hạ tầng sẽ lên cao. Một hệ thống ngân hàng lạc hậu cũng là lý do làm cho các nhà đầu tư e ngại, vì những chậm trễ, ách tắc trong hệ thống thanh toán và sự thiếu thốn các dịch vụ ngân hàng hỗ trợ cho đầu tư sẽ làm phí tổn đầu tư gia tăng tới hiệu quả đầu tư giảm sút. Như vậy, đầu tư của chính phủ vào việc nâng cấp, cải thiện và xây dựng mới các cơ sở hạ tầng, hệ thống tài chính, ngân hàng đều hết sức cần thiết nhằm làm cho môi trường đầu tư trở nên hấp dẫn hơn. Nhưng vốn đầu tư cho việc xây dựng cơ sở hạ tầng là rất lớn và nếu chỉ dựa vào vốn đầu tư trong nước thì không thể tiến hành được do đó ODA sẽ là nguồn vốn bổ sung hết sức quan trọng cho ngân sách nhà nước. Một khi môi trường đầu tư được cải thiện sẽ làm tăng sức hút dòng vốn FDI. Mặt khác, việc sử dụng vốn ODA để đầu tư cải thiện cơ sở hạ tầng sẽ tạo điều kiện cho các nhà đầu tư trong nước tập trung đầu tư vào các công trình sản xuất kinh doanh có khả năng mang lại lợi nhuận. Rõ ràng là ODA ngoài việc bản thân nó là một nguồn vốn bổ sung quan trọng cho phát triển, nó còn có tác dụng nâng cao trình độ khoa học công nghệ, điều chỉnh cơ cấu kinh tế và làm tăng khả năng thu hút vốn từ nguồn FDI góp phần quan trọng vào việc thực hiện thành công sự nghiệp CNH, HĐH đất nước. CHƯƠNG II : THỰC TRẠNG HUY ĐỘNG, SỬ DỤNG VÀ QUẢN LÝ VỐN ODA Trong thời gian qua, cộng đồng tài trợ tại Việt Nam đã được mở rộng rất nhiều và hiện có 51 nhà tài trợ, bao gồm 28 nhà tài trợ song phương1 và 23 nhà tài trợ đa phương2 đang hoạt động thường xuyên tại Việt Nam. Ngoài các nước là thành viên của Tổ chức OECD-DAC còn có các nhà tài trợ mới nổi như Trung Quốc, Ấn độ, Hung-ga-ri, Séc,... Ngoài nguồn vốn tài trợ ODA, ở Việt nam còn có khoảng 600 các tổ chức phi Chính phủ quốc tế hoạt động với số tiền viện trợ hàng năm lên đến 200 triệu USD trong nhiều lĩnh vực khác nhau, liên quan trực tiếp đến đời sống người dân tại các vùng nông thôn, miền núi, vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc. Thông qua 15 Hội nghị CG thường niên, tổng vốn ODA đã được các nhà tài trợ cam kết đạt 42,438 tỷ USD với mức cam kết năm sau cao hơn năm trước, kể cả những năm kinh tế thế giới gặp khó khăn như khủng hoảng tài chính khu vực châu Á vào năm 1997. Số vốn ODA cam kết nói trên được giải ngân dựa trên tình hình thực hiện các chương trình và dự án được ký kết giữa Chính phủ và các nhà tài trợ. Từ năm 1993 đến nay (tính đến hết tháng 10 năm 2008), Chính phủ Việt Nam và các nhà tài trợ đã ký các điều ước quốc tế cụ thể về ODA với tổng số vốn đạt 35,217 tỷ USD, chiếm 82,98% tổng vốn ODA cam kết trong thời kỳ này, trong đó vốn ODA vay ưu đãi chiếm khoảng 80%, vốn ODA không hoàn lại chiếm khoảng 20%. 1. Tình hình giải ngân ODA Việt Nam nhận thức rằng cam kết vốn ODA mới chỉ là sự ủng hộ về chính trị của cộng đồng tài trợ quốc tế, việc giải ngân nguồn vốn này nhằm tạo ra các công trình, sản phẩm kinh tế - xã hội cụ thể để đóng góp vào quá trình phát triển của đất nước mới là quan trọng. Trong thời kỳ 1993-2008 (tính đến hết tháng 10 năm 2008), tổng vốn ODA giải ngân đạt 22,065 tỷ USD, chiếm 52% tổng vốn ODA cam kết và 62,65% tổng vốn ODA ký kết. Có thể nhận thấy trong thời kỳ này tình hình giải ngân vốn ODA có những cải thiện nhất định với chiều hướng tích cực qua các năm. Tuy nhiên, mức giải ngân này vẫn chưa đạt mục tiêu đề ra trong các kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm và tỷ lệ giải ngân vẫn còn thấp hơn mức trung bình của thế giới và khu vực đối với một số nhà tài trợ cụ thể. Hình 1: Biểu đồ tình hình cam kết, ký kết và giải ngân ODA thời kỳ 1993 - 2008 Như được minh hoạ ở Hình 1, các tổ chức, quốc gia cam kết viện trợ cho Việt Nam nguồn vốn khá cao nhưng khi ký kết con số viện trợ hầu như giảm đi rất nhiều. Việc giải ngân vốn có tiến bộ song chưa đủ. Vốn ODA giải ngân đã tăng hơn 4 lần trong thời gian từ 1993 đến 2008, tốc độ giải ngân bình quân đạt 52,3% . Hầu hết sự gia tăng dài hạn của vốn giải ngân là ở vốn vay hơn là vốn không hoàn lại. Gần một nửa (49%) nguồn vốn vay có lãi suất thấp hơn 1%/năm và thời gian trả nợ ít nhất là 30 năm, trong đó có 10 năm ân hạn. Một phần ba nguồn vốn vay là với lãi suất hàng năm từ 1% đến 2,5% (MPI, 2007). Hơn nữa, phần lớn khoản vay ODA sẽ được xem xét trong điều kiện hạn chế khả năng trả nợ bên ngoài của Việt Nam. Tổng nợ quy đổi của Việt Nam khoảng 37%GDP năm 2007 (MPI, 2007), điều này cho thấy không có dấu hiệu nguy hiểm của khủng hoảng nợ ở Việt Nam. Theo dự đoán của các chuyên gia Ngân hàng Phát triển Châu Á, nếu Việt Nam cải thiện được tỷ lệ giải ngân ODA, tốc độ tăng trưởng GDP có thể tăng từ mức 8 – 8,4% như hiện tại lên tới 9% và Việt Nam có thể trở thành nước có mức thu nhập trung bình vào năm 2009, sớm hơn mục tiêu là năm 2010. Nhà tài trợ Tỷ lệ giải ngân bình quân của một số nước ASEAN (%) Tỷ lệ giải ngân bình quân của Việt nam (%) Ngân hàng thế giới 19%/năm 15%/năm Ngân hàng phát triển châu Á 21%/năm 19%/năm Nhật Bản ( JBIC) 16%/năm 10,3%/năm Nguồn MPI Bảng 1: Tỷ lệ giải ngân vốn ODA của Việt Nam và một số nước ASEAN giai đoạn 2004-2008 Căn cứ vào nhu cầu vốn đầu tư và định hướng phát triển theo ngành, lĩnh vực và vùng lãnh thổ đề ra trong các chiến lược, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, Chính phủ Việt Nam đã đưa ra định hướng chiến lược, chính sách và những lĩnh vực ưu tiên sử dụng vốn ODA cho từng thời kỳ. Gần đây nhất, trên cơ sở tham vấn rộng rãi các nhà tài trợ, ngày 29 tháng 12 năm 2006 Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 290/2006/QĐ-TTg phê duyệt Đề án thu hút và sử dụng nguồn hỗ trợ phát triển chính thức thời kỳ 2006-2010. 5 lĩnh vực ưu tiên thu hút và sử dụng ODA trong thời kỳ 5 năm 2006-2010 bao gồm: - Phát triển nông nghiệp và nông thôn (bao gồm nông nghiệp, thuỷ lợi, lâm nghiệp, thuỷ sản kết hợp xóa đói, giảm nghèo). - Xây dựng hạ tầng kinh tế theo hướng hiện đại. - Xây dựng kết cấu hạ tầng xã hội (y tế, giáo dục và đào tạo, dân số và phát triển và một số lĩnh vực khác). - Bảo vệ môi truờng và các nguồn tài nguyên thiên nhiên. - Tăng cường năng lực thể chế và phát triển nguồn nhân lực, chuyển giao công nghệ, nâng cao năng lực nghiên cứu và triển khai. Cơ cấu vốn ODA theo các điều ước quốc tế về ODA đã được ký trong thời kỳ 1993-2008 (tính đến hết tháng 10 năm 2008) phù hợp với những định hướng ưu tiên sử dụng vốn ODA nêu trên. Trong các ngành và lĩnh vực ưu tiên vốn ODA, Nông nghiệp và Phát triển nông thôn kết hợp xóa đói giảm nghèo có các chương trình và dự án ODA ký kết trong thời kỳ 1993-2008 đạt tổng trị giá khoảng 5,5 tỷ USD, trong đó có nhiều dự án quy mô lớn như Dự án giảm nghèo các tỉnh vùng núi phía Bắc, Dự án phát triển cơ sở hạ tầng nông thôn dựa vào cộng đồng, Dự án phát triển sinh kế miền Trung, Chương trình cấp nước nông thôn, giao thông nông thôn và điện khí hóa nông thôn, Chương trình thủy lợi Đồng bằng sông Cửu Long và nhiều dự án phát triển nông thôn tổng hợp kết hợp xóa đói, giảm nghèo khác,.... đã góp phần hỗ trợ phát triển nông nghiệp và cải thiện một bước quan trọng đời sống người dân các vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, nhất là trong việc tiếp cận tới các dịch vụ công trong các lĩnh vực y tế, giáo dục. Năng lượng và Công nghiệp là lĩnh vực sử dụng nguồn vốn ODA lớn với các dự án đã ký trong thời gian qua đạt trên 7,6 tỷ USD nhằm cải tạo, nâng cấp, phát triển mới nhiều nhà máy nhiệt điện và thủy điện với công suất lớn Nhà máy nhiệt điện Phú Mỹ 2.1 công suất 288 MW; nhà máy nhiệt điện Phả Lại II công suất 600 MW; nhà máy thuỷ điện Hàm Thuận - Đa Mi công suất 475 MW; nhà máy nhiệt điện Phú Mỹ I công suất 1.090 MW; nhà máy nhiệt điện Ô Môn công suất 600 MW; nhà máy thuỷ điện Đại Ninh công suất 360 MW , cải tạo và phát triển mạng truyền tải và phân phối điện quốc gia đáp ứng nhu cầu điện gia tăng hàng năm cho sản xuất và đời sống ở các thành phố, thị trấn, thị xã, khu công nghiệp và khu vực nông thôn trên cả nước. Đây là nguồn vốn lớn và có ý nghĩa trong bối cảnh nguồn vốn đầu tư từ ngân sách còn hạn hẹp, khu vực tư nhân trong và ngoài nước trong giai đoạn phát triển ban đầu còn chưa mặn mà với đầu tư phát triển nguồn và lưới điện vì yêu cầu vốn lớn và thời gian thu hồi vốn chậm. Giao thông Vận tải và Bưu chính viễn thông là ngành tiếp nhận vốn ODA lớn nhất với tổng giá trị hiệp định ký kết đạt khoảng 9,88 tỷ USD thời kỳ 1993-2008. Nhờ nguồn vốn này, Việt Nam đã khôi phục và bước đầu phát triển các hệ thống giao thông đường bộ, đường sắt, đường không, đường biển và đường thủy nội địa. Đây là những cơ sở hạ tầng kinh tế hết sức quan trọng để thúc đẩy phát triển các ngành, lĩnh vực và địa phương, kể cả thu hút nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài Hệ thống đường bộ ở phía Bắc (Quốc lộ 5, 10, 18), Quốc lộ 1A, đường xuyên Á Thành phố Hồ Chí Minh - Mộc Bài, hầm đường bộ đèo Hải Vân, cảng biển nước sâu Cái Lân, cảng Tiên Sa (Đà Nẵng), cảng Sài Gòn, nhà ga quốc tế sân bay Tân Sơn Nhất, các cầu lớn như cầu Mỹ Thuận, cầu Cần Thơ, cầu Thanh Trì, cầu Bãi Cháy.Hệ thống thông tin liên lạc ven biển, điện thoại nông thôn và internet cộng đồng... . Hầu hết các thành phố lớn, các thành phố trực thuộc tỉnh, các thị xã và một số thị trấn đều có các hệ thống cấp nước sinh hoạt được tài trợ bằng nguồn vốn ODA. Các thành phố lớn như Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Đà Nẵng,... hiện đang triển khai thực hiện nhiều dự án ODA phát triển cơ sở hạ tầng đô thị quan trọng, quy mô lớn như đường sắt nội đô, thoát nước và xử lý nước thải, chất thải rắn,… Y tế, giáo dục đào tạo, môi trường, khoa học kỹ thuật là những lĩnh vực ưu tiên thu hút và sử dụng ODA trong thời gian qua với các chương trình, dự án đã ký đạt tổng số vốn khoảng 4,3 tỷ USD. Trong lĩnh vực giáo dục đào tạo, ODA hỗ trợ cho việc thực hiện cải cách giáo dục ở tất cả các cấp học (giáo dục tiểu học, trung học cơ sở, trung học phổ thông, giáo dục đại học, cao đẳng và dạy nghề), đào tạo giáo viên, tăng cường năng lực công tác kế hoạch và quản lý giáo dục, cung cấp học bổng đào tạo đại học và sau đại học ở nước ngoài, cử cán bộ, công chức đào tạo và đào tạo lại tại nước ngoài về các lĩnh vực kinh tế, khoa học, công nghệ và quản lý. Trong lĩnh vực y tế, vốn ODA không hoàn lại chiếm tỷ trọng cao, khoảng 58% trong tổng vốn ODA (khoảng 0,9 tỷ USD) đã được sử dụng để tăng cường cơ sở vật chất và kỹ thuật cho công tác khám và chữa bệnh (xây dựng bệnh viện và tăng cường trang thiết bị y tế cho một số bệnh viện tuyến tỉnh và thành phố, các bệnh viện huyện và các trạm y tế xã, xây dựng cơ sở sản xuất kháng sinh, trung tâm truyền máu quốc gia,..., tăng cường công tác kế hoạch hóa gia đình, phòng chống HIV/AIDS và bệnh truyền nhiễm như lao, sốt rét; đào tạo cán bộ y tế, hỗ trợ xây dựng chính sách và nâng cao năng lực quản lý ngành. Nhiều chương trình và dự án ODA hỗ trợ Việt Nam bảo vệ môi trường và phát triển bền vững như các chương trình trồng rừng và phủ xanh đất trống, đồi núi trọc; các chương trình và dự án xây dựng và bảo vệ các khu sinh quyển, rừng quốc gia, khu bảo tồn thiên nhiên,... Ngoài ra, hơn 1 tỷ USD vốn ODA còn được sử dụng để hỗ trợ cho ngân sách thông qua các khoản vay và viện trợ không hoàn lại gắn với chính sách của WB, ADB, IMF và một số nhà tài trợ song phương như hỗ trợ thực hiện các chính sách kinh tế trong lĩnh vực tài chính, tiền tệ, ngân hàng, phát triển khu vực tư nhân, cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước,.. Hình 2: Biểu đồ cơ cấu ODA theo ngành và theo lĩnh vực thời kỳ năm 1993 – 2008 2. Tính hiệu quả của việc sử dụng ODA Công tác thu hút và sử dụng ODA trong thời gian qua đã được Đảng và Nhà nước xác định về cơ bản có hiệu quả. Các nhà tài trợ cũng đánh giá như vậy. Tác động tích cực của ODA đối với Việt Nam là gì? Thứ nhất, tại 15 Hội nghị Nhóm tư vấn các nhà tài trợ dành cho Việt Nam (Hội nghị CG), các nhà tài trợ đã liên tục cam kết dành vốn ODA cho Việt Nam năm sau cao hơn năm trước, đạt tổng giá trị trên 42 tỷ USD kể cả những lúc nền kinh tế của các nước tài trợ gặp khó khăn như cuộc khủng hoảng tài chính khu vực Châu Á năm 1997. Đây chính là bằng chứng sinh động về sự ủng hộ mạnh mẽ về mặt chính trị của cộng đồng quốc tế đối với chủ trương, chính sách phát triển kinh tế - xã hội đúng đắn, hợp lòng dân của Đảng và Nhà nước ta. Thực tiễn viện trợ phát triển cho thấy nguồn vốn ODA thường đến với những quốc gia đang phát triển có tình hình chính trị ổn định, nền kinh tế tăng trưởng và phát triển, đời sống xã hội của nhân dân, nhất là những người dân nghèo, được quan tâm và cải thiện. Việt Nam là một địa chỉ như vậy. Trong quá trình tiếp nhận viện trợ phát triển, Việt Nam vẫn giữ được độc lập, tự chủ trong việc hoạch định và thực thi các chính sách cải cách theo lộ trình của mình, kể cả khi nhà tài trợ đòi hỏi Việt Nam phải thực hiện các cam kết cải cách trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng, cổ phần hóa, tư nhân hóa,....Mặc dù trong cơ cấu viện trợ, vốn vay ODA ưu đãi chiếm khoảng 80% song Việt Nam vẫn được các định chế tài chính quốc tế như Quỹ tiền tệ Quốc tế (IMF), Ngân hàng Thế giới (WB) đánh giá nợ nước ngoài hiện ở trong ranh giới an toàn. Thứ hai, mặc dù chiếm tỷ trọng không lớn, khoảng 3-4% trong GDP của Việt Nam, song ODA là nguồn vốn bổ sung cho nguồn vốn đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội của Chính phủ và là chất xúc tác cho các nguồn vốn đầu tư khác như vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), vốn đầu tư của khu vực tư nhân,.... Việc sử dụng ODA trong thời gian qua đã có hiệu quả, có tác động tích cực đến phát triển năng lực sản xuất, nâng cao chất lượng dịch vụ của các ngành và địa phương. Các công trình giao thông như Quốc lộ 5, Quốc lộ 10, Quốc lộ 18, Đường xuyên Á Tp. Hồ Chí Minh - Mộc Bài, cầu Bính, Cầu Bãi Cháy, Cầu Mỹ Thuận, Cảng hàng không Tân Sơn Nhất,... được tài trợ từ nguồn vốn ODA đã minh chứng rõ rệt về tác động lan tỏa của nguồn vốn ODA đối với phát triển. Ngoài ra, nguồn vốn ODA còn hỗ trợ các địa phương, đặc biệt các tỉnh còn nghèo, các công trình phục vụ trực tiếp đời sống của nhân dân như giao thông nông thôn, cấp điện và nước sinh hoạt, trường học, trạm y tế xã và các bệnh viện tỉnh và huyện, các công trình thủy lợi, các chợ nông thôn,... Thứ ba, ODA có vai trò quan trọng hỗ trợ Việt Nam xây dựng và hoàn thiện khung thể chế, pháp lý (xây dựng và hoàn thiện các Luật, các văn bản dưới Luật) thông qua việc cung cấp chuyên gia quốc tế, những kinh nghiệm và tập quán tốt của quốc tế và khu vực trong lĩnh vực pháp luật đặc biệt trong bối cảnh Việt Nam chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế. Thứ tư, nguồn vốn ODA có vai trò tích cực hỗ trợ phát triển năng lực con người trong việc đào tạo và đào tạo lại hàng vạn cán bộ Việt Nam trong thời gian qua trên rất nhiều lĩnh vực như nghiên cứu cơ bản và ứng dụng khoa học, công nghệ, quản lý kinh tế và xã hội, thông qua việc cung cấp học bổng nhà nước, cử chuyên gia nước ngoài để đào tạo tại chỗ trong quá trình thực hiện các chương trình, dự án ODA, chuyển giao công nghệ và kinh nghiệm quản lý tiên tiến, cung cấp trang thiết bị nghiên cứu và triển khai,... 3. Hạn chế trong sử dụng và quản lý ODA Bên cạnh những mặt được nói trên, chúng ta nhận thấy trong thời gian qua, công tác quản lý‎ và sử dụng nguồn vốn ODA còn có những bất cập, đó là: (i) Hệ thống văn bản pháp quy trong nước, đặc biệt giữa ODA và đầu tư công, chưa đồng bộ; (ii) Quy trình, thủ tục giữa Việt Nam và các nhà tài trợ còn thiếu hài hòa, (ii) Năng lực cán bộ quản lý và sử dụng ODA ở các cấp, nhất là ở cấp cơ sở chưa đáp ứng được yêu cầu về số lượng và chất lượng; và (iii) Công tác theo dõi và đánh giá các chương trình và dự án ODA trong bối cảnh phân cấp chưa được các Bộ, ngành và địa phương quan tâm đúng mức. Đây cũng là những nguyên nhân chủ yếu làm cho một số chương trình và dự án ODA chưa đạt được hiệu quả như mong muốn. 4. Một số nguyên nhân dẫn đến thành công, hạn chế trong quản lý và sử dụng ODA 4.1 Nguyên nhân thành công Chính phủ luôn coi trọng việc hoàn thiện môi trường pháp lý để quản lý và sử dụng hiệu quả nguồn vốn ODA. Việc chỉ đạo thực hiện ODA của chính phủ kịp thời và cụ thể như đảm bảo vốn đối ứng, vấn đề VAT đối với các chương trình, dự án ODA, nhờ vậy nhiều vướng mắc trong quá trình thực hiện các chương trình, dự án được tháo gỡ. Công tác tho dõi và đánh giá dự án đã đạt được nhiều bước tiến bộ. Nghị định 17/2001/NĐ-CP đã tạo khuôn khổ pháp lý tổ chức hệ thống theo dõi và đánh giá chương trình, dự án ODA từ các Bộ, Ngành trung ương tới các địa phương và các ban quản lý dự án. Chính phủ đã phối hợp chặt chẽ với các nhà tài trợ nhằm tăng cường quản lý ODA, làm hài hòa thủ tục giữa Việt Nam và các nhà tài trợ để thúc đẩy tiến trình thực hiện các chương trình, dự án. 4.2 Nguyên nhân dẫn đến hạn chế Những nguyên nhân chung: Thứ nhất, Việt Nam chưa có kinh nghiệm trong việc tiếp nhận vốn ODA, nhất là việc thực hiện các thủ tục có liên quan tới đấu thầu, thanh toán, chế độ báo cáo định kỳ, bố trí vốn đối ứng kịp thời. Thứ hai, công tác quản lý ODA còn bị chồng chéo, chưa tách bạch rõ trách nhiệm của các cấp làm giảm hiệu lực điều hành, quản lý vốn ODA. Thứ ba, mỗi nhà tài trợ lại có những qui định riêng và hầu như chưa hài lòng với những qui định của Việt Nam. Nhìn chung, các bước thực hiện dự án đều phải trình phía đối tác từng giai đoạn mất nhiều thời gian. Thứ tư, Việt Nam chịu ảnh hưởng nặng nề của thiên tai làm ảnh hưởng đến tiến độ thực hiện dự án. Thứ năm, Việt Nam chưa đáp ứng được yêu cầu của các nhà tài trợ. Nguyên nhân của việc giải ngân chậm: Một là, thời gian lựa chọn dự án, phát triển dự án và thẩm định dự án thường kéo dài, đặc biệt là các thủ tục hành chính về phía Việt Nam. Hai là, trình độ quản lý dự án, tư vấn dự án chung đặc biệt là phía Việt Nam còn chưa đáp ứng được yêu cầu, tính chuyên nghiệp của công chức Việt Nam còn thấp trong khi vai trò của các tổ chức tư nhân và phi chính phủ thường không được chấp nhận. Ba là, yêu cầu về vốn đối ứng của một số chương trình viện trợ chẳng những không có ý nghĩa như mong muốn mà còn gây trở ngại cho việc thúc đẩy thực hiện các dự án. Trên thực tế, phần lớn vốn đối ứng này đang trở thành gánh nặng cho ngân sách. Hơn nữa các vấn đề kỹ thuật để xác định tài sản làm vốn đối ứng thủ tục chấp nhận vốn đối ứng thường phức tạp. Bốn là, một phần lớn vốn ODA được chính phủ cấp cho các doanh nghiệp nhà nước thuộc khu vực sản xuất thay thế nhập khẩu dưới hình thức cho vay lại nhưng các dự án này lại thường được thẩm định một cách sơ sài, thời gian kéo dài nên hiệu suất thấp. Năm là, phần lớn các dự án dành cho các dân tộc thiểu số thường không tính đến các khía cạnh xã hôi và văn hóa của họ. Các dự án này thường không thất bại vì lý do kinh tế mà do khía cạnh xã hội và văn hóa. Vì vậy họ tham gia các dự án một cách thụ động và coi các khoản viện trợ như một thứ quà biếu không có giá trị phát triển. Sáu là, sự thiếu minh bạch về pháp luật, sự thiếu công khai về thông tin trong hệ thống kế toán của Việt Nam và quốc tế, những thủ tục phức tạp về giải ngân của các nhà tài trợ và tình trạng tham nhũng, quan liêu đang càng ngày càng gia tăng ở Việt Nam cũng là những trở ngại lớn đối với việc giải ngân các nguồn tài trợ quốc tế tại Việt Nam. 5. Những bài học có giá trị Nhìn lại 15 năm thu hút và sử dụng nguồn vốn ODA có thể rút ra một số bài học kinh nghiệm sau đây cho thời gian tới: - Tinh thần làm chủ trong toàn bộ chu trình ODA từ khâu hình thành ý tưởng, thiết kế dự án đến khâu tổ chức, quản l‎ý thực hiện, theo dõi và đánh giá dự án. - Vai trò của ODA là nguồn lực bổ trợ và xúc tác cho quá trình phát triển. Nhận thức đúng đắn này sẽ khắc phục tư tưởng thụ động, trông chờ vào viện trợ và giúp phát huy vai trò chủ động, sáng tạo trong phát triển. - Sự tham gia rộng rãi của các đối tượng thụ hưởng vào quá trình tiếp nhận và sử dụng vốn ODA là yếu tố quan trọng để giúp ODA được sử dụng đúng mục đích và có hiệu quả cao. - Xây dựng mối quan hệ đối tác tin cậy và cùng sẻ chia trách nhiệm giữa Việt Nam và nhà tài trợ sẽ góp phần đảm bảo sự thành công của các chương trình, dự án ODA. CHƯƠNG III MỘT SỐ GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG QUẢN LÝ VÀ SỬ DỤNG ODA Tình hình huy động, quản lý và sử dụng ODA ở nước ta thời gian qua cho thấy chúng ta đã đạt được những kết quả tích cực góp phần quan trọng thúc đẩy công cuộc CNH, HĐH đất nước. Song, chúng ta cũng thấy rằng còn có nhiều hạn chế trong quá trình huy động, quản lý và sử dụng vốn ODA mà chúng ta cần khắc phục để sử dụng có hiệu quả hơn nữa nguồn ngoại lực quí báu này. Sau đây là một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn ODA: I. MỘT SỐ GIẢI PHÁP CHUNG 1. Về cơ chế chính sách Thứ nhất, phải tiến hành xây dựng chính sách tổng thể về quản lý, giám sát vay và trả nợ nước ngoài phải tính đến các chỉ tiêu cơ bản về nợ nước ngoài như: khả năng hấp thụ vốn vay nước ngoài (tổng số nợ nước ngoài/GDP), chỉ tiêu khả năng vay thêm từng năm, chỉ tiêu khả năng hoàn trả nợ (tổng nghĩa vụ trả nợ/thu nhập xuất khẩu). Thứ hai, phải nhanh chóng hoàn chỉnh các chính sách, chế độ về vay và quản lý vay nợ nước ngoài nói chung và nguồn vốn ODA nói riêng. Thứ ba, rà soát lại các định mức, xóa bỏ các định mức lạc hậu, xây dựng các định mức đảm bảo tiên tiến, khoa học phù hợp với thực tiễn và xem xét lại qui trình đấu thầu, giao thầu để giảm sự khác biệt giữa trong và ngoài nước, tuy nhiên phải phù hợp với điều kiện của Việt Nam. Thứ tư, quản lý vay nợ cần xác định rõ trách nhiệm của người vay và người sử dụng vốn vay, chống ỷ lại vào nhà nước. Đồng thời phải quản lý chất lượng các khoản vay ODA đặc biệt là khâu xây dựng dự án. Cụ thể: - Ban hành các thông tư hướng dẫn thật cụ thể để thực hiện tốt các nghị định của chính phủ về quản lý vay, trả nợ nước ngoài, hoàn chỉnh hình thành quỹ tích lũy trả nợ nước ngoài nhằm tạo nguồn trả nợ cho chính phủ, đảm bảo trả nợ đúng hạn, không rơi vào chồng chất không có khả năng thanh toán. - Ban hành qui chế chung cho vay lại các nguồn vốn vay nước ngoài, khuyến khích sự tham gia của các ngành, các địa phương, các cơ sở vào khai thác nguồn vốn ODA nhằm khắc phục tình trạng lộn xộn hiện nay trong xác định các điều kiện cho vay. 2. Về tổ chức thực hiện dự án Thứ nhất, xác định rõ hơn nữa trách nhiệm của từng cơ quan quản lý và của người vay vốn ODA trong việc huy động vốn vay và sử dụng, quản lý nguồn vốn ODA cho vay lại phải được đồng bộ, thống nhất qua đầu mối là Bộ tài chính thực hiện cho vay lại hoặc ủy quyền cho ngân hàng thương mại cho vay theo quy định. Thứ hai, khi xây dựng các hạng mục, các chương trình, dự án ưu tiên đầu tư của nhà nước cần chỉ rõ thứ tự ưu tiên cho từng chương trình, dự án để làm căn cứ vận động vốn nước ngoài. Thứ ba, các nguồn vốn viện trợ cho từng lĩnh vực cần phải phân bổ theo trật tự ưu tiên với cơ cấu cụ thể, kết hợp với những khả năng và nhu cầu vốn đối ứng có tính toán cụ thể, phải xác định rõ về vốn đối ứng cho các dự án xây dựng cơ sở hạ tầng không có khả năng thu hút vốn trực tiếp. Các dự án còn lại chủ đầu tư cần có phương án bố trí vốn đối ứng chắc chắn hơn mới đưa vào kế hoạch sử dụng vốn ODA. Đây là vấn đề then chốt cho yêu cầu sử dụng hợp lý có hiệu quả các nguồn tài trợ từ bên ngoài. Thứ tư, kiện toàn bộ máy vay, trả nợ trong các cơ quan quản lý nợ nước ngoài. Tăng cường đào tạo, bồi dưỡng kiến thức lập và quản lý dự án ở các Bộ, ngành, địa phương nhằm đảm bảo khả năng lập kế hoạch, lập dự án và quản lý dự án ở các bộ, ngành. Nâng cao trình độ thẩm định để xét duyệt, quyết định dự án ngay ở từng bộ, ngành địa phương cũng như huy động các nguồn vốn đối ứng hiệu quả cao. Thứ năm, tăng cường công tác quản lý, giám sát nợ nước ngoài ngay từ khâu đàm phán, giám sát việc đấu thầu, mua sắm thiết bị, tư vấn, ký kết các hợp đồng, thực hiện rút vốn, sử dụng vốn, quyết toán nợ và bố trí nguồn trả nợ. Thứ sáu, tăng cường hoàn thiện hệ thống thống kê, kế toán về nợ nước ngoài, đẩy mạnh công tác tuyên truyền đối với các tổ chức tài trợ để họ hiểu thêm về thể chế điều phối và quản lý vay nợ nước ngoài, nguồn ODA của Việt Nam. 3. Về sử dụng ODA - Sử dụng vốn vay ưu đãi ODA phải coi trọng hiệu quả kinh tế , không được sử dụng hết tất cả các khoản thu nhập ròng đã có, cần phải giữ một phần để hoàn trả lại vốn, lãi kịp thời nhằm đảm bảo uy tín quốc tế. - Lựa chọn lĩnh vực sử dụng nguồn vốn đầu tư trực tiếp từ nước ngoài lâu dài thì việc cải thiện cơ sở hạ tầng đã trở thành nhiệm vụ cấp bách. Do đó, trong thời gian đầu của sự nghiệp CHN, HĐH Việt Nam cần tập trung vốn, đặc biệt là vốn ưu đãi nước ngoài ODA để đầu tư quan trọng của nhà nước trong từng thời kỳ. Về lâu dài, chiến lược sử dụng vốn vay phải theo hướng sử dụng vốn vay nước ngoài phải kết hợp với công cuộc cải cách ngày càng sâu sắc hơn, tăng cường xuất khẩu hàng hóa, điều chỉnh chiến lược thay thế mặt hàng nhập khẩu. Ba là, xây dựng hệ thống kiểm soát, đánh giá việc sử dụng nguồn vốn ODA: Vốn vay phải được sử dụng đúng mục đích đã được thẩm định phê duyệt, quán triệt phương châm vốn vay phải được sử dụng toàn bộ vào mục đích đầu tư phát triển, không dùng trang trải nhu cầu tiêu dùng; Thủ tục quản lý phải chặt chẽ nhưng phải thuận lợi cho người sử dụng trong việc rút vốn và sử dụng vốn, không gây phiền hà làm giảm tốc độ giải ngân. Phải đặt các hạn mức sử dụng và kiểm tra chặt chẽ việc chi tiêu, theo dõi quá trình thực hiện và quản lý giải ngân dự án. Trên đây là một số giải pháp cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả quản lý, sử dụng ODA. Sau đây xin nêu ra một số giải pháp cụ thể để đẩy nhanh tốc độ giải ngân vốn ODA- khâu mang tính chất quyết định đến việc hoàn thành một chương trình, dự án ODA. II. MỘT SỐ GIẢI PHÁP TĂNG TỐC ĐỘ GIẢI NGÂN VỐN ODA 1. Hài hòa thủ tục dự án Dự án đầu tư bằng vốn ODA phải trải qua hai khâu thẩm định. Các quá trình thẩm định và phê duyệt dự án diễn ra từ phía các cơ quan chính phủ và các nhà tài trợ. Để đảm bảo việc phê duyệt dự án được suôn sể cần có sự cải tiến thủ tục và phối hợp của cả hai phía. Thực tế hiện nay cho thấy tiến trình thẩm định và phê duyệt vẫn đang còn có những vướng mắc, các văn bản báo cáo nghiên cứu khả thi được chuẩn bị thường không đáp ứng yêu cầu do năng lực chuẩn bị báo cáo nghiên cứu khả thi của chủ đầu tư còn hạn chế dẫn đến sự chậm trễ trong việc phê duyệt báo cáo nghiên cứu tiền khả thi, còn thiếu sự nhất quán giữa nội dung của báo cáo khả thi được phê duyệt và các kết quả thẩm định của nhà tài trợ. Do đó, cả hai bên cần nghiên cứu, điều chỉnh để thủ tục thẩm định của hai bên tiến tới đồng bộ, thống nhất và phối hợp nhịp nhàng với nhau cả về nội dung và thời điểm thẩm định của một quy trình thẩm định chung nhưng vẫn là hai lần thẩm định của một quy trình thẩm định chung nhưng vẫn là hai lần thẩm định độc lập, khách quan. Trong đó, nên để thẩm định của nhà tài trợ sau khi có phê duyệt chính phủ. Đồng thời, để tránh lãng phí thời gian nên giảm bớt những thủ tục không thực sự cần thiết trong quá trình phê duyệt báo cáo nghiên cứu khả thi. Ngoài ra cần được bố trí vốn chuẩn bị đầu tư để lập trước nghiên cứu tiền khả thi và xúc tiến nghiên cứu khả thi cho các dự án nằm trong danh mục các dự án ưu tiên được sử dụng vốn ODA đã được chính phủ phê duyệt và nhà tài trợ cam kết xem xét tài trợ. 2. Giải quyết vốn đối ứng Vốn đối ứng cho các chương trình, dự án sử dụng vốn ODA là phần vốn trong nước tham gia trong từng chương trình, dự án ODA được cam kết giữa phía Việt Nam và phía nước ngoài trong các hiệp định, văn kiện dự án, quyết định đầu tư của cấp có thẩm quyền. Dự án vay vốn của chính phủ Nhật Bản hay Ngân hàng thế giới, Ngân hàng Châu Á thường xuyên yêu cầu vốn đối ứng trong nước chiếm từ 15% đến 30% tổng giá trị dự án hỗ trợ của các tổ chức thuộc hệ thống Liên hợp quốc thường đòi hỏi vốn đối ứng trong nước khoảng 20% trị giá dự án. Về nguyên tắc, vốn đối ứng của chương trình, dự án thuộc cấp nào thì cấp đó xử lý từ nguồn ngân sách của mình. Trường hợp một số địa phương có vốn đối ứng phát sinh quá lớn, vượt khả năng cân đối thì cần trình thủ tướng chính phủ để xin hỗ trợ một phần ngay từ khi lập dự án. Tuy nhiên, thực tế vốn đối ứng không phải lúc nào cũng trôi chảy, mà đang là một trong những nguyên nhân chủ yêu gây nên sự chậm trễ trong việc thực hiện dự án. Cơ chế vốn đối ứng khác nhau cho những dự án cùng loại là câu hỏi đang chờ giải đáp. Bên cạnh đó, một số dự án do vốn đầu tư lớn nên càng khó khăn về vốn đối ứng, đặc biệt là đối với các địa phương. Nhằm tháo gỡ những khó khăn về vốn đối ứng, cần quy định cụ thể hơn về cơ chế vốn đối ứng. Đảm bảo vốn đối ứng được cấp đầy đủ và kịp thời theo tiến độ thực hiện dự án, thống nhất cơ chế vốn đối ứng đối với những dự án cùng loại. Mặt khác, cần tăng cường quản lý và sử dụng vốn đối ứng cho các dự án ODA phù hợp với quy định của chính phủ và không được sử dụng vốn ngoài mục đích, nội dung của dự án. 3. Cải thiện chất lượng đầu vào Để cải thiện và nâng cao tốc độ giải ngân vốn ODA, giảm thiểu gánh nặng nợ nần, phải quan tâm nhiều hơn nữa đến chất lượng đầu vào của nguồn vốn ODA. Phải lựa chọn các dự án phù hợp, phục vụ chiến lược phát triển kinh tế- xã hội dài han và trung hạn. Cần chú trọng tới cơ cấu và tính bền vững của các nguồn vốn ODA. Đê tăng cường chất lượng đầu vào của các chương trình, dự án ODA công tác chuẩn bị, thẩm định và phê duyệt dự án cần được tổ chức chặt chẽ và chất lượng cao trên cơ sở phát triển quan hệ đối tác. Cần phát triển hơn nữa quan hệ đối tác giữa các bên, trên cơ sở quan tâm tới lợi ích chung cả tất cả các bên tham gia và đề cao vai trò làm chủ của bên tiếp nhận. Đồng thời, chia sẻ thông tin cũng là một cơ sở quan trong để phát triển quan hệ đối tác. Do đó, để có thể phối hợp trong quan hệ hợp tác phát triển nói chung và tạo điều kiện cho việc giải ngân đúng tiến độ các bên cần có thông tin chính xác và tôn trọng lới ích của nhau. 4. Tiếp tục hoàn thiện chính sách đền bù, tái định cư Giải phóng mặt bằng, tái định cư là khâu quan trọng, có ý nghĩa kinh tế, xã hội, chính trị, môi trường… và ảnh hưởng trực tiếp đến tiến độ thực hiện dự án và do đó ảnh hưởng đến tốc độ giải ngân vốn ODA nhưng đây cũng là khâu thường xuyên có vướng mắc trong quá trình thực hiện dự án. Vấn đề đền bù, giải phóng mặt bằng, tái định cư cần được coi là một bộ phận quan trọng trong kế hoạc thực hiện dự án ODA, vấn đề này không chỉ liên quan đến lợi ích thiết thân, cuộc sống hiện tại cũng như lâu dài của người dân mà còn liên quan đến luật pháp, chính sách của nhà nước, chính sách của nhà tài trợ. Trong đền bù luôn gặp tính hợp pháp của tài sản và việc xử lý vấn đề này không dễ dàng trong tình trạng xây dựng trái phép, lấn chiếm đất đai phổ biến hiện nay. Đồng thời việc áp dụng chính sách tính hợp pháp của tài sản trên thực tế nhiều khi lai mâu thuẫn với chính sách đảm bảo đời sống của người bị ảnh hưởng bởi dự án sau khi thực hiện tái định cư không tồi hơn địa điểm cũ của nhà tài trợ. Để tháo gỡ vấn đề này cấn phải có sự phối hợp từ nhiều phía Việt Nam và nhà tài trợ với thực tiễn của Việt Nam. Trên đây là một số giải pháp cơ bản nhằm nâng cao khả năng thu hút và sử dụng nguồn vốn ODA vào Việt Nam và trong mỗi dự án cụ thể, từng giai đoạn khác nhau chúng ta cần áp dụng những biện pháp cụ thể, kịp thời để ODA thật sự trở thành nguồn vốn hỗ trợ bên ngoài có ý nghĩa trong phát triển kinh tế đât nước. III. Định hướng trong tương lai đối với ODA ODA sẽ vẫn tiếp tục là nguồn vốn bổ sung quan trọng cho giai đoạn phát triển sắp tới. Trong giai đoạn phát triển sắp tới Việt Nam tiếp tục huy động mọi nguồn lực cho đầu tư phát triển, trong đó có nguồn vốn ODA. Thực hiện thành công Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2006-2010 Việt Nam sẽ trở thành nước đang phát triển có mức thu nhập trung bình (MIC) và theo tập quán tài trợ quốc tế Việt Nam sẽ nhận được ít hơn các nguồn vốn vay ODA ưu đãi như hiện nay. Đồng thời, các khoản viện trợ không hoàn lại và hỗ trợ kỹ thuật có khuynh hướng giảm. Trong bối cảnh đó, định hướng chính sách sử dụng nguồn vốn ODA cần có những thay đổi phù hợp. ODA vốn vay kém ưu đãi sẽ tập trung đầu tư cho các chương trình, dự án tầm cỡ quốc gia, có nguồn thu và khả năng trả nợ chắc chắn như xây dựng các nhà máy điện, kể cả các nhà máy điện nguyên tử; phát triển các tuyến đường cao tốc thu phí, kể cả trong các thành phố lớn; phát triển hệ thống vận tải bánh sắt quy mô vận tải lớn như tầu điện ngầm, đường sắt trên cao ở các thành phố lớn…; các cảng hàng không; cảng biển; các hệ thống thông tin liên lạc viễn thông...; các công trình sản xuất có hàm lượng công nghệ và kỹ thật cao, có sức lan tỏa thúc đẩy phát triển một ngành, một địa bàn lãnh thổ,... Trong thời gian tới việc thu hút và sử dụng ODA cần tập trung vào một số nhiệm vụ cụ thể như: - Các Bộ, ngành và địa phương cần nỗ lực chuẩn bị các chương trình và dự án đã được cam kết vốn để ký kết hiệp định, đẩy mạnh việc thực hiện và giải ngân các chương trình, dự án ODA để đảm bảo đạt mục tiêu thực hiện 11,9 tỷ USD vốn ODA trong thời kỳ 2006-2010 và tạo ra các công trình gối đầu cho giai đoạn sau năm 2010. - Sau năm 2010 ưu tiên sử dụng ODA, nhất là ODA vốn vay kém ưu đãi cho các chương trình, dự án có khả năng hoàn vốn cao, tạo được nguồn thu. - Mở rộng thành phần được tiếp cận và sử dụng nguồn vốn ODA, kể cả khu vực tư nhân trong nước trên cơ sở quan hệ đối tác công –tư kết hợp trong đầu tư phát triển. - Giảm bớt các khâu trung gian trong quản lý nguồn vốn ODA theo hướng chuyển trực tiếp nguồn vốn này cho chủ sở hữu vốn với cơ chế theo dõi và giám sát chặt chẽ của các cơ quan chức năng để bảo đảm hiệu quả sử dụng và thực hiện trả nợ vốn vay cho các nhà tài trợ. Việt Nam đang hướng tới nguồn vốn vay thương mại sau năm 2010. Theo kinh nghiệm quốc tế, một nước đang phát triển được xếp có mức thu nhập trung bình (GDP bình quân đầu người đạt trên 1.000 USD) sẽ nhận được ít vốn ODA có điều kiện ưu đãi cao hơn. Đến năm 2010, GDP bình quân đầu người của Việt Nam dự định đạt đến 1.050 USD. Khi thời điểm đó đến, các nhà tài trợ sẽ muốn tăng lượng ODA cho vay thay vì ODA ưu đãi. Đồng thời, Việt Nam cần phải sử dụng tốt hơn nguồn vốn ODA đã nhận được. Mặt khác, khi Việt Nam trở thành một nước mà nhiều người dân có mức thu nhập trung bình, những vấn đề mới sẽ nảy sinh. Thực tế cho thấy, ở một số nước như Philipin hay Sri Lanka không có sự cải thiện nào sau khi đạt được mức thu nhập trung bình. Do vậy, Việt Nam không nên theo bước chân của những nước này. Thay vào đó, Việt Nam cần phải xây dựng và đi theo chiến lược riêng của mình, đặc biệt là cải cách việc huy động và sử dụng vốn ODA. Xây dựng năng lực cho tương lai cũng là một điều quan trọng, trong đó đặc biệt là năng lực quản lý và năng lực con người. Khi Việt Nam trở thành một nước có mức thu nhập trung bình, tỷ trọng nguồn vốn ODA có điều kiện ưu đãi cao trong tổng vốn ODA sẽ giảm xuống, đồng thời vốn vay ODA có điều kiện gần với vay thương mại sẽ tăng lên. Do vậy, Việt Nam cần phải xây dựng kế hoạch giảm vốn vay ODA sau năm 2010. Hơn nữa, kinh nghiệm sử dụng các khoản vay thương mại cũng cần được nghiên cứu để chuẩn bị các điều kiện thu hút và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn này trong tương lai. Để sử dụng hiệu quả các nguồn vốn này, Việt Nam cần có định hướng phân bổ ODA hợp lý. Cụ thể, trong khi vốn ODA với các điều kiện ưu đãi cao cần được ưu tiên sử dụng để phát triển cơ sở hạ tầng kinh tế xã hội, vốn ODA gắn với các điều kiện kém ưu đãi và vốn vay thương mại cần phải được sử dụng cho các chương trình, dự án, ngành và vùng có khả năng thu hồi vốn nhanh và đảm bảo khả năng trả nợ vốn vay một cách bền vững. Do cơ cấu nguồn vốn ODA sẽ thay đổi và ODA có thể được thực hiện qua nhiều phương thức khác nhau, việc sử dụng một phương thức cụ thể nào cần phải dựa trên những yêu cầu cụ thể của sự phát triển để đảm bảo sử dụng có hiệu quả ODA. Hơn nữa, Việt nam sẽ cần phải áp dụng các phương thức và mô hình viên trợ mới như tiếp cận theo chương trình, ngành và hỗ trợ ngân sách. Những mô hình viện trợ mới này sẽ phát huy vai trò làm chủ của chính phủ, giảm chi phí giao dịch, tăng cường hài hoà giữa chính phủ và các nhà tài trợ, và đẩy nhanh tiến độ giải ngân các chương trình và dự án ODA. Tài liệu tham khảo Trang web của Bộ kế hoạch và đầu tư: Trang web của Bộ tài chính: Trang tin điện tử Giáo trình ĐTNN và CGCN - Nguyễn Hông Minh Giáo trình tài chính quốc tế - Học viện tài chính PHỤ LỤC 1Các nhà tài trợ song phương: Ai-xơ-len, Anh, Áo, Ba Lan, Bỉ, Ca-na-đa, Cô-oét, Đan Mạch, Đức, Hà Lan, Hàn Quốc, Hungari, I-ta-lia, Lúc-xem-bua, Mỹ, Na-uy, Nhật Bản, Niu-di-lân, Ôt-xtrây-lia, Phần Lan, Pháp, Séc, Tây Ban Nha, Thái Lan, Thuỵ Điển, Thuỵ Sĩ, Trung Quốc, Xin-ga-po. 2Các nhà tài trợ đa phương gồm: - Các định chế tài chính quốc tế và các quỹ: nhóm Ngân hàng Thế giới (WB), Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF), Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB), Ngân hàng Đầu tư Bắc Âu (NIB), Quỹ Phát triển Bắc Âu (NDF), Quỹ Phát triển quốc tế của các nước xuất khẩu dầu mỏ OPEC (OFID - trước đây là Quỹ OPEC), Quỹ Kuwait; - Các tổ chức quốc tế và liên chính phủ: Ủy ban châu Âu (EC), Cao uỷ Liên hợp quốc về người tỵ nạn (UNHCR), Quỹ Dân số của Liên hợp quốc (UNFPA), Chương trình Phát triển công nghiệp của Liên hợp quốc (UNIDO), Chương trình Phát triển của Liên hợp quốc (UNDP), Chương trình phối hợp của Liên hợp quốc về HIV/AIDS (UNAIDS), Cơ quan Phòng chống ma tuý và tội phạm của Liên hợp quốc (UNODC), Quỹ Đầu tư Phát triển của Liên hợp quốc (UNCDF), Quỹ môi trường toàn cầu (GEF), Quỹ Nhi đồng Liên hợp quốc (UNICEF), Quỹ Quốc tế và Phát triển nông nghiệp (IFAD), Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên hợp quốc (UNESCO), Tổ chức Lao động quốc tế (ILO), Tổ chức Nông nghiệp và Lương thực (FAO), Tổ chức Y tế thế giới (WHO).

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docODA nguồn vốn cho đầu tư phát triển ở Việt Nam - thực trạng và giải pháp.DOC
Luận văn liên quan