Pháp luật về chất lượng sản phẩm hàng hóa và thực tiễn tại Việt Nam

PHẦN MỞ ĐẦU 1 Tính cấp thiết của đề tài Vấn đề chất lượng và quản lý chất lượng đã trở thành một nhân tố chủ yếu trong chính sách của nhiều quốc gia, bởi lẽ để tạo được chỗ đứng của mình trên thị trường thế giới yêu cầu của mỗi doanh nghiệp đặc biệt với doanh nghiệp thương mại phải có được những mặt hàng không chỉ hợp về mẫu mã, đủ về số lượng hay mang yếu tố hiện đại mà còn chú ý đến chất lượng của mặt hàng đó. Ngày nay nhờ đổi mới khoa học kỹ thuật mà chu trình sản xuất được rút ngắn, chất lượng sản phẩm được nâng cao, mặt khác thu nhập quốc dân càng ngày càng cao, nhu cầu người tiêu dùng luôn luôn đổi mới đa dạng nên càng đòi hỏi hàng hoá phải có chất lượng phù hợp với yêu cầu của người tiêu dùng. Như ông Hoàng Mạnh Tuấn nguyên Tổng cục phó Tổng Cục tiêu chuẩn đo lường chất lượng đã nói: "chất lượng sản phẩm ngày nay đang trở thành một nhân tố cơ bản để quyết định sự thắng bại trong cạnh tranh, quyết định sự tồn tại, hương vong trong từng doanh nghiệp nói riêng cũng như sự thành công hay tụt hậu của nền kinh tế đất nước nói chung". Tuy nhiên trong nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần hiện nay cùng với quá trình mở cửa, với sự phát triển như vũ bão của nền kỹ thuật,công nghệ hiện đại và xu thế hội nhập khu vực hoá, toàn cầu hoá kinh tế, sự cạnh tranh trên thị trường sẽ ngày càng gay gắt quyết liệt. Các doanh nghiệp Việt Nam đang phải đối đầu với những thử thách to lớn như: Sức ép của hàng nhập, của người tiêu dùng trong và ngoài nước. Môi trường kinh doanh mới mẻ đầy biến động. Cung thường xuyên vượt cầu. Hàng rào thuế quan dần bị xoá bỏ. Những thị trường quan trọng như thị trường Châu Âu, thị trường Mỹ, thị trường Nhật Bản lại hết sức nghiêm ngặt về thủ tục và tiểu chuẩn chất lượng sản phẩm . Vì vậy vấn đề chất lượng sản phẩm và quản lý chất lượng bằng pháp luật về chất lượng sản phẩm ngày càng cấp bách và trở thành vấn đề ưu tiên hàng đầu. Chính vì ý nghĩa vô cùng quan trọng đó, tôi chọn đề tài . "Pháp luật về chất lượng sản phẩm hàng hóa và thực tiễn tại việt nam" 2. Đối tượng nghiên cứu. Đối tượng nghiên cứu của đề tài là chất lượng sản phẩm hàng hóa và tình hình chất lượng sản phẩm của Việt Nam trước và sau khi có Luật chát lượng sản phẩm hàng hóa, từ đó tìm ra nguyên nhân, giải pháp khắc phục tình trạng trên. Bài viết sẽ tập trung phân tích bản chất và vai trò của chất lượng hàng hoá đối với Nhà nước, các doanh nghiệp, và người tiên dùng. Đồng thời nêu lên những hạn chế, vướng mắc trong quá trình áp dụng Luật chất lượng hàng hóa vào thực tiễn để tìm ra hướng hoàn thiện Pháp luật về chất lượng sản phẩm hàng hóa. 3. Phương pháp nghiên cứu. Phương pháp phân tích: Phân tích các khái niệm về chất lượng hàng hóa để hiểu được bản chất cuả nó. Bên cạnh đó, cần phân tích vai trò của chất lượng hàng hóa để nói lên sự cần thiết phải điều chỉnh cũng như hoàn thiện pháp luật về chất lượng sản phẩm hàng hóa. Ngoài ra, trên cơ sỏ đánh giá những kết quả đạt được và hạn chế của hàng lang pháp lý về chất lượng sản phẩm để có phương hướng giải quyết những hạn chế đó. Phưong pháp tổng hợp: Đưa ra một cái nhìn tổng quan về hệ thống pháp luật về chất lượng hàng hóa. Phương pháp liệt kê: liệt kê hệ thống các văn bản có liên quan để tiện theo dõi và làm căn cứ cho phần lý luận của mình. 4. Kết cấu của đề tài : PHẦN MỞ ĐẦU 1.1 Tính cấp thiết của đề tài 1.2 Đối tượng nghiên cứu 1.3 Phương pháp nghiên cứu 1.4 Kết cấu của đề tài PHẦN NỘI DUNG Chương 1: Cơ sở pháp lý về chất lượng sản phẩm hàng hóa. Chương 2: Thực tiễn áp dụng pháp luật về chất lượng sản phẩm hàng hóa PHẦN KẾT LUẬN MỤC LỤC PHẦN MỞ ĐẦU1 1 Tính cấp thiết của đề tài1 2. Đối tượng nghiên cứu.1 3. Phương pháp nghiên cứu.2 4. Kết cấu của đề tài :2 PHẦN NỘI DUNG3 Chương1: Cơ sở pháp lý về chất lượng sản phẩm hàng hóa. 3 1.1 Khái quát về chất lượng sản phẩm hàng hóa. 3 1.1.1 Khái niệm về chất lượng sản phẩm hàng hóa. 3 1.1.2. Đặc trưng của chất lượng sản phẩm.4 1.1.3. Vai trò của chất lượng sản phẩm hàng hóa. 5 1.2. Pháp luật Việt Nam về chất lượng sản phẩm hàng hóa. 6 1.2.1. Các văn bản pháp luật về chất lượng sản phẩm hàng hóa. 6 1.2.2. Các quy định của luật chất lượng sản phẩm hàng hóa. 8 Chương 2:Thực tiễn áp dụng pháp luật về chất lượng. 19 sản phẩm hàng hóa. 19 2.1. Tình hình thực tế chất lượng sản phẩm hàng hóa VN19 2.2. Thực trạng pháp luật về chất lượng sản phẩm hàng hóa.24 2.3. Nguyên nhân của tình trạng trên.27 2.4. Kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả của Luật chất lượng hàng hóa. 28 PHẦN KẾT LUẬN30 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO31

doc32 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 5476 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Pháp luật về chất lượng sản phẩm hàng hóa và thực tiễn tại Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hâu Âu(EOQC) thì "Chất lượng là mức phù hợp của sản phẩm đối với yêu cầu của người tiêu dùng" Theo tiêu chuẩn của Australia(AS1057-1985)thì "Chất lượng là sự phù hợp với mục đích" Từ khi tổ chức tiêu chuẩn hoá quốc tế ISO đưa ra định nghĩa ISO 9000 - 1994 (TCVN 5814 - 1994) thì các cuộc tranh cãi lắng xuống và nhiều nước chấp nhận định nghĩa này:"Chất lượng là một tập hợp các tính chất và đặc trưng của sản phẩm tạo ra cho nó khả năng thoả mãn nhu cầu đã được nêu ra hoặc còn tiềm ẩn". Qua các định nghĩa trên ta có thể nêu ra 3 điểm cơ bản về chất lượng sản phẩm hàng hoá sau đây: + Chất lượng sản phẩm là một tập hợp các chỉ tiêu, các đặc trưng thể hiện tính năng kỹ thuật nói lên tính hữu ích của sản phẩm. + Chất lượng sản phẩm phải được gắn liền với điều kiện cụ thể của nhu cầu, của thị trường về các mặt kinh tế, kỹ thuật, xã hội và phong tục. + Chất lượng sản phẩm phải được sử dụng trong tiêu dùng và cần xem xét sản phẩm thoả mãn tới mức nào của người tiêu dùng. Ở nước ta, chất lượng sản phẩm, hàng hoá được quan niệm hẹp hơn, chỉ là các yêu cầu về an toàn mà sản phẩm, hàng hoá phải đáp ứng. Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hoá định nghĩa chất lượng sản phẩm, hàng hoá “là mức độ của các đặc tính của sản phẩm, hàng hoá đáp ứng yêu cầu trong tiêu chuẩn công bố áp dụng, quy chuẩn kỹ thuật tương ứng”. Như vậy, theo pháp luật hiện hành, chất lượng sản phẩm, hàng hoá được hiểu là chất lượng về mặt an toàn của sản phẩm, hàng hoá đối với người tiêu dùng nên thực chất Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hoá là luật về bảo đảm an toàn của sản phẩm, hàng hóa. Sản phẩm, hàng hoá và chất lượng sản phẩm, hàng hoá cơ bản do yếu tố con người, công nghệ và nguyên liệu đầu vào quyết định nhưng với mục tiêu bảo đảm an toàn nên luật chỉ điều chỉnh các quan hệ để bảo đảm an toàn của sản phẩm, hàng hoá từ khâu sản xuất, đưa ra lưu thông trên thị trường đến bảo đảm an toàn trong quá trình sử dụng của người tiêu dùng. 1.1.2. Đặc trưng của chất lượng sản phẩm. + Chất lượng là một phạm trù kinh tế xã hội - công nghệ tổng hợp. Ở đây chất lượng sản phẩm được quy định bởi 3 yếu tố kinh tế, xã hội, kỹ thuật chúng ta không được coi chất lượng chỉ đơn thuần là kỹ thuật hay kinh tế mà phải quan tâm tới cả 3 yếu tố. + Chất lượng sản phẩm là một khái niệm có tính tương đối thường xuyên thay đổi theo thời gian và không gian. Vì thế chất lượng luôn phải được cải tiến để phù hợp với khách hàng với quan niệm thoả mãn khách hàng ở từng thời điểm không những thế mà còn thay đổi theo từng thị trường chất lượng sản phẩm được đánh giá là khách nhau phụ thuộc chặt chẽ vào điều kiện kinh tế văn hoá của thị trường đó. + Chất lượng là khái niệm vừa trừu tượng vừa cụ thể. Trừu tượng vì chất lượng thông qua sự phù hợp của sản phẩm với nhu cầu, sự phù hợp này phụ thuộc vào nhận thức chủ quan của khách hàng. Cụ thể vì chất lượng sản phẩm phản ánh thông qua các đặc tính chất lượng cụ thể có thể đo được, đếm được. Đánh giá được những đặc tính này mang tính khách quan vì được thiết kế và sản xuất trong giai đoạn sản xuấ 1.1.3. Vai trò của chất lượng sản phẩm hàng hóa Chất lượng của sản phẩm, hàng hoá thể hiện ở mức độ đáp ứng của sản phẩm, hàng hóa với nhu cầu của người tiêu dùng và bảo đảm an toàn cho con người, động thực vật, tài sản, môi trường.. Bảo đảm chất lượng sản phẩm, hàng hoá có ý nghĩa rất quan trọng không chỉ với người tiêu dùng, người sản xuất mà còn cả với nhà nước trong việc duy trì an ninh, trật tự công cộng và lợi ích quốc gia Chất lương sản phẩm là chính sách do doanh nghiệp thực hiện các chiến lược Marketing tạo uy tin và danh tiếng cho sản phẩm của doanh nghiệp, khẳng định vị trí của sản phẩm đó trên thị trường từ đó làm cơ sở cho sự tồn tại và phát triển bền lâu của doanh nghiệp. Nhờ phát triển chất lượng đã giúp tiết kiệm nguyên vật liệu, tiết kiệm tai nguyên và giảm thiểu ô nhiễm môi trường. Hiện nay, cuộc cạnh tranh toàn cầu đã, đang và sẽ trở nên ngày càng mạnh mẽ với qui mô và phạm vi ngày càng lớn. Sự phát triển của khoa học và công nghệ cho phép các nhà sản xuất nhạy bén có khả năng đáp ứng ngày càng cao nhu cầu khách hàng,  tạo ra lợi thế cạnh tranh.Tình hình trên đã khiến cho chất lượng trở thành yếu tố cạnh tranh, trở thành yếu tố quyết định sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Chất lượng sản phẩm tốt đảm bảo hướng dẫn và kích thích tiêu dùng. Riêng đối với sản phẩm là tư liệu sản xuất chất lượng sản phẩm tốt đảm bảo cho việc trang bị lỹ thuật hiện đại cho nền kinh tế quốc dân, nâng cao năng suất lao dộng. Chất lượng sản phẩm không những làm tăng uy tín hàng hóa nươc ta trên thị trường thế giới mà còn tạo điều kiện tăng cương thu nhập ngoại tệ cho đât nước. Bên cạnh đó đảm bảo chất lượng hàng hoá, chống hàng giả, hàng nhái, bảo đảm vệ sinh an toàn thực phẩm, chống hàng lậu không đảm bảo chất lượng, không rõ nguồn gốc, góp phần tích cực trong việc bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng Việt Nam. 1.2. Pháp luật Việt Nam về chất lượng sản phẩm hàng hóa 1.2.1. Các văn bản pháp luật về chất lượng sản phẩm hàng hóa Trong bối cảnh hội nhập và toàn cầu hoá, bên cạnh việc tạo điều kiện thuận lợi để lưu thông, trao đổi hàng hóa, các nước cũng cần ngăn cản các sản phẩm, hàng hóa kém chất lượng, không bảo đảm an toàn để bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, bảo vệ sản xuất trong nước và lợi ích quốc gia. Vì yêu cầu đó nên liên tục những năm gần đây, nhiều nước đã ban hành các đạo luật chuyên ngành để quản lý chất lượng sản phẩm, hàng hoá. Để quản lý chất lượng sản phẩm, hàng hoá, nhà nước ta đã ban hành Pháp lệnh Chất lượng hàng hoá năm 1990 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 1999) với gần một trăm văn bản hướng dẫn thi hành. Tuy nhiên, hệ thống pháp luật về chất lượng chưa thống nhất và đồng bộ, đang ngày tỏ ra bất cập với yêu cầu quản lý chất lượng sản phẩm, hàng hoá trong tình hình mới. Trong những năm gần đây, pháp luật về chất lượng sản phẩm, hàng hoá nước ta không ngừng được hoàn thiện cho phù hợp với cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và bối cảnh hội nhập sâu, rộng vào nền kinh tế khu vực và thế giới.. Để nâng cao hiệu lực điều chỉnh của pháp luật với các quan hệ xã hội về chất lượng sản phẩm, hàng hóa tương xứng với vai trò quan trọng của nó trong sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, nhà nước đã ban hành Luật Tiêu chuẩn và quy chuẩn kỹ thuật năm 2006 (có hiệu lực từ 01/1/2007). Ngày 21 tháng 11 năm 2007, tại Kỳ họp thứ 2, Quốc hội khoá XI đã thông qua Luật chất lượng sản phẩm, hàng hoá (số 05/2007/QH12), có hiệu lực từ ngày 01 tháng 7 năm 2008. Bên cạnh Luật Chất lượng sản phẩm là hệ thống các văn bản hướng dẫn thi hành được các cơ quan chức năng ban hành để hướng dẫn áp dung Luật chất lượng sản phẩm như vào thực tiễn như: - Nghị định số 132/2008/NĐ-CP ngày 31/12/2008 của Chính phủ Quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật chất lượng sản phẩm, hang hoá - Nghị định số 67/2009/NĐ-CP ngày 3/8/2009 của Chính phủ Sửa đổi một số của Nghị định số 127/2007/NĐ-CP và Nghị định số 132/2008/NĐ-CP - Nghị định số 54/2009/NĐ-CP ngày 5/6/2009 của Chính phủ Quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực tiêu chuẩn, đo lường và chất lượng sản phẩm, hàng hoá - Thông tư số 01/2009/TT-BKHCN ngày 20/3/2009 Quy định Danh mục sản phẩm, hàng hoá có khả năng gây mất an toàn thuộc trách nhiệm quản lý của Bộ Khoa học và Công nghệ -Thông tư số 08/2009/TT-BKHCN ngày 8/4/2009 Hướng dẫn về yêu cầu, trình tự, thủ tục đăng ký lĩnh vực hoạt động đánh giá sự phù hợp Thông tư số 09/2009/TT-BKHCN ngày 8/4/2009 Hướng dẫn về yêu cầu, trình tự, thủ tục chỉ định tổ chức đánh giá sự phù hợp - Thông tư số 11/2009/TT-BKHCN ngày 6/5/2009 Quy định về Giải thưởng Chất lượng Quốc gia - Thông tư số 16/2009/TT-BKHCN ngày 2/6/2009 Hướng dẫn kiểm tra nhà nước về chất lượng hàng hoá lưu thông trên thị trường - Thông tư số 17/2009/TT-BKHCN ngày 18/6/2009 Hướng dẫn kiểm tra nhà nước về chất lượng hàng hoá nhập khẩu thuộc trách nhiệm quản lý của Bộ Khoa học và Công nghệ - Thông tư số 19/2009/TT-BKHCN ngày 30/6/2009 Quy định các biện pháp quản lý chất lượng đối với sản phẩm, hàng hoá cần tăng cường quản lý trước khi đưa ra lưu thông trên thị trường - Thông tư số 22/2009/TT-BKHCN ngày 30/9/2009 Hướng dẫn trình tự, thủ tục đăng ký sản phẩm mới có khả năng gây mất an toàn thuộc trách nhiệm quản lý của Bộ Khoa học và Công nghệ - Thông tư số 06/2009/TT-BTTTT ngày 24/3/2009 Quy định về chứng nhận hợp quy và công bố hợp quy đối với sản phẩm chuyên ngành công nghệ thông tin và truyền thông - Thông tư số 07/2009/TT-BTTTT ngày 24/3/2009 Ban hành Danh mục sản phẩm chuyên ngành công nghệ thông tin và truyền thông bắt buộc phải chứng nhận và công bố hợp quy - Thông tư số 19/2010/TT-BCT ngày 17/5/2010 Ban hành Danh mục sản phẩm, hàng hoá có khả năng gây mất an toàn thuộc trách nhiệm quản lý của Bộ Công thương - Thông tư số 03/2010/TT-BLĐTBXH ngày 19/1/2010 Ban hành Danh mục sản phẩm, hàng hoá nhóm 2 và hướng dẫn trình tự, thủ tục và nội dung kiểm tra chất lượng sản phẩm, hàng hoá trong sản xuất... Ngoài ra, một còn một số quy định khác được quy định rải rác ở một số luật có liên quan như Luật Bảo vệ người tiêu dùng, Luật Tiêu chuẩn quy chuẩn kỹ thuật, Bộ luật dân sự, Luật thương mại... 1.2.2. Các quy định của luật chất lượng sản phẩm hàng hóa Luật chất lượng sản phẩm, hàng hoá là đạo luật đầu tiên trong lịch sử lập pháp Việt Nam quy định về quyền và nghĩa vụ của tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh sản phẩm, hàng hoá và tổ chức, cá nhân có hoạt động liên quan đến chất lượng sản phẩm, hàng hoá; quản lý chất lượng sản phẩm, hàng hóa. Luật áp dụng đối với mọi tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh sản phẩm, hàng hoá và tổ chức, cá nhân có hoạt động liên quan đến chất lượng sản phẩm, hàng hoá tại Việt Nam. Theo quy định của Luật, hoạt động sản xuất, kinh doanh và hoạt động liên quan đến chất lượng sản phẩm, hàng hoá phải tuân theo quy định của Luật này và các quy định khác của pháp luật có liên quan; hoạt động sản xuất, kinh doanh và hoạt động liên quan đến chất lượng sản phẩm, hàng hoá là công trình xây dựng, dịch vụ, hàng hoá đã qua sử dụng không thuộc diện phải kiểm định; sản phẩm, hàng hoá chuyên phục vụ quốc phòng, an ninh và sản phẩm, hàng hoá đặc thù khác phải tuân thủ các nguyên tắc chung của Luật này và được điều chỉnh cụ thể bằng văn bản pháp luật khác. Theo quy đinh của Luật này sản phẩm (kết quả của quá trình sản xuất hoặc cung ứng dịch vụ nhằm mục đích kinh doanh hoặc tiêu dùng), hàng hoá (sản phẩm được đưa vào thị trường, tiêu dùng thông qua trao đổi, mua bán, tiếp thị) đều được quản lý chất lượng theo các nguyên tắc sau: Chất lượng sản phẩm, hàng hoá được quản lý trên cơ sở tiêu chuẩn công bố áp dụng, quy chuẩn kỹ thuật tương ứng. Sản phẩm, hàng hoá không có khả năng gây mất an toàn (sau đây gọi là sản phẩm, hàng hoá nhóm 1) là sản phẩm, hàng hoá trong điều kiện vận chuyển, lưu giữ, bảo quản, sử dụng hợp lý và đúng mục đích, không gây hại cho người, động vật, thực vật, tài sản, môi trường được quản lý chất lượng trên cơ sở tiêu chuẩn của hàng hoá, chất lượng mà người sản xuất sản phẩm, hàng hoá đó công bố áp dụng. Sản phẩm, hàng hoá có khả năng gây mất an toàn (sau đây gọi là sản phẩm, hàng hoá nhóm 2) là sản phẩm, hàng hoá trong điều kiện vận chuyển, lưu giữ, bảo quản, sử dụng hợp lý và đúng mục đích, vẫn tiềm ẩn khả năng gây hại cho người, động vật, thực vật, tài sản, môi trường được quản lý trên cơ sở quy chuẩn kỹ thuật tương ứng do cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền ban hành và tiêu chuẩn do người sản xuất công bố áp dụng. Danh mục sản phẩm, hàng hóa thuộc nhóm 2 này sẽ do Chính phủ quy định cụ thể. Quản lý chất lượng sản phẩm, hàng hoá là trách nhiệm của người sản xuất, kinh doanh nhằm bảo đảm an toàn cho người, động vật, thực vật, tài sản, môi trường; nâng cao năng suất, chất lượng và khả năng cạnh tranh của sản phẩm, hàng hoá Việt Nam. Quản lý nhà nước về chất lượng sản phẩm, hàng hoá là trách nhiệm của cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền nhằm thực thi các quy định của pháp luật về chất lượng sản phẩm, hàng hoá. Hoạt động quản lý nhà nước về chất lượng sản phẩm, hàng hoá phải bảo đảm minh bạch, khách quan, không phân biệt đối xử về xuất xứ hàng hoá và tổ chức, cá nhân có hoạt động liên quan đến chất lượng sản phẩm, hàng hoá, phù hợp với thông lệ quốc tế, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh và người tiêu dùng. Dưới đây là một số nội dung chủ yếu của Luật chất lượng sản phẩm, hàng hoá về các nguyên tắc quản lý chất lượng sản phẩm, hàng hoá và chính sách của nhà nước về vấn đề chất lượng sản phẩm, hàng hoá: Thứ nhất, về chính sách của nhà nước về hoạt động liên quan đến chất lượng sản phẩm, hàng hoá. Nhằm tăng cường chất lượng, khả năng cạnh tranh của sản phẩm, hàng hoá trong nước, Nhà nước có chính sách khuyến khích tổ chức, cá nhân xây dựng và áp dụng tiêu chuẩn tiên tiến cho sản phẩm, hàng hoá và công tác quản lý, điều hành sản xuất, kinh doanh; xây dựng chương trình quốc gia nâng cao năng suất, chất lượng và khả năng cạnh tranh của sản phẩm, hàng hóa; đầu tư, phát triển hệ thống thử nghiệm đáp ứng yêu cầu sản xuất, kinh doanh và quản lý nhà nước về chất lượng sản phẩm, hàng hoá; đẩy mạnh việc đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực phục vụ hoạt động quản lý chất lượng sản phẩm, hàng hoá; tuyên truyền, phổ biến chính sách, pháp luật về chất lượng sản phẩm, hàng hoá; xây dựng ý thức sản xuất, kinh doanh sản phẩm, hàng hoá có chất lượng, vì quyền lợi người tiêu dùng, tiết kiệm năng lượng, thân thiện môi trường; nâng cao nhận thức xã hội về tiêu dùng, xây dựng tập quán tiêu dùng văn minh; khuyến khích, tạo điều kiện cho tổ chức, cá nhân trong nước và tổ chức, cá nhân nước ngoài đầu tư, tham gia vào hoạt động thử nghiệm, kiểm định, giám định, chứng nhận chất lượng sản phẩm, hàng hóa; mở rộng hợp tác với các quốc gia, các vùng lãnh thổ, tổ chức quốc tế, tổ chức khu vực, tổ chức và cá nhân nước ngoài trong hoạt động liên quan đến chất lượng sản phẩm, hàng hoá; tăng cường ký kết điều ước quốc tế, thỏa thuận quốc tế thừa nhận lẫn nhau giữa Việt Nam với các nước, vùng lãnh thổ, các tổ chức quốc tế, tổ chức khu vực về kết quả đánh giá sự phù hợp; khuyến khích các tổ chức đánh giá sự phù hợp của Việt Nam ký kết thỏa thuận thừa nhận kết quả đánh giá sự phù hợp với tổ chức tương ứng của các nước, vùng lãnh thổ nhằm tạo thuận lợi cho phát triển thương mại giữa Việt Nam với các nước, vùng lãnh thổ. Bên cạnh đó, Luật cũng quy định nghiêm cấm việc sản xuất sản phẩm, nhập khẩu, mua bán hàng hoá đã bị Nhà nước cấm lưu thông; sản xuất sản phẩm, xuất khẩu, nhập khẩu, mua bán hàng hóa, trao đổi, tiếp thị sản phẩm, hàng hoá không bảo đảm quy chuẩn kỹ thuật tương ứng; xuất khẩu, nhập khẩu, mua bán hàng hoá không có nguồn gốc rõ ràng; xuất khẩu, nhập khẩu, mua bán hàng hoá, trao đổi, tiếp thị sản phẩm, hàng hoá đã hết hạn sử dụng; dùng thực phẩm, dược phẩm không bảo đảm chất lượng hoặc đã hết hạn sử dụng làm từ thiện hoặc cho, tặng để sử dụng cho người; cố tình cung cấp sai hoặc giả mạo kết quả thử nghiệm, kiểm tra, giám định, kiểm định, chứng nhận chất lượng sản phẩm, hàng hóa; giả mạo hoặc sử dụng trái phép dấu hợp chuẩn, dấu hợp quy, các dấu hiệu khác về chất lượng sản phẩm, hàng hóa; thay thế, đánh tráo, thêm, bớt thành phần hoặc chất phụ gia, pha trộn tạp chất làm giảm chất lượng sản phẩm, hàng hóa so với tiêu chuẩn công bố áp dụng hoặc quy chuẩn kỹ thuật tương ứng; thông tin, quảng cáo sai sự thật hoặc có hành vi gian dối về chất lượng sản phẩm, hàng hóa, về nguồn gốc và xuất xứ hàng hóa; che giấu thông tin về khả năng gây mất an toàn của sản phẩm, hàng hoá đối với người, động vật, thực vật, tài sản, môi trường... Thứ hai, Luật quy định cụ thể về quyền và nghĩa vụ của người sản xuất, người nhập khẩu, người xuất khẩu, người bán hàng, người tiêu dùng đối với chất lượng sản phẩm, hàng hoá mà mình sản xuất, cung ứng, nhập khẩu, xuất khẩu, bán cho người tiêu dùng. Theo đó, người sản xuất có quyền quyết định và công bố mức chất lượng sản phẩm do mình sản xuất, cung cấp; được quyết định các biện pháp kiểm soát nội bộ để bảo đảm chất lượng sản phẩm; được lựa chọn tổ chức đánh giá sự phù hợp để thử nghiệm, kiểm định, giám định, chứng nhận chất lượng sản phẩm, hàng hóa.... Người sản xuất có nghĩa vụ tuân thủ các điều kiện bảo đảm chất lượng đối với sản phẩm trước khi đưa ra thị trường và chịu trách nhiệm về chất lượng sản phẩm do mình sản xuất; nghĩa vụ thể hiện các thông tin về chất lượng trên nhãn hàng hóa, bao bì, trong tài liệu kèm theo hàng hóa theo quy định của pháp luật về nhãn hàng hóa, thông tin trung thực về chất lượng sản phẩm, hàng hoá, phải cảnh báo về khả năng gây mất an toàn của sản phẩm và cách phòng ngừa cho người bán hàng và người tiêu dùng...). Người nhập khẩu có quyền quyết định lựa chọn mức chất lượng của hàng hoá do mình nhập khẩu; quyền yêu cầu người xuất khẩu cung cấp hàng hoá đúng chất lượng đã thoả thuận theo hợp đồng; quyền lựa chọn tổ chức giám định để giám định chất lượng hàng hoá do mình nhập khẩu; quyền sử dụng dấu hợp chuẩn, dấu hợp quy và các dấu hiệu khác cho hàng hoá nhập khẩu theo quy định... Người nhập khẩu có nghĩa vụ tuân thủ các điều kiện bảo đảm chất lượng đối với hàng hoá nhập khẩu, chịu trách nhiệm về chất lượng và ghi nhãn hàng hoá theo quy định của pháp luật đối với hàng hóa do mình nhập khẩu, thông tin trung thực về chất lượng sản phẩm, hàng hoá, cảnh báo về khả năng gây mất an toàn của hàng hóa và cách phòng ngừa cho người bán hàng và người tiêu dùng... Người bán hàng có các quyền như quyết định cách thức kiểm tra chất lượng hàng hoá, lựa chọn tổ chức đánh giá sự phù hợp để thử nghiệm, giám định hàng hoá, quyết định các biện pháp kiểm soát nội bộ để duy trì chất lượng hàng hoá... và có các nghĩa vụ tuân thủ các điều kiện bảo đảm chất lượng đối với hàng hoá lưu thông trên thị trường và chịu trách nhiệm về chất lượng hàng hóa, nghĩa vụ kiểm tra nguồn gốc hàng hóa, nhãn hàng hóa, dấu hợp chuẩn, dấu hợp quy, các tài liệu liên quan đến chất lượng hàng hóa, nghĩa vụ thông tin trung thực về chất lượng sản phẩm, hàng hoá, thông báo cho người mua điều kiện phải thực hiện khi vận chuyển, lưu giữ, bảo quản và sử dụng hàng hoá, cung cấp thông tin về việc bảo hành hàng hóa cho người mua, kịp thời dừng bán hàng, thông tin cho người sản xuất, người nhập khẩu và người mua khi phát hiện hàng hoá gây mất an toàn hoặc hàng hoá không phù hợp với tiêu chuẩn công bố áp dụng, quy chuẩn kỹ thuật tương ứng, hoàn lại tiền hoặc đổi hàng mới, nhận lại hàng có khuyết tật bị người mua trả lại... Theo quy định của Luật, người tiêu dùng có các quyền được cung cấp thông tin trung thực về mức độ an toàn, chất lượng, hướng dẫn vận chuyển, lưu giữ, bảo quản, sử dụng sản phẩm, hàng hoá; được cung cấp thông tin về việc bảo hành hàng hóa, khả năng gây mất an toàn của hàng hoá và cách phòng ngừa khi nhận được thông tin cảnh báo từ người sản xuất, người nhập khẩu; yêu cầu người bán hàng sửa chữa, hoàn lại tiền hoặc đổi hàng mới, nhận lại hàng có khuyết tật; được bồi thường thiệt hại... Bên cạnh đó, người tiêu dùng có nghĩa vụ tuân thủ các điều kiện bảo đảm chất lượng đối với hàng hoá trong quá trình sử dụng; tuân thủ quy định và hướng dẫn của người sản xuất, người nhập khẩu, người bán hàng về việc vận chuyển, lưu giữ, bảo quản, sử dụng sản phẩm, hàng hóa; tuân thủ quy định về kiểm định chất lượng sản phẩm, hàng hoá trong quá trình sử dụng sản phẩm, hàng hóa thuộc danh mục do Bộ quản lý ngành, lĩnh vực quy định; tuân thủ quy định của pháp luật về bảo vệ môi trường trong quá trình sử dụng sản phẩm, hàng hoá. Luật cũng có quy định cụ thể về quyền và nghĩa vụ của tổ chức đánh giá sự phù hợp, (tổ chức tiến hành hoạt động thử nghiệm, giám định, kiểm định, chứng nhận sự phù hợp của sản phẩm, hàng hoá, quá trình sản xuất, cung ứng dịch vụ phù hợp với tiêu chuẩn công bố áp dụng, quy chuẩn kỹ thuật tương ứng), tổ chức nghề nghiệp và tổ chức bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong vấn đề chất lượng sản phẩm, hàng hoá. Thứ ba, Luật có quy định cụ thể về quản lý chất lượng sản phẩm, hàng hoá trong các khâu sản xuất, xuất khẩu, nhập khẩu, lưu thông trên thị trường và trong quá trình sử dụng. Theo đó, chất lượng sản phẩm, hàng hoá được quản lý thông qua các biện pháp như: Công bố tiêu chuẩn áp dụng: Người sản xuất, người nhập khẩu tự công bố các đặc tính cơ bản, thông tin cảnh báo, số hiệu tiêu chuẩn trên hàng hoá hoặc trên bao bì hàng hoá, nhãn hàng hoá, tài liệu kèm theo sản phẩm, hàng hoá; Công bố sự phù hợp: Người sản xuất thông báo sản phẩm của mình phù hợp với tiêu chuẩn (công bố hợp chuẩn) hoặc với quy chuẩn kỹ thuật (công bố hợp quy). Việc công bố hợp chuẩn, công bố hợp quy được thực hiện theo quy định của pháp luật về tiêu chuẩn và quy chuẩn kỹ thuật. Đánh giá sự phù hợp thông qua các hình thức như thử nghiệm (thực hiện các thao tác kỹ thuật nhằm xác định một hay nhiều đặc tính của sản phẩm, hàng hóa theo một quy trình nhất định), giám định (xem xét sự phù hợp của sản phẩm, hàng hóa so với hợp đồng hoặc tiêu chuẩn công bố áp dụng, quy chuẩn kỹ thuật tương ứng bằng cách quan trắc và đánh giá kết quả đo, thử nghiệm), chứng nhận hợp chuẩn, chứng nhận hợp quy (đánh giá và xác nhận sự phù hợp của sản phẩm, quá trình sản xuất, cung ứng dịch vụ với tiêu chuẩn công bố áp dụng hoặc với quy chuẩn kỹ thuật), kiểm định (hoạt động kỹ thuật theo một quy trình nhất định nhằm đánh giá và xác nhận sự phù hợp của sản phẩm, hàng hoá với yêu cầu quy định trong quy chuẩn kỹ thuật tương ứng). Thừa nhận kết quả đánh giá sự phù hợp, theo đó, việc thừa nhận kết quả đánh giá sự phù hợp giữa tổ chức, cá nhân tại Việt Nam với tổ chức, cá nhân nước ngoài, vùng lãnh thổ do các bên tự thoả thuận; việc thừa nhận kết quả đánh giá sự phù hợp phục vụ quản lý nhà nước được thực hiện theo điều ước quốc tế mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên hoặc thoả thuận quốc tế mà cơ quan nhà nước có thẩm quyền của Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam ký kết. Kiểm tra chất lượng sản phẩm, hàng hoá trong sản xuất, trong nhập khẩu, lưu thông trên thị trường. Việc kiểm tra chất lượng sản phẩm, hàng hóa do cơ quan kiểm tra chất lượng sản phẩm, hàng hoá. Bên cạnh quy định về các biện pháp quản lý như nêu trên, Luật còn quy định cụ thể về điều kiện bảo đảm chất lượng sản phẩm trong sản xuất trước khi đưa ra thị trường, điều kiện bảo đảm chất lượng hàng hoá xuất khẩu, hàng hoá nhập khẩu, trong quá trình sử dụng, kiểm tra chất lượng sản phẩm trong sản xuất; xử lý vi phạm trong quá trình kiểm tra chất lượng sản phẩm trong sản xuất, biện pháp xử lý hàng hoá xuất khẩu không bảo đảm điều kiện xuất khẩu trình tự, thủ tục kiểm tra chất lượng hàng hoá nhập khẩu, hàng hoá lưu thông trên thị trường; xử lý vi phạm trong quá trình kiểm tra chất lượng hàng hóa nhập khẩu, hàng hoá lưu thông trên thị trường... Thứ tư, Luật quy định cụ thể về kiểm tra, thanh tra của cơ quan nhà nước về chất lượng sản phẩm hàng hoá. Theo đó: Cơ quan kiểm tra chất lượng sản phẩm, hàng hoá thuộc Bộ quản lý ngành, lĩnh vực thực hiện việc kiểm tra chất lượng sản phẩm trong sản xuất thuộc phạm vi được phân công và hàng hoá trong xuất khẩu, nhập khẩu, lưu thông trên thị trường, trong quá trình sử dụng thuộc phạm vi được phân công. Cơ quan kiểm tra chất lượng sản phẩm, hàng hoá thuộc Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương thực hiện việc kiểm tra chất lượng sản phẩm, hàng hoá trong phạm vi của địa phương theo quy định của Bộ quản lý ngành, lĩnh vực. Cơ quan kiểm tra chất lượng sản phẩm, hàng hoá thuộc Bộ quản lý, lĩnh vực có trách nhiệm phối hợp với cơ quan kiểm tra chất lượng sản phẩm, hàng hoá thuộc Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương và các cơ quan khác có liên quan trong việc kiểm tra chất lượng sản phẩm, hàng hoá. Thanh tra về chất lượng sản phẩm, hàng hóa là thanh tra chuyên ngành, có nhiệm vụ thanh tra việc thực hiện pháp luật của tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh sản phẩm, hàng hóa và tổ chức, cá nhân có hoạt động liên quan đến chất lượng sản phẩm, hàng hóa. Đối tượng của thanh tra chuyên ngành về chất lượng sản phẩm, hàng hoá là tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh, người tiêu dùng, tổ chức đánh giá sự phù hợp, tổ chức nghề nghiệp, tổ chức bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng và cơ quan kiểm tra chất lượng sản phẩm, hàng hoá. Thứ năm, Luật quy định cụ thể về giải quyết tranh chấp, bồi thường thiệt hại, giải quyết khiếu nại, tố cáo và xử lý vi phạm pháp luật về chất lượng sản phẩm, hàng hoá. Theo đó: Tranh chấp về chất lượng sản phẩm, hàng hoá bao gồm: tranh chấp giữa người mua với người nhập khẩu, người bán hàng hoặc giữa các thương nhân với nhau do sản phẩm, hàng hoá không phù hợp với tiêu chuẩn công bố áp dụng, quy chuẩn kỹ thuật tương ứng hoặc thỏa thuận về chất lượng trong hợp đồng; tranh chấp giữa tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh với người tiêu dùng và các bên có liên quan do sản phẩm, hàng hoá không bảo đảm chất lượng gây thiệt hại cho người, động vật, thực vật, tài sản, môi trường. Đây cũng là các tranh chấp thương mại nên hình thức giải quyết tranh chấp, thời hiệu khiếu nại, khởi kiện được quy định tương tự, theo các nguyên tắc như đối với các tranh chấp thương mại. Các tranh chấp được giải quyết thông qua thương lượng, hoà giải giữa các bên, thông qua trọng tài hoặc toà án. Thủ tục giải quyết tranh chấp về chất lượng sản phẩm, hàng hóa tại trọng tài hoặc toà án được tiến hành theo quy định của pháp luật về tố tụng trọng tài hoặc tố tụng dân sự. Thời hiệu khởi kiện về chất lượng sản phẩm, hàng hoá giữa người mua với người bán hàng được thực hiện theo quy định của Bộ luật dân sự. Thời hiệu khiếu nại, khởi kiện về chất lượng sản phẩm, hàng hoá giữa các tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh được thực hiện theo quy định của Luật thương mại. Thời hiệu khiếu nại, khởi kiện đòi bồi thường do sản phẩm, hàng hoá không bảo đảm chất lượng gây thiệt hại cho người, động vật, thực vật, tài sản, môi trường là 2 năm, kể từ thời điểm các bên được thông báo về thiệt hại với điều kiện thiệt hại xảy ra trong thời hạn sử dụng của sản phẩm, hàng hoá có ghi hạn sử dụng và 5 năm kể từ ngày giao hàng đối với sản phẩm, hàng hoá không ghi hạn sử dụng. Thiệt hại do vi phạm quy định về chất lượng sản phẩm, hàng hóa phải được bồi thường toàn bộ và kịp thời. Người sản xuất, người nhập khẩu phải bồi thường thiệt hại cho người bán hàng hoặc người tiêu dùng khi hàng hóa gây thiệt hại do lỗi của người sản xuất, người nhập khẩu không bảo đảm chất lượng hàng hóa. Người bán hàng phải bồi thường thiệt hại cho người mua, người tiêu dùng trong trường hợp thiệt hại phát sinh do lỗi của người bán hàng không bảo đảm chất lượng hàng hóa. Việc bồi thường thiệt hại được thực hiện theo thoả thuận giữa các bên có liên quan hoặc theo quyết định của toà án hoặc trọng tài. Luật cũng quy định một số trường hợp ngoại lệ mà người sản xuất, người nhập khẩu, người bán hàng không phải bồi thường. Tổ chức đánh giá sự phù hợp cung cấp kết quả sai thì phải bồi thường thiệt hại phát sinh cho tổ chức, cá nhân yêu cầu đánh giá sự phù hợp theo quy định của pháp luật về dân sự. Trong trường hợp này, tổ chức, cá nhân có sản phẩm, hàng hóa được đánh giá sự phù hợp có nghĩa vụ chứng minh kết quả sai và lỗi của tổ chức đánh giá sự phù hợp. Thứ sáu, Luật quy định cụ thể trách nhiệm quản lý nhà nước về chất lượng sản phẩm, hàng hoá. Khác với các lĩnh vực khác, hoạt động quản lý chất lượng hàng hoá diễn ra ở hầu hết các bộ, ngành. Do vậy, ngoài quy định trách nhiệm của Bộ Khoa học và Công nghệ với vai trò là cơ quan chịu trách nhiệm trước Chính phủ thực hiện thống nhất quản lý nhà nước về chất lượng sản phẩm, hàng hoá, Luật còn quy định cụ thể trách nhiệm quản lý chất lượng sản phẩm, hàng hoá của các Bộ quản lý ngành, lĩnh vực khác. Theo đó, các Bộ quản lý ngành, lĩnh vực có trách nhiệm xây dựng, ban hành và tổ chức thực hiện văn bản quy phạm pháp luật về chất lượng sản phẩm, hàng hoá phù hợp với yêu cầu, nhiệm vụ cụ thể của Bộ, ngành; tổ chức và chỉ đạo hoạt động quản lý nhà nước về chất lượng sản phẩm trong sản xuất... Đặc biệt, Luật đã quy định cụ thể về trách nhiệm quản lý nhà nước về chất lượng sản phẩm, hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu, lưu thông trên thị trường, trong quá trình sử dụng có khả năng gây mất an toàn, cụ thể như sau: Bộ Y tế chịu trách nhiệm đối với thực phẩm, dược phẩm, vắc xin, sinh phẩm y tế, mỹ phẩm, nguyên liệu sản xuất thuốc và thuốc cho người, hoá chất gia dụng, chế phẩm diệt côn trùng, diệt khuẩn, trang thiết bị y tế; Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn chịu trách nhiệm đối với cây trồng, vật nuôi, phân bón, thức ăn chăn nuôi, thuốc bảo vệ thực vật, thuốc thú y, chế phẩm sinh học dùng trong nông nghiệp, lâm nghiệp, thuỷ sản, công trình thuỷ lợi, đê điều; Bộ Giao thông vận tải chịu trách nhiệm đối với phương tiện giao thông vận tải, phương tiện, thiết bị xếp dỡ, thi công vận tải chuyên dùng, phương tiện, thiết bị thăm dò, khai thác trên biển, công trình hạ tầng giao thông; Bộ Công Thương chịu trách nhiệm đối với thiết bị áp lực, thiết bị nâng đặc thù chuyên ngành công nghiệp, hoá chất, vật liệu nổ công nghiệp, trang thiết bị khai thác mỏ, dầu khí, trừ các thiết bị, phương tiện thăm dò, khai thác trên biển; Bộ Xây dựng chịu trách nhiệm đối với công trình dân dụng, công trình công nghiệp, công trình hạ tầng kỹ thuật; Bộ Quốc phòng chịu trách nhiệm đối với phương tiện, trang thiết bị quân sự, vũ khí đạn dược, khí tài, sản phẩm phục vụ quốc phòng, công trình quốc phòng; Bộ Công an chịu trách nhiệm đối với trang thiết bị phòng cháy, chữa cháy; trang thiết bị kỹ thuật, vũ khí đạn dược, khí tài, công cụ hỗ trợ, trừ phương tiện, trang thiết bị quân sự, vũ khí đạn dược, khí tài, sản phẩm phục vụ quốc phòng, công trình quốc phòng Chương 2:Thực tiễn áp dụng pháp luật về chất lượng sản phẩm hàng hóa 2.1. Tình hình thực tế chất lượng sản phẩm hàng hóa VN Ngày nay trên thị trường nước ta ngày càng dồi dào, đa dạng hàng hoá đáp ứng được phần nào nhu cầu cũng rất đa dạng của người tiêu dùng. Chất lượng hàng hoá và dịch vụ ngày càng được cải thiện, chủng loại, kiểu cách mẫu mã càng phong phú hơn, bắt mắt hơn .Nhiều loại sản phẩm trước đây chất lượng kém vẫn được chấp nhận và lưu hành trên thị trường do sự quản lý không chặt chẽ của doanh nghiệp thương mại đối với nhà sản xuất, ngày nay vì lợi ích chung đòi hỏi mỗi doanh nghiệp thương mại muốn đưa hàng hoá của mình tham gia thị trưòng và được thị trưòng chấp nhận cần phải đảm bảo yếu tố quan trọng đó là chất lượng hàng hoá. Các doanh nghiệp đã nhận thức được động lực phát triển, khả năng thu được lợi nhuận cao nhất tức là doanh nghiệp đó phải tạo được chỗ đứng vững chắc trên thị trường trong nước cũng như thị trường thế giới, do vậy các doanh nghiệp Việt Nam đã không ngừng nâng cao chất lượng hàng hoá xuất khẩu: năm 1999 nguyên liệu dầu thô chiếm 70% thì nay chiếm 42%,trước đây ta chỉ có 4 mặt hàng chủ lực là dầu thô, thuỷ sản, gạo,dệt may với kim ngạch xuất khẩu mỗi loại trên 100 triệu USD thì ngày nay ta đã có thêm 8 mặt hàng chủ lực nữa là cà phê, cao su, giầy dép, hàng điện tử, than đá, đồ thủ công mỹ nghệ, hạt điều, rau quả, mặt hàng đạt kim ngạch 1tỷ USD là gạo ,thuỷ sản,dệt may và dầu thô đạt tới 820 triệu USD. Đối với thị trường trong nứơc đảm bảo chất lượng hàng hoá đã đáp ứng đủ điều kiện cạnh tranh với hàng nhập khẩu của nước ngoài, bên cạnh đó, doanh nghiệp thương mại chú trọng kiểm tra, khắc phục những yếu kém, xử phạt đối với những hành vi nhập, xuất khẩu hàng kém chất lượng bằng hệ thống máy móc hiện đại. ` Hiện nay, khi Việt Nam đã trở thành viên chính thức của WTO một tổ chức mang tầm cỡ quốc tế nhưng vấn đề chất lượng sản phẩm vẫn chưa đáp ứng nhu cầu như mong đợi, dư luận người tiêu dùng ngày càng thêm bức xúc với nạn hàng giả, hàng nhái, hàng vi phạm sở hữu trí tuệ, hàng kém chất lượng, hàng không đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm đang có xu hướng gia tăng ở mức báo động cao như: sữa có chứa melamine; rượu có chứa độc tố, mỹ phẩm chứa hoá chất không được phép sử dụng, thực phẩm chứa chất bảo quản, thuốc kích thích tăng trưởng, chứa dư lượng chất kháng sinh quá mức cho phép, thuốc bảo vệ thực vật không được phép sử dụng… Trong những tháng cuối năm 2007 và quý I năm 2008, lực lượng Quản lý thị trường đã bắt giữ gần 120 nghìn mũ bảo hiểm, trong đó có hơn 76.000 mũ nhập lậu và 39.000 mũ giả, kém chất lượng, nhái nhãn mác, không có tem CS. Bên canh đó, là các mặt hàng trọng yếu như xăng thì bị pha acetôn và bơm không đủ định lượng, sắt thép xây dựng không bảo đảm tiêu chuẩn, điện kế chạy nhanh, bánh Trung thu bị buộc thu hồi sản phẩm, sữa bột pha loãng ghi sữa tươi... Và đặc biệt gây xôn xao dư luận rong thời gian vưa qua là tình trạng sữa có chứa Melamine. Melamie là một chất bột màu trắng không có mùi vị, chứa hàm lượng ammonia rất lớn. Việc trộn melamine vào sữa chỉ nhằm một mục đích duy nhất là đánh lừa phương pháp kiểm tra Kjeldahl bằng cách hiển thị giả hàm lượng nitơ cao. Do trong thành phần cà công thức có lượng nitơ cao (6N), nên khi xét nghiệm bằng phương pháp đồng vị phóng xạ thì kết quả thu được tương tự như kết quả thử nghiệm một thực phẩm có nồng độ “protein” cao. Thực chất nitơ trong melamine là một non -protein nitrogen, tức nitơ không phải chất đạm, cho nên nó không có tác dụng dinh dưỡng như chất đạm. Ngược lại, sau khi vào cơ thể, chính lượng nitơ cao này sẽ dẫn đến tình trạng ngộ độc cấp do tăng amoniac cấp tính và suy thận cấp. Nếu hàm lượng đưa vào cơ thể ít và kéo dài sẽ tích tụ lại gây sỏi thận và cuối cùng dẫn đến suy thận. mặt khác, theo nhiều tài liệu đã công bố, melamine còn làm suy giảm hệ miễn dịch của cơ thể… Do sữa là thực phẩm chính ở trẻ em (chiếm 40-100% khẩu phần hằng ngày) nên số lượng melamine xâm nhập vào cơ thể nhiều hơn và nguy cơ tích tụ chất độc nhiều hơn. Ở trẻ em, gan thận còn rất yếu nên khả năng thải độc kém hơn người lớn, khối lượng cơ thể lại thấp, do đó nguy cơ ngộ độc ở trẻ em luôn cao hơn người lớn. Melamin gây nhiều triệu chứng nguy hiểm như sỏi thận… nhưng nguyên nhân chính dẫn đến tử vong là do suy thận, bí tiểu, rối loạn chuyển hóa, suy hô hấp, ngộ độc thần kinh. Ngoài ra còn phát hiện 65 sản phẩm có melamin như: Sản phẩm sữa cho trẻ sơ sinh, các loại kẹo, các loại sữa nước và sữa chua, thực phẩm tráng miệng đông lạnh, đồ ăn nhanh... Vừa qua, Cục An toàn vệ sinh thực phẩm (Bộ Y tế) vừa chính thức thông báo danh sách các sản phẩm sữa nhiễm melamine: TT  Tên sản phẩm  Đơn vị phân phối  Nguồn gốc Hàm lượng melamine  1 Sữa Pure Milk hiệu YiLi Công ty TNHH Kim Ấn, TPHCM Trung Quốc 0,07 mg/l 2 Sữa tươi YiLi (1lít) Nt Trung Quốc 0,49 mg/l 3 Sữa tươi YiLi hương original (250ml) Nt Trung Quốc 2,97 mg/l 4 Sữa tươi YiLi (250ml) Nt Trung Quốc 2,95 mg/l 5 Sữa tươi YiLi Nt Trung Quốc 177,58 mcg/l 6 NLTP: Non dairy creamer Thái Lan Công ty CP Hóa chất Á Châu, TPHCM Thái Lan 104,44 mcg/l 7 Full cream milk powper grade A Công ty CP Sữa Hà Nội Quang Minh, Mê Linh, Vĩnh Phúc Trung Quốc 145 mcg/kg 8 Blue Cow - Full cream milk powder used for UHT milk Nt Trung Quốc 200 mcg/kg 9 Sữa tăng chiều cao Golden Food cho trẻ từ 01 tuổi trở lên (hộp giấy) Công ty CP Dinh dưỡng thực phẩm vàng, TPHCM Chưa rõ nguồn gốc 707,19 mg/kg 10 Sữa bột Advandced Distribution Công ty TNHH CBLTTP Mai Anh, TPHCM Chưa rõ nguồn gốc 207,76 mg/kg 11 Bánh quy Khong Guan Công ty TNHH TM&DV Đại Vinh Indonesia 268 mcg/kg 12 Bánh quy Khong Guan Nt Malaysia 1575 mcg/kg 13 Bánh quy Khian Guan Aquare Puff Nt Malaysia 1689 mcg/kg 14 Bánh quy Khong Guan Marie Nt Malaysia 334 mcg/kg 15 Bánh quy Khian Guan Superior Nt Malaysia 1854 mcg/kg 16 Sữa bột nguyên kem (Full Cream Milk Powder) Công ty CP Thực phẩm Anco Chưa rõ nguồn gốc 203 mcg/kg 17 Sữa bột béo Công ty Minh Dương Chưa rõ nguồn gốc 174 mcg/kg 18 Bột kem không sữa Nt Chưa rõ nguồn gốc 279 mcg/kg Tuy nhiên, khi các sản phẩm sữa có chứa melamine vừa tạm lắng thì dư luận lại tiếp tục nổi lên việc các sản phẩm sữa có hàm lượng đam ít hơn nhiều so với công bố.Theo như các chuyên gia dinh dưỡng, việc công bố sai hàm lượng đạm trên vỏ hộp sữa của nhà sản xuất là sự gian dối không thể chấp nhận, nó tác hại không khác gì sữa nhiễm melamine. Cũng theo các chuyên gia này thì, lượng đạm trong sữa rất quan trọng đối với trẻ em, vì chất này được cơ thể trẻ hấp thu toàn phần 100%. Nếu trẻ dùng sữa thiếu độ đạm lâu ngày sẽ không đủ chất lượng đạm và lâm vào tình trạng suy dinh dưỡng kéo dài. Nguy hiểm ở chỗ hậu quả không thể phát hiện ngay mà ảnh hưởng từ từ trên cơ thể trẻ. Khi cha mẹ phát hiện thì trẻ đã phải nhập viện vì suy dinh dưỡng. Việc 10 mẫu sữa bột với những thương hiệu khá quen thuộc được nêu tên trong tuần qua do gian dối trong việc công bố hàm lượng protid, lipid đã khiến một lần nữa người tiêu dùng TP Hồ Chí Minh lại sửng sốt.... Mỗi năm có khoảng 1 triệu tấn sắt thép được các cá nhân, đơn vị làm ra dưới dạng "làng nghề" đã có từ hàng trăm năm trước tại Bắc Ninh, Hà Tây, Thái Nguyên....Lượng thép đó không những sai phạm về kích thước, chất lượng, mà lại còn dám mang nhãn hiệu giả của các thương hiệu có tiếng như Tisco, VUC.... Ngay cả lúa gạo là mặt hàng chủ lực của Việt Nam sau dầu khí, chất lượng cũng bị thả nổi. Gạo xuất khẩu bị pha tạp quá cao, gạo thơm kém thơm hơn gạo Thái Lan....khiến các nước nhập khẩu gạo Việt Nam phải bỏ thấp giá để trừ hao. Một nhà nông ở đồng bằng sông Cửu Long phân trần: “...nông dân mình bán ra, là đúng Jasmin đúng chất lượng. Còn pha trộn vô đâu có do nông dân đâu, toàn là do thương buôn, công ty hay mấy chỗ lo xuất khẩu thôi.....” Trong một đợt kiểm tra chất lượng hàng hóa trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh trong dịp Tết nguyên đán vừa qua Chi cục Quản lý thị trường tỉnh Hà Tĩnh đã phối hợp với các cơ quan chức năng kiểm tra chất lượng hàng hoá trên địa bàn toàn tỉnh. Đoàn đã tịch thu và tiêu huỷ gần 2 tấn hàng giả, hàng kém chất lượng và hàng quá hạn sử dụng. Qua quá trình kiểm tra, Chi cục Quản lý thị trường tỉnh Hà Tĩnh đã phát hiện và tịch thu gần 2 tấn hàng hóa gồm hàng quá hạn sử dụng, hàng kém chất lượng và hàng giả (gần 50 chủng loại).   Những con số trên đã rung lên hồi chuông báo động cho các cơ quan chức năng và tất cả người dân về chất lượng sản phẩm hàng hóa Việt Nam để từ đó có kế hoạch cụ thể để khắc phục tình trạng này. 2.2. Thực trạng pháp luật về chất lượng sản phẩm hàng hóa. Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hóa được ban hành là bước quan trọng góp phần hoàn thiện khuôn khổ pháp lý cho hoạt động quản lý chất lượng hướng vào mục tiêu nâng cao chất lượng của sản phẩm, hàng hóa sản xuất trong nước, góp phần thúc đẩy năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp và cả nền kinh tế trong bối cảnh tự do hoá thương mại và hội nhập; đổi mới vai trò điều tiết của Nhà nước kết hợp linh hoạt với điều tiết của thị trường nhằm định hướng và bảo đảm cho hoạt động chất lượng có tác động tích cực tới sự phát triển kinh tế, giúp các doanh nghiệp và sản phẩm xuất khẩu của Việt Nam vượt qua các rào cản kỹ thuật trên cơ sở đáp ứng các tiêu chuẩn khắt khe của thị trường xuất khẩu, đồng thời, bảo vệ được lợi ích quốc gia và người tiêu dùng trong nước thông qua các biện pháp kiểm soát chất lượng đối với hàng hoá nhập khẩu; đổi mới cơ chế quản lý chất lượng phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế - xã hội và yêu cầu quản lý kinh tế cũng như các tập quán quốc tế trong lĩnh vực chất lượng; bảo đảm tối đa quyền lợi người tiêu dùng thông qua cơ chế kiểm soát chất lượng chặt chẽ, toàn diện, kể cả các biện pháp mạnh từ phía Nhà nước đối với các hành vi vi phạm pháp luật về chất lượng. Việc ban hành Luật này cũng nhằm tạo sự đồng bộ với hệ thống các quy định của Luật tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật được Quốc hội khoá X ban hành năm 2006 (Luật số 68/2006/QH11). Tuy đã hạn chế phần nào hàng hóa kém chất lượng nhưng khi đi vào thực tế Luật này vẫn tồn tại những hạn chế sau. Theo luật này, gặp phải những trường hợp như mua phải hàng quá hạn sử dụng hay hàng không rõ nguồn gốc xuất xứ, người tiêu dùng hoàn toàn có quyền được khởi kiện người bán theo Bộ luật Dân sự và sẽ được pháp luật bảo vệ. Người bán hàng phải có trách nhiệm bồi thường những tổn thất về mặt sức khỏe cho người mua khi cố tình bán cho họ những sản phẩm như vậy. Thế nhưng nó không hẳn sẽ giúp người tiêu dùng mạnh mẽ và can đảm hơn khi “chiến đấu” với sự lộng hành của người bán và người sản xuất sản phẩm vô lương tâm. Bởi theo điều 58 của luật này, về chi phí lấy mẫu và thử nghiệm hoặc giám định trong giải quyết tranh chấp về chất lượng sản phẩm, hàng hoá, có quy định người khiếu nại, khởi kiện phải trả chi phí lấy mẫu và thử nghiệm hoặc giám định chất lượng sản phẩm, hàng hóa tranh chấp. Ông Nguyễn Văn Cương, Trưởng ban Nghiên cứu pháp luật kinh tế thương mại, Viện Khoa học pháp lý (Bộ Tư pháp) nhận xét: “tại nhiều nước trên thế giới, khi người tiêu dùng khởi kiện hàng hóa kém chất lượng, họ không phải trả chi phí thử nghiệm những sản phẩm mà họ có khiếu nại vì trách nhiệm đó phải thuộc vào nhà sản xuất. Các nước cũng có những phiên tòa riêng chuyên xử miễn phí và nhanh chóng các khiếu kiện của người tiêu dùng.” Khi Việt Nam đưa ra qui định này thì có lẽ người tiêu dùng không ai dám đi kiện vì không đủ khả năng theo kiện hoặc “chờ được vạ thì má đã sưng”. Người dân không thể có kiến thức chuyên môn và cũng không thể vào nhà máy kiểm tra. Mặt khác, qui trình tố tụng như hiện nay khó mà khiến người dân không “run” khi vác đơn đi kiện, mặc dù, họ đi kiện vì những quyền lợi rất chính đáng và pháp luật phải có trách nhiệm bảo vệ họ. Những năm qua, vấn đề bảo vệ người tiêu dùng sẽ càng “cộm” hơn khi thị trường bán lẻ trong nước mở rộng cửa cho cả các doanh nghiệp trong và ngoài nước. Tuy nhiên quyền lợi của người tiêu dung sau nhiều năm lên tiêng vẫn chỉ là ...chờ. Bên cạnh đó là vẫn tồn tại sự chồng chéo, khó qui trách nhiệm, giữa cá cơ quan quản lý nhà nước trong việc quản lý chất lượng sản phẩm. Hiện nay, hoạt động kiểm tra, quản lý chất lượng, thực thi chính sách pháp luật nhằm thiết lập trật tự kỷ cương, bảo vệ lợi ích của người tiêu dùng hiện nay do nhiều cơ quan đảm nhận. Một chế tài xử lý vi phạm có thể lại do nhiều cơ quan cùng đảm nhiệm, nhiều khi dẫn đến tình trạng chồng chéo về trách nhiệm mà khi xảy ra vi phạm thì người tiêu dùng vẫn không được bảo vệ một cách an toàn. Một ví dụ điển hình là việc trong lúc người tiêu dùng đang bán tín, bán nghi về chất lượng hộp xốp đựng thực phẩm đang bán trên thị trường có bảo đảm hay không thì các cơ quan chức năng lại có nhiều ý kiến rất khác nhau về việc đơn vị nào chịu trách nhiệm quản lý. Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hóa bắt đầu có hiệu lực từ ngày 1-7-2008 và đến ngày 31-12-2008, Chính phủ đã có Nghị định số 132/2008/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành một số điều của luật nêu trên. Đây chính là căn cứ để xác định hộp xốp thuộc trách nhiệm quản lý của ngành nào, nhưng khi tìm hiểu cả luật và nghị định thì sự "đá bóng" trách nhiệm giữa các ngành là hoàn toàn có cơ sở. Theo Nghị định số 132/2008/NĐ-CP, có đến 15 bộ được giao nhiệm vụ quản lý nhà nước về chất lượng sản phẩm trong sản xuất, mà trong đó có Bộ Y tế, Bộ Công thương và Bộ KHCN. Cụ thể: Bộ Y tế quản lý lĩnh vực: Y dược cổ truyền; sức khỏe cộng đồng; vệ sinh an toàn thực phẩm, thực phẩm chức năng, thực phẩm tăng cường vi chất dinh dưỡng, thực phẩm bổ sung, phụ gia thực phẩm (...); hóa chất, chế phẩm diệt côn trùng... Bộ Công thương quản lý lĩnh vực sản phẩm công nghiệp tiêu dùng, công nghiệp thực phẩm và công nghiệp chế biến khác theo quy định của pháp luật... Bộ KHCN quản lý các lĩnh vực không thuộc quản lý của các ngành khác và đối với thiết bị an toàn bức xạ hạt nhân, nguồn phóng xạ, phương tiện, dụng cụ đo lường và các sản phẩm hàng hóa khác... Rõ ràng, sẽ khó có kết luận chính xác cơ quan nào chịu trách nhiệm quản lý hộp xốp nếu dựa vào văn bản nêu trên. Ngoài ra, các quy đinh về kiểm tra, quản lý chất lượng hàng hóa còn biểu hiện rất nhiều thiếu sót và buông lỏng trách nhiệm quản lý từ phiá các cơ quan chức năng như: thiếu trách nhiệm trong quản lý cấp phép lại bỏ lỏng khâu thanh, kiểm tra. Không chỉ có sữa, còn đầy loại thức ăn, đồ uống khác tràn lan trên thị trường. Nếu cứ cách quản lý thiếu chặt chẽ, thiếu khoa học và thiếu trách nhiệm như vậy thì dù có các cơ quan chức năng “gác cửa”, nhưng người dân vẫn sẽ còn chịu những hậu quả khôn lường. Trong lúc lỗi hoàn toàn không thuộc về phía người dân…Để bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, các cơ quan quản lý Nhà nước cần tăng cường công tác thanh tra hậu kiểm đối với hàng hóa lưu thông trên thị trường – nhất là đối với mặt hàng thực phẩm. Không phải cứ kiểm nghiệm để doanh nghiệp công bố chất lượng sản phẩm xong rồi muốn làm gì thì làm, như thời gian vừa qua. Lực lượng thực thi công vụ còn thiếu các phương tiện và công cụ kiểm tra, quản lý do nguồn kinh phí mới trích lập còn hạn chế; trong khi thực tế, kinh phí kiểm tra và xử lý các hành vi vi phạm quyền lợi người tiêu dùng là khá tốn kém. Việc kiểm tra chất lượng hàng hóa vẫn con gặp nhiều hạn chế do số phòng thử nghiệm có trình độ và kinh nghiệm còn ít và việc mở rộng hoạt động kiểm nghiệm đánh giá, chứng nhận chất lượng sản phẩm hàng hóa cho tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước chưa thật phổ biến. Điều đáng nói là, chế tài xử phạt của Việt Nam còn quá yếu và sự phối hợp giữa các cơ quan chức năng còn quá lỏng lẻo. Kết quả xử lý dù với con số hàng chục nghìn vụ việc, hàng tỷ đồng xử phạt vẫn còn khá khiêm tốn và chưa có tác dụng răn đe. số tiền nộp phạt là con số quá nhỏ so với lợi nhuận mà các DN làm ăn gian dối thu được. Bên cạnh đó là tính phổ biến, công khai của pháp Luật chất lượng sản phẩm còn hạn chế nên người dân thiếu thông tin khi lựa chọn sản phẩm, tạo ra những kẽ hở để các đối tượng thực hiện hành vi vi phạm của mình. Đồng thời, sự phối hợp giữa các lực lượng chức năng, các doanh nghiệp và người tiêu dùng chưa phát huy được hiệu quả. 2.3. Nguyên nhân của tình trạng trên. Do chạy theo lợi nhuận, đáp ứng nhu cầu trước mắt của người tiêu dùng nhà sản luôn cố gắng sản xuất ra nhiều sản phẩm mà không quan tâm đến yếu tố chất lượng gây khó khăn cho nhà thương mại khi lựa chọn hàng hoá mang ra thị trường, mặt khác ngày nay trên thị trường tồn tại nhiều loại hàng hoá có mẫu mã, hình thức đẹp nhưng kém chất lưọng được người tiêu dùng chấp nhận, có những hàng hoá ghi nhãn giả, sản xuất không rõ địa điểm mang ra thị trường với số lượng nhỏ tạo khó khăn cho cán bộ thương mại trong việc xác định nguồn gốc,bên cạnh đó vấn đề giá cả cũng được quan tâm ,người tiêu dùng dưòng như thoả mãn với hàng kém chất lượng nhưng giá rẻ phù hợp với thu nhập của mình do đó không tạo được động lực cho các cơ quan chức năng trong việc kiểm tra chất lượng hàng hoá . Trong khi đó hành lang pháp lý về chất lượng sản phẩm hàng hóa vẫn chưa hoàn thiện và cồn tồn tại nhiều bất cập chưa đáp ứng nhu cầu của quá trình hội nhập và đòi hỏi khắt khe của thị trường. Bên cạnh đó là công tác tuyên truyền phổ biến pháp luật chưa dược sâu rông, nhận thức pháp luật về chất lượng hàng hóa đến người dân và các doanh nghiệp chưa cao. Cộng thêm vào đó là sự thiếu trách nhiệm của cáccơ quan quản lý chuyên nghành dẫn đến tình trạng dù có luật được hơn hai năm nhưng người dân vẫn ít người biết đến. 2.4. Kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả của Luật chất lượng hàng hóa Muốn thực thi được luật chất lượng sản phẩm, hàng hoá đạt hiệu quả cao thì cân phải hoàn thiện hệ thống pháp luật về chất luwownhj sản phẩm hàng hóa. Về phía Nhà nước quản lý Nhà nước phải có sự giám sát chặt chẽ và chế tài đủ mạnh, đồng thời xây dựng những chinh sách cụ thể nhất là đối với các cơ sở sản xuất và xuất khẩu hàng hóa để phù hợp với nhu cầu thực tiễn. Ngoài ra cần phải tăng cường quản lý Nhà nước về chất lượng sản phẩm hàng hóa. Mặt khác phải thực hiện được công tác tuyên truyền phổ biến luật chất lượng sản phẩm đến các tổ chức, hộ gia đình cá nhân để họ hiểu và thực hiện đúng theo luật về chất lượng sản phẩm hàng hóa nhằm đạt hiệu quả Cần phải có chế tài mạnh đủ tính răn đe đối với các trường hợp vi phạm, không chi dừng laị ở phạt tiền, hay thu hồi sản phẩm mà có thể thu hồi giấy phép kinh doanh, thông báo trên các phương tiện thông tin đại chúng để người dân nâng cao cảnh giác. Tổ chức lại phương thức quản lý để tránh sự chồng chéo. Ở cấp phường xã, phải tăng cường hệ thống quản lý thị trường, thanh tra sản phẩm hàng hóa. Mạng lưới này hiện nay rất mỏng, khó có thể đảm đương đầy đủ trách nhiệm giao phó. Cần phải kiểm soát chặt chẽ từ nguyên liệu nhập vào cho đến tất cả các khâu trong quá trình sản xuất , đặc biệt là cơ chế hậu kiểm chất lượng hàng hóa. Để làm được điều này cần tăng cường số lượng cũng như quyền hạn cho các cơ quan chuyên nghành để các cơ quan ày chủ động trong hoạt động của mình. Tăng cường hợp tác quốc tế cũng cực kỳ cần thiết trong lĩnh vực này. Tích cực tuyên truyền phổ biến pháp luật, nâng cao nhận thức cho người dân và các doanh nghiệp từ đó tạo nên phong trào nâng cao chất lượng sản phẩm hàng hóa trong toàn xã hội. PHẦN KẾT LUẬN Bảo đảm chất lượng sản phẩm hàng hoá có ý nghĩa rất quan trọng với người tiêu dùng, người sản xuất và nhà nước trong việc duy trì an ninh, trật tự công cộng và lợi ích quốc gia. Việc bảo đảm chất lượng sản phẩm, hàng hoá gắn trực tiếp với trách nhiệm của người sản xuất và nhà nước, trong đó người sản xuất chịu trách nhiệm trực tiếp và chủ yếu, Nhà nước có vai trò quan trọng trong việc bảo đảm chất lượng sản phẩm hàng hoá nhưng nhà nước không can thiệp trực tiếp vào quá trình tạo ra sản phẩm, hàng hoá của người sản xuất. Nhà nước thông qua việc ban hành các văn bản quy phạm pháp luật, các tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật, các công cụ quản lý khác và kiểm tra việc thực hiện các quy định này, tác động đến các yếu tố hình thành chất lượng của sản phẩm, hàng hoá để bảo đảm an toàn cho sản phẩm, hàng hoá được đưa ra thị trường sử dụng. Tuy nhiên, vì chất lượng sản phẩm hàng hoá là những vấn đề phức tạp và rất nhạy cảm, nên trong thực tế đời sống xã hội vẫn còn nảy sinh những vấn đề mới cần được bổ sung và giải quyết./. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO Luật chất lượng sản phẩm hàng hóa 2007 Các văn bản hướng dẫn thi hành Luật chất lượng sản phẩm hàng hóa Luật bảo vệ người tiêu dùng 2010 Luật tiêu chuẩn và quy chuẩn chất lượng 2006 Bộ luật dân sự 2005 Pháp lệnh chất lượng hàng hóa 1999 Lý thuyết về thị trường lemon MỤC LỤC

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docPháp luật về chất lượng sản phẩm hàng hóa và thực tiễn tại việt nam.doc
Luận văn liên quan