Phát triển quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa

Mục lục Lời mở đầu . 1 Phần A:Giới thiệu đề tài . 2 I.Khái niệm cơ bản về quá độ lên chủ nghĩa xã hội 2 II.Tính cấp thiết của đề tài . 2 Nội dung . 2 I. Lý luận chung về quá độ lên Chủ nghĩa xã hội. 2 1.Khái niệm cơ bản về quá độ lên chủ nghĩa xã hội. 2 2. Tính tất yếu và các loại hình quá độ lên CNXH. 3 2.1.Tính tất yếu của quá độ lên CNXH. 3 2.2. Các loại hình quá độ lên CNXH. 4 3.Quá độ lên CNXH ở Việt Nam. 5 3.1. Tính tất yếu của quá độ lên CNXH ở Việt Nam. 5 3.2. Khả năng tiến hành quá độ lên CNXH ở Việt Nam. 6 3.3. Nhận thức về quá độ lên CNXH bỏ qua CNTB ở Việt Nam. 8 3.4. Những nhiệm vụ kinh tế cơ bản của thời kì quá độ lên CNXH ở Việt Nam .9 4.Một số đặc điểm cơ bản của thời kì quá độ lên CNXH ở Việt Nam . 13 II. Thực trạng nền kinh tế quá độ ở nước ta . 14 1. Những thành tựu đã đạt được14 1.1. Về kinh tế14 1.2. Về xã hội. 18 1.3. Về chính trị. 19 2. Những hạn chế23 2.1.Những hạn chế tồn tại trong kinh tế của thời kì quá độ. 23 2.2. Hạn chế trong quản lý của Nhà nước. 25 III. Giải pháp cho con đường quá độ lên CNXH ở Việt Nam. 28 1. Giải pháp về công nghiệp hoá, hiện đại hoá . 28 2. Phát triển mạnh mẽ nền kinh tế thị trường . 31 2.1.Phát triển nền kinh tế nhiều thành phần. 31 2.2.Phát triển đồng bộ các loại thị trường. 33 2.3.Giữ vững chính trị và hoàn thiện hệ thống pháp luật. 35 3. Hoàn thiện bộ máy Nhà nước và nâng cao hiệu quả quản lý Nhà nước của Đảng36 Một số kiến nghị. 38 Kết luận . 39

doc36 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 2481 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Phát triển quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
tư liệu sản xuất ở nước ta hiện nay được tiến hành dưới nhiều hình thức như: Sắp xếp lại các doanh nghiệp Nhà nước, cổ phần hoá một bộ phận lớn doanh nghiệp Nhà nước để chuyển các doanh nghiệp từ một chủ sở hữu là Nhà nước sang doanh nghiệp nhiều chủ sở hữu là các cổ đông và thực hiện giải quyết các vấn đề liên quan đến sở hữu đất đai, tài sản, của cải liên quan đến chủ thể trong nền kinh tế. Việc xây dựng và hoàn thiện quan hệ sản xuất trên phương diện sản xuất quản lí ở nước ta được đặc biệt quan tâm đến việc hình thành các loại hình kinh tế, các tổ chức kinh doanh; điều đó phải căn cứ vào tình hình thực tiễn trong nước. Về việc xây dựng và hoàn thiện quan hệ trong việc phân phối kết quả sản xuất: Trước đây phân phối theo tài sản và phân phối theo vốn là hình thức phân phối của tư bản chủ nghĩa vì vốn và tài sản đều là của giai cấp tư sản còn phân phối theo lao động mới là phương pháp phân phối của xã hội chủ nghĩa nhưng hiện nay ở nước ta đang tồn tại ba hình thức phân phối đó là phân phối theo lao động, phân phối căn cứ vào tài sản và vốn đóng góp và phân phối thông qua phúc lợi xã hội. Thứ ba: Mở rộng và nâng cao hiệu quả của kinh tế đối ngoại. Hiện nay xu thế toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế và tự do hoá thương mại đang là vấn đề nổi bật của kinh tế thế giới. Cả thế giới đang chứng kiến sự phát triển như vũ bão của khoa học công nghệ làm cho lực lượng sản xuất phát triển mạnh mẽ, tạo sự thay đổi sâu sắc cơ cấu sản xuất, phân phối, tiêu dùng và thúc đẩy quá trình quốc tế hoá, xã hội hoá nền kinh tế cũng như quá trình tham gia của mỗi quốc gia vào phân công lao động và hợp tác quốc tế. Việt Nam tham gia vào quá trình hội nhập kinh tế quốc tế với chiến lược: “Việt Nam mong muốn làm bạn với tất cả các nước trên thế giới”; “Việt Nam sẵn sàng làm đối tác đáng tin cậy của các quốc gia trên thế giới”. Sách lược tham gia hội nhập của Việt Nam là “Tạm gác quá khứ hướng tới tương lai, đa phương hoá các quan hệ quốc tế và đa dạng hoá các hình thức kinh tế nước ngoài. Chúng ta tham gia vào quá trình đó nhằm mục tiêu phát huy nội lực ở bên ngoài để phát triển kinh tế, nội lực là chính, là chủ yếu nhưng ngoại lực là quan trọng. Một điều đáng chú ý là tham gia hội nhập kinh tế quốc tế dựa trên nguyên tắc là phát triển kinh tế đối ngoại phải đảm bảo độc lập tự chủ và toàn vẹn lãnh thổ đất nước và đảm bảo an ninh quốc phòng của quốc gia. Muốn, tham gia hội nhập kinh tế quốc tế có hiệu quả chúng ta phải nâng cao sức cạnh tranh, tích cực tham gia khai thác thị trường thế giới, tích cực tham gia hợp tác kinh tế khu vực và hệ thống mậu dịch đa phương toàn cầu, xử lí mối quan hệ kinh tế đối ngoại với độc lập tự chủ, tự lực cánh sinh, bảo vệ an ninh kinh tế quốc gia. 4.Một số đặc điểm cơ bản của thời kì quá độ lên CNXH ở Việt Nam Nước ta quá độ lên CNXH có những đặc điểm chung của quá độ lên CNXH của các nước trên thế giới như: Đó là thời kì xét trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội đều do nhiều thành phần không thuần nhất cấu tạo lên; là thời kì mà sự phát triển cái cũ của những trật tự cũ đôi khi lấn át những mầm mống của cái mới của trật tự mới. Thời kì đó có nhiều khó khăn phức tạp, phải trải qua những lần thử nghiệm để rút ra những kinh nghiệm, những bước đi đúng đắn và trong quá trình thử nghiệm. Bên cạnh những đặc điểm chung đó chúng ta tiến hành quá còn có những đặc điểm khác biệt với các quốc gia khác như :chúng ta bắt đầu tiến hành quá độ khi đất nước vẫn còn bị chia cắt hai miền với những chiến lược và nhiệm vụ khác nhau (Đại hội Đảng III năm 1960). Trong quá trình tiến hành quá độ từ Đại hội Đảng III đến Đại hội Đảng VI chúng ta luôn nhận được sự viện trợ giúp đỡ hợp tác của hệ thống xã hội chủ nghĩa trên thế giới mà đặc biệt là Liên Xô thời đó. Nhưng đặc điểm to lớn nhất của chúng ta trong thời kì quá độ là “ từ một nước nông nghiệp lạc hậu tiến thẳng lên CNXH không phải kinh qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa”. Đó tuy không phải la một quy luật bình thường nhưng rất phù hợp với điều kiện nước ta lúc bấy giờ. II. Thực trạng nền kinh tế quá độ ở nước ta 1. Những thành tựu đã đạt được Trong suốt thời kì quá độ nhất là từ khi thực hiện công cuộc đổi mới (từ 1986) nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn cả về kinh tế, xã hội và chính trị. 1.1. Về kinh tế Như ta đã biết dưới ách thống trị của thực dân Pháp nền kinh tế nước ta phụ thuộc hoàn toàn vào chủ nghĩa đế quốc, kinh tế hết sức nghèo nàn, lạc hậu, nạn đói xảy ra triền miên và kéo dài, nghiêm trọng nhất là vào năm 1945 có tới hàng vạn người có nguy cơ chết đói. Nhưng từ khi cuộc kháng chiến trường kì kết thúc thắng lợi, miền Bắc bước vào thời kì quá độ thì dưới sự lãnh đạo của Đảng tính chất nền kinh tế đã thay đổi. Từ nền kinh tế thuộc địa nửa phong kiến, chúng ta đã xây dựng được nền kinh tế mang tính độc lập mang tính chất dân chủ nhân dân, thoát khỏi sự phụ thuộc hoàn toàn vào chủ nghĩa đế quốc. Trong giai đoạn từ 1945 đến 1975 kinh tế đã có những bước phát triển nhất định nhưng kết quả thực sự đáng lưu ý là từ năm 1986 đến nay (thời kì đổi mới). Sau gần 20 năm đổi mới kinh tế đã có những bước chuyển biến đáng mừng. Thứ nhất: Nền kinh tế trong những năm qua tăng trưởng liên tục và có tốc độ cao. Mức tăng GDP năm 2002 đạt 6,79%, năm 2003 đạt 7,26% và năm 2004 ,năm 2005 đạt 8,4%,năm 2006 tăng 8,17%,còn năm 2007 GDP ở Viêt Nam là 8,3% Năm 2007 là năm đầu tiên Việt Nam trở thành thành viên chính thức của WTO và thực hiện cam kết PNTR với Hoa Kỳ, do đó, thị trường xuất khẩu mở rộng, các rào cản thương mại Việt Nam với các nước thành viên WTO được dỡ bỏ hoặc hạn chế. Vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế được nâng cao qua Hội nghị cấp cao APEC năm 2006. Quan hệ ngoại giao, các hoạt động hợp tác kinh tế, đầu tư, mở rộng thị trường xuất khẩu được củng cố và tăng cường thông qua các cuộc thăm cấp cao của lónh đạo Đảng, Nhà nước cùng với sự tham gia của các nhà doanh nghiệp. Tỡnh hỡnh chớnh trị ổn định, an ninh - quốc phũng bảo đảm, đó tạo mụi trường thuận lợi thu hút các nhà đầu tư nước ngoài cũng như các doanh nghiệp trong nước. Kinh tế tăng trưởng cao, cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tiến bộ là thành tựu nổi bật nhất, cơ bản nhất của nền kinh tế Việt Nam năm 2007. Tổng sản phẩm trong nước ước tăng 8,44%, đạt kế hoạch đề ra (8,0 - 8,5%), cao hơn năm 2006 (8,17%) và là mức cao nhất trong vũng 11 năm gần đây. Với tốc độ này, Việt Nam đứng vị trí thứ 3 về tốc độ tăng GDP năm 2007 của các nước châu Á sau Trung Quốc (11,3%) và Ấn Độ (khoảng 9%) và cao nhất trong các nước ASEAN (6,1%). Tốc độ tăng trưởng GDP cả 3 khu vực kinh tế chủ yếu đều đạt mức khá: Khu vực nông - lâm nghiệp và thủy sản ước tăng 3,0%/ so với mức 3,32% cùng kỳ 2006, khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 10,33% (riêng công nghiệp tăng 10,32%)/ so với mức 10,4% và 10,32% cùng kỳ và khu vực dịch vụ tăng 8,5%/ so với mức 8,29% của năm 2006. (tính theo giá so sánh năm 1994). Thứ hai: Về chuyển dịch cơ cấu kinh tế với sự chuyển dịch ngành và chuyển các thành phần kinh tế. Cơ cấu ngành kinh tế đã có sự chuyển dịch theo hướng khu vực I (gồm nông nghiệp, lâm nghiệp, thuỷ sản) tuy vẫn đạt tốc độ tăng trưởng cao liên tục nhưng tỷ trọng đã giảm xuống trong đó tỷ trọng khu vực II (công nghiệp và xây dựng cơ bản) và khu vực III (gồm các ngành dịch vụ) đã tăng lên. Đến năm 2003 tỷ trọng của khu vực I là 22%, khu vực II là 39%, khu vực III là 39 năm 2004 thì tỷ trọng các khu vực tương ứng là 21.8%; 40.1%; 32.2% .Năm 2007 cơ cấu kinh tế có bước chuyển dịch tích cực theo hướng tăng tỷ trọng công nghiệp, xây dựng dịch vụ và giảm tỷ trọng khu vực nông nghiệp (khu vực nông nghiệp chiếm 20%; công nghiệp và xây dựng chiếm 41,5%, dịch vụ 38,1%. Thứ ba: Về cơ chế quản lý kinh tế mới đã bước đầu được hình thành. Nhà nước đã xoá bỏ về cơ bản kinh tế kế hoạch hoá tập trung, quan liêu, bao cấp, xây dựng nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong quá trình hình thành cơ chế thị trường, Nhà nước đã dần dần cải tổ bộ máy và các công cụ quản lý. Từ chỗ chủ yếu sử dụng phương pháp hành chính coi kế hoạch hoá với các chỉ tiêu pháp lệnh là công cụ để quản lý, điều hành nền kinh tế sang chủ yếu quản lý bằng pháp luật kết hợp chính sách và các công cụ điều tiết vĩ mô như chính sách tài chính, tiền tệ, thu nhập và chính sách kinh tế đối ngoại. Thứ tư: Kinh tế nước ta đã đạt thành công lớn trong việc kiềm chế và đẩy lùi lạm phát. Trong những năm từ 1986 đến 1988 lạm phát tới ba con số (cao nhất là 774,7% năm 1986) nhưng đến năm 1989 lạm phát đã được chặn lại ở hai con số sau đó giảm xuống một con số (năm 1997 là 3,7%; năm 1999 là 0,1%; năm 2001 là 0,8%; năm 2002 là 4%; năm 2003 là 3% thậm chí còn có giảm phát vào năm 2000 là - 0.6%. Năm 2004 vừa qua lạm phát đã tăng lên 9,5%. Thứ năm:Về kinh tế đối ngoại. Trong thời kì quá độ cũng phát triển mạnh mẽ. Chúng ta đã tham gia vào các tổ chức khu vực cũng như trên thế giới: gia nhập ASEAN năm 1995, gia nhập AFTA năm 1996, gia nhập APEC năm 1998, ký hiệp định thương mại Việt – Mĩ, . Tháng 10 năm 2004 tổ chức thành công Hội nghị thượng đỉnh á - Âu lần thứ 5 (ASEM 5). Tháng 11 năm 2006 Việt Nam gia nhập WTO và cụng trong năm này Viêt Nam đã tổ chức thành công hội nghị APEC Năm 2006 Việt Nam đạt xuất khẩu kỷ lục 39,6 tỉ USD,năm 2007 đạt ngưỡng 47 tỉ USD . Thu hút vốn đầu tư nước ngoài đạt mức kỷ lục: Ước tính vốn đăng ký mới và vốn tăng thêm của các dự án cũ bổ sung cả năm 2007 đạt trên 20,3 tỉ USD, tăng 8,3 tỉ USD, so năm 2006 (12 tỉ USD), vượt kế hoạch 7 tỉ USD và là mức cao nhất từ trước đến nay. Tổng số vốn FDI năm 2007 đạt mức gần bằng vốn đầu tư của 5 năm 1991 - 1995 là 17 tỉ USD và vượt qua năm cao nhất 1996 là 10,1 tỉ USD. Vốn đầu tư chủ yếu tập trung vào dịch vụ 63,7% và công nghiệp 35,0%, ngành nông - lâm nghiệp thủy sản 1,3%. Địa phương thu hút nhiều vốn FDI đăng ký mới trong 2007 là Thành phố Hồ Chớ Minh 308 dự ỏn với số vốn gần 2 tỉ USD; Phỳ Yờn 5 dự ỏn với số vốn trờn 1,7 tỉ USD, Bà Rịa - Vũng Tàu 1 tỉ 69 triệu USD; Bỡnh Dương 1 tỉ 20 triệu USD; Hà Nội 963 triệu USD và Vĩnh Phúc 789 triệu USD. Có 4 quốc gia và vùng lónh thổ đạt trên 1 tỉ USD vốn đầu tư mới là: Hàn Quốc 3.686,9 triệu USD; Quần đảo Virgin thuộc Anh 3.501 triệu USD; Xin-ga-po 1.551,5 triệu USD; Đài Loan 1.141,9 triệu USD. Trong năm 2007 cả nước đó thu hỳt 350 lượt dự án tăng vốn với số vốn trên 3,2 tỉ USD vốn đầu tư tăng thêm của các dự án cũ. Nét mới trong thu hút vốn FDI năm 2007 là cơ cấu đầu tư đó chuyển dịch từ cụng nghiệp sang lĩnh vực dịch vụ khách sạn, căn hộ cho thuê, nhà hàng, du lịch, tài chính, ngân hàng... Địa bàn đầu tư cũng chuyển mạnh đến các vùng ít dự án như miền Trung, miền Bắc. Năm 2007, cả nước có 52 địa phương thu hút vốn FDI. Các tỉnh miền Trung năm 2007 đó thu hỳt 3,3 tỉ USD vốn đầu tư đăng ký mới, tăng 264,5% so với năm 2006 và gần bằng số vốn FDI của 18 năm trước đó cộng lại (3,5 tỉ USD). Nhà máy lọc dầu Vũng Rô do Anh và Nga hợp tác đầu tư, vốn FDI của tỉnh Phú Yên đạt 1,7 tỉ USD là đứng đầu các tỉnh miền Trung, vượt qua Đà Nẵng, Quảng Nam và Thừa Thiên - Huế. Tổng số vốn đầu tư nước ngoài (FDI) năm 2007 của nước ta đạt 20,3 tỉ USD là mức cao nhất từ trước đến nay. 1.2. Về xã hội Trong suốt thời kì quá độ chúng ta đã đạt được những chuyển biến tốt về mặt xã hội. Nhìn chung đời sống vật chất, tinh thần của phần lớn nhân dân được cải thiện một bước rõ rệt. Số hộ có thu nhập trung bình và số hộ giàu tăng lên ( hiện nay lớn hơn 10%), GDP bình quân đầu người trong cả nước đạt 484,8 USD, khu vực thành thị đạt tới 794,8%, khu vực Đông Nam Bộ đạt 820,8 USD. Tỷ lệ hộ nghèo giảm từ 30% năm 1992 xuống còn 10,8% năm 2003 và 9,03% năm 2004. Những năm gần đây có 1,5 đến 1,7 triệu lao động được giải quyết việc làm. Mức tăng hàng năm của số người có việc làm bắt đầu ngang bằng và vượt chút ít so với lượng tăng thêm trong năm của lực lượng lao động. Cùng với đời sống vật chất đời sống tinh thần cũng được nâng lên đáng kể. Trình độ dân chí được nâng lên đáng kể, đời sống văn hoá của nhân dân được cải thiện. Hoạt động của các phương tiện thông tin đại chúng trở lên rộng khắp. Sự nghiệp giáo dục, đào tạo,các hoạt động văn hoá, nghệ thuật, công tác kế hoạch hoá gia đình và nhiều hoạt động xã hội khác đều có mặt phát triển và tiến bộ. Các cấp Đảng bộ ở địa phương thường xuyên chú ý đến các hoạt động văn hoá, nghệ thuật phục vụ đồng bào như chiếu phim ảnh, tổ chức sinh hoạt tập thể… Một thành quả to lớn về xã hội phải kể đến là sự phát triển của hệ thống y tế, giáo dục. Mạng lưới y tế bây giờ đã rộng khắp luôn kịp thời chăm lo sức khoẻ cho nhân dân. ở hầu hết các xã phường thị trấn đều có các trạm xá với những cán bộ y tế đã được qua đào tạo. Thành công về y tế lớn nhất trong năm vừa qua là chúng ta đã nhanh chóng kìm chế, khoanh vùng được dịch Sar cũng như dịch cúm gia cầm, rồi những ca phẫu thuật cấy ghép tuỷ, thận… Về giáo dục: Giáo dục ở Việt Nam trong những năm vừa qua luôn được coi là quốc sách hàng đầu. Đảng và Nhà nước luôn có những chính sách hỗ trợ và đầu tư cho phát triển giáo dục như đầu tư cơ sở hạ tầng kĩ thuật, trợ cấp cho học sinh, sinh viên…Kết quả là số người tham gia xóa mù chữ ở tất cả các cấp tăng lên 12%. Về cơ bản nước ta đã phổ cập được tiểu học. Đến tháng 6 năm 2004 đã có 19 tỉnh trong cả nước được công nhận phổ cập trung học cơ sở. Tỉ lệ học sinh trung học năm 2004 đạt 67% Trình độ học vấn ngày càng được nâng cao thể hiện ở số hồ sơ đăng kí dự thi vào đại học và cao đẳng ngày càng tăng. Năm 2006 bộ Giáo dục và đào tạo đã kiên quyết nói không với tiêu cực và bệnh thành tích Tính năng động sáng tạo của người dân được khơi dậy và phát huy. Người lao động ngày càng chủ động hơn trong tìm kiếm việc làm tìm cách tăng thu nhập, tự cải thiện đời sống, tham gia ý kiến đóng góp vào các sinh hoạt chung của cộng đồng, xã hội. Không còn nhiều hiện tượng ỷ lại, thụ động, trông chờ Nhà nước, dựa dẫm tập thể. 1.3. Về chính trị Thứ nhất đã thực hiện tốt Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý. Sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam đối với sự nghiệp cách mạng Việt Nam là một tất yếu lịch sử và là tất yếu khách quan. Từ khi giành được thắng lợi trong cuộc cách mạng Tháng 8 năm 1945, Đảng cộng sản Việt Nam về thực chất đã trở thành một Đảng cầm quyền. Trong suốt mấy chục năm qua Đảng đã thành công trong việc vừa lãnh đạo nhân dân tiến hành các cuộc kháng chiến chống ngoại xâm, bảo vệ độc lập và xây dựng một xã hội mới – xã hội xã hội chủ nghĩa. Đảng luôn là lực lượng chính trị duy nhất lãnh đạo cách mạng và lãnh đạo nhân dân, Đảng lãnh đạo toàn diện đối với Nhà nước và mọi mặt của đời sống xã hội. Tuy nhiên, Đảng không tự biến mình thành Nhà nước. Ngày nay, với yêu cầu mới của công cuộc đổi mới đặc biệt là xây dựng nền kinh tế định hướng xã hội chủ nghĩa thì vai trò lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước được nâng lên. Đảng đã lãnh đạo các cơ quan Nhà nước thể chế hoá đường lối, chủ trương chính sách của Đảng thành pháp luật. Chủ trương chính sách của Nhà nước và tổ chức thực hiện thông qua bộ máy Nhà nước. Đảng đã lãnh đạo, chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ công chức đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của công cuộc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do dân, vì dân. Đảng đã và đang lãnh đạo ngày càng tốt hơn công tác kiểm tra, thanh tra, giám sát hoạt động của các cơ quan Nhà nước. Nhà nước ta là Nhà nước pháp quyền cùng với sự lãnh đạo của Đảng thì quản lý Nhà nước cũng được tăng cường. Nhà nước quản lý kinh tế: trong nền kinh tế thị trường, Nhà nước quản lý kinh tế thị trường tức là điều khiển kinh tế sao cho nó tự vận động đến các mục tiêu mong muốn bằng cách sử dụng các công cụ điều tiết và can thiệp mỗi khi cần thiết. Nhà nước chỉ quản lý vĩ mô nền kinh tế chứ không hề “làm kinh tế” như doanh nghiệp đang làm tức là Nhà nước lựa chọn phương án phát triển kinh tế, xã hội. Can thiệp điều khiển mỗi khi nền kinh tế đi chệch ngoài phương án bởi các chấn động kinh tế, chính trị xã hội bên trong, bên ngoài. Đối với việc quản lý xã hội thì Nhà nước ta quản lý xã hội bằng pháp luật, coi trọng giáo dục nâng cao đạo đức kết hợp biện pháp hành chính với giáo dục tư tưởng, nâng cao dân chí. Đã kết hợp được sức mạnh pháp luật với sức mạnh quần chúng. Đây là nét đặc sắc và cũng là thành công của Đảng và Nhà nước trong việc kết hợp pháp lý và văn hoá truyền thống của các thế hệ người Việt Nam được đúc kết trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Thứ hai: Trong suốt thời kì quá độ vừa qua nhìn chung chúng ta tiếp tục giữ vững ổn định chính trị, củng cố quốc phòng, an ninh, bảo vệ chế độ, chủ quyền đất nước. Mặc dù những kẻ thù địch không ngừng chống phá cách mạng trong nước, mặc dù xảy ra khủng hoảng kinh tế, xã hội vào thời kì những năm 1996 – 2000 nhưng chính trị của nước ta vẫn được ổn định. Thành quả này là kết quả tổng hợp của công cuộc đổi mới trong đó quốc phòng an ninh giữ vai trò đặc biệt quan trọng. Các nhu cầu củng cố quốc phòng, cải thiện đời sống của lực lượng vũ trang luôn được quan tâm đáp ứng. Chất lượng và sức mạnh quân đội luôn được nâng lên. Thế trận quốc phòng toàn dân luôn được củng cố vững chắc, chủ quyền đất nước càng được khẳng định rõ ràng. Như vậy, chúng ta đã thực hiện tốt chính sách kết hợp kinh tế và an ninh quốc phòng. Thứ ba: chúng ta thực hiện có kết quả nhiều bước quan trọng về hệ thống chính trị. Về củng cố Đảng: Trong thời gian qua Đảng đã từng bước bổ sung, cụ thể hoá đường lối đổi mới, làm rõ dần con đường đi lên CNXH ở nước ta, củng cố về chính trị, tư tưởng, tổ chức, đổi mới phương thức lãnh đạo và tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng trong xã hội. Về phát huy quyền làm chủ của nhân dân: Tuy thực hiện cơ chế Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý nhưng Nhà nước ta là Nhà nước pháp quyền dân chủ, do dân và vì dân. Điều đó thể hiện rõ nhất trong các cuộc bầu cử Đại biểu hội đồng nhân dân các cấp theo chế độ phổ thông đầu phiếu, chính người dân đã trực tiếp được cầm phiếu đi bầu người đại diện cho mình – những người sẽ thay mặt họ trình bày lên cơ quan cấp trên có thẩm quyền những vấn đề bất cập trong cuộc sống hàng ngày, sẽ thay mặt họ đòi hỏi những quyền lợi hợp pháp mà họ được hưởng. Bên cạnh đó, đời sống của nhân dân các vùng dân tộc cũng được đặc biệt chú ý quan tâm, Đảng và Nhà nước đã tạo mọi điều kiện để các dân tộc phát triển đi lên con đường văn minh, tiến bộ, gắn bó mật thiết với sự phát triển của cộng đồng các dân tộc Việt Nam . Đảng luôn luôn tôn trọng lợi ích, truyền thống, văn hoá, tập quán, tín ngưỡng tôn giáo của các dân tộc, luôn thực hiện nhất quán chính sách tôn trọng và đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng tôn giáo nhưng cũng đồng thời chống việc lợi dụng tín ngưỡng để xâm hại đến lợi ích quốc gia dân tộc. Thứ ba: trong thời gian qua chúng ta đã sửa đổi Hiến pháp, sửa đổi và ban hành nhiều văn bản Pháp luật quan trọng, trong đó có những luật về tổ chức bộ máy Nhà nước, luật dân sự, luật đất đai, luật lao động, luật doanh nghiệp Nhà nước, luật đầu tư nước ngoài, luật đầu tư trong nước… Qua việc sửa đổi, bổ sung, thay đổi các văn bản luật chúng ta đã tiến hành cải cách một bước nền hành chính quốc gia, xây dựng và từng bước hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Thứ tư: chúng ta phát triển mạnh mẽ quan hệ đối ngoại, phá vỡ thế bao vây, cô lập, tham gia tích cực vào đời sống cộng đồng quốc tế. Chúng ta đã triển khai tích cực và năng động đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hoá, đa dạng hoá. Chúng ta đã khắc phục và tăng cường quan hệ với các nước công nghiệp phát triển như Mỹ, Nhật, bình thường hoá quan hệ Việt – Mỹ, mở rộng quan hệ với các nước Nam á, Châu Phi, Mỹ Latinh, Trung Đông, với các tổ chức quốc tế, khu vực, đã tham gia vào các tổ chức ASEAN, AFTA, APEC…và sắp tới đây sẽ gia nhập WTO . Chúng ta đã nối lại quan hệ với các quỹ tiền tệ như IMF, ODA… nên chúng ta đã được hỗ trợ rất nhiều về vốn – một yếu tố đầu vào quan trọng của sản xuất. Đồng thời, chúng ta tiếp tục duy trì phát triển quan hệ đoàn kết hữu nghị với các Đảng cộng sản và công nhân các phong trào độc lập, các tổ chức và phong trào cách mạng tiến bộ trên thế giới; thiết lập quan hệ với các Đảng cầm quyền. Thành tựu trên lĩnh vực đối ngoại là một nhân tố quan trọng góp phần giữ vững hoà bình, phá bỏ thế bị bao vây, cấm vận, cải thiện môi trường quốc tế, nâng cao vị thế nước ta trên trường quốc tế. 2. Những hạn chế Tuy đã đạt được những thành tựu to lớn nhưng trong thời kì quá độ và trong công cuộc đổi mới đất nước chúng ta đã còn mắc không ít khuyết điểm và yếu kém. 2.1.Những hạn chế tồn tại trong kinh tế của thời kì quá độ. Một là: Nước ta đã có nhiều biện pháp thúc đẩy phát triển cơ chế thị trường nhưng cho đến nay cơ chế thị trường vẫn còn sơ khai. Hệ thống quản lý kinh tế nước ta còn đang trong quá trình chuyển đổi, luật pháp, cơ chế, chính sách chưa đồng bộ, nhất quán và tác động cùng chiều để thúc đẩy nền kinh tế phát triển mạnh mẽ, nâng cao hiệu quả và đúng hướng. Các kế hoạch định hướng phát triển kinh tế về quy hoạch, xây dựng, quản lý, sử dụng đất đai, tài nguyên thiên nhiên…, thủ tục hành chính có nhiều tiến bộ nhưng còn chậm chạp. Thường có sai sót mới sửa đổi bổ sung chứ chưa đưa ra được từ khi ban hành nên còn nhiều bất cập trong hệ thống hành chính quốc gia. Về thương nghiệp thì Nhà nước còn “bỏ trống” một số “trận địa” quan trọng, chưa phát huy tốt được vai trò chủ đạo trong lưu thông hàng hoá, ổn định giá cả thị trường, bảo vệ sản xuất và tiêu dùng làm cho giá cả năm vừa qua tăng lên tới 9,5%, xảy ra cả ngộ độc thực phẩm, người tiêu dùng mua phải hàng giả, hàng kém chất lượng. Khâu quản lý xuất nhập khẩu còn nhiều sơ hở, tiêu cực như nhập lậu, trốn thuế, nhận hối lộ… gây ra những tác động xấu không nhỏ cho đối với sản xuất trong nước. Giá cả tăng cao, không đạt được mục tiêu đề ra. Chỉ số giá tiêu dùng ước tăng 12,4% so với tháng 12-2006. Đây là tốc độ tăng giá cao nhất trong những năm gần đây, vượt qua tốc độ tăng GDP và không đạt mục tiêu đề ra. Nhóm hàng tăng giá cao nhất trong năm qua là hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 18,92%, riêng lương thực tăng 15,4%, giá thực phẩm tăng 21,16%, thứ 2 là nhà ở và vật liệu xây dựng tăng 17,12%, thứ 3 là đồ dùng và dịch vụ khác tăng 9,02%, thứ 4 là dược phẩm, y tế tăng 7,05% và thứ 5 là may mặc, mũ nón, giày dép tăng 5,47%. ở Thành phố Hồ Chí Minh, chỉ số giá cả ư. ớc cả năm tăng trên 12% Nhập siêu lớn. Chung cả năm, nhập siêu ước lên tới trên 13,1 tỉ USD, bằng 27,5% kim ngạch xuất khẩu. Điều này thể hiện rừ nhất trong 2 thỏng cuối năm. Đáng chú ý là 3 mặt hàng nhập khẩu tăng gấp hơn 2 lần so năm 2006 là ô-tô nguyên chiếc xe máy nguyên chiếc và dầu mỡ động thực vật, không có mặt hàng nào giảm so với năm 2006 về kim ngạch. Ba là: Kinh tế tăng trưởng khá nhanh nhưng năng suất hiệu quả còn thấp. Nhìn chung tốc độ tăng trưởng nền kinh tế chưa xứng với mức tăng đầu tư và thấp hơn so với kế hoạch, tính bền vững và độ đồng đều chưa cao, cơ cấu kinh tế chuyển dịch còn chậm. Khu vực dịch vụ tuy được đầu tư khá xong tỷ trọng tăng chậm trong cơ cấu GDP thậm chí năm 2004 còn giảm so với năm 2003 là 6,8%. Hệ thống dịch vụ hỗ trợ sản xuất vừa thiếu vừa yếu và kém hiệu quả. Cơ cấu lao động chuyển dịch chậm không tương ứng với chuyển dịch cơ cấu kinh tế nhất là trong khu vực nông nghiệp nông thôn ( năm 2003 còn chiếm lớn hơn 60% lao động). Tuy việc phát huy được nguồn nhân lực cho đầu tư phát triển có nhiều tiến bộ, vốn trong nước chiếm trên 70% nhưng lại có sự giảm sút của nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) năm 2002 vốn đầu tư suy giảm chỉ còn bằng 60% so với cùng kì năm 2001. Điều này cho thấy môi trường đầu tư của Việt Nam còn nhiều vướng mắc nhất là thủ tục hành chính, lĩnh vực và phạm vi đầu tư chưa hấp dẫn so với các nước khác trong khu vực. Bốn là cạnh tranh còn yếu và trình độ kĩ thuật lạc hậu. Sức cạnh tranh và năng lực quản lý của các doanh nghiệp còn yếu, thiếu sự chuẩn bị để ứng phó hiệu quả với quá trình hội nhập đang diễn ra ngày càng sâu rộng (thể hiện rõ ở việc các doanh nghiệp chưa thực sự chú ý đến việc đăng kí nhãn hiệu cho sản phẩm của mình). Xét về tiêu chí cạnh tranh của sản phẩm như giá cả, chất lượng, mạng lưới tổ chức tiêu thụ thì hàng hoá của Việt Nam cũng có sức cạnh tranh yếu. Những mặt hàng xuất khẩu chưa có được hàm lượng công nghệ cao, giá trị gia tăng lớn, hàng xuất khẩu chủ yếu là thô hoặc sơ chế ví dụ như dầu khí, than… và chất lượng thấp. Bên cạnh đó chưa xây dựng và sử dụng các biện pháp bảo vệ thị trường nội địa. Một trong những nguyên nhân khiến cho cạnh tranh yếu là hàm lượng công nghệ trong sản phẩm, trình độ lao động của Việt Nam còn thấp. Theo con số thống kê Việt Nam có gần 40 triệu lao động thì có tới 83% lao động không có trình độ chuyên môn kĩ thuật, số lượng công nhân được đào tạo nghề chiếm chưa tới 26 %. 2.2. Hạn chế trong quản lý của Nhà nước. Nhà nước quản lý mọi mặt của đời sống kinh tế, xã hội nhưng nhìn chung bộ máy quản lý, hệ thống công cụ quản lý cũng như cơ chế quản lý của Nhà nước vẫn còn có những hạn chế, thiếu sót. Về bộ máy quản lý: Bộ máy Nhà nước cồng kềnh, hiệu lực chưa cao. Bộ máy Nhà nước TW chưa hợp lý, nhiều cơ quan chưa rõ chức năng nhiệm vụ, còn ở thế bị động “có người mới đẻ ra nhiệm vụ”, nhiều người chưa đại diện cho nhân dân, cho trí tuệ của cơ quan đó. Việc đãi ngộ cho công chức Nhà nước chưa xứng đáng là một nguyên nhân của tham nhũng, hối lộ – một quốc nạn hiện nay. Tuy những năm qua luôn thực hiện cải tổ bộ máy Nhà nước để gọn nhẹ, năng động nhưng số lượng viên chức nhà nước không ngừng tăng lên. Về hệ thống công cụ quản lý: Bao gồm ba công cụ chính là kế hoạch hoá định hướng, pháp luật và hệ thống chính sách và hệ thống công cụ kinh tế. Kế hoạch hoá định hướng là công cụ có nội dung là kế hoạch mang tính định hướng và kế hoạch không chỉ giao nhiệm vụ mà còn điều phối thực hiện nhưng thực tế thì Nhà nước vẫn chưa bỏ được chính sách quản lý kinh tế trực tiếp để quản lý gián tiếp mà còn đan xen cả hai. ở một số địa phương Nhà nước còn can thiệp vào sản xuất của gia đình và của doanh nghiệp như sản xuất cái gì? sản xuất như thế nào? cung cấp cho ai? Và còn giao kế hoạch sản xuất kế hoạch giao nộp. Pháp luật ở Việt Nam đã có sự chuyển biến trong việc dùng pháp luật để quản lý đầu tư, luật doanh nghiệp Nhà nước. Nhưng nhiều luật quan trọng như luật phá sản, luật cạnh tranh… thì chưa có nên còn lúng túng trong quản lý cả tầm vi mô và vĩ mô. Cũng do đó mà các doanh nghiệp kinh doanh phi pháp hoạt động gây thiệt hại nghiêm trọng cho nền kinh tế quốc dân. Hệ thống chính sách công cụ kinh tế của nước ta còn tồn tại nhiều hạn chế. Chính sách quản lý nền kinh tế còn thiếu đồng bộ, hay thay đổi. Hệ thống chính sách, cơ chế quản lý của Nhà nước chưa tạo ra môi trường cạnh tranh thực sự. Môi trường kinh doanh vẫn còn một số bất cập về khuôn khổ pháp lý nên chưa thu hút được đầu tư trong nước cũng như nước ngoài. Thủ tục hành chính còn rườm rà, chưa có chính sách phát triển các vùng kinh tế trọng điểm, các ngành kinh tế mũi nhọn cho phù hợp, chưa đưa ra được chiến lược phát triển kinh tế, xã hội lâu dài. Cơ chế quản lý kinh tế trong nước cũng còn tồn tại không ít hạn chế thể hiện ở vai trò quản lý vĩ mô còn kém, lỏng lẻo. Các công cụ quản lý vĩ mô như chính sách tài khoá, chính sách tiền tệ, chính sách thu nhập, chính sách kinh tế đối ngoại được thừa nhận nhưng chưa được ứng dụng vào việc đổi mới hoàn thiện mục tiêu và công cụ quản lý nền kinh tế. Chưa phát huy yếu tố tích cực của nền kinh tế thị trường nhưng đã nảy sinh nhiều tiêu cực, hệ thống thông tin vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu đổi mới. Hệ thống tài chính tiền tệ của nước ta vẫn là khâu yếu nhất của nền kinh tế, nó còn mang đậm tính chất của cơ chế tập trung, quan liêu, bao cấp nên còn gây cản trở quá trình chuyển đổi sang cơ chế thị trường. Cũng do quản lý vĩ mô còn kém nên xã hội còn nhiều tiêu cực như tham nhũng, buôn lậu, lãng phí của công chưa được ngăn chặn thậm chí còn tiếp tục gia tăng. Tiêu cực nhất là trên lĩnh vực đầu tư, xây dựng cơ bản, xuất nhập khẩu, thuế…còn nghiêm trọng và kéo dài. Chất lượng phục vụ y tế giáo dục ở nhiều nơi còn thấp, người nghèo không đủ tiền chữa bệnh, trẻ em không được đi học. ở những vùng kinh tế phát triển thì tệ nạn xã hội phát triển. Trật tự an toàn xã hội chưa được bảo đảm tốt. Chính trị đôi khi chưa ổn định nhất là ở các vùng đồng bào dân tộc ít người chẳng hạn như bạo loạn ở Tây Nguyên, đảo chính ở Thái Bình mấy năm trước đây. Bên cạnh đó, tuy hệ thống chính trị đã đổi mới nhưng còn nhiều nhược điểm. Bộ máy Đảng, Nhà nước, đoàn thể được sắp xếp lại chậm. Năng lực đội ngũ cán bộ chưa tương xứng với yêu cầu nhiệm vụ còn biểu hiện quan liêu, cửa quyền thậm chí còn vi phạm nghiêm trọng quyền dân chủ nhân dân. Điều đáng lo ngại là trong hoàn cảnh mới, một bộ phận cán bộ đảng viên có biểu hiện phai nhạt lý tưởng cách mạng, tha hoá về phẩm chất đạo đức. Năng lực lao động và sức chiến đấu của một số cơ sở Đảng bị suy yếu. III. Giải pháp cho con đường quá độ lên CNXH ở Việt Nam. Nhìn lại chặng đường quá độ trong thời gian qua, chúng ta có quyền tự hào về những thành tựu đã đạt được. Tuy nhiên đến nay vẫn còn một số mặt chưa được củng cố vững chắc. Chính từ những thành tựu và những hạn chế còn tồn tại chúng ta có thể đưa ra được những giải pháp để trong thời gian tới chúng ta đạt được những thành tựu quan trọng hơn để hoàn thành nhiệm vụ của thời kì quá độ lên CNXH của Việt Nam để tiến đến một tương lai tươi đẹp xã hội xã hội chủ nghĩa. 1. Giải pháp về công nghiệp hoá, hiện đại hoá Xu thế toàn cầu hoá hiện nay đang tạo cho chúng ta những thời cơ, những thách thức. Do đó chúng ta phải tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá để tạo ra cơ sở vật chất kĩ thuật để chuyển dịch cơ cấu, để sử dụng có hiệu quả các nguồn lực khan hiếm của đất nước, tạo năng suất lao động xã hội cao, thúc đẩy tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, bền vững. Muốn thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá chúng ta cần phải có giải pháp để đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Trước hết, công nghiệp hoá, hiện đại hoá đòi hỏi nguồn vốn rất lớn do đó chúng ta phải huy động vốn và sử dụng vốn có hiệu quả. Chúng ta có thể huy động vốn từ trong nước hay nước ngoài. Nguồn vốn trong nước được tích luỹ từ nội bộ nền kinh tế quốc dân, muốn huy động được nguồn vốn trong nước điều kiện cần là phải nâng cao hiệu quả sản xuất trên cơ sở ứng dụng khoa học công nghệ, hợp lý hoá sản xuất như thế sẽ làm tăng nhanh thu nhập của người lao động thì họ sẽ có các khoản dư để tiết kiệm. Nhưng để có được tiết kiệm lớn thì Nhà nước và các ngân hàng phải có những chính sách khuyến khích tiết kiệm như giảm thuế đánh vào lãi suất, nâng lãi suất tiết kiệm, đấu tranh triệt để với nạn tham nhũng, lãng phí. Nhưng nền kinh tế nước ta còn nghèo nàn nên tích luỹ vốn từ nội bộ nền kinh tế là hết sức khó khăn, do đó cần tận dụng mọi khả năng để thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Muốn thu hút được vốn đầu tư nước ngoài buộc chúng ta phải có những chính sách ưu đãi đầu tư nước ngoài, giảm bớt rườm rà trong thủ tục hành chính, cải thiện được môi trường đầu tư theo hướng giảm giá đầu vào của sản xuất thuộc độc quyền nhà nước như là điện, viễn thông, dịch vụ cảng biển, phí cầu đường… Nếu huy động vốn lớn mà sử dụng không có hiệu quả thì mọi nỗ lực huy động vốn mất tác dụng. Do đó đồng thời với huy động vốn thì chúng ta phải sử dụng vốn có hiệu quả. Để phát triển và tăng trưởng kinh tế bền vững thì phát triển kinh tế dân doanh không chỉ dừng lại ở chỗ mở rộng thêm nhiều doanh nghiệp mới, huy động thêm vốn mà phải quan tâm nhiều hơn đến trình độ trang bị công nghệ, đào tạo nguồn nhân lực, mở rộng thị phần tiêu thụ thành phẩm. Bởi vậy, Nhà nước phải có chính sách thích đáng về đầu tư, trang bị công nghệ và đào tạo nguồn nhân lực. Nhà nước phải có cơ chế đặc thù về các phương diện đầu tư, tài chính, tín dụng ( miễn giảm thuế, vay vốn tín dụng với lãi suất ưu đãi). trong thời gian tới cần gia tăng mạnh mẽ tỷ trọng vốn đầu tư cho các ngành công nghệ cao, không đầu tư thêm vốn vào những công trình, dự án kinh tế không có khả năng thu hồi vốn.Về phía các doanh nghiệp phải sắp xếp lại hệ thống doanh nghiệp nhất là các doanh nghiệp Nhà nước, phải giải thể phá sản, bán hoặc cho thuê các doanh nghiệp Nhà nước thua lỗ kéo dài. Các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh là tế bào của nền kinh tế, muốn các doanh nghiệp này tạo ra sản phẩm tốt, giá thành hạ thì phải tăng năng suất lao động nên phải nhanh chóng đầu tư công nghệ vì trình độ trang bị hiện nay của doanh nghiệp Việt Nam đã bị lạc hậu hai đến ba thế hệ so với khu vực và thế giới – nguyên nhân giảm hiệu suất sử dụng vốn. Về nâng cao trình độ chuyên môn của đội ngũ lao động :Vấn đề thiếu lao động có tay nghề đang là một vấn nạn chung. Để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực đáp ứng mục tiêu phát triển và hội nhập của đất nước thì Đảng, Nhà nước và địa phương cần phải có chiến lược đào tạo nghề, chuẩn đội ngũ lao động có kĩ năng tay nghề, trình độ chuyên môn kĩ thuật cao. Cần phải chuyển dần việc đào tạo nghề đơn giản sang đào tạo đội ngũ lao động có nghề, có kĩ năng và có trình độ chuyên môn kĩ thuật cao, có khả năng thích ứng nhanh với thị trường lao động. Cụ thể là ưu tiên đào tạo những ngành nghề mũi nhọn có tỷ trọng kinh tế cao, đòi hỏi kĩ thuật, công nghệ mới như ngành cơ khí, chế tác, sinh học và dịch vụ tiên tiến…Muốn nâng cao được trình độ đội ngũ lao động thì đầu tiên cần phải phát triển giáo dục phải tăng mức chi phí giáo dục bình quân đầu người lên (hiện nay Việt Nam đang đứng gần cuối bảng xếp hạng của ngân hàng Deustche thấp hơn 24 lần so với Singapo) và cũng phải đưa ra được chiến lược giáo dục hướng tới các kĩ năng mà thị trường đang cần. Về phát triển khoa học công nghệ: Khoa học công nghệ cũng là một nhân tố của lực lượng sản xuất. Để phát triển kinh tế buộc phát triển mạnh mẽ hơn nữa về khoa học công nghệ. Khoa học công nghệ sẽ đáp ứng được yêu cầu nâng cao năng suất lao động, chất lượng sản phẩm, khả năng cạnh tranh và hiệu quả kinh doanh… Phát triển khoa học công nghệ thì phải đi thẳng vào công nghệ hiện đại đối với các mũi nhọn, lựa chon công nghệ thích hợp, khai thác được lợi thế của lao động. Cùng với việc nhập công nghệ của nước ngoài chúng ta phải khẩn trương đổi mới tổ chức, sắp xếp hợp lý các viện, trung tâm, các cơ sở nghiên cứu trong cả nước. Phải dành vốn đầu tư thích đáng cho nghiên cứu cơ bản trong các ngành khoa học, phải phát triển khoa học công nghệ, tạo môi trường cạnh tranh, bảo hộ sở hữu trí tuệ. Phải đổi mới chính sách đào tạo, sử dụng và đãi ngộ trí thức để tránh chảy máu chất xám. Khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi cho mở rộng giao lưu và hợp tác quốc tế về khoa học công nghệ, thu hút chuyên gia giỏi của thế giới. Về mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại: Trong xu thế toàn cầu hoá hiện nay, quan hệ kinh tế đối ngoại càng phát triển rộng rãi và có hiệu quả bao nhiêu thì sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước càng được thuận lợi và nhanh chóng thành công bấy nhiêu. Trong suốt thời gian qua, chúng ta luôn tích cực tham gia vào xu thế chung của quốc tế, tích cực hội nhập kinh tế quốc tế. Trong thời gian tới chúng ta phải tiếp tục mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại theo hướng đa dạng hoá, đa phương hoá, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế theo lộ trình phù hợp với điều kiện của nước ta. Nhà nước phải có chính sách khuyến khích mạnh mẽ mọi thành phần kinh tế tham gia sản xuất kinh doanh, xuất nhập khẩu hàng hoá, dịch vụ, nâng cao được sức cạnh tranh, phát triển mạnh sản phẩm, xây dựng được quỹ hỗ trợ xuất khẩu; đẩy mạnh các lĩnh vực thu ngoại tệ như du lịch, xuất khẩu lao động, vận tải, thu hút kiều hối… Chúng ta phải có những chính sách tiếp tục cải thiện môi trường đầu tư, hoàn thiện các hình thức đầu tư, cải cách thủ tục hành chính để đơn giản hoá việc cấp phép đầu tư, thực hiện từng bước cơ chế đăng kí đầu tư. Triển khai từng bước vững chắc các hình thức đầu tư gián tiếp của nước ngoài. Khuyến khích người Việt Nam định cư ở nước ngoài về đầu tư trong nước và có chính sách hỗ trợ, giúp đỡ công dân Việt Nam kinh doanh ở nước ngoài. Tiếp tục tranh thủ nguồn tài trợ của các chính phủ, các tổ chức tài chính quốc tế. Gắn chặt việc sử dụng vốn, vay vốn với việc trả nợ 2. Phát triển mạnh mẽ nền kinh tế thị trường 2.1.Phát triển nền kinh tế nhiều thành phần. Để phát triển được kinh tế thị trường thì việc đầu tiên là phải phát triển các thành phần kinh tế và thực hiện nhất quán chính sách kinh tế nhiều thành phần. Khi đó, mọi doanh nghiệp, mọi công dân được đầu tư kinh doanh theo các hình thức do pháp luật quy định và bảo vệ. Tiếp tục đổi mới và phát triển kinh tế Nhà nước để thực hiện tốt vai trò chủ đạo trong nền kinh tế, đổi mới cơ chế quản lý, phân biệt quyền chủ sở hữu và quyền kinh doanh của doanh nghiệp. Chuyển các doanh nghiệp Nhà nước kinh doanh sang hoạt động theo cơ chế công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần. Thực hiện chủ trương cổ phần hoá doanh nghiệp mà Nhà nước không cần nắm giữ 100% vốn để huy động thêm vốn, tạo động lực và cơ chế quản lý năng động, thúc đẩy doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả.Ưu tiên cho người lao động được mua cổ phần và từng bước mở rộng bán cổ phần cho nhà đầu tư trong nước và nước ngoài. Phát triển kinh tế tập thể với các hình thức hợp tác đa dạng, chuyển đổi hợp tác xã cũ theo Luật hợp tác xã đạt hiệu quả thiết thực. Phát triển hợp tác xã kinh doanh tổng hợp đa ngành hoặc chuyên ngành để kinh doanh phù hợp quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá . Kinh tế cả thể và tiểu chủ ở nông thôn và thành thị cần được Nhà nước tạo điều kiện để phát triển Kinh tế tư bản tư nhân phải được khuyến khích phát triển không hạn chế về quy mô trong những ngành, nghề mà pháp luật không cấm, cần được khuyến khích hợp tác liên doanh với nhau và liên doanh với doanh nghiệp Nhà nước để chuyển thành doanh nghiệp cổ phần hay bán cổ phần cho người lao động. Kinh tế tư bản Nhà nước cần được phát triển dưới các hình thức liên doanh, liên kết giữa kinh tế Nhà nước với kinh tế tư nhân trong và ngoài nước phát triển đa dạng. Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài: Là một bộ phận của kinh tế Việt Nam Khu vực kinh tế này ngày càng phát triển mạnh mẽ ở Việt Nam, điều đó rất phù hợp với mong muốn của Đảng và Nhà nước nhưng bên cạnh việc khuyến khích phát triển thì chúng ta cũng cần phải chú ý đến quyền công dân của lao động trong các doanh nghiệp này đồng thời phải cảnh giác những âm mưu chính trị được nguỵ trang trong việc đầu tư kinh tế ở Việt Nam. 2.2.Phát triển đồng bộ các loại thị trường. Từ khi đổi mới chuyển sang phát triển theo hướng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đã thu được những kết quả nhưng các mặt trái của thị trường phát sinh cũng không nhỏ. Những mặt được thấy rõ các nguồn lực được giải phóng và phát triển theo yêu cầu tăng trưởng kinh tế. Bởi vậy, tiếp tục đổi mới và phát triển đồng bộ các loại thị trường ở nước ta hiện nay là một yêu cầu cấp thiết. Để có một hệ thống thị trường phát triển đồng bộ thì cần có sự phát triển và đồng bộ của cơ bản các thị trường cơ bản trong hệ thống thị trường. Thứ nhất là thị trường hàng hoá và dịch vụ.Để đáp ứng mục tiêu, chiến lược phát triển kinh tế – xã hội đã đề ra đối với thị trường hàng hoá dịch vụ cần phát triển đa dạng, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, sản xuất hướng vào các sản phẩm hàng hoá có hàm lượng công nghệ, chất xám cao, có nhiều sản phẩm tham gia cạnh tranh trên thị trường thế giới. Thị trường hàng hoá và dịch vụ trong nước trong những năm qua vẫn chưa được phát triển do đó phải tập trung thực hiện các giải pháp để kích cầu trong nước, tăng thu nhập, tăng sức mua, tạo lập cơ chế chính sách, pháp luật ổn định làm nền tảng cho thị trường phát triển. Phải phát triển kết cấu hạ tầng kĩ thuật cho việc lưu thông hàng hoá được thông suốt từ thành thị đến nông thôn, miền núi. Cùng với sự phát triển thị trường trong nước cần tranh thủ mọi thời cơ khai thông, giải toả các ách tắc trong giao dịch, mở rộng thị trường quốc tế. Thứ hai là thị trường lao động. Khi phát triển thị trường lao động cần tôn trọng quy luật khách quan của nền kinh tế thị trường bởi quy luật giá trị, quy luật cung cầu chi phối rất lớn tới thị trường lao động. Phải coi thị trường lao động là một bộ phận quan trọng đặc biệt trong nền kinh tế. Cần có sự phát triển đồng bộ giữa các chính sách kinh tế và xã hội, phải phân phối công bằng theo cơ chế làm theo năng lực, hưởng theo lao động, phải hạn chế phân hoá giàu nghèo, thất nghiệp, đảm bảo ổn định và phát triển kinh tế – xã hội. Thứ ba là thị trường vốn. Thị trường vốn có vai trò quyết định tới sự phát triển thị trường đồng bộ. Để thị trường vốn phát triển đồng bộ với các thị trường khác thì phải thực hiện lãi suất thả nổi, tỷ giá nới lỏng biên độ dao động. Để có một thị trường vốn thực sự phát triển và hoàn thiện thì cần phải mở rộng thị trường vốn gắn với việc đổi mới chính sách pháp luật liên quan đến các thị trường tài chính, tín dụng, tiền tệ. Phải phát triển mạnh mẽ thị trường chứng khoán đang bị đóng băng ở Việt Nam. Giá của các chứng khoán và việc mua bán phải theo nguyên tắc thị trường, mở rộng thông tin để người dân quen với thị trường mới này. Đồng thời phải gia tăng vốn tín dụng cho các ngân hàng thương mại Nhà nước, phát triển các ngân hàng cổ phần để tư nhân tham gia, phải có chính sách thu hút các nguồn vốn nhàn rỗi trong dân cư vào đầu tư phát triển. Thứ tư là thị trường bất động sản. Thị trường này muốn phát triển thì phải có một khung pháp lý thích hợp và ổn định cho cả thị trường bất động sản và thị trường vốn hoạt động. Thực tế cho thấy, chỉ khi cho đất đai tham gia vào thị trường bất động sản một cách công khai thì thị trường này mới có môi trường phát triển. Đồng thời, chính sách pháp luật về bất động sản phải đồng bộ lâu dài thì thị trường bất động sản mới có thể phát triển cùng với các thị trường khác tạo nên một hệ thống thị trường đồng bộ. Thứ năm là thị trường khoa học công nghệ. Để đưa khoa học công nghệ vào thị trường cần phải có cơ chế chính sách phù hợp với các sản phẩm khoa học công nghệ trong nền kinh tế thị trường. Pháp luật cần khuyến khích các hoạt động sáng tạo, ứng dụng các tiến bộ khoa học kĩ thuật vào sản xuất kinh doanh. Phải mở rộng hoạt động nghiên cứu ở các trường đại học, các viện nghiên cứu và các kết quả nghiên cứu được phải được ký kết hợp đồng chuyển giao quyền sở hữu công nghiệp, chuyển giao công nghệ. Phải xác lập quyền sở hữu bằng hệ thống pháp luật hữu hiệu. Thị trường khoa học công nghệ sẽ được hình thành và phát triển khi pháp luật thừa nhận quyền sở hữu công nghiệp và coi sản phẩm khoa học công nghệ là hàng hoá và được trao đổi trên thị trường. Sự quản lý của Nhà nước bằng hệ thống pháp luật thống nhất là cơ sở cho thị trường phát triển đồng bộ.Nhà nước ta đã bước đầu xây dựng khung pháp lý cho thị trường phát triển đồng bộ nhưng vấn đề quan trọng là Nhà nước phải đưa ra các hình thức tuyên truyền rộng rãi để hệ thống chính sách, pháp luật này đi vào cuộc sống thực tiễn. 2.3.Giữ vững chính trị và hoàn thiện hệ thống pháp luật. Để giữ vững chính trị thì Đảng và Nhà nước phải quan tâm nhiều hơn nữa đến đời sống hàng ngày của nhân dân, phải luôn chú ý đến những kẻ sống lưu vong trong nước nhằm gây dựng các tổ chức chống phá cách mạng nước ta ví dụ như tổ chức tôn giáo. Đảng phải thường xuyên duy trì được khối liên minh công - nông – trí thức, phải cùng với các tổ chức chính trị, các đoàn thể như hội cựu chiến binh, hội phụ nữ, đoàn thanh niên, mặt trận tổ quốc… thường xuyên tổ chức các hoạt động văn hoá nhằm tuyên truyền về đường lối chính sách đúng đắn của Đảng, phải tạo được lòng tin ngày càng sâu sắc của dân vào Đảng.e Nhà nước pháp quyền đòi hỏi pháp luật phải được thực hiện nghiêm chỉnh và thống nhất: “Sống và làm việc theo hiến pháp và pháp luật” phải trở thành đạo đức hàng đầu, thành nếp sống tốt đẹp của mọi người. Do đó, để hệ thống pháp luật được hoàn chỉnh hơn thì cùng với việc sửa đổi, bổ sung các văn bản pháp luật thì chính nhân dân phải nghiêm túc chấp hành pháp luật. 3. Hoàn thiện bộ máy Nhà nước và nâng cao hiệu quả quản lý Nhà nước của Đảng Muốn hoàn thiện bộ máy Nhà nước và nâng cao hiệu quả quản lý Nhà nước thì chúng ta phải thực hiện cải cách bộ máy hành chính, phải tăng cường khả năng kiểm kê, kiểm soát của Nhà nước, phải đổi mới pháp chế và phải hoàn thiện chính sách về thuế, tiền lương, tiền tệ, tín dụng và ngân hàng. Về cải cách bộ máy hành chính: Bộ máy hành chính của Nhà nước Việt Nam còn chứa nhiều bất cập, để phù hợp với điều kiện nền kinh tế qua độ hiện nay buộc Nhà nước ta phải tiến hành cải cách bộ máy hành chính, các cơ quan quản lý. Đảng và Nhà nước phải tăng cường quản lý đội ngũ cán bộ, đảng viên. Phải chăm lo công tác đào tạo, kể cả việc đào tạo lại, bồi dưỡng cán bộ, công chức Nhà nước theo yêu cầu, nhiệm vụ của tình hình mới. Đảng phải lãnh đạo công tác quy hoạch và chiến lược phải thực hiện tinh chế cơ quan Nhà nước để tránh cồng kềnh mà kém hiệu quả. Về việc tăng cường kiểm kê, kiểm soát: Đảng phải lãnh đạo công tác kiểm tra, kiểm soát, giám sát hoạt động của các cơ quan Nhà nước. Đảng phải tăng cường công tác kiểm tra các tổ chức Đảng và cán bộ, đảng viên hoạt động trong các cơ quan Nhà nước, đảm bảo cho các cơ quan này và công chức, cán bộ thực hiện đúng đường lối, chính sách của Đảng. Phải tích cực đấu tranh chống tham nhũng, quan liêu và những hiện tượng tiêu cực khác trong bộ máy Nhà nước cũng như trong đời sống xã hội, làm cho xã hội ngày càng lành mạnh, sống có trật tự, kỉ cương, từng bước thực hiện xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Về vấn đề đổi mới pháp chế: Xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật cũng là một biện pháp để giữ vững được ổn định chính trị quốc gia, tạo môi trường phát triển kinh tế –xã hội . Trong thời gian tới các cơ quan pháp lý cần phải hoàn thiện các quy định về thẩm quyền và các thủ tục ban hành các văn bản quy phạm pháp luật để tránh chồng chéo hay cơ quan này quy trách nhiệm cho cơ quan kia và cơ quan kia lại khẳng định đó không phải là thẩm quyền của mình. Trong lĩnh vực tổ chức và hoạt động của các cơ quan bộ và ngang bộ, hiện nay các cơ quan này đang thực hiện cải cách nên đòi hỏi phải đổi mới căn bản các văn bản quy phạm pháp luật. Việc xây dựng các cơ sở pháp luật để kiểm soát quyền lực, kiểm soát hoạt động của các cơ quan hành chính Nhà nước có ý nghĩa quyết định đối với tiến trình dân chủ hoá xã hội. Vì vậy các văn bản luật này phải sớm hoàn thiện và phải đảm bảo được tính phù hợp với từng cơ quan chức năng. Trong lĩnh vực kinh tế pháp luật cần thiết phải tạo lập được môi trường pháp lý và khuôn khổ thích hợp cho việc thực hiện quyền tự do kinh doanh trong thời kì quá độ. Các nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự đòi hỏi phải được quán triệt trong chế độ pháp lý của nền kinh tế. Về vấn đề hoàn thiện chính sách thuế, lương, tiền tệ, tín dụng và ngân hàng. Trong thời gian qua các chính sách trên còn tồn tại rất nhiều hạn chế, do đó trong thời gian tới, về thuế, cần phải soạn thảo những chính sách cụ thể quy định thuế đánh vào từng loại sản phẩm, phải quy định rõ ràng cách đánh thuế với từng loại doanh nghiệp sản xuất .Hoàn thiện hơn chính sách thuế xuất nhập khẩu tạo động cơ thúc đẩy hoạt động kinh tế đối ngoại phát triển. Đối với chính sách về lương thì phải có những chính sách đãi ngộ hợp pháp và thoả đáng để người lao động an tâm gắn bó với công sở. Phải có thay đổi về mức lương tối thiểu vì chính sách này chưa thay đổi từ tháng 7 năm 1997 Chính sách tiền tệ, tài chính, ngân hàng: những chính sách này có tác động trực tiếp đến việc huy động vốn cho đầu tư – nhân tố đầu vào quan trọng của sản xuất. Do đó phải bám sát vào diễn biến của thị trường, phải thông qua cho vay, huy động tiền gửi định ra các chính sách tiền tệ để điều tiết giá cả và nhu cầu tiền tệ để hỗ trợ thêm vào việc tăng trưởng nhanh và ổn định nền kinh tế. Ngân hàng Nhà nước phải tham gia xây dựng những chiến lược, kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội và các chính sách có liên quan đến hoạt động tiền tệ, tín dụng cho phù hợp nhất với điều kiện kinh tế nước ta hiện nay. Một số kiến nghị Sau khi đã đi tìm hiểu và nghiên cứu về đề tài đã lựa chọn em xin đưa ra một số kiến nghị như sau đối với con đường quá độ lên CNXH bỏ qua giai đoạn tư bản chủ nghĩa ở Việt Nam. Trước hết đối với Đảng và Nhà nước – hai cơ quan lãnh đạo của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Các cơ quan này phải thực hiện tốt hơn quyền hạn và trách nhiệm của mình đối với sự phát triển của đất nước. Cần phải nhanh chóng trong việc đưa ra các văn bản pháp luật, các chính sách về kinh tế, xã hội để nhanh chóng khắc phục những thiếu sót hiện có. Còn đối với nhân dân thì phải nghiêm chỉnh hơn trong việc thực hiện các chính sách của Đảng và những quy định, văn bản pháp luật Nhà nước đã đề ra. Phải tích cực tham gia vào thực hiện sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước để sớm hoàn thành con đường quá độ lên CNXH ở Việt Nam. Riêng đối với những học sinh, sinh viên thì phải tích cực hơn trong học tập cũng như nghiên cứu khoa học để góp phần vào sự nghiệp xây dựng, bảo vệ và phát triển đất nước . Kết luận Qua cơ sở lý luận và qua thực tiễn đã nêu ở trên, có thể khẳng định lại một lần nữa rằng con đường quá độ lên CNXH bỏ qua TBCN ở Việt Nam là hoàn toàn đúng đắn, phù hợp với quy luật khách quan. Đó là sự vận dụng đúng đắn, sáng tạo chủ nghĩa Mac – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Trong tiến trình thực hiện quá độ ở nước ta thì Đảng và Nhà nước đóng một vai trò quan trọng hàng đầu, Đảng lãnh đạo và Nhà nước quản lý mọi mặt của đời sống kinh tế, xã hội . Muốn thực hiện thành công nhiệm vụ của thời kì quá độ thì Đảng và Nhà nước phải đưa đất nước phát triển theo con đường công nghiệp hoá, hiện đại hoá có như thế chúng ta mới xây dựng được cơ sở vật chất cho nền kinh tế quá độ sssmới giảm bớt khoảng cách lạc hậu về khoa học công nghệ và kĩ thuật so với các nước tiên tiến trong khu vực và thế giới. Trong quá trình thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước trong thời kì quá độ, chúng ta đã đạt được những thành tựu quan trọng cả về kinh tế, chính trị và xã hội. Nhưng bên cạnh đó cũng chưa tránh khỏi những hạn chế, lúng túng trong quản lý, trong thực hiện cơ chế, chính sách và những tiêu cực của nền kinh tế thị trường. Nhưng em hy vọng với những giải pháp thích hợp thì những hạn chế đó sẽ sớm được khắc phục để nước ta có những bước tiến nhanh hơn trên con đường quá độ lên CNXH. Mục lục Lời mở đầu 1

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docPhát triển quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa.DOC
Luận văn liên quan