Phân tích các phương hướng và giải pháp cơ bán nhằm tăng cường và củng cố liên mính của giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp tri thức trong thời kì quá độ từ CNTB lên CNXH ở Việt Nam

MỤC LỤC MỞ ĐẦU 1. Lí do và tính cấp thiết của đề tài. 4 2. Phạm vi và giới hạn nghiên cứu. 5 3. Tình hình nghiên cứu có liên quan. 5 4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu. 6 5. Phương pháp nghiên cứu. 7 Chương 1. Cơ sở lí luận của liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và tần lớp trí thức trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội. 8 1.1. Một số khái niệm cơ bản. 8 1.1.1. Khái niệm liên minh giai cấp trong cách mạng XHCN. 8 1.1.2. Khái niệm thời kì quá độ (TKQĐ) lên CNXH. 8 1.1.3. Khái niệm liên minh công nông tri thức trong TKQĐ từ CNTB lên CNXH. 8 1.2. Quan điểm của các nhà kinh điển Các Mác, Ăngghen và Lênin về liên minh công nông trí thức trong thời kì quá độ lên CNXH. 9 1.2.1. Quan điển của Các Mác và Ăngghen. 9 1.2.2. Quan niệm của Lênin. 10 1.3. Quan điểm của Hồ Chí Minh và của Đảng cộng sản Việt Nam. 10 1.3.1. Theo Hồ Chí Minh, liên minh công nông trí thức là tất yếu lịch sử khách quan, đó là nhu cầu tồn tại và phát triển của cả nông dân, công nhân và trí thức. 10 1.3.2. Quan điểm của Đảng Cộng Sản Việt Nam. 11 Chương 2. Thực trạng của liên minh công-nông-tri thức trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay. 13 2.1. Tính tất yếu của liên minh công – nông – trí thức trong thời kì quá độ ở Việt Nam hiện nay. 13 2.2. Thực trạng của liên minh công nông trí thức ở Việt Nam hiện nay. 16 2.2.1.Đặc điểm và thực trạng của GCCN- GCND-và tầng lớp trí thức ở Việt Nam hiên nay. 16 2.2.2. Thực trạng liên minh GCCN với GCND và tầng lớp trí thức ở Việt Nam hiện nay. 19 Chương 3. Phương hướng và giải pháp cơ bản để tăng cường và củng cố khối liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay. 22 3.1. Đẩy mạnh sự nghiệp CNH-HĐH đất nước, thực hiện nhất quán lâu dài chính sách kinh tế nhiều thành phần. 22 3.2. Đổi mới hệ thông chính trị, thực hiện dân chủ hóa xã hội. 25 3.3. Nâng cao trình độ dân trí cho nhân dân. 27 3.4. Thực hiện tốt quy chế dân chủ cơ sở. 30 KẾT LUẬN 32 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 33

docx65 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 18232 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Phân tích các phương hướng và giải pháp cơ bán nhằm tăng cường và củng cố liên mính của giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp tri thức trong thời kì quá độ từ CNTB lên CNXH ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
iễn trong quá trình xây dựng CNXH hiện thực ở nước Nga-Xô Viết, Lênin đã có bước phát triển mới quan điểm của Mác-Ănghen về liên minh công nông tri thức trong thời kì quá độ lên CNXH. Vận dụng lí luận cách mạng không ngừng trong cuộc cách mạng dân chủ tư sản kiểu mới, Lênin đã chỉ ra GCCN không chỉ tham gia mà còn phải trở thành lực lượng lãnh đạo cách mạng trong đó liên minh với giai cấp nông dân, tiểu tư sản và cả giai cấp tư sản. Từ sự nhận thức được quy luật không đều của chủ nghĩa đế quốc, Lênin đã đánh giá cao các phong trào cách mạng ở thuộc địa và nửa thuộc đĩa mà thành phần dân cư đông đảo là nông dân, từ đó Lênin coi nông dân là một bộ phận của cách mạng XNCH trên toàn thế giới. Khi nói về cách mạng ở các nước thuộc đĩa, Lênin đã từng nói: “vấn đề giải phóng dân tộc thực chất là vấn đề nông dân”. Lênin đã nhìn thấy nông dân có xu hướng và khả năng cùng GCCN đi vào con đường cách mạng XHCN từ đó đã xây dựng được một con đường cách mạng XHCN mới đó là bỏ qua giai đoạn phát triển của CNTB tiến thẳng lên CNXH ở các nước kinh tế chậm phát triển. Đến Lênin người đã khẳng định công nông phải liên minh với tất cả các tầng lớp mở rộng gồm cả tri thức, tiểu tư sản, tiểu chủ. Khi bàn về cách mạng tháng Mười Nga, Lênin cho rằng: “GCCN giành thắng lợi không phải ở số đông mà chính là đữa lôi kéo được giai cấp nông dân và các tầng lớp lao động khác đi theo”. Đặc biệt khi quan niệm về chuyên chính vô sản, Lênin đã viết: “chuyên chính vô sản là một hình thức đặc biệt của liên minh giữa giai cấp vô sản với đông đảo các tầng lớp lao động không phải vô sản (tiểu tư sản, tiểu chủ, nông dân, trí thức…)”. Quan điểm của Hồ Chí Minh và của Đảng cộng sản Việt Nam. Theo Hồ Chí Minh, liên minh công nông trí thức là tất yếu lịch sử khách quan, đó là nhu cầu tồn tại và phát triển của cả nông dân, công nhân và trí thức. Người cho rằng: “quan hệ giữa công nhân, nông dân và trí thức là yếu tố nội tại trong kết cấu xã hội – giai cấp của CNXH”. Xu hướng hợp tác giữa các giai cấp dựa trên cơ sở khách quan chứ không phải xuất phát từ lợi ích riêng của giai cấp công nhân mà còn cả giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức. Người cho rằng trong khối liên minh công nông trí thức, GCCN là lực lượng lãnh đạo thông qua chính đảng của mình đề ra những chủ trương đường lối để tiến hành cuộc cách mạng XHCN nhưng để thực hiện đường lối đó phải có lực lượng, phải bằng những hành động và chính sách thực tiễn của GCCN để lôi kéo mọi tầng lớp lao động trước hết là nông dân, trí thức về phía mình cùng với họ xây dựng CNXH. Đây là điều kiện để GCCN củng cố vai trò tiên phong chính trị của mình. Còn với nông dân, do điều kiện kinh tế xã hội và bản chất giai cấp của mình, GCND tự tìm đến với công nhân. Nếu không liên kết với công nhân và trí thức nông dân sẽ bị các giai cấp bóc lột, lợi dụng lôi kéo trở lại cuộc sống nô lệ áp bức bóc lột. Còn với trí thức, là một tầng lớp xã hội đặc biệt có đặc trưng nổi bật là lao động trí óc, sáng tạo, không tồn tại độc lập trong cộng đồng xã hội. Trong cuộc đấu tranh xây dựng và bảo vệ tổ quốc giai cấp công nhân và nông dân rất cần trí thức – đội ngũ quan trọng đóng góp lớn về khoa học kĩ thuật cho sự phát triển của đất nước. Hồ Chí Minh cho rằng khối liên minh công nông trí thức làm thay đổi các quan hệ xã hội theo xu hướng đoàn kết, hòa hợp và trở thành một động lực của tiến bộ xã hội trong thời kì quá độ nói riêng, trong cuộc cách mạng XHCN nói chung. Như vậy trong tư tưởng liên minh công nông trí thức của Hồ Chí Minh là một sự cố kết của các giai cấp trong một chỉnh thể. Người từng nói: “chỉ có giai cấp công nhân lãnh đạo thì nông dân mới được giải phóng. Cũng chỉ có thắt chặt liên minh với nông dân thì giai cấp công nhân mới lãnh đạo cách mạng tới thắng lợi. Cho nên công nhân phải chăm chú đến vấn đề nông dân, phải củng cố công nông liên minh”. Người cũng chỉ rõ: “nông dân, công nhân, lao động trí óc đều phải dựa vào nhau. Công nhân không có sự giúp đõ của nông dân thì không được, công nhân không có nông dân cũng không được… Lao động trí óc không có công nhân, nông dân cũng không được.” Quan điểm của Đảng Cộng Sản Việt Nam. Trong cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kì quá độ lên CNXH ở nước ta đã đề cập đến: “liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức”. Tháng 2/1951, trong chính cương của Đảng Lao Động Việt Nam đã chỉ rõ: “công – nông – trí phải đoàn kết thành một khối.” Trong cương lĩnh của đại hội II của Đảng cũng ghi: “chính quyền dân chủ của nhân dân dựa vào mặt trận thống nhất lấy liên minh công nhân, nông dân và lao động trí thức làm nền tảng do giai cấp công nhân lãnh đạo”. Tại đại hội VII của Đảng thông qua cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kì quá độ lên CNXH một lần nữa lại khẳng định luận điểm: “liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức do giai cấp công nhân lãnh đạo”. Và qua đó là nền tảng của việc xây dựng nhà nước của dân, do dân và vì dân. Đại hội IX của Đảng khẳng định: “động lực chủ yếu để phát triển đất nước là đại đoàn kết toàn dân trên cơ sở liên minh công nhân, nông dân và trí thức do Đảng lãnh đạo, kết hợp hài hòa các lợi ích cá nhân, tập thể và xã hội, phát huy mọi tiềm năng và nguồn lực của các thành phần kinh tế của toàn xã hội.” Trên tinh thần đó, đại hội X của Đảng ta tiếp tục khẳng định: “đoàn kết toàn dân tộc trên nền tảng liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng làm đường lối chiến lược của cách mạng Việt Nam, là nguồn sức mạnh, động lực chủ yếu và là nhân tố có ý nghĩa quyết định đảm bảo thắng lợi bền vững của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc”. Đại Hội XI tiếp tục nhấn mạnh: “ đại đoàn kết dân tộc là đường lối chiến lược của cách mạnh Việt Nam, là sứ mệnh, là động lực chỉ yếu và là nhân tố có ý nghĩa quyết định đảm bảo thắng lợi của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc”. Chương 2. Thực trạng của liên minh công-nông-tri thức trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay. 2.1. Tính tất yếu của liên minh công – nông – trí thức trong thời kì quá độ ở Việt Nam hiện nay. Liên minh GCCN với GCND và tầng lớp trí thức là một nguyên lí căn bản trong lí luận CNXH khoa học. Đó là vấn đề có tính chiến lược đối với mọi cuộc cách mạng XHCN, nhất là trong thời kì quá độ và đặc biệt quan trọng hơn đối với các nước tiền tư bản bỏ qua chế độ TBCN đi lên CNXH. Cách mạng XHCN của Việt Nam nói chung và thời kì quá độ nói riêng cũng không nằm ngoài quy luật chung này. Trung thành với chủ nghĩa Mác – Lênin, Đảng Cộng Sản Việt Nam đã vận dụng sáng tạo nguyên lí đó, từng bước xây dựng khối liên minh công – nông –trí thức ngày càng vững chắc góp phần to lớn vào thắng lợi trong suốt quá trình cách mạng Việt Nam từ khi có Đảng lãnh đạo. Đảng ta cũng ngày càng khẳng định vị trí và vai trò quan trọng của khối liên minh công nhân với nông dân và tần lớp trí thức. Tính tất yếu khách quan về sự liên minh của giai cấp công nhân và giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức trong cách mạng của Việt Nam hiện nay cũng không phải xuất phát từ ý chí chủ quan của các nhà kinh điển, hay của Đảng Cộng Sản, của riêng giai cấp công nhân mà là từ đòi hỏi tất yếu, khách quan của tất cả giai cấp và tầng lớp trong quá trình phát triển chung của đất nước để cùng thực hiện một mục tiên chung là: “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ văn minh”, cả nước tiến lên CNXH, Chủ nghĩa cộng sản. Thời kì quá độ từ CNTB lên CHXH hội hiện nay diễn ra trong bối cảnh trên thế giới và trong nước đang có những biến động mạnh mẽ và nhanh chóng. Trên thế giới suy thế toàn cầu hóa, hội nhập toàn cầu đang diễn ra mạnh mẽ làm tăng cường ảnh hưởng và rang buộc lẫn nhau. Nhiều nước phát triển đang bước vào nền kinh tế tri thức, khoa học công nghệ phát triển nhanh chóng thay đổi từng ngày trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp và quan trọng. Điều đó đang tạo ra những cơ hội thuận lợi để phát triển nhanh rút ngắn thời kì quá độ lên CNXH nhưng cũng đồng thời tạo ra không ít thách thức. Các thế lực thù địch lợi dụng sự mở cửa hội nhập của nước ta với thế giới để tăng cường chống phá cách mạng XHCN ở nước ta núp bóng dưới chiêu bài “dân chủ”, “tự do”, “nhân quyền”… Trong nước chúng ta tiếp tục công cuộc đổi mới đẩy mạnh CNH-HĐH đất nước gắn với phát triển nền kinh tế trí thức, phát triển kinh tế thị trường, hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế thế giới. Điều đó đòi hỏi phải phát triển mạnh mẽ công nghiệp và nông nghiệp theo định hướng XHCN. Đòi hỏi phải phát triển mạnh mẽ giáo dục và đào tạo nâng cao chất lượng đội ngũ lao động có trí thứ, tay nghề cao, từng bước phát triển CNH-HĐH gắn với trí thức. Muốn phát triển đồng bộ như vậy điều quan trọng nhất là phải cũng cố khối đại đoàn kết dân tộc để phát huy sức mạnh tổng hợp của dân tộc trong đó nền tảng là khối liên minh của giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức. Tính tất yếu của liên minh công – nông – trí thức thể hiện trên tất cả các mặt kinh tế, chính trị - xã hội, văn hóa – tư tưởng… Về kinh tế: tính tất yếu xuất phát từ mối quan hệ gắn chặt với nhau về lợi ích kinh tế giữa giai cấp công nhân – nông dân – trí thức. Với một nước tiền tư bản quá độ lên CNXH, từ một nước nông nghiệp lạc hậu như Việt Nam giai cấp nông dân vẫn chiếm đại bộ phận dân số là một lực lượng quan trọng với cách mạng và sự nghiệp phát triển đất nước vì vậy GCCN phải liên minh với GCND, tập hợp được lực lượng đông đảo và nhiệm vụ phát triển đất nước. Trong điều kiện khoa học – kĩ thuật và kinh tế tri thức phát triển mạnh và trở thành xu hướng phát triển trong tương lai như hiện nay thì không thể không nói đến vai trò của tầng lớp trí thức – mặc dù chiếm số lượng ít nhưng lại là bộ phận quan trọng, là động lực đẩy nhanh sự phát triển của đất nước. Đồng thời GCND và tầng lớp trí thức muốn phát triển thì cần phải liên kết chặt chẽ với GCCN, gắn với quá trình CNH-HĐH dưới sự lãnh đạo đúng đắn của GCCN và lí tưởng giải phóng mọi giai cấp tầng lớp nhân dân lao động khỏi áp bức bóc lột. Sự gắn kết nông nghiệp, nông dân với công nghiệp, đô thị, công nhân với khoa học công nghệ tiên tiến với tầng lớp trí thức – nói cách khác là sự thống nhất về lợi ích kinh tế sẽ là cơ sở để tăng cường và củng cố khối liên minh công – nông –trí thức trong suốt thời kì quá độ. Về chính trị - xã hội: sự liên minh của giai cấp công nhân với nông dân và trí thức cũng xuất phát từ yêu cầu củng cố và tăng cường vai trò lãnh đạo của giai cấp công nhân, đồng thời cũng từ nhu cầu tìm bạn đồng minh lâu dài của GCCN Việt Nam.Chỉ trong mối liên minh công- nông – trí thức các giai cấp tầng lớp mới có những cơ sở và điều kiện để phát huy quyền làm chủ thực sự của mình về kinh tế chính trị- xã hội đảm bảo dân chủ XHCN. Liên minh công nông trí thức còn xuất phát từ sự thống nhất giữa mục tiêu lí tưởng của GCCN và nhu cầu giải phóng của quần chúng lao động.Trong giai đoạn quá độ lên CNXH ở Việt Nam hiện nay GCCN, nông dân và tầng lớp trí thức vừa là chủ thể vừa là động lực chính của sự nghiệp giải phóng, đồng thời cũng là đối tượng cần được giải phóng trong quá trình cách mạng. Do vậy sự thống nhất về lợi ích chính trị- xã hội đó là nhu cầu được giải phóng đã gắn kết một cách tự nhiên GCCN-GCND và tầng lớp trí thức thành một khối vững chắc. Tính tất yếu của liên minh ở Việt Nam còn bắt nguồn từ yêu cầu bảo vệ Tổ Quốc bảo vệ hòa bình,bảo vệ đoàn kết dân tộc và bảo vệ những thành quả của CNXH. Trong giai đoạn hiện nay nhiệm vụ xây dựng CNXH luôn đi đôi với nhiệm vụ bảo vệ Tổ Quốc XHCN.Đó là quy luật sinh tồn với nước ta do vậy tất yếu nó trở thành động lực để thúc đẩy liên minh công- nông- trí thức . Về văn hóa tư tưởng: liên minh của GCCN với GCND và tầng lớp trí thức còn do yêu cầu để xác lập hệ tư tưởng của GCCN – hệ tư tưởng Mác – Lê nin trong toàn xã hội. Bởi vì thời kì quá độ - tức thời kì chuyên chính vô sản không chỉ là cuộc đấu tranh về kinh tế chính trị mà còn cả trên lĩnh vực tư tưởng với việc xác lập hệ tư tưởng Mác – Lênin, đẩy lùi hệ tư tưởng tư sản phản động lạc hậu.đó cũng là các giai cấp công nhân- nông dân- trí thức cùng xây dựng và phát triển nền văn hóa mới theo hệ tư tưởng của GCCN nhằm mục tiêu chung là xây dựng một nền văn hóa tiên tiến phục vụ nhu cầu cao của mọi tầng lớp nhân dân lao động . Ngoài ra chúng ta cần phải chú ý đến mọt điểm nữa trong yêu cầu tất yếu liên minh công – nông – trí thức ở nước ta là đặc điểm lịch sử riêng của dân tộc Viêt Nam. Đó chính là truyền thống yêu nước, đoàn kết, gắn bó máu thịt với nhau của nhân dân Việt Nam đã được hình thành lâu dài trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam: “Một cây làm chẳng nên non, ba cây chụm lại nên hòn núi cao”.Hay là: “Bầu ơi thương lấy bí cùng, tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn”. Đó là các truyền thuyết về “con rồng cháu tiên”, “con lạc cháu hồng”,cùng chung tổ tiên hướng về cội nguồn đất tổ Vua Hùng…Các truyền thống đó đã được hính thành và trải qua nhiều triều đại nhà nước Việt Nam từ thời phong kiến. Mỗi nhà nước đều vận dụng truyền thống tốt đẹp đó để tạo thành sức mạnh bảo vệ và phát triển đất nước. Thực tế lịch sử đấu tranh chống ngoại xâm của nước ta đã chứng minh, nhà nước nào phát huy được truyền thông đoàn kết của dân tộc thì sẽ dành được thắng lợi nếu không sẽ thất bại. Liên minh của GCCN với GCND và tầng lớp trí thức trong giai đoạn hiện nay làmột bước phát triển cao của khối đại đoàn kết dân tộc, trong thời kì quá độ lên CNXH dưới sự lãnh đạo của GCCN. Đó cũng là một cơ hội đặc thù riêng để tăng cường và củng cố khối liên minh công – nông – tri ở nước ta một cách thuận lợi hơn. Như vậy việc củng có và tăng cường liên minh công - nông - trí thức ở nước ta là một yêu cầu tất yếu, khách quan do sự đòi hỏi phát triển của đất nước trong thời kì quá độ từ CNTB lên CNXH trong điều kiện mới của quốc tế và của dân tộc. 2.2. Thực trạng của liên minh công nông trí thức ở Việt Nam hiện nay. 2.2.1.Đặc điểm và thực trạng của GCCN- GCND-và tầng lớp trí thức ở Việt Nam hiên nay. Giai cấp công nhân: GCCN Việt Nam có đầy đủ những đặc điểm của giai cấp công nhân hiện đại thế giới và còn mang những đặc điểm riêng của mình.Đó là ra đời trước giai cấp tư sản Việt Nam nên không bị ảnh hưởng của hệ tư tưởng tư sản nên GCCN có điều kiện giữ vai trò lãnh đạo và giành ưu thế ngay tư khi có đảng của mình .Hơn nữa sự gắn bó giữa GCCN với GCND đã được hình thành một cách tự nhiên,do hầu hết GCCN Việt Nam xuất thân từ nông dân nên có mối quan hệ gần gũi với nông dân, là người đồng minh tự nhiên. Ngày nay trong tiến trình CNH- HĐH càng có nhiều nông dân vào làm việc ở các nhà máy công nghiệp, trở thành người công nhân ngay chính trên quê hương mình. Điều đó sẽ càng tăng cường sự liên minh tự nhiên giữa GCCN với những người đồng minh của mình. Ngoài ra GCCN Việt Nam còn được thừa hưởng truyền thống yêu nước của dân tộc và sớm có điều kiện tiếp thu chủ nghĩa Mác –Lê nin. Trong giai đoạn mới hiện nay GCCN đang là lực lượng đi đầu trong sự nghiệp CNH- HĐH đất nước ,đóng vai trò tích cực trong phát huy nòng cốt của khối liên minh công- nông-trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng. Trong những năm đổi mới,GCCN nước ta đã có bước phát triển tích cực và mạnh mẽ,đang tăng nhanh về số lượng, ngày càng đa dạng về cơ cấu, chất lượng đội ngũ công nhân được nâng lên, đồng thời xuất hiện một bộ phận công nhân trí thức. Cùng với các giai tầng khác trong khối đại đoàn kết dân tộc GCCN đang ngày càng có những đóng góp lớn cho đất nước . GCCN là lưc lượng sản xuất chủ yếu cơ bản trong nền kinh tế quốc dân. Mặc dù chỉ chiếm khoảng 13% dân số nhưng nắm giữ và vận hành những cơ sở vật chất và các phương tiện sản xuất hiện đại nhất của nền kinh tế. Hằng năm GCCN đóng góp khoảng trên 50% tổng sản phẩm xã hội và đóng góp vào ngân sách nhà nước hơn 60%. Nghị quyết của hội nghị trung ương VI khóa X đã khẳng định: “GCCN nước ta có sứ mệnh lịch sử to lớn là giai cấp lãnh đạo cách mạng thông qua đội tiên phong là Đảng Cộng Sản Việt Nam, giai cấp đại diện cho phương thức sản xuất tiên tiến, giai cấp tiên phong cho sự nghiệp xây dựng CNXH , lực lượng đi đầu trong sự nghiệp CNH-HĐH đất nước vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ văn minh,lực lượng nòng cốt trong liên minh công – nông – tri thức dưới sự lãnh đạo của Đảng”. Trong giai đoạn hiện nay, đẻ thực hiện mục đích đến 2020 đưa Việt Nam cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Để thực hiện được nhiệm vụ đó đòi hỏi phải tăng cường hơn nữa vai trò đầu tàu của GCCN trong thời kì CNH – HĐH đất nước . Tuy nhiên GCCN Việt Nam hiện nay vẫn còn nhiều hạn chế, yếu kém cần khắc phục như trình độ học vấn thấp; lao động công nhân thủ công chưa qua đào tạo còn chiếm tỉ lệ cao; ý thức tổ chức kỉ luật chưa cao, tác phong công nghiệp kém; sự phân hóa giàu nghèo trong giai cấp công nhân tăng; trình độ chính trị phẩm chất giai cấp giảm sút, một bộ phận GCCN bị thoái hóa tha hóa về lao động phẩm chất giai cấp và lối sống; tỉ lệ GCCN trong các tổ chức Đảng và hệ thống chính trị của nhà nước còn thấp,thậm chí có xu hướng giảm… Những hạn chế đó đòi hỏi cần phải được khắc phục, Đảng và Nhà Nước cần có các chính sách quan tâm chăm lo đào tạo cho người công nhân về cả trình độ chuyên môn cũng như phẩm chất đạo đức, phẩm chất chính trị. Đồng thời giải quyết những vấn đề bức xúc của GCCN như việc làm, thu nhập, đời sống sinh hoạt… Nhờ vậy mới có thể xây dựng GCCN lớn mạnh xứng đáng là lực lượng đi đầu, ngang tầm với yêu cầu của sự nghiệp đẩy mạnh CNH – HĐH và hội nhập kinh tế quốc tế trong tình hình hiện nay. Giai cấp nông dân: GCND là những người lao động sản xuất trong nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp… trực tiếp sử dụng những tư liệu cơ bản và đặc thù gắn với tài nguyên là đất rừng để sản xuất ra nông sản. Nông dân có phương thức sản xuất hân tán nhỏ, như Lênin từng nói : “Nông dân có bản chất hai mặt,một mặt họ là những người lao động ,đây là mặt cơ bản nhất ; mặt khác họ là những người tư hữu nhỏ, dây là mặt hạn chế và sẽ được khắc phục trong quá trình công nghiệp hóa hiện đại hóa. Tuy nhiên nông dân không dựa trên tư hữu nhỏ này để bóc lột các giai cấp tầng lớp khác. GCND không có hệ tư tưởng riêng . Họ vốn cố kết cấu không thuần nhất nên không có sự liên kết chặt chẽ cả về tư tưởng, chính trị và tổ chức. Ở Việt Nam họ là lưc lượng chính trị đông đảo nhất và khi được giác ngộ đầy đủ họ sẽ trở thành lực lượng cách mạng to lớn nhất trong cách mạng XHCN . Trong thời kì CNH - HĐH hiện nay cơ cấu GCND đang có sự thay đổi nhanh chóng, gồm nhiều bộ phận nhiều tầng lớp. Số lượng công nhân lao động thuần nông giảm, nông dân tập thể cũng giảm đi rất nhiều. Sự phân hóa giàu nghèo trong nội bộ GCND có xu hướng tăng nhanh. Nhìn chung xu hướng biến đổi GCND theo hướng đa dạng phức tạp và hình thành một bộ phận nông dân công nghiệp, xuất hiện một bộ phận nông dân lao động mang tính chất trí thức sẽ ngày càng tăng. Ngược lại với quá trình đó nông dân thuần túy ngày càng giảm, bộ phận nông dân tập thể dưới những hình thức hợp tác mới sẽ dần được hình thành và phát triển. Tầng lớp trí thức: là tầng lớp bao gồm những người lao đông trí óc phức tạp và sáng tạo, thường là đội ngũ có trình độ học vấn cao. Trí thức không có hệ tư tưởng riêng vì không có phương thức sản xuất riêng và địa vị kinh tế - xã hội độc lập. Mặc dù vậy trí thức luôn giúp giai cấp thống trị khái quát về lí luận để hình thành hệ tư tưởng của giai cấp thống trị. Trong chế độ tư hữu đa số các trí thức là những người lao động bị áp bức bóc lột. Khi được sự lãnh đạo của GCCN trí thức trở thành người làm chủ xã hội và đóng góp to lớn trong sự nghiệp xây dựng CNXH. Ở Việt Nam trí thức đã có nhiều đóng góp trong quá trình xây dựng CNXH. Trí thức Việt Nam phần lớn xuất thân từ nông dân, công nhân và các tầng lớp lao động khác. Do vậy có mối liên hệ gần gũi với công nhân, nông dân và luân là lực lượng quan trọng trong cuộc cách mạng XHCN. Ngày nay, cách mạng khoa học công nghệ đã trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp và tầng lớp trí thức ngày càng có vai trò và địa vị quan trọng đặc biệt trong quá trình xây dựng nền kinh tế tri thức. Tuy nhiên đội ngũ trí thức hiện nay có sự phân hóa khá lớn. Về chính trị, trí thức chiếm một tỉ lệ lớn trong đội ngũ lãnh đạo quản lí của hệ thống chính trị nhất là ở cấp tỉnh thành và trung ương. Về văn hòa và trình độ học vấn, chất lượng đội ngũ trí thức vẫn chưa tương xứng với số lượng, có hiện tượng mua bằng cấp để chạy chức chạy quyền. Xuất hiện một bộ phận trí thức mất gốc, trọng ngoại, giảm sút ý thức dân tộc. Tần lớp trí thức Việt Nam cũng có sự phân hóa lớn đi liền với vấn đề đó là sự nảy sinh tất yếu tính chất phức tạp và phân tán trong tầng lớp trí thức. Nhưng nhìn chung đội ngũ trí thức ở nước ta có truyền thống yêu nước, có tinh thần đoàn kết dân tộc dưới sự lãnh đạo của Đảng và tán thành lí tưởng CNXH. Truyền thống đó sẽ tiếp tục được phát huy trong thời kì mới của đất nước – thời kì đẩy mạnh CNH-HĐH gắn với kinh tế tri thức. Để phát huy khả năng to lớn của trí thức Việt Nam trong thời đại mới cần chú trọng giáo dục, giác ngộ chính trị và cần được tập hợp dưới ngọn cờ lí tưởng CNXH của giai cấp công nhân để trở thành một lực lượng quan trọng đóng góp cho sự nghiệp quá độ lên CNXH của đất nước. 2.2.2. Thực trạng liên minh GCCN với GCND và tầng lớp trí thức ở Việt Nam hiện nay. Về chính trị: đã đạt được một số thành tựu, đã xây dựng được khối liên minh công nông tri thức ngày càng vững chắc và được củng cố phát triển theo sự phát triển của đất nước. Sự thống nhất về chính trị và tinh thần ngày càng tăng, hệ tư tưởng Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh ngày càng được xác lập vững chắc trong đời sống xã hội. Khối liên minh công – nông – trí vững chắc đã là cơ sở và hạt nhân của khối đại đoàn kết dân tộc, đáp ứng được các lợi ích chính trị của mỗi giai cấp trong liên minh. Nhờ vậy mà đã đứng vững trước những biến động của thế giới như sự sụp đổ của chế độ XHCN ở Liên Xô và Đông Âu. Đứng vững trong khối đại đoàn kết dân tộc trước những âm mưu chống phá gây chia rẽ của các thế lực thù địch. Tuy nhiên bên cạnh đó vẫn còn những tồn tại và hạn chế: sự liên kết liên minh còn chưa được vững chắc và bền vững. Khối liên minh ở một số địa phương còn mang tính hình thức không thực chất, còn chưa chú trọng đến việc tăng cường khối liên minh ở những vùng xâu, vùng xa, vùng nông thôn. Đồng thời ở một số địa phương việc thực hiện các chính sách của nhà nước còn chưa nghiêm túc, còn nhiều tiêu cực đặc biệt trong lĩnh vực đất đai, đền bù, thuế… nên nảy sinh một số điểm nóng tiềm ẩn những nguy cơ gây mất ổn định chính trị xã hội ảnh hưởng tới mối quan hệ của nhân dân với nhà nước và trong khối liên minh công-nông-tri thức. Ngoài ra do nhận thức của một số bộ phận người dân, đặc biệt là một bộ phận trí thức còn chưa rõ về các chính sách của đảng và nhà nước trong việc giải quyết các vấn đề trong nước và quốc tế nên đã dẫn đến một số hành động tự phát bị các thế lực chính trị phản động lợi dụng, lôi kéo để gây mất trật tự anh ninh xã hội, gây mất đoàn kết trong các tầng lớp. Về kinh tế: Từ đại hội VI, việc thực hiện nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN đã tạo điều kiện cho mọi tầng lớp, giai cấp có cơ hội khả năng phát triển sáng tạo, làm giàu một cách chính đáng. Điều đó đã giải quyết được lợi ích kinh tế của mỗi giai cấp đồng thời kết hợp lợi ích kinh tế của các giai cấp công-nông-trí thức để đảm bảo cơ sở cho khối liên minh vững chắc… thể hiện ở chỗ ngày càng có nhiều hình thức hợp tác liên kết, giao lưu cả trong sản xuất và lưu thông giữa công-nông-trí thức trong nhiều lĩnh vực nhưng công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ, khoa học kĩ thuật hình thành các mô hình, các tổ chức liên kết giữa các giai cấp và tầng lớp và với cả nhà nước. Ví dụ như mô hình liên kết 4 nhà “nhà nước-nhà doanh nghiệp-nhà khoa học-nhà nông” để phát huy sức mạnh của khối liên minh công-nông- trí thức trong nhiệm vụ phát triển kinh tế đất nước. Nhiệm vụ quan trọng trong liên minh kinh tế phải thức hiện các chính sách khuyến khích các ngành kinh tế phát triển. Đảm bảo kết hợp hài hòa và công bằng về lợi ích kinh tế giữa các giai cấp, tầng lớp điều đó sẽ góp phần xây dựng khối liên minh công-nông- trí thức càng thêm vững chắc. Tuy nhiên đôi khi cũng xảy ra những xung đột về lợi ích kinh tế giữa những người nông dân sản xuất với các doanh nghiệp chế biến, thu mua xuất khẩu hay xung đột giữa người công nhân với chủ lao động dẫn đến những cuộc đình công. Một số chính sách về nông nghiệp và nông thôn còn chưa hợp lý như thuế, tín dụng… chênh lệch giá cả hàng hóa giữa hàng công nghiệp, dịch vụ với giá cả nông sản ngày càng lớn. Các chính sách giải quyết lợi ích cho một bộ phận trí thức có trình độ, có khả năng đóng góp lớn cho đất nước còn chưa phù hợp nên không thu hút được nguồn nhân lực trình độ cao này. Một bộ phận công nhân chưa ý thức được lợi ích, trách nhiệm của mình trong sự nghiệm CNH-HĐH, có nơi còn gây khó khăn cho việc giải phóng mặt bằng trong việc xây dựng các công trình giao thông, thủy lợi, điện hoặc các khu công nghiệp. Về văn hóa – xã hội: Đảng ta luôn coi phát triển kinh tế là cơ sở vật chất để thực hiện các chính sách xã hội, những mục tiêu xã hội là mục đích của hoạt động kinh tế và ngược lại thực hiện các chính sách xã hội lại là động lực để phát triển kinh tế. Đại hội VIII của Đảng ta đã khẳng định: “tăng trưởng kinh tế phải gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và trong suốt quá trình phát triển Đảng ta cũng coi văn hóa là nền tảng của xã hội, phát triển văn hóa là cơ sở để phát triển đất nước bền vững”. Nhờ sự quan tâm coi trọng văn hóa phát triển xã hội mà đã đạt được những thành tựu lớn trong xoá đói giảm nghèo, giải quyết việc làm cho người lao động, thực hiện các chính sách xã hội với người có công với cách mạng, nâng cao dân trí phổ cập giáo dục, nâng cao chất lượng giáo dục. Gắn phát triển công nghiệp và khoa học kĩ thuật với phát triển nông thôn, đô thị hóa. Xây dựng các cơ sở ý tế, văn hoá các công trình phúc lợi công cộng. Nhờ các chính sách xã hội đó đã tạo được sự gắn kết và đồng thuận giữa các giai tầng trong xã hội. Từ thực trạng công, nông, trí thức hiên nay, chúng ta thấy việc tăng cường và củng cố khối liên minh công-nông-trí thức là vấn đề có ý nghĩa chiến lược là cấp thiết trong giai đoạn quá độ lên CNXH hiện nay. Chương 3. Phương hướng và giải pháp cơ bản để tăng cường và củng cố khối liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay. 3.1. Đẩy mạnh sự nghiệp CNH-HĐH đất nước, thực hiện nhất quán lâu dài chính sách kinh tế nhiều thành phần. Suy đến cùng liên minh kinh tế đóng vai trò quyết định trong việc xây dựng, củng cố khối liên minh giai cấp. Yêu cầu đặt ra trong gia đoạn hiện nay đối với việc củng cố khối liên minh là phải tập trung sức phát triển lực lượng sản xuất nhằm tạo ra những đảm bảo kinh tế, kĩ thuật trong liên minh. Ngày nay sự nghiệp cạhs mạng nước ta đã và đang chuyển sang một thời kì mới, thời kì đẩy mạnh CNH-HĐH đất nước nhằm. “xây dựng nước ta trở thành một nước công nghiệp, cơ sở vật chất kĩ thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, đời song vật chất và tinh thần cao, quốc phòng –an ninh vũng chắc, dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn minh”. Để thực hiện những nhiệm vụ cách mạng to lớn đó, hơn lúc nào hết chúng ta phải dương cao ngọn cờ đại đoàn kết dân tộc coi đó là đường lối chiến lược cơ bản, lâu dài, là nguồn sức mạnh và động lực to lớn để xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Trong đó chăm lo xây dựng khối liên minh công-nông-trí thức vững chắc là nòng cốt. Cần nhận thức được rằng sự liên minh giữa GCCN với GCND và tầng lớp trí thức trong thời kì cách mạng mới hiện nay đã có bước phát triển cao hơn so với trước cr nôi dung và hình thức, sự liên minh không chỉ chính trị mà còn là sự liên minh về kinh tế-một nội dung liên minh ngày càng có ý nghĩa quan trọng hàng đầu tạo ra những điều kiện vật chất để đảm bảo cho GCCN-GCND-trí thức và cả dân tộc ngày càng gắn bó chặt chẽ với nhau. Trong thời kì phát triển mới của đất nước đương nhiên sự liên minh giữa các giai cấp về chính trị rất cần thiết nhằm củng cố và xây dựng chính quyền cách mạng cảu dân , do dân, vì dân; Chống mọi âm mưu, thủ đoạn phá hoại của các lực lượng thù địch bảo vệ nền độc lập và toàn vẹn lãnh thổ. Nhưng sự liên minh về kinh tế mới là chủ yếu và quyết định trong việc củng cố và tăng cường khối liên minh công-nông-trí thức. Ngay cả lĩnh vực chính trị cũng cần được củng cố trên cơ sở kinh tế bởi vì như Lênin đã nói: “lúc này chính trị ngay trong kinh tế”. Lênin còn chỉ ra cách mạng XHCN ở một nước mà số đông nhân dân là nông dân thì chỉ có thể giành thắng lợi với sự thỏa thuận về kinh tế giữa GCCN và nông dân lao động. Theo Lênin liên minh công-nông-trí cần phải được đảm bảo vững trắc tròg cơ sở kinh tế. Ở nước ta hiện nay sự liên minh công-nông-trí về kinh tế có nội dung và hình thức biểu hiện rất phong phú. Trong giai đoạn quá độ lên CNXH hiện nay toàn thể dân tộc trong đó nòng cốt là GCCN-GCND và tầng lớp trí thức phải tập trung đẩy mạnh sự nghiệp CNH-HĐH đất nước, xây dựng và hoàn thiện nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, để đưa đất nước thoát khỏi nghèo nàn lạc hậu. Văn kiện đại hội X của Đảng đã tiếp tục khẳng định: “ Phát triển kinh tế, CNH-HĐH là nhiệm vụ trung tâm. Con đường CNH-HĐH ở nước ta cần và có thể rút ngắn so với các nước đi trước và có nhũng bước tuần tự vừa có bước nhảy vọt”. Đó là nhờ trong bối cảnh của nền kinh tế thế giới hiện nay đã tạo ra những cơ hội hết sức thuận lợi, đó là quá trình toàn cầu hóa, hội nhập kinh tế thế giới, cuộc cách mạng khoa học công nghệ đang phát triển mạnh mẽ, tạo cho chúng ta có thể tiếp cận với những nguồn vốn, khoa học công nghệ, kinh nghiệm quản lý, cả nguồn nhân lực bên ngoài, để tạo động lực đẩy nhanh tốc độ phát triển của đất nước rút ngắn thời gian CNH-HĐH so với các nước đi trước. Hiện nay trên thế giới cuộc cách mạng khoa học công nghệ đang phát triển mạnh và một số nước phát triển đã bắt đầu đi vào nền kinh tế trí thức. Do vậy để có thể bắt kịp với các nước trên thế giới tránh nguy cơ tụt hậu so với các nước phát triển chúng ta phải đẩy mạnh CNH-HDDH gắn với kinh tế trí thức. Thực hiện quá trình đó chúng ta cần có bước đi tuần tự mà không thể bỏ qua được, đồng thời vừa phải có những bước nhảy vọt, bỏ qua những khâu trung gian không cần thiết, có thể đi tắt đón đầu trong những lĩnh vực có khả năng và cần thiết. Ví dụ: Về công nghệ chúng ta cần lựa chọn ưu tiên nhập khẩu, như công nghệ máy móc mới nhất. Ngày nay kinh tế trí thức ngày càng đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế thế giới tri thức khoa học được áp dụng một cách phổ biến các sản phẩm ngày càng chiếm hàm lượng tri thức khoa học. Do vậy chúng ta cần phải coi kinh tế trí thức là một yếu tố quan trọng trong nền kinh tế, kết hợp sử dụng vốn trí thức của con người Việt Nam với vốn tri thức mới nhất của nhân loại. Trong quá trình CNH-HĐH phải giải quyết mối quan hệ giưa công nghiệp và nông nghiệp là hai ngành cơ bản của nền kinh tế quốc dân, gắn với hai giai cấp cơ bản trong xã hội của nước ta là công nhân và nông dân. Quá trình CNH –HĐH tất yếu sẽ tác động tới nông nghiệp , nông dân,và nông thôn vì vậy cần có các chính sách dảm bảo lợi ích chính đáng cho người nông dân như tạo việc làm,đền bù đất đai, phúc lợi xã hội… Cùng với đó phải từng bước đưa người nông dân vào các hợp tác sản xuất từ thấp đến cao theo định hướng XHCN, đảm bảo đời sống vật chất nâng cao trình độ văn hóa,khoa học kĩ thuật,trình độ giác ngộ XHCN cho GCND . Đại hội X đã đề ra : “không tách rời việc xây dưng một nền nông nghiệp toàn diện theo hướng sản xuất hàng hóa với các mục tiêu phát triển kinh tế hỗ trợ cho nông nghiệp như công nghiệp nặng, kết cấu hạ tầng và các ngành văn hóa xã hội ,không hững thế cần chú trọng xây dựng đội ngũ công nhân – nông dân – trí thức”. Với GCCN cần có những biện pháp tuyên truyền, giáo giục, nâng cao giác ngộ giai cấp và trình nhận thức,chăm lo đời sống vật chất và văn hóa,tạo ra những điều kiện cần thiết để GCCN hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình. Với đội ngũ trí thức quan trọng là phải phát huy và đảm bảo quyền tự do sáng tạo đánh giá đúng năng lực của trí thức và tạo mọi điều kiện để đội ngũ trí thức phát huy hết khả năng của mình Để đảm bảo cho sự liên minh công- nông- trí về kinh tế vững chắc và thiết thực cần phải xây dựng và nhân rộng các mô hình liên kết về kinh tế giữa các giai cấp như mô hình liên kết giữa bốn nhà: nhà nước –nhà nông- nhà khoa học – nhà doanh nghiệp. Trong quá trình CNH- HĐH nông nghiệp phải gắn với công nghiệp chế biến, phải cơ giới hóa nông nghiệp, và phải áp dụng những thành tựu của nghiên cứu khoa học. Cơ chế thị trường và kinh tế hàng hóa sẽ thúc đẩy giao lưu kinh tế trong nước và cả quốc tế. Điều đó cũng sẽ thúc đẩy và đòi hỏi phải có sự liên kết chặt chẽ giữa các nghành nghề, các giai cấp với nhau, như vậy tất yếu sẽ tạo ra môi trường kinh tế để củng cố thêm liên minh công – nông –tri thức càng vững chắc. Công nghiệp muốn phát triển cần đến nguồn nguyên liệu từ nông nghiệp và nhân lực từ nông dân chuyển sang, và cũng cần đến những phát minh khoa học của đội ngũ trí thức .Nông nghiệp muốn tiến lên sản xuất hàng hóa, sản xuất lớn cũng phải cần đến máy móc công nghiệp từ khâu sản xuất tới thu hoạch, chế biến và nông nghiệp cũng cần đến những nghiên cứu về giống ,thuốc,thức ăn… của các nhà khoa học. Ngược lại trí thức muốn những phát minh nghiên cứu khoa học của mình được ứng dụng, kiểm nghiệm thì phải đưa vào sản xuất trong nông nghiệp và công nghiệp. Như vậy CNH – HĐH và thực hiện nền kinh tế nhiều thành phần theo cơ chế thị trường sẽ tạo ra cơ sở vật chất cho khối liên minh công- nông –trí thức và đó cũn là phương thức để kết hợp các lợi ích kinh tế - chính trị giữa các giai cấp, tầng lớp . 3.2. Đổi mới hệ thông chính trị, thực hiện dân chủ hóa xã hội. Một trong những nội dung cơ bản liên minh giai cấp là đổi mới hệ thống chính trị và thực hiện dân chủ hóa xã hội. Dân chủ XHCN là bản chất của chế độ ta vừa là mục tiêu vừa là đông lực của sự phát triển đất nước. Để tăng cường khối đại đoàn kết dân tộc nói chung, khối liên minh công trí thức nói riêng việc xây dựng và hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa có vai trò quan trọng . Trong đó dân chủ cần được thể chế hóa thành pháp luật. Nhân dân thực hiện quyền làm chủ của mình thông qua hệ thống chính trị, do vậy đổi mới hệ thống chính trị có ý nghĩa quan trọng. Trước hết là đổi mới đảng: đổi mới Đảng ngang tầm với nhiệm vụ mới, có đủ năng lực bản lĩnh đề ra các đường lối lãnh đạo phù hợp với quy luật xu thế của thời đại đảm bảo lơi ích của nhân dân. Tức đổi mới Đảng là nâng cao năng lực và sức chiến đấu của Đảng. Trong giai đoạn hiện nay nội dung đổi mới Đảng là: Đổi mới và kiện toàn tổ chức, bộ máy của Đảng và hệ thống chính trị, nâng cao chất lượng Đảng viên ,kiện toàn và nâng cao chất lượng các cơ quan tham mưu của Đảng. Đổi mới mô hình tổ chức và các và các phương thức hoạt động của các Đảng đoàn, ban án sự Đảng . Tập trung củng cố nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của các tổ chức cơ sở Đảng, trước hết ở các tổ chức cơ sở Đảng còn yếu kém. Phát huy dân chủ, mở rộng tự phê bình và phê bình trong sinh hoạt của các cấp ủy các sở Đảng. Đổi mới công tác quản lí phát triển Đảng viên, đảm bảo chất lượng đội ngũ cán bộ Đảng viên – phải là những người ưu tú, trong sạch gương mẫu,đủ đức đủ tài để gánh vác trách nhiệm lãnh đạo của Đảng. Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ công tác cán bộ.Trong đó phải đổi mới tư duy, cách làm, khắc phục những yếu kém trong công tác cán bộ của Đảng. Làm tốt công tác quy hoạch lựa chọn cán bộ, đào tạo cán bộ,đặc biệt là cán bộ trẻ ,cán bộ phụ nữ, cán bộ dân tộc thiểu số. Đấu tranh chống lại các hiện tượng chạy chức chạy quyền,chạy chỗ, chạy tội, chạy bằng cấp…Kịp thời thay thế những cán bộ yếu kém về phẩm chất và năng lực,giảm sút uy tín trươc nhân dân ,vi phạm pháp luật ,đòng thực hiện nghiêm minh công tác kỉ luật Đảng. Đổi mới nâng cao hiệu quả kiểm tra giám sát, công tác dân vận của Đảng. Nâng cao trách nhiệm của các cấp ủy, các tổ chức Đảng trong việc thực hiệ nhiệm vụ kiểm tra giám sát theo điều lệ Đảng. Nang cao chất lượng đội ngũ cán bộ và hoạt đọng của hệ thống ủy ban kiểm tra các cấp. Hoàn thiện quy chế phối hợp giữa ủy ban kiểm tra Đảng với các tổ chức Đảng và các cơ quan bảo vệ pháp luận trong việc xem xét, khiếu nại, tố cáo và kỉ luật đảng viên. Đổi mới công tác dân vận tuyên truyền của Đảng. Vận động nhân dân phát huy vai trò làm chủ của mình, nhất là ở những vùng xâu vùng xa, vùng khó khăn, vùng dân tộc thiểu số như Tây Bắc, Tây Nguyên, Tây Nam Bộ cần được chú trọng hơn. Tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng: tiếp tục bổ sung, điều chỉnh những quy định, quy chế mới về phương thức lãnh đạo của Đảng. Khắc phục tình trạng bao biện, làm thay, buông lỏng lãnh đạo của Đảng với các cơ quan nhà nước. Về đổi mới nhà nước: đổi mới theo hướng xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì dân. Tiếp tục đổi mới tổ chức hoạt động của bộ máy nhà nước. Trước hết là đổi mới tổ chức của quốc hội đảm bảo cho quốc hội thực sự là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất. Là nơi phát huy quyền làm chủ của nhân dân, của tất cả các giai cấp, tầng lớp xã hội. Tiếp tục đổi mới hoạt động của chính phủ theo hướng xây dựng nền hành chính thông nhất, thông suốt trong sạch vững mạnh. Nâng cao năng lực quản lý, điều hành kinh tế của chính phủ xác định rõ trách nhiệm của cá nhân và tập thể trong các cơ quan của chính phủ. Ngoài ra còn phải đẩy mạnh cải cách tư pháp theo hướng xây dựng hệ thống tư pháp trong sạch vững mạnh, bảo vệ công lý, tôn trọng và bảo vệ quyền con người. Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức trong sạch, có năng lực, đáp ứng yêu cầu của tình hình mới. Tích cực phòng ngừa và kiên quyết đâu tranh phòng chống tham nhũng lãng phí, thực hành tiết kiệm. Đổi mới các tổ chức quần chúng: Đổi mới mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị xã hội theo hướng dân chủ hóa, đồng thời tăng cường sự liên kết giữa các tổ chức chính trị xã hội để đảm bảo hoạt động nhịp nhàng có hiệu quả. Các đoàn thể nhân dân cần tiếp tục tăng cường tổ chức, đổi mới nội dung, phương thức hoạt động, tập hợp đoàn kết nhân dân thực hiện dân chủ, đảm bảo thực sự là nơi đoàn kết, tập hợp của các giai cấp, tầng lớp trong xã hội. Tăng cường vai trò giám sát của các tổ chức quần chúng đối với hoạt động của cả hệ thống chính trị. Như vậy việc đổi mới hệ thống chính trị và thực hiện dân chủ hóa xã hội sẽ phát huy vai trò làm chủ của nhân dân về mọi mặt của đời sống chính trị. Tăng cường, củng cố khối đại đoàn kết dân tộc, khối liên minh công-nông-trí thức vững chắc tạo cơ sở chính trị cho thực hiện những nhiệm vụ cách mạng trong thời kì quá độ lên CNXH. Đảm bảo vững chắc chuyên chính vô sản và sự lãnh đạo của GCCN trong khối liên minh công-nông-trí thức. 3.3. Nâng cao trình độ dân trí cho nhân dân. Quá trình xây dựng và củng cố khối liên minh giữa GCCN với GCND và tầng lớp trí thức ở nước ta hiện nay là quá trình cách mạng đòi hỏi tính tự giác của Đảng, của nhà nước và của các giai cấp và tầng lớp trong xã hội. Tính tự giác trong quá trình cách mạng phụ thuộc chủ yếu vào trình độ dân trí của nhân dân, trình độ tư duy lí luận, giác ngộ chính trị, trình độ nắm bắt quy luật, nhu cầu thực tiễn, năng lực hoạt động sáng tạo và năng lực ứng xử có văn hóa nói chung, cùng với trình độ nhận thức pháp luật, ý thức công dân… Để liên minh công nông trí thức để củng cố và phát triển một cách bền vững đòi hỏi tinh thần tự giác, đoàn kết, liên kết giữa cả GCCN, GCND và tầng lớp trí thức. Do vậy phải nâng cao trình độ dân trí, trình độ giác ngộ chính trị và ý thức trách nhiệm giai cấp cho tất cả các giai cấp tầng lớp. Với giai cấp công nhân: GCCN là giai cấp tiên phong trong sự nghiệp xây dựng CNXH và là lực lượng nòng cốt trong khối liên minh công-nông-trí thức. Vì vậy, việc nâng cao trình độ dân trí cho GCCN có ý nghĩa quan trọng, để GCCN nhận thức rõ được vai trò, trách nhiệm lãnh đạo của mình trong việc củng cố liên minh công-nông-trí thức. Trong báo cáo chính trị đại hội XI của Đảng đã chỉ rõ: “quan tâm giáo dục, đào tạo, bồi dưỡng, phát triển giai cấp công nhân Việt Nam về cả số lượng và chất lượng; nâng cao bản lĩnh chính trị, trình độ học vấn, chuyên môn, kĩ năng nghề nghiệp, kỉ luật lao động, đáp ứng yêu câu của sự nghiệp CNH-HĐH đất nước và hội nhập quốc tế”. Để nâng cao trình độ cho GCCN, một trong những vấn đề hàng đầu là phải tập trung các nguồn lực cho đào tạo nâng cao trình độ về mọi mặt của GCCN, từng bước trí thức hóa công nhân. Tạo lập những kĩ năng, kiến thức, tay nghề, kinh nghiệm, năng lực sáng tạo cho công nhân, giác ngộ GCCN có bản lĩnh chính trị vững vàng, có ý thức công dân, yên nước, yêu CNXH là bộ phận tiên tiến và tiêu biểu cho tiếng nói văn hóa của dân tộc. Nhạy bén và vững vàng trước những diễn biến phức tạp của tình hình thế giới và những biến động của tình hình trong nước. Có tinh thần đoàn kết dân tộc luôn là lực lượng tiên phong trong nhiệm vụ củng cố khối đại đoàn kết dân tộc, khối liên minh công-nông-trí thức. Xây dựng GCCN có đủ trình độ năng lực phẩm chất để tập hợp và lôi cuốn đông đảo GCND và tầng lớp trí thức vào khối liên minh giai cấp của mình. Để đạt được như vậy, phải nâng cao trình độ học vấn, hiểu biết pháp luật, tác phong công nghiệp và kỉ luật lao động, lối sống lành mạnh cho công nhân, đặc biệt là công nhân trẻ. Tâng lớp trí thức: Trong giai đoạn hiện nay, tầng lớp trí thức có vai trò to lớn trong sự nghiệp phát triển đất nước. Trong nền kinh tế mà hàm lượng trí thức, khoa học ngày càng chiếm tỉ trọng cao như hiện nay, chúng ta cần phải phát huy trí tuệ của đội ngũ trí thức. Vì vậy, yêu cầu tập hợp đông đảo lực lượng trí thức vào khối liên minh của giai cấp công nhân và phát huy vai trò của trí thức trong nhiệm vụ củng cố khối liên minh công-nông-tri thức là một nhiệm vụ rất quan trọng. Để thực hiện được nhiệm vụ đó phải tạo điều kiện cho tầng lớp trí thức phát huy tính tích cực sáng tạo năng động của mình, đồng thời cần phải nâng cao trình độ học vấn, trình độ giác ngộ chính trị cho tầng lớp trí thức. Giáo dục tinh thần yêu nước, tinh thần cống hiến xây dựng đất nước và niềm tin vào CNXH và sự lãnh đạo của Đảng để tự giác đi vào khối liên minh công-nông-trí thức dưới sự lãnh đạo của GCCN. Giai cấp nông dân: GCND là lực lượng to lớn trong khối liên minh công-nông-trí thức, có thể nói là lực lượng đông đảo nhất. Do vậy việc giáo dục nâng cao trình độ dân trí để giai cấp nông dân tự giác tham gia và củng cố khối liên minh này là vấn đề có ý nghĩa to lớn và quan trọng với nhiệm vụ tăng cường và củng cố khối liên minh công-nông-trí thức, khối đại đoàn kết dân tộc. Để nâng cao trình độ dân trí cho GCND, trước tiên phải giáo dục và nâng cao kiến thức cho GCND về các mặt kinh tế, khoa học kĩ thuật, văn hóa xã hội, pháp luật… trong đó quan trọng là đào tạo và chuyển giao khoa học kĩ thuật trong lĩnh vực sản xuất nông nghiệp và đặc biệt là sản xuất nông nghiệp hàng hóa, sản xuất nông nghiệp công nghệ cao. Đi đôi với vấn đề đó là phải xây dựng nếp sống văn hóa mới cho giai cấp nông dân trong môi trường nông thôn mới. Để thực hiện tốt nhiệm vụ đó phải phát triển đồng bộ các cơ sở giáo dục đào tạo ở các vùng nông thôn. Tăng cường công tác thông tin truyền thông, vận động nông dân vùng xâu vùng xa, vùng miền núi về các đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và nhà nước. Đặc biệt chú trọng đến phương pháp tuyên truyền miệng. Đoàn kết người nông dân trong các tổ chức nông hội để tăng lên sự đồng thuận cao của GCND đồng thời liên kết chặt chẽ với GCCN và trí thức trong cuộc sống sinh hoạt và lao động sản xuất. Giáo dục giai cấp nông dân Việt Nam vững vàng về chính trị, tư tưởng và vững mạnh về tổ chức thống nhất trong hành động – đó cũng là vấn đề trung tâm của phong trào xây dựng nông thôn mới hiện nay. Như vậy sẽ làm cho giai cấp nông dân chủ động và tích cực trong việc liên kết với GCCN và trí thức. Kết hợp với việc nâng cao dân trí là việc đổi mới thực hiện các chính sách xã hội nhằm xóa bỏ dần khoảng cách giàu nghèo, từng bước trên cơ sở phát triển sản xuất, tăng phúc lợi cho nhân dân và tạo điều kiện cho các giai tầng xích lại gần nhau về cả kinh tế, chính trị, văn hóa – xã hội. Đây cũng chính là phương hướng quan trọng để tăng cường và củng cố liên minh công-nông-trí thức. 3.4. Thực hiện tốt quy chế dân chủ cơ sở. Dân chủ là bản chất của chế độ XHCN. Mở rộng dân chủ vừa là mục tiêu, vừa là động lực của cách mạng, của công cuộc CNH-HĐH hiện nay. Trước yêu cầu phát triển mới, để phát huy mọi tiềm năng, nguồn lực quan trọng, trong đó quan trọng nhất là nguồn lực con người. Điều đó đòi hỏi phải có một quy chế, điều kiện để phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Thực hiện và phát huy quyền làm chủ của nhân dân cũng chính là mắt khâu cơ bản để đấu tranh hiệu quả đối với tình trạng tham nhũng, quan liêu cường quyền của một bộ phận cán bộ đảng viên. Nhờ đó sẽ góp phần tăng cường liên minh công nông trí thức và tăng cường niềm tin của nhân dân đối với Đảng và nhà nước. Thực hiện tốt các quy chế dân chủ cơ sở ở các cơ quan đơn vị và địa phương sẽ nâng cao niềm tin của toàn xã hội đối với Đảng và nhà nước, nhờ đó phát huy các nguồn lực to lớn trong nhân dân, đóng góp cho xây dựng đất nước đồng thời phát huy được sức mạnh của nhân dân trong đấu tranh lên án các tệ nạn xã hội, lối sống thiếu đạo đức, tiêu cực. Đẩy mạnh quy chế dân chủ cơ sở sẽ tạo được sự đồng thuận của nhân dân góp phần ổn định chính trị và phát triển kinh tế xã hội, giữ vũng quốc phòng an ninh tại địa phương. Thực hiện đúng quy chế dân chủ cơ sở sẽ tạo ra một môi trường chính trị rộng mở, công khai minh bạch để tất cả tầng lớp nhân dân sinh hoạt chính trị, thực hiện vai trò làm chủ của mình trong các vấn đề cụ thể ở địa phương và các nước. Điều đó cũng góp phần tạo lên sự đoàn kết chặt chẽ của tất cả các giai cấp, tầng lớp xã hội, phát huy và tăng cường khối liên minh công-nông-trí thức. Đảm bảo cho mỗi giai cấp, tầng lớp được đóng góp tiếng nói, được phát huy vai trò của mình và nâng cao khả năng tự đảm bảo quyền lợi của mình trên cơ sở lợi ích chung của xã hội. Để thực hiện được quy chế dân chủ cơ sở cần phải tiếp tục đẩy mạnh cải cách hành chính nhà nước hơn nữa và xây dựng một hành lang pháp lí để tạo điều kiện cho nhân dân thực hiện quyền làm chủ của mình, khuyến khích nhân dân tham gia đóng góp ý kiến và quyết định các vấn đề về đường lối, chính sách ở cơ sở. Nhờ vậy mới giải quyết được nhanh chống và kịp thời các vấn đề ở địa phương, giảm áp lực lên chính quyền cấp trên. Ngoài những biện pháp trên, khi thực hiện liên minh công nông trí thức phải đảm bảo các nguyên tắc sau: đảm bảo vai trò lãnh đạo của Đảng. Đảm bảo nguyên tắc tự nguyện. Kết hợp đúng đắc các lợi ích giữa các giai cấp, tầng lớp. KẾT LUẬN Qua quá trình nghiên cứu, tìm hiển và hoàn thành đề tài: “ các phương hướng và giải pháp cơ bản nhằm tăng cường và củng cố khối liên minh của gccn với giai cấp nông dân và tang lớp trí thức trong tkqđ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghỉa xã hội ở Việt Nam hiện nay”. Có thể thấy một số điểm sau: Cả về mặt lí luận và thực tiễn đều khẳng định rằng liên minh giữa GCCN với GCND và tầng lớp trí thức luôn là vấn đề có tính chiến lược của cách mạng kể các cách mạng dân tộc, dân chủ cũng nhưa cách mạng XHCN. Đó là lực lượng nòng cốt của khối đại đoàn kết toàn dân trong mặt trận dân tộc thống nhất, là nguồn sức mạnh và động lực to lớn của sự nghiệp xây dựng tổ quốc. Đặc biệt trong giai đoạn quá độ từ CNTB lên CNXH ở Việt Nam hiện nay trong bối cảnh thế giới và trong nước đang diễn ra những biến đổi mạnh mẽ. Nhiệm vụ tăng cường và củng cố liên minh GCCN với GCND và tầng lớp trí thức càng trở lên cấp thiết hơn bao giờ hết, để đáp ứng những yêu cầu phát triển mới của đất nước, đáp ứng đòi hỏi của công cuộc cách mạng XHCN ở nước ta. Tăng cường củng cố khối liên minh GCCN với GCND và tầng lớp trí thức vững chắc làm hạt nhân trong khối đại đoàn kết dân tộc trong thời kì đẩy mạnh CNH-HĐH là trách nhiệm của Đảng, của nhà nước, cả hệ thống chính trị và cũng là nhiệm vụ của toàn dân trong đó GCCN có vai trò quan trọng, là lực lượng tiên phong lãnh đạo. Do tính cấp thiết của liên minh công-nông-trí thức trong giai đoạn hiện nay nên đòi hỏi phải có những giải pháp và phương hướng đúng đắn, sáng tạo để tăng cường, củng cố khối liên minh của GCCN với GCND và tầng lớp trí thức thành một khối thống nhất mạnh đáp ứng các nhiệm vụ cách mạng mới của thời kì quá độ từ CNTB lên CNXH trong giai đoạn hiện nay ở Việt Nam. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO Khoa Chủ Nghĩa Xã Hội Khoa Học,[ 2007], giáo trình chủ nghĩa xã hội khoa học ,(sách- lưu hành nội bộ ),khoa chủ nghĩa xã hội khoa học, học viện báo chí tuyên truyền. Dương Xuân Ngọc, [ 2004 ],Giai cấp công nhân Việt Nam trong sự nghiệp công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước ,NXB Chính Trị Quốc Gia, Hà Nội. Trương Quang Khải, [ 2003 ], Liên minh giai cấp trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội ỏe Việt Nam – cái phổ biến và cái đặc thù, Luận án tiến sĩ, Học viện chính trị- Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh , Hà Nội. Đỗ Xuân Tuất (chủ biên ), [ 2007 ], Báo cáo tổng kết đề tài cấp Bộ “ Đảng Cộng Sản Việt Nam lãnh đạo xây dựng khối liên minh công nhân – nông dân – trí thức trong 20 năm đổi mới (1986 – 2006) – lịch sử và kinh nghiệm, Học viện chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội. Đặng Quang Vinh , [ 2010 ], Quan hệ lợi ích kinh tế giữa công nhân-nông dân –trí thức ở Việt Nam hiện nay, NXB Chính tri quốc gia, Hà Nội. Nguyễn Quốc Phẩm , [ 2008 ], Lợi ích của giai cấp công nhân thống nhất với toàn dân tộc trong mục tiêu chung : Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội,dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng ,dân chủ, văn minh, thông tin chủ nghĩa xã hội – lí luân và thực tiễn. Đảng Cộng Sản Việt Nam, [ 2001 ], Văn kiện Đại Hội Đại biểu Toàn quốc lần IX, NXB Chính Trị Quốc Gia , Hà Nội, tr 23. Đảng Cộng Sản Việt Nam, [ 2006 ], Văn kiện Đại Hội Đại biểu Toàn quốc lần X, NXB, Chính trị quốc gia , Hà Nội, tr 116. Đảng Cộng Sản Việt Nam, [ 2011 ], Văn kiện Đại Hội Đại biểu Toàn quốc lần XI, NXB Chính tri quốc gia, Hà Nội, tr 48, 49, 50,240,243.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docxPhân tích các phương hướng và giải pháp cơ bán nhằm tăng cường và củng cố liên mính của giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp tri thức .docx
Luận văn liên quan