Phát triển kĩ năng nói tiếng Anh lớp 8

Ngày nay xu hướng hội nhập quốc tế trong nhiều lĩnh vực kể cả lĩnh vực giáo dục đã đưa tiếng Anh lên một vị trí hết sức quan trọng. Tiếng Anh là công cụ giao tiếp, là chìa khoá dẫn đến kho tàng nhân loại. Mặt khác việc ứng dụng rộng rãi công nghệ thông tin đã làm cho việc học tiếng Anh trở thành cấp bách và không thể thiếu. Vì vậy việc học tiếng Anh của học sinh THCS được học sinh, phụ huynh học sinh, giáo viên ngành giáo dục và cả nước đặc biệt quan tâm. Tiếng Anh trở thành một trong các môn chính yếu trong chương trình học của học sinh. Việc học và sử dụng tiếng Anh đòi hỏi cả một quá trình luyện tập cần cù, sáng tạo của cả người học lẫn người dạy. Đặc biệt trong tình hình cải cách giáo dục như hiện nay, dạy tiếng Anh theo quan điểm giao tiếp được nhiều người ủng hộ. Theo phương pháp này học sinh có nhiều cơ hội để giao tiếp với bạn bè, với giáo viên để rèn luyện ngôn ngữ, chủ động tích cực tham gia vào các tình huống thực tế: Học đi đôi với thực hành. I/. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI Chương trình Tiếng Anh mới bậc THCS đã được triển khai thực hiện trên toàn quốc. Nét đổi mới nổi bật của nội dung chương trình này là tạo cơ hội tối đa cho học sinh luyện tập 4 kĩ năng nghe, nói, đọc và viết trên những chủ đề và tình huống hay nội dung giao tiếp có liên quan đến môi trường sống trong và ngoài nước. Sự thay đổi trên tạo điều kiện cho việc dạy và học tiếng Anh trong nhà trường phổ thông trở thành việc dạy sinh ngữ thay vì là dạy từ ngữ như nhiều năm trước đây. Hơn nữa, việc dạy học ngoại ngữ thực chất là hoạt động rèn luyện năng lực giao tiếp (các mẫu lời nói) dưới các dạng nghe, nói, đọc, viết. Muốn rèn luyện được năng lực giao tiếp cần có môi trường với những tình huống đa dạng của cuộc sống. Môi trường này chủ yếu do giáo viên tạo ra dưới dạng những tình huống giao tiếp và học sinh phải tìm cách ứng xử bằng ngoại ngữ cho phù hợp với tình huống giao tiếp cụ thể. Mục đích dạy học ngoại ngữ không nhằm hướng học sinh vào nghiên cứu hệ thống ngôn ngữ mà nhằm giúp người học sử dụng hệ thống ngôn ngữ đó như một công cụ giao tiếp, nghĩa là nhằm rèn cho học sinh năng lực giao tiếp. Năng lực giao tiếp này được thể hiện bằng khả năng sử dụng sáng tạo những quy tắc ngôn ngữ để thực hiện giao tiếp theo tình huống. Như vậy, nắm chắc hệ thống ngôn ngữ không phải là đích cuối mà chỉ là phương tiện để đạt được các mục đích giao tiếp. Qua thực tế ở các trường THCS trong huyện An Minh nói chung và trường THCS Đông Hưng 2 nói riêng, khi bắt đầu học môn ngoại ngữ phần lớn học sinh thích học, nhưng dần dần học sinh lại chán học. Hầu hết các em rất yếu về kỹ năng nói. Thậm chí có rất nhiều học sinh khi học xong chương trình tiếng Anh bậc THCS lại không nói được những câu nói tiếng Anh đơn giản nhất, xử lý tình huống trong giao tiếp tiếng Anh rất chậm chạp, rất ngại nói tiếng Anh với người nước ngoài. Từ đó cho thấy việc giao tiếp bằng tiếng Anh của học sinh rất hạn chế. Trước tình hình đó, là một giáo viên trực tiếp dạy tiếng Anh khối 8, đối tượng đã được tiếp xúc với ngôn ngữ tiếng Anh qua 2 năm lớp 6 và lớp 7, bản thân tôi trăn trở thật nhiều làm sao để học sinh có thể nắm vững, thoải mái trong giao tiếp bằng tiếng Anh. Trong quá trình vừa dạy vừa tìm hiểu quan sát học sinh, tôi phát hiện việc rèn luyện kĩ năng nói cho học sinh có rất nhiều vấn đề. Phần lớn học sinh chưa biết cách học nói, học sinh thường thấy luyện nói là khó nhất. Vì bản thân học sinh có vốn từ vựng rất ít, kiến thức ngữ pháp lại hạn chế, từ đó để diễn đạt một câu tiếng Anh là điều hết sức khó khăn. Làm thế nào để giúp học sinh có thể vận dụng được vốn từ vựng và cấu trúc ngữ pháp của mình để nói tiếng Anh có hiệu quả? Do vậy trong quá trình dạy học, tôi tự tìm kiếm một số phương pháp tích cực, đơn giản, dễ hiểu thiết thực đảm bảo tính khoa học, nhằm phát triển khả năng tư duy; sự suy đoán và tính sáng tạo của học sinh. Để tháo gỡ những khó khăn trên, trong quá trình dạy tiếng Anh lớp 8 trong các năm qua cũng như trong năm học này tôi đã nghiên cứu kỹ chương trình sách giáo khoa (SGK), sách hướng dẫn giảng dạy và nhiều tài liệu liên quan, thảo luận với đồng nghiệp giàu kinh nghiệm trong các cuộc họp chuyên môn, tập huấn hè để tìm ra hướng khắc phục khó khăn, nhằm giúp các em học tốt hơn, vận dụng được kiến thức đã học để làm được các bài tập theo yêu cầu.Trên cơ sở đúc kết kinh nghiệm của bản thân và các kiến thức có được qua tài liệu tham khảo, tôi viết đề tài nhỏ này nhằm góp phần nâng cao chất lượng giảng dạy của bộ môn, đổi mới phương pháp dạy và học.Với phạm vi sáng kiến nhỏ này tôi mạnh dạn đi sâu vào một vấn đề “Phát triển kĩ năng nói tiếng Anh cho học sinh lớp 8”. 1. Cơ sở lí luận Tiếng Anh là một trong những tiếng nước ngoài đã, đang và sẽ được rất nhiều người Việt Nam học do nhu cầu giao tiếp, học tập và nghiên cứu. Hiện nay việc học và dạy ngoại ngữ theo phương pháp mới học sinh có nhiều điều kiện thuận lợi tiếp xúc với ngôn ngữ tiếng Anh. Học sinh có dịp giao tiếp với mọi người bằng tiếng Anh. Học sinh dễ vận dụng chúng vào trong cuộc sống. Nét đổi mới nổi bật của nội dung chương trình sách giáo khoa mới là tạo cơ hội tối đa cho học sinh luyện tập 4 kĩ năng. Kĩ năng nói là một trong những kĩ năng được chú trọng phát triển trong các phương pháp dạy ngoại ngữ mới. Kĩ năng nói có tầm quan trọng vì đó là kĩ năng mà học sinh giao tiếp lời nói bằng tiếng Anh. 2. Cơ sở thực tiễn Qua nhiều năm dạy tiếng Anh ở trường THCS Đông Hưng 2, theo phương pháp đổi mới. Bản thân tôi nhận thấy một điều: Phần lớn học sinh chúng ta chưa xác định được phương pháp học ngoại ngữ (tiếng nước ngoài) nói chung và tiếng Anh nói riêng. Việc vận dụng tiếng Anh trong cuộc sống còn nhiều hạn chế, các em không dám nói bằng tiếng Anh, giao tiếp với bạn bè bằng tiếng Anh. Hơn nữa trong quá trình học các em còn yếu về kĩ năng nói, khó khăn trong khi giao tiếp. Để luyện nói có hiệu quả, học sinh phải được rèn luyện và thực hành nói nhiều để làm quen với các dạng nói của ngôn ngữ. Càng rèn luyện kĩ năng nói nhiều thì người học càng nói nhanh và có phản ứng tốt trong giao tiếp. Việc dạy tiết ghép Speak + Listen trong 45 phút là khó có thể thành công đối với các lớp có nhiều học sinh yếu. Hơn nữa ở nhiều đơn vị bài học (Units) sách giáo khoa soạn mang tính chung (free), nên học sinh rất mơ hồ với yêu cầu của sách. Từ đó đặt ra vấn đề yêu cầu giáo viên phải đầu tư suy nghĩ, thiết kế bài giảng sao cho thật rõ ràng, thật cụ thể, sát với thực tế học sinh của mình trên lớp. Có vậy thì tiết dạy mới thành công.

doc25 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 10397 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Phát triển kĩ năng nói tiếng Anh lớp 8, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
A. LỜI NÓI ĐẦU Ngày nay xu hướng hội nhập quốc tế trong nhiều lĩnh vực kể cả lĩnh vực giáo dục đã đưa tiếng Anh lên một vị trí hết sức quan trọng. Tiếng Anh là công cụ giao tiếp, là chìa khoá dẫn đến kho tàng nhân loại. Mặt khác việc ứng dụng rộng rãi công nghệ thông tin đã làm cho việc học tiếng Anh trở thành cấp bách và không thể thiếu. Vì vậy việc học tiếng Anh của học sinh THCS được học sinh, phụ huynh học sinh, giáo viên ngành giáo dục và cả nước đặc biệt quan tâm. Tiếng Anh trở thành một trong các môn chính yếu trong chương trình học của học sinh. Việc học và sử dụng tiếng Anh đòi hỏi cả một quá trình luyện tập cần cù, sáng tạo của cả người học lẫn người dạy. Đặc biệt trong tình hình cải cách giáo dục như hiện nay, dạy tiếng Anh theo quan điểm giao tiếp được nhiều người ủng hộ. Theo phương pháp này học sinh có nhiều cơ hội để giao tiếp với bạn bè, với giáo viên để rèn luyện ngôn ngữ, chủ động tích cực tham gia vào các tình huống thực tế: Học đi đôi với thực hành. I/. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI Chương trình Tiếng Anh mới bậc THCS đã được triển khai thực hiện trên toàn quốc. Nét đổi mới nổi bật của nội dung chương trình này là tạo cơ hội tối đa cho học sinh luyện tập 4 kĩ năng nghe, nói, đọc và viết trên những chủ đề và tình huống hay nội dung giao tiếp có liên quan đến môi trường sống trong và ngoài nước. Sự thay đổi trên tạo điều kiện cho việc dạy và học tiếng Anh trong nhà trường phổ thông trở thành việc dạy sinh ngữ thay vì là dạy từ ngữ như nhiều năm trước đây. Hơn nữa, việc dạy học ngoại ngữ thực chất là hoạt động rèn luyện năng lực giao tiếp (các mẫu lời nói) dưới các dạng nghe, nói, đọc, viết. Muốn rèn luyện được năng lực giao tiếp cần có môi trường với những tình huống đa dạng của cuộc sống. Môi trường này chủ yếu do giáo viên tạo ra dưới dạng những tình huống giao tiếp và học sinh phải tìm cách ứng xử bằng ngoại ngữ cho phù hợp với tình huống giao tiếp cụ thể. Mục đích dạy học ngoại ngữ không nhằm hướng học sinh vào nghiên cứu hệ thống ngôn ngữ mà nhằm giúp người học sử dụng hệ thống ngôn ngữ đó như một công cụ giao tiếp, nghĩa là nhằm rèn cho học sinh năng lực giao tiếp. Năng lực giao tiếp này được thể hiện bằng khả năng sử dụng sáng tạo những quy tắc ngôn ngữ để thực hiện giao tiếp theo tình huống. Như vậy, nắm chắc hệ thống ngôn ngữ không phải là đích cuối mà chỉ là phương tiện để đạt được các mục đích giao tiếp. Qua thực tế ở các trường THCS trong huyện An Minh nói chung và trường THCS Đông Hưng 2 nói riêng, khi bắt đầu học môn ngoại ngữ phần lớn học sinh thích học, nhưng dần dần học sinh lại chán học. Hầu hết các em rất yếu về kỹ năng nói. Thậm chí có rất nhiều học sinh khi học xong chương trình tiếng Anh bậc THCS lại không nói được những câu nói tiếng Anh đơn giản nhất, xử lý tình huống trong giao tiếp tiếng Anh rất chậm chạp, rất ngại nói tiếng Anh với người nước ngoài. Từ đó cho thấy việc giao tiếp bằng tiếng Anh của học sinh rất hạn chế. Trước tình hình đó, là một giáo viên trực tiếp dạy tiếng Anh khối 8, đối tượng đã được tiếp xúc với ngôn ngữ tiếng Anh qua 2 năm lớp 6 và lớp 7, bản thân tôi trăn trở thật nhiều làm sao để học sinh có thể nắm vững, thoải mái trong giao tiếp bằng tiếng Anh. Trong quá trình vừa dạy vừa tìm hiểu quan sát học sinh, tôi phát hiện việc rèn luyện kĩ năng nói cho học sinh có rất nhiều vấn đề. Phần lớn học sinh chưa biết cách học nói, học sinh thường thấy luyện nói là khó nhất. Vì bản thân học sinh có vốn từ vựng rất ít, kiến thức ngữ pháp lại hạn chế, từ đó để diễn đạt một câu tiếng Anh là điều hết sức khó khăn. Làm thế nào để giúp học sinh có thể vận dụng được vốn từ vựng và cấu trúc ngữ pháp của mình để nói tiếng Anh có hiệu quả? Do vậy trong quá trình dạy học, tôi tự tìm kiếm một số phương pháp tích cực, đơn giản, dễ hiểu thiết thực đảm bảo tính khoa học, nhằm phát triển khả năng tư duy; sự suy đoán và tính sáng tạo của học sinh. Để tháo gỡ những khó khăn trên, trong quá trình dạy tiếng Anh lớp 8 trong các năm qua cũng như trong năm học này tôi đã nghiên cứu kỹ chương trình sách giáo khoa (SGK), sách hướng dẫn giảng dạy và nhiều tài liệu liên quan, thảo luận với đồng nghiệp giàu kinh nghiệm trong các cuộc họp chuyên môn, tập huấn hè để tìm ra hướng khắc phục khó khăn, nhằm giúp các em học tốt hơn, vận dụng được kiến thức đã học để làm được các bài tập theo yêu cầu.Trên cơ sở đúc kết kinh nghiệm của bản thân và các kiến thức có được qua tài liệu tham khảo, tôi viết đề tài nhỏ này nhằm góp phần nâng cao chất lượng giảng dạy của bộ môn, đổi mới phương pháp dạy và học.Với phạm vi sáng kiến nhỏ này tôi mạnh dạn đi sâu vào một vấn đề “Phát triển kĩ năng nói tiếng Anh cho học sinh lớp 8”. 1. Cơ sở lí luận Tiếng Anh là một trong những tiếng nước ngoài đã, đang và sẽ được rất nhiều người Việt Nam học do nhu cầu giao tiếp, học tập và nghiên cứu. Hiện nay việc học và dạy ngoại ngữ theo phương pháp mới học sinh có nhiều điều kiện thuận lợi tiếp xúc với ngôn ngữ tiếng Anh. Học sinh có dịp giao tiếp với mọi người bằng tiếng Anh. Học sinh dễ vận dụng chúng vào trong cuộc sống. Nét đổi mới nổi bật của nội dung chương trình sách giáo khoa mới là tạo cơ hội tối đa cho học sinh luyện tập 4 kĩ năng. Kĩ năng nói là một trong những kĩ năng được chú trọng phát triển trong các phương pháp dạy ngoại ngữ mới. Kĩ năng nói có tầm quan trọng vì đó là kĩ năng mà học sinh giao tiếp lời nói bằng tiếng Anh. 2. Cơ sở thực tiễn Qua nhiều năm dạy tiếng Anh ở trường THCS Đông Hưng 2, theo phương pháp đổi mới. Bản thân tôi nhận thấy một điều: Phần lớn học sinh chúng ta chưa xác định được phương pháp học ngoại ngữ (tiếng nước ngoài) nói chung và tiếng Anh nói riêng. Việc vận dụng tiếng Anh trong cuộc sống còn nhiều hạn chế, các em không dám nói bằng tiếng Anh, giao tiếp với bạn bè bằng tiếng Anh. Hơn nữa trong quá trình học các em còn yếu về kĩ năng nói, khó khăn trong khi giao tiếp. Để luyện nói có hiệu quả, học sinh phải được rèn luyện và thực hành nói nhiều để làm quen với các dạng nói của ngôn ngữ. Càng rèn luyện kĩ năng nói nhiều thì người học càng nói nhanh và có phản ứng tốt trong giao tiếp. Việc dạy tiết ghép Speak + Listen trong 45 phút là khó có thể thành công đối với các lớp có nhiều học sinh yếu. Hơn nữa ở nhiều đơn vị bài học (Units) sách giáo khoa soạn mang tính chung (free), nên học sinh rất mơ hồ với yêu cầu của sách. Từ đó đặt ra vấn đề yêu cầu giáo viên phải đầu tư suy nghĩ, thiết kế bài giảng sao cho thật rõ ràng, thật cụ thể, sát với thực tế học sinh của mình trên lớp. Có vậy thì tiết dạy mới thành công. II/. SƠ LƯỢC LỊCH SỬ VẤN ĐỀ Đất nước ta đang bước vào giai đoạn công nghiệp hoá, hiện đại hoá, hội nhập với cộng đồng quốc tế, đặc biệt hơn đất nước ta đã chính thức là thành viên của WTO. Nhân tố quyết định thắng lợi của công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá là nguồn lực người Việt Nam được phát triển về số lượng và chất lượng trên cơ sở mặt bằng dân trí được nâng cao. Vì vậy nền giáo dục và đào tạo của nước ta cũng đã tiến hành thay đổi từ mục tiêu giáo dục và đào tạo đến phương pháp dạy và học nhằm đóng góp có hiệu quả vào quá trình chuẩn bị nguồn nhân lực của đất nước trong những thập kỷ đầu của thế kỷ 21. Để đáp ứng mục tiêu giáo dục mới, chương trình thay sách giáo khoa giáo dục phổ thông đã có sự thay đổi tích cực: tập trung đổi mới phương pháp dạy học, thực hiện dạy và học dựa vào hoạt động tích cực của học sinh dưới sự tổ chức và hướng dẫn đúng mực, linh họat của giáo viên nhằm phát triển tư duy độc lập, sáng tạo góp phần hình thành phương pháp và nhu cầu tự học, bồi dưỡng hứng thú học tập, tạo niềm tin, niềm vui trong học tập. Ngày nay môn Ngoại ngữ, đặc biệt là Tiếng Anh đã chiếm giữ vị trí quan trọng nhất trong các mối quan hệ đối ngoại trên thế giới. Tiếng Anh giúp chúng ta nghiên cứu, giao tiếp với nước ngoài ở nhiều lĩnh vực. Vì thế người học phải thành thạo và lưu loát ở các kỹ năng ngôn ngữ nghe, nói, đọc và viết. Việc dạy theo phương pháp đổi mới như hiện nay chú trọng nhiều đến tính chủ động sáng tạo của học sinh. Phần lớn thời gian giao tiếp là lúc các em tư duy chủ động thực hành tiếng Anh. Để có một tiết học tốt thì các em phải chuẩn bị bài ở nhà kỹ. Hơn nữa để học tốt một giờ nói các em cần được chuẩn bị nhiều, đặc biệt là vốn từ vựng và kiến thức ngữ pháp. Tuy nhiên phần lớn các em ở đây chưa có điều kiện tốt để luyện nói tiếng Anh nhiều, thời gian học hạn hẹp, tài liệu để tham khảo thêm còn phụ thuộc vào kinh tế gia đình, từ đó việc đầu tư phát triển kĩ năng nói rất hạn chế. III/. PHẠM VI ĐỀ TÀI - Chương trình tiếng Anh lớp 8. - Học sinh lớp 8 của các trường THCS ở Kiên Giang - Phạm vi nghiên cứu: Học sinh lớp 8 của trường THCS Đông Hưng 2. - Phạm vi trong khối lớp. - Phương pháp nghiên cứu qua thực tế công tác, giảng dạy bộ môn tiếng Anh ở trường THCS. B. THỰC TRẠNG VẤN ĐỀ I/. THỰC TRẠNG TÌNH HÌNH CHUNG Có lẽ không ai trong chúng ta phủ nhận tầm quan trọng của tiếng Anh đối với Việt Nam trong thời kì hội nhập kinh tế, chính trị và văn hóa thế giới, nhất là khi quá trình toàn cầu hóa đang diễn ra với tốc độ chóng mặt. Biết tiếng Anh, giỏi tiếng Anh giúp ta tự tin hơn trong giao tiếp. Mặt khác, tiếng Anh đã trở thành môn học trọng tâm như những môn học văn hóa khác nhưng vẫn là môn học khó và không phải học sinh nào cũng có năng khiếu để học môn ngoại ngữ này một cách dễ dàng. Trong những năm qua, theo chương trình và sách giáo khoa mới, phương pháp mới trong dạy và học, nhiều học sinh rất thích môn học, năng động trong mọi hoạt động nhưng chủ yếu là học sinh khá và giỏi. Đối tượng học sinh yếu kém còn nhiều, các em chưa nắm chắc kiến thức, học tập một cách thụ động, chờ đợi kết quả của bạn mình đưa ra, nhiều em rất ngại khi thực hành nói trên lớp, sợ mình nói sai, một số em chưa đọc hay viết được những mẫu câu đơn giản nhất, từ đó ảnh hưởng nghiêm trọng đến việc rèn luyện các kĩ năng: nghe, nói, đọc, viết…, tệ hại hơn là không ghi chép bài ở trên lớp cũng như không làm bài tập ở nhà, các em chưa có phương pháp học tập phù hợp. Thực tế cho thấy đối tượng này chưa yêu thích môn học. Mặt khác, hầu hết học sinh lớp 8 gặp nhiều khó khăn trong quá trình học tiếng Anh, nhất là kỹ năng nói (speak). Thông thường các em không biết phải bắt đầu việc nói của mình như thế nào, thiếu ý tưởng, yếu kiến thức ngữ pháp, từ vựng và cấu trúc câu. Hơn nữa, theo khung phân phối chương trình THCS môn Tiếng Anh do Bộ Giáo dục – Đào tạo ban hành từ năm học 2007-2008 (CV số 9012/ BGDĐT-GD TrH ngày 24/8/2007) thì mỗi đơn vị bài học (Unit) được dạy trong 5 tiết. Điều đó có nghĩa phải ghép tiết dạy kỹ năng nói (SPEAK) với tiết dạy kỹ năng nghe (LISTEN) thành 1 tiết. Từ đó làm cho việc dạy của giáo viên và luyện tập kỹ năng nói của học sinh càng thêm khó khăn. II/. THUẬN LỢI VÀ KHÓ KHĂN Thuận lợi Được sự hỗ trợ, quan tâm giúp đỡ nhiệt tình của BGH nhà trường, sự động viên ủng hộ của đồng nghiệp và một số bậc phụ huynh học sinh cộng với những gì bản thân rút ra được qua những ngày tháng công tác ở trường, trực tiếp giảng dạy trên lớp môn tiếng Anh. Hơn nữa qua những tâm tư, nguyện vọng và những bức xúc trong vấn đề học tiếng Anh của học sinh. Để tháo gỡ những vấn đề trên đòi hỏi phải xây dựng được một phương pháp phù hợp cho học sinh mình tiếp thu bài có hiệu quả hơn, khắc sâu và thích học môn tiếng Anh hơn. Từ đó thôi thúc tôi xây dựng “Phát triển kĩ năng nói tiếng Anh lớp 8” 2. Khó Khăn Là một ngôi trường nằm ngoại ô thị trấn Thứ 11 trên địa bàn nông nghiệp thuộc xã Đông Hưng, huyện An Minh, hàng năm gặp nhiều khó khăn, cơ sở hạ tầng của địa phương còn yếu kém. Đại đa số người dân nơi đây sống bằng nghề nông, trình độ văn hoá còn hạn chế. Vị trí ngôi trường là một nơi có mạng lưới kênh rạch chằng chịt, điều kiện đi lại khó khăn cho học sinh vào mùa mưa. Dù khó khăn như vậy, song điều đáng lo ở đây là phần lớn các em còn thiếu sự quan tâm và động viên của gia đình, một số phụ huynh còn xem nhẹ việc học của con em mình. Từ đó dễ gây cho các em có thái độ bất cần trong việc học và còn ảnh hưởng đến việc hình thành nhân cách, phẩm chất đạo đức của các em sau này. Hơn nữa các bậc phụ huynh thật thiếu quan tâm đến việc kiểm tra bài vở và quản lí giờ giấc học tập của các em, đặc biệt điều này sẽ dễ làm cho các em chán nản. Mặt khác, do trường nằm trên địa bàn thuộc xã nghèo, điều kiện học tập môn tiếng Anh còn hạn chế. Nhà trường chưa có sách tham khảo và các trang thiết bị để phục vụ cho môn học này Vấn đề đặt ra là làm thế nào chúng ta khắc phục được những điểm yếu trên để góp phần nâng cao chất lượng rèn luyện các kĩ năng nghe, nói, đọc, viết cho học sinh, giúp học sinh tự tin hơn trong giao tiếp, sử dụng tiếng Anh như một ngôn ngữ thứ hai, thành thạo trong từng từ, từng câu đối với học sinh ở Kiên Giang nói chung và đặc biệt là đối với học sinh ở nông thôn như xã Đông Hưng nói riêng. Ngoài ra tiếng Anh là một môn học khó, khối lượng kiến thức nhiều, thời gian học trên lớp ít, đặc biệt là đối với tiếng Anh lớp 8, cả hai kĩ năng Nghe và Nói chỉ có 45 phút, để rèn luyện thành công hai kĩ năng này cho học sinh trong một tiết học quả là điều hết sức khó khăn. Khó khăn là thế nhưng muốn cho các em học tập tốt môn học này là một điều hết sức nan giải, đòi hỏi người giáo viên phụ trách phải có sự say mê nghề nghiệp, có nhiệt huyết cao, kết hợp sự kiên trì, nhiệt tình thì mới giúp đỡ học sinh mình ngày càng tiến bộ được. Bước vào đầu năm học để nắm rõ tình hình, sức học, kĩ năng nghe nói của học sinh khối 8. Đối tượng đã qua thực nghiệm học tiếng Anh ở lớp 6, 7. Tôi làm một bước thể nghiệm khảo sát đầu năm với các tình huống giao tiếp gợi ý như sau: * Giới thiệu, làm quen bạn mới. * Hỏi về nơi bạn sống * Giới thiệu, gặp gỡ những người trong gia đình. * Hỏi về trường lớp, thầy cô, bạn bè. * Hỏi về sở thích, thời gian, công việc hàng ngày. * Hỏi về thời tiết, các mùa,… . KẾT QUẢ TT Khối Sĩ số Giỏi Khá TB Yếu Kém SL % SL % SL % SL % SL % 1 8 43 3 6 9 19 6 Qua kết quả trên tôi nhận thấy kĩ năng nghe của các em còn nhiều hạn chế. Các em chưa hiểu được bài, chưa vận dụng được kiến thức mình đã học. Vì bài nghe này không phải khó, những thông tin này các em đã được học, từ vựng đơn giản. Từ thực tế đó, là một giáo viên trực tiếp giảng dạy tiếng Anh tôi rất băn khoăn trăn trở, không biết làm thế nào để giúp học sinh luyện nghe tốt tiếng Anh, giúp các em ham học. Với kinh nghiệm nhiều năm trực tiếp giảng dạy môn tiếng Anh, bước đầu rèn luyện kĩ cho học sinh các kĩ năng nghe, nói, đọc, viết, tôi đưa ra một số kinh nghiệm sau trong quá trình dạy nghe. C. GIẢI PHÁP VÀ KẾT QUẢ ß GIẢI PHÁP I/. GIÁO DỤC TƯ TƯỞNG Khi thực dạy môn tiếng Anh lớp 8 ở trường THCS Đông Hưng 2 tôi luôn quan tâm đến việc tăng cường phát triển kĩ năng Nghe cho học sinh, làm tiền đề cho các em rèn luyện kĩ năng Nói, Đọc và Viết có thế các em mới thích thú môn học. Ngoài ra tôi còn giáo dục cho các em hiểu rằng vì sao Bộ Giáo Dục lại đưa bộ môn tiếng Anh vào trường phổ thông. Vâng, chính vì môn tiếng Anh ở trường phổ thông cung cấp cho học sinh một công cụ giao tiếp mới để tiếp thu những tri thức khoa học kĩ thuật tiên tiến, tìm hiểu các nền văn hoá đa dạng và phong phú trên thế giới, dễ dàng hội nhập với cộng đồng quốc tế. Học xong THCS, học sinh cần nắm được kiến thức cơ bản, tối thiểu và tương đối hệ thống về tiếng Anh thực hành hiện đại. Có sự hiểu biết tương đối khái quát về đất nước con người và nền văn hoá của một số nước sử dụng tiếng Anh. Có khả năng sử dụng tiếng Anh như một công cụ giao tiếp ở mức độ đơn giản, cơ bản, phổ thông dưới dạng Nghe, Nói, Đọc, Viết. II/. SỬ DỤNG TỐT LINH HOẠT CÁC KỸ THUẬT TRONG VIỆC PHÁT TRIỂN KĨ NĂNG NÓI CHO HỌC SINH LỚP 8 Nhận thấy việc giảng dạy tiết ghép 2 kỹ năng SPEAK và LISTEN vào trong 1 tiết dạy 45 phút và lớp học quá đông (trung bình 45 em/ lớp) là không thể tiến hành đủ các bước luyện tập. Việc luyện tập chỉ hời hợt, quá trình tái tạo (reproduction) của học sinh chỉ thực hiện được với các học sinh khá giỏi, còn lại hầu hết các em không thể làm được. Thực tế chỉ vẻn vẹn 20 phút/ 45 học sinh, trung bình mỗi em được luyện tập chưa đầy 30 giây. Rõ ràng một thời lượng vô cùng ít ỏi cho việc rèn luyện kỹ năng nói! Để khắc phục vấn đề này đòi hỏi giáo viên phải thiết kế lại bài giảng cho phù hợp với đồi tượng học sinh của mình, hợp lý với thời gian trên lớp. Nghiên cứu chương trình sách giáo khoa- SGK Tiếng Anh 8 có những thuận lợi nhất định: Ở mỗi Unit các bài học kỹ năng SPEAK, LISTEN, READ và WRITE được soạn theo từng bài học riêng lẻ. Mỗi Unit được soạn theo một chủ điểm, nên việc dạy và hướng dấn học sinh luyện tập dễ bám sát và giới hạn trong chủ điểm đó. Nội dung bài học gần gũi với cuộc sống và các sinh hoạt hằng ngày của các em. Mở đầu một Unit là phần Getting started + Listen and Read nhằm khai thác vốn từ vựng, cấu trúc, các chức năng giao tiếp trong đời sống hàng ngày và kiến thức có sẵn của học sinh liên quan đến nội dung chủ điểm bài học: là bước gây hứng thú, chuẩn cho bài học mới. Tuy nhiên, ngoài những thuận lợi như vừa nêu nội dung SGK cũng bộc lộ những hạn chế nhất định. Trong khuôn khổ của đề tài này tôi chỉ nêu ra một số vấn đề về nội dung các bài SPEAK nhằm tháo gỡ khó khăn, giúp học sinh học tốt hơn. Nhiều bài luyện SPEAK có yêu cầu quá mở (open/ free), gợi ý mẫu câu quá ôm đồm làm học sinh rối trí, giới thiệu mẫu câu không ăn nhập với thông tin gợi ý. Học sinh yếu không biết nói gì; giáo viên thì không thể kiểm soát hết việc thực hành nói của học sinh để kịp thời giúp đỡ. Một số bài luyện nói: tranh vẽ không rõ, yêu cầu không cụ thể, mẫu câu không sát. Đi vào cụ thể từng Unit như sau: Unit 1: Sau khi giáo viên thiết lập tình huống giữa Hoa và Lan: Hoa diễn tả cô gái với Lan. Tiếp theo giáo viên thiết lập mẫu câu: Lan: What does Mary look like? Hoa: She is short and thin. She has blond hair. S + have / has + adj. + noun S + be + adj. * Form: Sau đó giáo viên gợi ý thêm dưới dạng chi tiết câu Sentence buildings: a) Van/ tall/ thin ; straight black (hải) b) Mr. Lai/ short/ fat ; bald head c) Mrs. Lien / tall/ slim ; long black d) Ann / short/ slim ; short curly fair e) Mr. Khoi / tall / fat ; short straight black Học sinh có thể dựa vào mẫu câu sẵn có và gợi ý trên để luyện nói dễ đàng. Unit 3: Mở đầu bài dạy giáo viên có thể sử dụng Warm- up bằng cách cho học sinh tìm các từ chỉ vị trí của đồ vật (prepositions of position) và sau đó dạy từ mới chỉ tên các đồ vật như: calendar, bowl, counter, rug, cushion, disk rack Sau đó giáo viên yêu cầu học sinh xem tranh và hỏi đáp theo cặp nói về vị trí của mỗi đồ vật. Nếu học sinh không thể nói được giáo viên có thể trợ giúp các em bằng cách nêu ra các câu hỏi và gợi ý trả lời như sau: a) Where's the calendar? (on the wall, under the clock, above the refrigerator) b) Where's the cupboard? (on the wall, above the counter) c) Where's the bowl of fruit? (between the rice cooker and the disk rack) d) Where's the stove? (next to the sink) e) Where are the knives? (on the wall, under the cupboard) f) Where are the flowers? (on the table) Đối với Exercise 2, giáo viên hướng dẫn học sinh sử dụng cấu trúc: Suggestions Agreement + Suggestions Disagreement + Suggestions - Let's put the.... on/opposite the... - I think we should put the.... in/on the ....; next to the.... - We should put the..... between the..... and the..... - You're right. And let's put the.... next to the ... - OK. And I think we should put...... - That's fine. And we ... - No. We should put....... - I don't think so. The ... should be on/above/next to.... the..... Dựa vào mẫu này học sinh chỉ cần thay thế các từ chỉ đồ vật là nói được. Unit 4: Trước khi dạy kỹ năng nói ở bài này, giáo viên củng cố lại mẫu câu sử dụng “Used to” để nói về những việc đã thường xảy ra trong quá khứ, bằng cách đặt câu hỏi gợi ý như sau: “Where did Nga’s grandma use to live?” – She used to live on a farm. * Forms: S + used to + infinitive S + didn't use to + infinitive Did + S + use to + infinitive…? Sau đó giáo viên yêu cầu học sinh quan sát 2 bức tranh ở trang 40 và so sánh, tranh thứ nhất học sinh dùng “used to” để nói về những sự việc ở quá khứ, tranh thứ hai dùng thì hiện tại đơn để nói về hiện tại. Nếu có nhiều học sinh trong lớp không thể thực hiện được, giáo viên có thể gợi ý bằng cách đặt câu hỏi và trả lời như sau: a. Where did they live in the past? And now? (in small houses/ big houses, buildings) b. How did they travel? (walk/ by car, motorbike) c. What about their life/ work? (hard/ a lot of time for entertainment) d. Did children use to go to school? (Most children used to stay at home/ all go to school) e. What about their entertainment? (traditional games/ modern games, video games) f. What’s about the electricity? (There didn’t use to be electricity in the home. Now there is electricity everywhere) Unit 6: Ở bài này nội dung luyện nói tương đối dễ, và rõ ràng. Tuy nhiên, với một số học sinh yếu hơn giáo viên có thể cho thêm gợi ý như sau và xem đó như cue 1, học sinh có thể dựa vào đó để luyện tập các cues còn lại bằng cách thay thế phần gạch chân. Example: (Situation1) Asking for a favor (like dialogue a) Offering assistance (like dialogue b) Tourist: Could you do me a favor? You : Certainly. What can I do for you? Tourist: Can you show me the way to the police station? I've lost my money. You : Sure. When you get out of the school, turn right. Walk about 500 meters you'll see the police station on your right. Tourist: Thank you very much. You: May I help you? Tourist: Yes. Can you show me the way to the police station? I've lost my money. You: Sure. When you get out of the school, turn right. Walk about 500 meters you'll see the police station on your right. Tourist: Thanks. That's very kind of you. Notes: - to have a broken leg - to have a flat tire Unit 7: - ở bài tập 1 tôi cho học sinh thực hành mẫu bài đối thoại để biết được tình huống để nói. - Ở Unit này phần bài tập 2, giáo viên có thể thiết kế lại bài luyện tập như sau: · Ss use the information in the table to make the dialogues and practice in pairs. Surface mail (3) Airmail (3) Item (1) Destination (2) Weight (4) Charges (VND) (5) Weight (4) Charges (VND) (5) parcel Qui Nhon 5kilograms 19,200 letter Kon Tum 20grams 800 postcard Ho Chi Minh City 15grams 1,200 parcel Ca Mau 2kilograms 13,000 Example exchanges: S1: Can I help you? S2: I want to send this (1)_parcel_ to (2)_Qui Nhon_ S1: Do you want to send it airmail or surface mail? S2: (3) surface mail_ please. How much is ? S1: I'll weigh it. It's (4)_five kilograms. That's (5)_19,200 dong_ . S2: Here you are. S1: Thank you. S2: You're welcome. Với mẫu đối thoại này thì học sinh nào cũng có thể nói được. Unit 8: Bài này yêu cầu tương đối đơn giản và khá rõ ràng, nhưng nếu lớp yếu giáo viên có thể cho thêm các gợi ý như sau: Ask Ss to think about: The streets / (cleaner/wider) ® The streets are getting cleaner. ® The streets are becoming wider. The traffic / (busier) The houses / (more modern/ beautiful) There is/are more (trees / ...................) Unit 9: Giáo viên yêu cầu học sinh xem sách giáo khoa trang 81 và giúp các em nêu lại cách đặt câu “requests, offers or promises” § Requests: Can/Could/Will/Would you (get me a bandage)? ü Sure = Certainly = All right = OK = Of course û I'm sorry, I can't. / I'm afraid not. § Offers: Can/Could/Shall I (get you a bandage)? ü Yes, please. û No, thank you. § Promises: (I promise) I will/won't ............ or I promise to ............. ü I hope so. / Good. / Don't forget. Tiếp theo phần luyện tập, giáo viên giải thích ý nghĩa các tranh: a) – e) trang 82 và yêu cầu các em nói theo gợi ý cue a) a) A girl has a cut on her finger. ® She wants to make a request (Could you ...?) ® The man wants to give an offer (Shall I ....?) b) A boy has a headache (Boy - Sister / Sister - Boy) c) A boy has been bitten by a snake (Boy - Friend / Friend - Boy) d) A girl has a fever (Daughter - Mum / Mum - Daughter) e) A boy has broken the vase (Boy - Mother / Mother - Boy) ® Promise Unit 10: Ở bài này từ tranh vẽ một đống rác và các từ gợi ý trong khung để yêu cầu học sinh nói dựa theo 2 bài đối thoại ở trang 91 thì quả là rất khó, khó ngay cả với học sinh khá giỏi. Vậy nên giáo viên cần phải thiết kế lại bài dạy như sau: a) Teacher uses realias to elicit the items and write the words in column one: I II plastic bottles __C___ sandals ______ pieces of material ______ cans/tins ______ newspapers ______ towels ______ glass jars ______ banana peels ______ handbags ______ cucumber peels ______ cardboard boxes ______ plastic bags ______ glass bottle ______ A Paper B Glass C Plastic D Metal E Vegetable matter F Fabric G Leather b) T. elicits and presents the conversation exchanges: S1: Which groups do (clothes) belong to? S2: Put them in "fabric". S1: What can we do with those (clothes)? S2: We can recycle them and make them into (paper). S1: And what can we do with (banana peels)? S2: We make them into compost. Học sinh có thể nhìn vào bảng a) bà bài đối thoại gợi ý b) để nói bằng cách thay thế các từ trong ngoặc. Unit 11: Sau khi ôn lại cấu trúc requests với “mind”, giáo viên giải thích các tình huống và nên cho một bài đối thoại như sau để giúp học sinh có thể nói dễ dàng hơn: Example exchanges: a) You: Excuse me? Tourist Officer: Yes? You: I’d like to visit a market. Would you mind suggesting one? T.O: Not at all. How about going to Thai Binh Market? It opens from about 5 a.m to 8 p.m You: That sounds interesting. Thank you. b) a) market / Thai Binh Market (Ben Thanh Market) b) museum / History Museum ( Revoluntionary Museum) c) restaurant / Cuong’s Vegetarian Restaurant ( Good Food Vietnamese Restaurant) d) zoo / Sai Gon Zoo Học sinh có thể dựa vào mẫu đối thoại a) và các gợi ý trong khung b) để nói dễ dàng. Unit 12: Ở bài này SGK cho nhiều thông tin khá rối rắm làm học sinh khó hiểu, nên giáo viên có thể thiết kế lại và tiến hành bài dạy như sau: a) Giáo viên cho học sinh hỏi -đáp theo bài đối thoại sau để điền vào bảng itinerary trang 113. S1: Which flight are you going to take? S2: (Flight 835) S1: What time does it leave Los Angeles? S2: At (10.00) on (Monday) S1: What time does the flight arrive in Boston? S2: At (16.00) S1: Where are you going to stay? S2: At the Atlantic Hotel. (It’s expensive but it has more facilities. / It’s cheaper...) S1: Which places are you going to visit? S2: (Boston University, Museum & Art Galleries) S1: When are you coming back? S2: Flight 710 at 10.00 on Thursday, 22. Sau đó học sinh có thể dựa vào bài đối thoại và các tranh ở trang 114 để nói bằng cách thay thế vào câu trả lời in nghiêng S2. Unit 14: Bài tập mẫu và yêu cầu luyện tập ở SGK trang 132-133 là khá rõ ràng, tuy nhiên nếu lớp yếu, giáo viên có thể đưa thêm câu hỏi gợi ý như sau: 1. Have they just built the Eiffel Tower in Paris? (û) (1889) 2. Is the Empire State Building located in New York City? (ü) 3. Is the Petronas Twin Towers located in Malaysia? (ü) 4. Is the Great Barrier Reef in Australia? (ü) 5. Have you ever seen Mount Rushmore? 6. Is Mount Everest in Nepal and Tibet? (ü) 7. Have you ever visited Hue citadel? 8. Is the Big Ben in London? (ü) 9. Is Ha Long Bay in Quang Nam? (û) Sau khi cho các cặp học sinh hỏi – đáp, giáo viên nêu lại tình huống và từ đó rút ra mẫu câu: Teacher: Is Hue Citadel in the central Viet Nam? Student: Yes, it is. Ask Ss to listen: Teacher: I asked Ngan if Hue citadel was in the Central Viet Nam. She said it was. - Giáo viên viết câu len bảng và rút ra mẫu câu, công thức: Model sentences: I said to Lan, “Is the Hue citadel in the Central Viet Nam?” (Yes- No question ® directed speech) I asked Lan if Hue citadel was in the Central Viet Nam. (main clause) whether (indirected Yes- No question) Concept checking: Indirect Yes- no question S V (O) if/ whether S V ... Form: Note: (to) say ® (to) ask / want to know... If the verb in the main clause is in the past tense, the tense in the indirect question must be changed. Direct question Indirect question Present simple Past simple Past simple Past perfect Present perfect Past perfect Dựa vào mẫu câu, học sinh có thể làm bài tập 2 trang 133 dễ dàng. Unit 15: Bài này nếu học sinh không hiểu rõ tranh vẽ ở trang 139, giáo viên có thể gợi ý bằng cách cho bài tập matching: Reading a comic a Playing in the rain b Driving a car c Foreign food d Answer key: 1 + b 2 + c 3 + a 4 + d Tiếp theo giáo viên làm mẫu 1 cue: T: I think driving a car is easy. Ss: I disagree. I think it’s difficult to drive a car. / Or: So do I. Tương tự như vậy, học sinh sử dụng các tính từ ở trang 140 đẻ diễn tả ý kiến của mình: Orall drill: b) Read a comic/ boring, fun, time-consuming, interesting c) Playing in the rain/ fun, interesting, entertaining d) Foreign food/ delicious, fun to eat, unhealthy III/. PHÁT TRIỂN KĨ NĂNG NÓI TIẾNG ANH QUA HOẠT ĐỘNG NGOẠI KHÓA (CÂU LẠC BỘ TIẾNG ANH) Lịch sử đã chỉ ra và chứng minh cho chúng ta thấy rằng loài người đã biết tổ chức sinh hoạt cộng đồng theo nhóm, theo tộc họ đã từ lâu đời. Điều đó đã mang lại nhiều hiệu quả và phát huy cho đến tận ngày nay. Trên các phương tiện thông tin đại chúng hoặc qua thực tế địa phương, hiện nay ở đâu chúng ta cũng thấy xuất hiện các hình thức câu lạc bộ như: Câu lạc bộ nhà nông, Câu lạc bộ Thanh niên,…. Như vậy có nghĩa là hình thức câu lạc bộ đã có từ lâu và đã có nhiều hiệu quả thiết thực trong đời sống và phát triển của con người. Ở một số trường đã có tổ chức các câu lạc bộ như: Câu lạc bộ toán học, câu lạc bộ văn học, câu lạc bộ sử học, câu lạc bộ cờ vua,… . Các tổ chức câu lạc bộ này đã đẩy mạnh phong trào học tập trong học sinh. Với ý tưởng chơi để học, học trong chơi ở câu lạc bộ tiếng Anh đã hình thành Năm học 2009-2010, được sự cho phép của lãnh đạo và Ban giám hiệu nhà trường, sự ủng hộ và cộng tác của đồng nghiệp đã tổ chức câu lạc bộ tiếng Anh đầu tiên trong trường. Học sinh đăng kí tham gia làm thành viên khá nhiều, chủ yếu là những học sinh có năng lực và yêu thích bộ môn tiếng Anh. Bản thân tôi là giáo viên tiếng Anh phụ trách cho các em luyện nghe, nói về các chủ điểm đã định trước, tập một số bài hát tiếng Anh. Để tạo thên nhiều hứng thú cho học sinh tham gia vào câu lạc bộ, để giúp học sinh nhận thức rằng loại hình tổ chức sinh hoạt câu lạc bộ nói tiếng Anh giúp học sinh củng cố kiến thức, rèn luyện và phát triển các khả năng ngôn ngữ, đặc biệt là khẩu ngữ. Bên cạnh đó còn tạo điều kiện môi trường tiếng Anh cho học sinh được thực hành và áp dụng những kiến thức ngôn ngữ cũng như các mẫu lời nói được đưa vào thực tế giao tiếp. - Nhằm mở rộng, bổ sung một số ngữ liệu mới nhất định, khắc sâu kiến thức cho học sinh, tạo điều kiện cho học sinh thực hành tốt các kiến thức đã học. - Gây hứng thú học tiếng Anh, đẩy mạnh phong trào học tiếng Anh trong toàn trường, bồi dưỡng học sinh có năng khiếu. - Giáo dục ý thức, tinh thần học tập cho học sinh, bồi dưỡng thế giới quan và nhân sinh quan cho học sinh. - Giúp cho học sinh trong toàn trường có cơ hội giao tiếp với nhau bằng tiếng Anh, hiểu nhau hơn, tạo được sự thân thiện với nhau, nhằm thực hiện tốt cuộc vận động: “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực”của Bộ trưởng BGD & ĐT. Câu lạc bộ phải kết hợp 3 phân môn (Tiếng Anh, Âm nhạc và Mĩ thuật), để cụ thể hóa thành các hoạt động, lồng ghép vào các chương trình của câu lạc bộ, giáo viên tiếng Anh kết hợp với giáo viên Am nhạc tập các bài hát tiếng Anh hoặc các tiết mục văn nghệ khác cho học sinh. Kết hợp với giáo viên Mĩ thuật phụ trách phần trang trí, tổ chức thi vẽ hoặc giúp học sinh vẽ các tranh ảnh theo chủ đề yêu cầu của đợt sinh hoạt. Nội dung hình thức các hoạt động phải có sự thay đổi hoặc làm mới liên tục để ngày càng được phong phú hơn như: Hái hoa dân chủ (Picking flowers) Đố chữ (Vocabulary games) Đóng kịch (Role playing) Nói chuyện theo chủ đề (Topics) Thảo luận tự nhiên (Natural discusion) ……… Trong quá trình giảng dạy tôi luôn tạo cơ hội để giúp các em luyện nói và yêu cầu các em cần tăng cường nghe tiếng Anh nhiều (qua TV, đài, băng) đặc biệt là giao tiếp với người bản xứ nói để khắc phục được cách phát âm sai và quen đuợc giọng nói của họ . ß KẾT QUẢ Qua thực tế các tiết dạy thăm dò ý kiến của học sinh và so sánh chất lượng của lớp. Trong quá trình dạy tôi nhận thấy các em không còn phải lo sợ khi đến tiết học nói, các em hứng thú hăng say luyện tập và kết quả tiếp thu bài của học sinh tốt hơn a. Kết quả đạt được qua một năm học 2008-2009 TT Lớp Sĩ số Giỏi Khá TB Yếu Kém SL % SL % SL % SL % SL % 1 8 43 10 15 15 3 0 0 b. So sánh So với kết quả khảo sát đầu năm tôi thấy Chất lượng giỏi, khá tăng lên: Số học sinh yếu kém giảm: c. Kết quả môn học cuối năm học 2008-2009: TT Lớp Sĩ số Giỏi Khá TB Yếu Kém SL % SL % SL % SL % SL % 1 8 43 0 0 0 0 D. KẾT LUẬN I/. TÓM LƯỢC GIẢI PHÁP Học là một công việc lâu dài vất vả, khó nhọc đối với học sinh. Do vậy giáo viên ngoài nhiệm vụ truyền đạt kiến thức còn phải tìm cách làm cho giờ học có hiệu quả, thu hút sự tập trung của các em. Hướng dẫn cho các em phương pháp học tập là rất quan trọng, đặc biệt cần khuyến khích các em sử dụng tiếng Anh trong cuộc sống. Học ngoại ngữ mà không thực hành giao tiếp thì ngày một phai mờ một ngôn ngữ mình đang học. Vì vậy tôi đưa ra một số ý kiến nhỏ trên nhằm giúp bản thân tìm ra được một phương pháp phát triển kĩ năng nói cho học sinh THCS nói chung và học sinh lớp 8 nói riêng đạt hiệu quả, giúp học sinh học tập đạt chất lượng cao. Với việc áp dụng phương pháp này giáo viên tiết kiệm được rất nhiều thời gian trên lớp, vì vậy trong 45 phút việc dạy tiết ghép SPEAK + LISTEN không còn quá khó khăn với giáo viên và việc tiếp thu của học sinh cũng có hiệu quả hơn rất nhiều. Tuy nhiên, để thực hiện được tiết dạy tốt yêu cầu giáo viên phải đầu tư nghiên cứu nhiều nội dung, ý đồ SGK, tham khảo nhiều tài liệu để thiết kế lại bài giảng sao cho phù hợp với đối tượng học sinh của mình từ 45 phút xuống chỉ còn từ 22 đến 25 phút mà các em vẫn hiểu, thực hành được. Tuy nỗ lực rất nhiều, nhưng chắc chắn không tránh khỏi thiếu sót. Tác giả đón nhận và đánh giá cao sự góp ý quí báu của đồng nghiệp để phương pháp này có thể hoàn thiện hơn nữa. II/. PHẠM VI ÁP DỤNG CỦA ĐỀ TÀI - Đây là một đề tài đã được áp dụng trong phạm vi khối lớp của chương trình tiếng Anh 8 của trường THCS Đông Hưng 2. - Có thể áp dụng cho học sinh của các trường THCS ở Kiên Giang. III/. BÀI HỌC KINH NGHIỆM VÀ KIẾN NGHỊ 1. Bài học kinh nghiệm Giáo viên cần phát hiện ra những thiếu sót cơ bản của học sinh để có hướng khắc phục. Quan tâm nhiều đến học sinh yếu kém giúp chúng quen dần với ngôn ngữ này và sử dụng trong cuộc sống. Giáo viên cần biết lựa chọn các thủ thuật phù hợp với từng đối tượng học sinh. Tạo mọi điều kiện gây hứng thú cho học sinh học bộ môn này nói chung rèn luyện kĩ năng nói cho học sinh nói riêng. Trong các tiết dạy giáo viên cần tận dụng thời gian hướng dẫn cụ thể để học sinh hoạt động. Cần nghiên cứu các hạn chế trong việc giảng dạy: thời gian, sĩ số lớp, đồ dùng dạy học các yếu tố vật chất như diện tích lớp học, giáo cụ trực quan. Vận dụng những phương tiện giảng hiện đại như máy tính, máy chiếu,.. Kết hợp linh hoạt giữa phương pháp truyền thống và phương pháp hiện đại. Giáo viên cần khuyến khích động viên các em luyện tập thêm nhiều kĩ năng nói. Đặc biệt là giao tiếp với người nước ngoài. Kiến nghị Trong quá trình thực hiện bản thân tôi không tránh khỏi những vướng mắc, đề nghị lãnh đạo các cấp quan tâm hơn đó là: - Cung cấp trang thiết bị phục vụ cho việc dạy và học bộ môn tiếng Anh ở các trường THCS. - Tạo nguồn kinh phí để mua sắm các loại băng hình, tranh ảnh có nội dung phong phú về tập tục văn hóa, danh nhân, lễ hội,… của các nước Anh, Mỹ. - Tạo mọi điều kiện thuận lợi nhất để cho giáo viên tiếp cận với công nghệ thông tin và áp dụng, phục vụ tốt cho việc giảng dạy bộ môn tiếng Anh. Trên đây là những suy nghĩ và việc làm thiết thực của bản thân tôi trong việc nâng cao chất lượng giảng dạy bộ môn tiếng Anh ở trường THCS Đông Hưng 2. Thiếu sót là điều không thể tránh khỏi, tôi mong được sự góp ý của các bạn đồng nghiệp trong nhà trường, trong địa bàn huyện để bản sáng kiến này được hoàn thiện hơn và được sử dụng rộng rãi. Xin chân thành cảm ơn! Đông Hưng, ngày 10 tháng 5 năm 2010 Đánh giá của Hội đồng khoa học Người thực hiện Trường THCS Đông Hưng 2 Nguyễn Hữu Phước Đánh giá của Hội đồng khoa học Phòng GD & ĐT An Minh Hội đồng thống nhất xếp loại: MUÏCÏ LUÏC Trang LỜI NÓI ĐẦU………………………………………………………. 1 I/. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI…………………………………………………. 1 cơ sở lý luận…………………………………………………………. 2 Cơ sở thực tiễn……………………………………………………….. 3 II/. SƠ LƯỢC LỊCH SỬ VẤN ĐỀ………………………………………….. 3 III/. PHẠM VI ĐỀ TÀI……………………………………………………… 4 THỰC TRẠNG VẤN ĐỀ……………………………………………. 4 I/. THỰC TRẠNG TÌNH HÌNH CHUNG………………………………….. 4 II/. THUẬN LỢI VÀ KHÓ KHĂN…………………………………………. 5 GIẢI PHÁP VÀ KẾT QUẢ…………………………………………… 7 ß GIẢI PHÁP………………………………………………………………...7 I/.GIÁO DỤC TƯ TƯỞNG………………………………………………….. 7 II/. SỬ DỤNG TỐT LINH HOẠT CÁC KỸ THUẬT TRONG VIỆC PHÁT TRIỂN KĨ NĂNG NÓI TIẾNG ANH LỚP 8………………………………………… 7 III/. PHÁT TRIỂN KĨ NĂNG NÓI TIẾNG ANH QUA HOẠT ĐỘNG NGOẠI KHÓA (CÂU LẠC BỘ TIẾNG ANH)………………………………………. 18 ß KẾT QUẢ…………………………………………………………………. 19 KẾT LUẬN……………………………………………………………. 20 I/. TÓM LƯỢC GIẢI PHÁP…………………………………………………. 20 II/. PHẠM VI ÁP DỤNG CỦA ĐỀ TÀI……………………………………...20 III/. BÀI HỌC KINH NGHIỆM VÀ KIẾN NGHỊ……………………………20 Bài học kinh nghiệm…………………………………………………....20 Kiến nghị………………………………………………………………. .21

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docPhát triển kĩ năng nói tiếng Anh lớp 8.doc
Luận văn liên quan