Phương hướng hoàn thiện pháp luật đầu tư nước ngoài tiến tới mặt bằng pháp lý chung cho đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài tại Việt Nam

Từ sau Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng, sự nghiệp đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo đã giành được những thắng lợi quan trọng trên nhiều lĩnh vực. Đời sống chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội của đất nước đã có nhiều khởi sắc, được nhân dân ta và quốc tế đánh giá cao. Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ IX đã nêu rõ: “Nghiên cứu để tiến tới áp dụng một khung pháp luật thống nhất chung cho doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Tạo mặt bằng pháp lý chung cho cả đầu tư nước ngoài và đầu tư trong nước là một trong những quy luật khách quan của xu thế hội nhập kinh tế quốc tế. Theo lời của Thủ tướng Phan Văn Khải, thì “ Cái chính là mặt bằng pháp luật, mặt bằng cơ chế chính sách”. Nếu không có một “hành lang pháp lý” vững chắc, bảo đảm sự bình đẳng giữa các nhà đầu tư nước ngoài và đầu tư trong nước trong mọi quá trình của hoạt động đầu tư từ khẩu tìm hiểu đầu tư đến khâu thành lập, triển khai, mở rộng hoặc thu hẹp và chấm dứt dự án đầu tư thì sẽ không theo kịp với tiến trình hội nhập. Có thể nói, sự phân biệt đối xử giữa các nhà đầu tư nước ngoài và các nhà đầu tư trong nước hiện nay được coi là một trong những hạn chế ảnh hưởng tới tính hấp dẫn, tính cạnh tranh của môi trường đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. Trong những năm qua, chúng ta có nhiều cố gắng trong việc đưa các quy định của pháp luật đầu tư nước ngoài và các quy định về đầu tư trong nước xích lại gần nhau. Một khi còn tồn tại hai hệ thống quy phạm pháp luật riêng điều chỉnh đầu tư nước ngoài và đầu tư trong nước, thì không thể có khái niệm “sân chơi” bình đẳng cho hoạt động đầu tư trong nước, bất kể đó là đầu tư nước ngoài hay đầu tư trong nước. Tất nhiên, do hiện nay các doanh nghiệp Việt Nam chưa đủ mạnh, nên nếu phải vào cùng một “sân chơi”, trong cùng một “mặt bằng” với các nhà đầu tư nước ngoài, có tiềm lực kinh tế, giàu kinh nghiệm, có công nghệ, máy móc thiết bị hiện đại hơn hẳn chúng ta, thì các doanh nghiệp Việt Nam không thể cạnh tranh nổi. Chính vì vậy, trước mắt vẫn cần phải có hành lang pháp lý riêng cho từng loại đối tượng. Nhưng do xu thế toàn cầu hoá nền kinh tế đang trở thành vấn đề bức xúc và do yêu cầu của việc hội nhập, các quốc gia đang dần xoá bỏ sự khác biệt giữa đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài. Việt Nam muốn hoà vào xu thế chung đó thì không có cách nào khác là phải từng bước tiến tới mặt bằng pháp lý chung cho đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài. Chúng ta phải tính toán để đưa ra những bước đi thích hợp với trình độ, hoàn cảnh và đặc điểm của Việt Nam. Vì vậy, việc lựa chọn đề tài “Phương hướng hoàn thiện pháp luật đầu tư nước ngoài tiến tới mặt bằng pháp lý chung cho đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài tại Việt Nam” hiện nay mang tính cấp thiết, không những về lý luận, mà còn đòi hỏi thực tiễn nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động đầu tư tại Việt Nam. CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ PHÁP LUẬT ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI TẠI VIỆT NAM 1.1Sự cần thiết phải điều chỉnh hoạt động đầu tư nước ngoài bằng pháp luật 1.2Khái niệm và đặc trưng cơ bản của pháp luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam 1.2.1Khái niệm pháp luật đầu tư nước ngoài 1.2.2Đặc trưng cơ bản của pháp luật đầu tư nước ngoài 1.2.3Vai trò của pháp Luật Đầu tư nước ngoài CHƯƠNG 2: SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA HỆ THỐNG PHÁP LUẬT ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI TẠI VIỆT NAM 2.1Giới thiệu về hệ thống pháp luật đầu tư nước ngoài 2.2 Sự hình thành và phát triển của pháp luật đầu tư nước ngoài qua các giai đoạn lịch sử. 2.2.1Giai đoạn thứ nhất (từ năm 1975 đến năm 1987) 2.2.2Giai đoạn thứ hai (từ năm 1987 đến năm 1996) 2.2.3Giai đoạn thứ ba (từ năm 1996 đến nay) 2.3Sự hình thành và phát triển một số chế định pháp lý chủ yếu của pháp luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam 2.3.1Chủ thể tham gia hợp tác đầu tư nước ngoài 2.3.2Hình thức đầu tư và phương thức đầu tư 2.3.3Các biện pháp bảo đảm đầu tư 2.3.4Các biện pháp khuyến khích đầu tư 2.3.5Quản lý tài chính và hoạt động của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài 2.3.6Giải quyết tranh chấp, giải thể, thanh lý, phá sản doanh nghiệp 2.3.7Thủ tục đầu tư 2.3.8Quản lý nhà nước về đầu tư nước ngoài 2.4Đánh giá về sự hình thành và phát triển của pháp luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam 2.4.1Ưu điểm của pháp luật đầu tư nước ngoài 2.4.2Những hạn chế của pháp luật đầu tư nước ngoài 2.4.3Nguyên nhân của những nhược điểm CHƯƠNG 3: XU HƯỚNG VÀ CÁC GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI TẠI VIỆT NAM 3.1Sự cần thiết phải hoàn thiện pháp luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam 3.2Các nguyên tắc tiếp tục hoàn thiện pháp luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam 3.3Giải pháp hoàn thiện pháp luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam 3.3.1 Giải pháp chung về sửa đổi Luật Đầu tư nước ngoài 3.3.2 Giải pháp tiếp tục hoàn thiện pháp luật đầu tư nước ngoài trong từng vấn đề cụ thể KẾT LUẬN DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẨO

doc89 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 2656 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Phương hướng hoàn thiện pháp luật đầu tư nước ngoài tiến tới mặt bằng pháp lý chung cho đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
t quy định nhiều chỗ không rõ ràng, không minh bạch, nên trên thực tế có tình trạng các cơ quan cấp dưới áp dụng rất khác nhau, có thể giải thích luật theo nhiều nghĩa khác nhau, thậm chí còn mâu thuẫn với nhau. Nguyên nhân thứ sáu: một số Bộ, ngành và địa phương thường sử dụng công văn để xử lý các vấn đề có liên quan đến đầu tư nước ngoài, nhiều trường hợp giải thích pháp luật hoặc đưa ra chủ trương không đúng thẩm quyền, thu hẹp hoặc mở rộng các quy định của pháp luật, làm cho các quy định của pháp luật không được thực hiện một cách nghiêm túc. Điều đó thể hiện sự tùy tiện và phương pháp làm việc thiếu khoa học, không tôn trọng pháp luật Việt Nam và thông lệ quốc tế. Đây là vấn đề cần phải nghiêm túc rút kinh nghiệm để trong thời gian tới, việc áp dụng pháp luật đầu tư nước ngoài được thống nhất trong phạm vi toàn quốc. Chương 3 XU HƯỚNG VÀ CÁC GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI TẠI VIỆT NAM 3.1. SỰ CẦN THIẾT PHẢI HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI TẠI VIỆT NAM Trong thời gian tới, tình hình đất nước và bối cảnh quốc tế đòi hỏi chúng ta phải tiếp tục thực hiện công cuộc đổi mới, phát huy sức mạnh của toàn dân tộc, đưa đất nước tiến nhanh và vững chắc theo định hướng xã hội chủ nghĩa Thuận lợi lớn nhất của tình hình trong nước là sự ổn định chính trị – xã hội là nền tảng, vững chắc tạo ra môi trường thuận lợi cho phát triển kinh tế – xã hội của đất nước. Bên cạnh đó, thể chế kinh tế thị trường đã bước đầu hình thành và vận hành có hiệu qủa. Hệ thống pháp luật, cơ chế chính sách phù hợp đang phát huy trong đời sống kinh tế, xã hội. Quan hệ chính trị, kinh tế, ngoại giao của nước ta đã được mở rộng nhiều trên trường quốc tế. Khó khăn lớn nhất là trình độ phát triển kinh tế của nước ta còn thấp, chất lượng hiệu quả và sức cạnh tranh còn kém; quy mô sản xuất nhỏ bé; thu nhập của dân cư chưa đủ tạo sức bật mới đối với sản xuất và phát triển thị trường; hệ thống tài chính, tiền tệ còn nhiều yếu kếm, bất cập. Cơ cấu kinh tế tuy có chuyển dịch nhưng còn chậm, chưa phát huy được lợi thế so sánh trong từng ngành, từng vùng; kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển. Trình độ công nghệ nhìn chung còn lạc hậu khá xa so với các nước trong khu vực. Các chỉ tiêu về chất lượng và hiệu quả của kinh tế vĩ mô và của các doanh nghiệp đều có những yếu kém đáng lo ngại, đang đứng trước những thách thức rất lớn trong hội nhập kinh tế quốc tế. Thuận lợi cơ bản của tình hình thế giới là cuộc cách mạng khoa học và công nghệ, đặc biệt là sự phát triển của khoa học công nghệ thông tin và công nghệ sinh học, sẽ có tác động rất lớn và tích cực đến việc thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Xu thế toàn cầu hóa sẽ dẫn đến việc cơ cấu lại nền kinh tế thế giới làm cho cuộc đấu tranh về trật tự kinh tế thế giới sẽ diễn ra gay gất. Các nước đi sau như nước ta nếu chủ động được trong lộ trình hội nhập, thì sẽ hạn chế được rủi ro và có cơ hội phát triển nhanh. Chúng ta cần tận dụng tối đa những thuận lợi, những cơ hội của toàn cầu hóa và hội nhập, đồng thời phải né tránh, hạn chế những mặt trái, những rủi ro, tiêu cực rất lớn của nó. Trong bối cảnh của tình hình trong nước và quốc tế như trên, thời gian tới, Nhà nước ta sẽ phải tiếp tục cải thiện môi trường đầu tư, khuyến khích mạnh mẽ việc thu hút đầu tư nước ngoài vào các ngành công nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu, công nghiệp chế biến, công nghiệp phục vụ phát triển nông nghiệp và kinh tế nông thôn, các dự án ứng dụng công nghệ thông tinh, công nghệ sinh học, dầu khí, điện tử, vật liệu mới, viễn thông, sản xuất phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế – xã hội và các ngành mà Việt Nam có nhiều lợi thế cạnh tranh với công nghiệp hiện đại, tạo thêm việc làm, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Để chủ động hội nhập có hiệu quả, cần nỗ lực chủ quan rất lớn và phải có kế hoạch tổng thể tham gia hội nhập kinh tế quốc tế, xây dựng lộ trình hợp lý và chương trình hành động trong từng thời kỳ, phát huy quyền chủ động của các cấp, các ngành. Xu thế hội nhập kinh tế quốc tế và toàn cầu hóa kinh tế đòi hỏi mỗi quốc gia phải phát triển hệ thống pháp luật nói chung, pháp luật đầu tư nước ngoài nói riêng để tương đồng với các nước ASEAN và các nước khác trong khu vực và phù hợp với thông lệ quốc tế. Đây có thể nói là yêu cầu mang tính khách quan, bởi lẽ nếu ta không phát triển hệ thống pháp luật nói chung, pháp luật đầu tư nước ngoài nói riêng, thì nước ta rất khó hội nhập kinh tế khu vực và thế giới. Vì những lẽ đó, để công cuộc đổi mới về kinh tế tiếp tục phát triển và thực hiện được các mục tiêu của chiến lược 10 năm 2001-2010 mà Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ IX đã đề ra, cần tiến hành đồng bộ các biện pháp, phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị, kết hợp giữa sự phát huy nội lực và nhân tố bên ngoài, trong đó việc hoàn thiện pháp luật đầu tư nước ngoài là yêu cầu mang tính cấp thiết hiện nay. 3.2. CÁC NGUYÊN TẮC TIẾP TỤC HOÀN THIỆN HỆ THỐNG PHÁP LUẬT ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI TẠI VIỆT NAM Nguyên tắc tiếp tục đổi mới và hoàn thiện pháp luật đầu tư nước ngoài là những tư tưởng chỉ đạo, xuyên suốt toàn bộ quá trình đổi mới và hoàn thiện pháp luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. Có những nguyên tắc chủ yếu sau: Nguyên tắc thứ nhất: Quán triệt những quan điểm cơ bản của Đảng và Nhà nước ta về mở cửa, hội nhập kinh tế quốc tế. Đây là nguyên tắc cơ bản, quan trọng nhất của toàn bộ hoạt động tiếp tục đổi mới và hoàn thiện pháp luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. Đảng lãnh đạo xã hội bằng việc xác định đường lối, chính sách phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Xuất phát từ tình hình hiện nay và yêu cầu phát triển đất nước trong thời kỳ mới, đường lối kinh tế của Đảng được xác định trong văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng là: “Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, đưa nước ta thành một nước công nghiệp; ưu tiên phát triển lực lượng sản xuất, đồng thời xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp theo định hướng xã hội chủ nghĩa; phát huy cao nội lực, đồng thời tranh thủ nguồn lực bên ngoài và chủ động hội nhập quốc tế”. Trong chính sách phát triển các thành phần kinh tế, Đảng ta chủ trương phát triển các hình thức tổ chức kinh doanh đan xen, hỗn hợp nhiều hình thức sở hữu, giữa các thành phần kinh tế với nhau, giữa trong nước và ngoài nước; phát triển các hình thức kinh tế cổ phần nhằm huy động và sử dụng rộng rãi vốn đầu tư xã hội. Trong lĩnh vực kinh tế đối ngoại, Đảng lãnh đạo bằng việc xác định rõ đường lối, chính sách mở rộng quan hệ đối ngoại và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. Đó là việc "thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại tự chủ, mở rộng, đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ quốc tế, Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển" Vì vậy, trong quá trình đổi mới, hoàn thiện pháp luật đầu tư nước ngoài, phải nghiên cứu, nhận thức đúng hệ thống các quan điểm của Đảng về phát triển kinh tế, sử dụng nội lực, đồng thời mở cửa, hội nhập kinh tế quốc tế để việc hoàn thiện pháp luật đi đúng hướng và phù hợp với hoàn cảnh, điều kiện phát triển của Việt Nam. Nguyên tắc thứ hai: Hoàn thiện pháp luật đầu tư nước ngoài phải phù hợp với Hiến pháp, đồng thời hoàn thiện một cách đồng bộ các đạo luật khác có liên quan trong hệ thống pháp luật Việt Nam. Ngày 25/12/2001, tại kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa X đã thông qua Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 1992. Đáng chú ý, Điều 16 Hiến pháp năm 1992 về các thành phần kinh tế đã được bổ sung thêm cụm từ “kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài”, thay cụm từ “kinh tế quốc doanh” bằng cụm từ “kinh tế nhà nước”, bổ sung cụm từ “tiểu chủ” vào sau cụm từ “kinh tế cá thể”; thay cụm từ “giải phóng” bằng cụm từ “phát huy” cho phù hợp với thực tế. Ngoài ra Điều 16 Hiến pháp năm 1992 còn được bổ sung quy định về hoạt động đầu tư như sau: “Các thành phần kinh tế đều là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Tổ chức, cá nhân thuộc các thành phần kinh tế được sản xuất, kinh doanh trong những ngành, nghề mà pháp luật không cấm; cùng phát triển lâu dài, hợp tác bình đẳng và cạnh tranh theo pháp luật”. Vì Hiến pháp là đạo luật cơ bản, đạo luật gốc đặt ra những quy định có tính chất nền tảng của chế độ Nhà nước, chế độ xã hội, quyền và nghĩa vụ của công dân, tổ chức bộ máy nhà nước và là cơ sở để xác định toàn bộ hệ thống pháp luật Việt Nam, cho nên việc sửa đổi, bổ sung Hiến pháp lần này có ảnh hưởng nhất định tới pháp luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. Do đó, việc hoàn thiện pháp luật đầu tư nước ngoài phải phù hợp với các quy định của Hiến pháp. Vì pháp luật đầu tư có mối quan hệ chặt chẽ và có sự tác động qua lại với các đạo luật khác trong hệ thống pháp luật Việt Nam, nên việc hoàn thiện pháp luật đầu tư cũng phải được tiến hành trên cơ sở hoàn thiện một cách đồng bộ các đạo luật đó. Nguyên tắc này đòi hỏi không được để các "lỗ hổng" trong pháp luật đầu tư nước ngoài và yêu cầu đồng bộ trong các lĩnh vực pháp luật khác có liên quan đến đầu tư nước ngoài như Luật Đất đai, Bộ luật Lao động, Bộ luật Dân sự, Luật Hải quan... Điều đó có nghĩa là: bất cứ sự thay đổi trong các văn bản pháp luật đầu tư nước ngoài, phải đi liền với việc rà soát (và khi cần thiết thì phải sửa đổi, bổ sung) các đạo luật có liên quan. Ngược lại, khi sửa đổi các đạo luật khác cũng cần phải lưu ý đến yếu tố đầu tư trong nước cũng như đầu tư nước ngoài, để việc hoàn thiện đạo luật đó có tính bao trùm mọi đối tượng liên quan và để bảo đảm những điểm sửa đổi, bổ sung trong pháp luật đầu tư nước ngoài và các đạo luật liên quan có tính khả thi và đi vào cuộc sống. Nói cách khác, hệ thống pháp luật đầu tư nước ngoài phải được hoàn thiện một cách đồng bộ để đáp ứng kịp thời các yêu cầu mà thực tiễn đầu tư đặt ra. Nguyên tắc thứ ba: Đảm bảo tính kế thừa và tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm lập pháp về đầu tư nước ngoài. Nguyên tắc này đặt ra những yêu cầu và bảo đảm tính kế thừa của việc tiếp tục đổi mới và hoàn thiện pháp luật đầu tư nước ngoài. Sự kế thừa chỉ có thể được khẳng định, nếu việc đổi mới, hoàn thiện pháp luật đầu tư nước ngoài được tiến hành trên cơ sở đánh giá một cách cụ thể, có cơ sở về hiệu quả của các quy phạm pháp luật hiện hành trong pháp luật đầu tư nước ngoài, cũng như trong các văn bản pháp luật khác có liên quan đến đầu tư nước ngoài . Sự kế thừa không chỉ được thực hiện trên cơ sở nghiên cứu pháp luật đầu tư thực định, mà phải nghiên cứu cả pháp luật có liên quan đến đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài những thời kỳ trước đây. Sự kế thừa những giá trị pháp lý của pháp luật đầu tư thực định hay trong thời kỳ trước đây rõ ràng là hết sức cần thiết đối với việc hoàn thiện pháp luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. Ngoài ra, cũng như việc xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật nói chung, việc hoàn thiện pháp luật đầu tư nước ngoài cũng cần phải tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm lập pháp về đầu tư trong nước cũng như đầu tư nước ngoài của các nước trên thế giới, đặc biệt lưu ý các nước có chế độ chính trị, kinh tế, xã hội gần với nước ta, như Trung Quốc và các nước ASEAN. Nguyên tắc thứ tư: Chú trọng nâng cao tính hấp dẫn, tính cạnh tranh của môi trường đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. Đối với Việt Nam, vấn đề thu hút đầu tư nói chung, đầu tư nước ngoài trong những năm tới có ý nghĩa rất to lớn đối với sự tăng trưởng của nền kinh tế. Trong điều kiện đó, việc tạo ra môi trường đầu tư hấp dẫn, có tính cạnh tranh đang là vấn đề bức xúc. Để nâng cao tính hấp dẫn, tính cạnh tranh của môi trường đầu tư, phải xây dựng được một cơ chế, chính sách, pháp luật đồng bộ về đầu tư trong nước cũng như đầu tư nước ngoài, trong đó việc hoàn thiện pháp luật đầu tư nước ngoài đóng một vai trò quan trọng. Trong quá trình hoàn thiện pháp luật đầu tư nước ngoài, phải luôn luôn quán triệt quan điểm này ngay từ khi xây dựng ý tưởng sửa đổi, bổ sung các quy phạm pháp luật đầu tư nước ngoài. Để nâng cao tính hấp dẫn, tính cạnh tranh của môi trường đầu tư nước ngoài, phải có quan điểm mang tính tổng thể, có tính chiến lược cao; phải có sự nghiên cứu nghiêm túc môi trường đầu tư nước ngoài của các nước trong khu vực và trên thế giới, cũng như hệ thống quy phạm pháp luật điều chỉnh nó để rút ra những kết luận cần thiết đối với môi trường đầu tư, pháp luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. Làm được điều này, chúng ta sẽ tránh được tình trạng bị động lâu nay, chạy theo các nước trong khu vực trong việc nâng cao tính cạnh tranh, tính hấp dẫn của môi trường đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. Nguyên tắc thứ năm: Kết hợp mục tiêu thu hút đầu tư nước ngoài với việc bảo vệ độc lập, chủ quyền quốc gia. Đây là nguyên tắc được đặt ra không những đối với đầu tư nước ngoài, mà còn được đặt ra đối với tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của nước ta nói chung. Chính vì vậy, nguyên tắc này đã được thể hiện rõ nét trong các văn kiện của Đảng và được khẳng định ngay tại Điều 1 Luật Đầu tư nước ngoài hiện hành: "Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khuyến khích các nhà đầu tư nước ngoài vào Việt Nam trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền và tuân thủ pháp luật của Việt Nam...". Nguyên tắc này nhằm giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa kinh tế với chính trị, giữa thu hút đầu tư nước ngoài với việc bảo vệ độc lập chủ quyền quốc gia trong việc hoàn thiện pháp luật đầu tư Trong mối quan hệ này, độc lập, chủ quyền quốc gia có ý nghĩa vô cùng quan trọng, bởi lẽ nếu không có sự ổn định về chính trị, thì không có nhà đầu tư nước ngoài nào đầu tư vào Việt Nam. Mặt khác, nếu chỉ quan tâm đến thu hút đầu tư nước ngoài mà không chú ý đúng mức đến độc, lập chủ quyền quốc gia, thì đầu tư nước ngoài cũng không đem lại lợi ích cho dân tộc. Chúng ta "mở cửa", nhưng không có nghĩa là "mở toang", mà là “mở cửa” phù hợp với trình độ, năng lực quản lý và kiểm soát của ta, nhằm tiếp thu những cái tốt đẹp để phát triển kinh tế và ngăn ngừa những thói hư, tật xấu, cũng như những mặt trái do việc "mở cửa" mang lại. Nguyên tắc thứ sáu: Thu hút đầu tư nhưng phải đảm bảo thúc đẩy, kích thích sự phát triển của sản xuất trong nước, tạo ra sự cạnh tranh lành mạnh. Nguyên tắc này đòi hỏi phải phát huy nội lực trên cơ sở sử dụng có hiệu quả nguồn hỗ trợ từ bên ngoài. Sự gắn kết giữa nội lực và ngoại lực tạo thành nguồn lực tổng hợp mạnh mẽ cho sự phát triển đất nước. Sự phát triển của sản xuất trong nước có tính chất quyết định, thu hút đầu tư nước ngoài có tính chất quan trọng đối với việc thực hiện các mục tiêu kinh tế – xã hội của nước ta. Vì những lẽ đó, việc hoàn thiện pháp luật đầu tư nước ngoài phải quán triệt quan điểm tạo hành lang pháp lý cho việc thu hút đầu tư, nhưng phải kích thích, thúc đẩy sản xuất trong nước phát triển, không chạy theo đầu tư nước ngoài mà "bóp chết" sản xuất trong nước. Nếu chỉ chú trọng, tuyệt đối hóa việc thu hút đầu tư nước ngoài, mà không bảo hộ có chọn lọc, có điều kiện sản xuất trong nước thì sẽ đi chệch hướng phát triển kinh tế đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta. Do vậy, song song với việc khuyến khích, ưu đãi đối với đầu tư nước ngoài nhằm thu hút nhiều hơn vốn đầu tư nước ngoài vào nước ta, cần phải chú trọng bảo hộ có chọn lọc, có điều kiện sản xuất trong nước, kích thích, thúc đẩy sản xuất trong nước phát triển. Nguyên tắc thứ bảy: Đảm bảo tính trong sáng, rõ ràng, minh bạch và công khai các quy định của pháp luật đầu tư nước ngoài Xây dựng một hệ thống quy phạm pháp luật về đầu tư rõ ràng, minh bạch là vấn đề mang tính cấp thiết hiện nay, bởi lẽ trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế và toàn cầu hóa kinh tế hiện nay, các nhà đầu tư nước ngoài không chấp nhận hợp tác với quốc gia có hệ thống pháp luật mập mờ, không rành mạch. Nguyên tắc này đòi hỏi việc hoàn thiện pháp luật đầu tư, phải được thực hiện theo hướng: mỗi quy phạm pháp luật đầu tư đều phải dễ hiểu, hiểu theo một nghĩa, không thể hiểu theo nhiều nghĩa và phải hết sức rành mạch, nhất là đối với các thủ tục hành chính trong quản lý nhà nước về đầu tư. Ngoài ra, các quy định của pháp luật nói chung, về đầu tư nước ngoài nói riêng sau khi được ban hành cần phải công bố công khai, rộng rãi và kịp thời cho mọi đối tượng, trên cơ sở đó các nhà đầu tư trong nước và ngoài nước, cũng như các cán bộ trong các cơ quan nhà nước ở các cấp có thể nắm bắt kịp thời, từ đó mới có thể quyết định đầu tư và thực hiện một cách chính xác triệt để các quy định của pháp luật. Lúc đó, các quy định của pháp luật mới thực sự đi vào cuộc sống và phát huy hiệu quả. 3.3. GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI TẠI VIỆT NAM Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX đã khẳng định sự cần thiết phải nghiên cứu để tiến tới áp dụng một khung pháp luật thống nhất chung cho doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Mặt khác, theo kế hoạch đến 2005 sẽ diễn ra Đại hội X của Đảng, đó cũng là thời điểm ta phải thực hiện các cam kết trong các điều ước quốc tế mà Việt Nam đã ký kết hoặc gia nhập, nhất là Hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ, Hiệp định Tự do, Xúc tiến và Bảo hộ Đầu tư giữa Việt nam và Nhật Bản và cũng là thời điểm mà Việt nam dự kiến sẽ tham gia WTO. Vì vậy, dưới góc độ là một sinh viên đang học tập và nghiên cứu, trong phạm vi hiểu biết của mình tôi xin có dự báo và kiến nghị một số giải pháp sửa đổi Luật Đầu tư nước ngoài hiện hành như sau: 3.3.1. Giải pháp chung về sửa đổi Luật Đầu tư nước ngoài Để tiến tới mặt bằng pháp lý chung cho đầu tư trong nước và nước ngoài như tinh thần Đại hội Đảng lần thứ IX nêu trên, Luật Đầu tư nước ngoài hiện hành phải được sửa đổi một cách cơ bản thành Luật Khuyến khích đầu tư nước ngoài, trong đó chỉ quy định những chế định đặc thù cho đầu tư nước ngoài, những biện pháp khuyến khích và ưu đãi đối với đầu tư nước ngoài. Nội dung Luật Khuyến khích Đầu tư nước ngoài chỉ bao gồm các quy định khuyến khích dành riêng cho đầu tư nước ngoài như mô hình Luật Khuyến khích đầu tư trong nước hiện nay. Còn những vấn đề chung khác thì áp dụng như đối với doanh nghiệp trong nước. Ví dụ: việc thành lập và hoạt động của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài được tiến hành theo quy định của Luật Doanh nghiệp; các vấn đề về thuế thì theo quy định của các đạo luật về thuế; vấn đề phá sản doanh nghiệp thì được thực hiện theo Luật Phá sản doanh nghiệp... Như vậy, dự kiến Luật Khuyến khích Đầu tư nước ngoài chỉ quy định những nội dung chủ yếu sau: Thứ nhất, về đối tượng điều chỉnh: các quan hệ xã hội liên quan đến việc hưởng chế độ ưu đãi trong đầu tư nước ngoài. Thứ hai, về phạm vi điều chỉnh: chỉ áp dụng đối với các chủ thể đạt tiêu chuẩn được hưởng ưu đãi. Thứ ba, quy định mở rộng hơn về danh mục lĩnh vực và địa bàn khuyến khích đầu tư nước ngoài. Đặc biệt, cần thu hẹp Danh mục hạn chế đầu tư và Danh mục đầu tư có điều kiện. Thứ tư, quy định các tiêu chí để hưởng ưu đãi, mức thuế suất ưu đãi; các trường hợp miễn, giảm về thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế nhập khẩu, thuế VAT... Thứ năm, quy định tiêu chí để hưởng ưu đãi và mức miễn, giảm tiền thuê đất. Thứ sáu, quy định người Việt Nam định cư ở nước ngoài đầu tư về nước, thì được hưởng các ưu đãi đặc biệt. Thứ bảy, quy định việc mở rộng diện các đối tượng được Nhà nước đảm bảo cân đối ngoại tệ, diện hỗ trợ cân đối ngoại tệ. Thứ tám, quy định việc bảo lãnh của Chính phủ đối với các dự án BOT, BTO, BT; các dự án xây dựng hạ tầng, các dự án đặc biệt quan trọng. Thứ chín, quy định về thẩm quyền, thủ tục xét giải quyết cho hưởng ưu đãi của Chính phủ, các Bộ, ngành và các địa phương. Đồng thời, để Luật Khuyến khích đầu tư nước ngoài đi vào cuộc sống, cần sửa đổi, bổ sung một cách đồng bộ các đạo luật có liên quan. Cụ thể là: - Luật Doanh nghiệp cần bổ sung đối tượng áp dụng bao gồm cả các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và quy định trình tự, thủ tục thành lập, hoạt động của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, kể cả việc chia, tách, sáp nhập, hợp nhất... - Luật Phá sản doanh nghiệp cần bổ sung quy định về một số đặc thù của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, như: việc tính tài sản của doanh nghiệp khi Bên Việt Nam góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng đất; trường hợp tuyên bố phá sản doanh nghiệp khi các bên chưa góp đủ vốn pháp định... - Luật Đất đai cần bổ sung quy định về các trường hợp cho thuê đất, giải phóng mặt bằng đối với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. - Luật Kinh doanh bất động sản cần quy định những vấn đề liên quan đến việc kinh doanh bất động sản của các nhà đầu tư nước ngoài. 3.3.2. Giải pháp tiếp tục hoàn thiện pháp luật đầu tư nước ngoài đối với từng vấn đề cụ thể: Bên cạnh giải pháp chung, tổng thể nêu trên, để khuyến khích đầu tư nước ngoài tăng sức hấp dẫn và khả năng cạnh tranh của môi trường đầu tư Việt nam, chúng ta cần tiếp tục đổi mới và hoàn thiện pháp luật đầu tư nước ngoài đối với các vấn đề cụ thể sau: 3.3.2.1. Sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện các quy định về hình thức và phương thức đầu tư Hiện nay, trên thế giới áp dụng rất nhiều hình thức đầu tư khác nhau, như: Công ty cổ phần có vốn đầu tư nước ngoài (Sheraholder Co.), chi nhánh công ty nước ngoài để trực tiếp sản xuất (Branch Co.), Công ty hợp danh (Partnership), Công ty quản lý vốn (Holding Co.), Công ty mẹ - công ty con,... Trong khi đó, theo quy định tại Điều 4 Luật Đầu tư nước ngoài hiện hành, các nhà đầu tư nước ngoài chỉ được đầu tư vào Việt Nam dưới 3 hình thức: Hợp đồng kinh doanh trên cơ sở hợp đồng hợp tác kinh doanh; Doanh nghiệp liên doanh; Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài. Các phương thức đầu tư là đầu tư vào Khu công nghiệp, Khu chế xuất; thực hiện các dự án BOT, BTO, BT; Luật Doanh nghiệp (1999) quy định về các hình thức như Công ty trách nhiệm hữu hạn, Công ty hợp danh, Công ty cổ phần, Doanh nghiệp tư nhân. Trên cơ sở tham khảo kinh nghiệm của các nước và các hình thức đầu tư trong nước theo Luật Doanh nghiệp mới ban hành, đồng thời nhằm mở thêm kênh mới thu hút đầu tư nước ngoài và tạo cơ hội cho nhà đầu tư linh hoạt lựa chọn hình thức đầu tư phù hợp cần bổ sung thêm một số hình thức đầu tư sau: * Hình thức doanh nghiệp hợp danh Trên thế giới, doanh nghiệp hợp danh là hình thức áp dụng phổ biến trong một số lĩnh vực dịch vụ như: kiểm toán, kế toán, tư vấn luật, khám chữa bệnh, thiết kế xây dựng... Ở Việt Nam, một số dự án đầu tư nước ngoài thuộc lĩnh vực trên đã được cấp giấy phép đầu tư. Tuy nhiên, việc quy định các doanh nghiệp này phải thành lập theo hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn là không thích hợp, vì trong công ty trách nhiệm hữu hạn, nhà đầu tư chỉ chịu trách nhiệm pháp lý trong phạm vi số vốn góp vào doanh nghiệp. Trong khi đó, vốn đầu tư của các dự án loại này không đáng kể; nhà đầu tư hoạt động chủ yếu dựa vào địa vị và uy tín nghề nghiệp, phải chịu trách nhiệm cá nhân cao đối với khách hàng về dịch vụ do mình cung cấp. Do đó, để góp phần nâng cao chất lượng một số loại dịch vụ thiết yếu, bảo đảm lợi ích của người tiêu dùng, cần cho phép thành lập doanh nghiệp hợp danh có vốn đầu tư nước ngoài giống như quy định chung của Luật Doanh nghiệp hiện hành. Doanh nghiệp hợp danh có vốn đầu tư nước ngoài này có những đặc thù chủ yếu là: phải có ít nhất một thành viên hợp danh là cá nhân nước ngoài. Các thành viên hợp danh phải chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình (kể cả tài sản cá nhân) về các nghĩa vụ của doanh nghiệp (trách nhiệm vô hạn). * Chi nhánh công ty nước ngoài tại Việt Nam để đầu tư, kinh doanh Việc thành lập chi nhánh ở nước ngoài để mở rộng hoạt động đầu tư và thương mại là bộ phận quan trọng trong chiến lược toàn cầu hóa của các công ty xuyên quốc gia. Trên thế giới, các nước đều xem chi nhánh sản xuất của công ty nước ngoài là một trong những hình thức đầu tư nước ngoài. Ở nước ta, Luật Thương mại đã cho phép thương nhân nước ngoài có đủ điều kiện được thành lập Chi nhánh thương mại theo mục đích, phạm vi và thời hạn quy định trong Giấy phép (như mua, bán hàng hóa, đại diện cho thương nhân, gia công hàng hóa, giám định hàng hóa, đại lý, quảng cáo, giao nhận hàng hóa...). Để mở rộng hình thức thu hút đầu tư nước ngoài, nhất là tranh thủ tiềm lực của các công ty xuyên quốc gia, cần bổ sung các quy định cho phép thành lập chi nhánh của Công ty nước ngoài tại Việt Nam với tư cách là đơn vị phụ thuộc của công ty nước ngoài để tiến hành hoạt động đầu tư tại Việt Nam. Điều đó có nghĩa là không chỉ dừng lại ở việc cho phép thành lập chi nhánh thương mại theo Luật thương mại đã nêu ở trên, mà cần phải mở rộng cho cả chi nhánh sản xuất. * Công ty quản lý vốn (Holding Company) Việc thành lập công ty quản lý vốn hoạt động đa mục tiêu được áp dụng phổ biến ở nhiều nước trên thế giới. Thời gian qua, ở nước ta đã có một số tập đoàn kinh tế lớn của thế giới cùng lúc được phép triển khai nhiều dự án đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. Theo quy định của pháp luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam hiện hành, mỗi doanh nghiệp có bộ máy điều hành riêng, hoạt động kinh doanh độc lập. Tuy nhiên, để nâng cao hiệu quả kinh doanh, tăng sức cạnh tranh, giảm những chi phí không cần thiết... mỗi tập đoàn kinh tế lớn đều có chiến lược phát triển chung. Điều phối hoạt động của các công ty con của mình theo chiến lược đó, một số tập đoàn muốn thiết lập các công ty quản lý đầu tư. Đây là các công ty có nguồn vốn, có khả năng tài chính mạnh (có thể đã và đang chiếm một phần vốn đáng kể trong công ty con) có quyền điều chỉnh hoạt động của các công ty con này theo kế hoạch chung của cả tập đoàn. Ngược lại, các công ty con cũng có thể góp vốn và nắm một số cổ phần của công ty quản lý để có thể phối hợp hoạt động với tập đoàn cũng như với các công ty khác. Thực tế trong thời gian qua, đã xuất hiện nhu cầu các nhà đầu tư muốn thành lập Công ty quản lý vốn đầu tư, với mục tiêu quản lý vốn đầu tư của Công ty mẹ đang đầu tư những dự án khác nhau ở Việt Nam. Nhu cầu quản lý vốn đầu tư ở đây có nghĩa là: công ty này có quyền thay mặt công ty mẹ để quyết định mở rộng hoặc thu hẹp quy mô của một dự án cụ thể đang triển khai (dự án 100% vốn hay liên doanh mà công ty mẹ có đầu tư), hoặc quyết định đầu tư một dự án mới... Hoạt động của Công ty quản lý vốn đầu tư này, chỉ giới hạn trong phạm vi quản lý vốn của công ty mẹ trong các dự án đầu tư tại Việt Nam mà công ty mẹ đầu tư 100% vốn hoặc ở các dự án liên doanh và hợp đồng hợp tác kinh doanh mà công ty mẹ có góp vốn. Các hoạt động cụ thể của Công ty quản lý vốn là: - Thay mặt công ty mẹ quyết định mở rộng hoặc thu hẹp quy mô của dự án 100% vốn đầu tư của công ty mẹ đang triển khai tại Việt Nam; - Thay mặt công ty mẹ trao đổi với các đối tác khác trong liên doanh hoặc trong hợp đồng hợp tác kinh doanh để đưa ra những quyết định liên quan đến hoạt động của dự án; cũng có thể thông qua đại diện của mình trong Hội đồng quản trị để tác động đến hoạt động của doanh nghiệp liên doanh; - Đầu tư thêm vốn cho dự án mà công ty mẹ đang đầu tư 100% vốn tại Việt Nam; hoặc đầu tư thêm cho phần góp vốn của công ty mẹ trong các dự án liên doanh và hợp đồng hợp tác kinh doanh tại Việt Nam, nhằm tăng vốn pháp định hoặc bù lỗ; hoặc đầu tư dự án mới; - Tiến hành các hoạt động tìm hiểu thị trường, xúc tiến đầu tư nhằm phục vụ cho hoạt động đầu tư của công ty mẹ cũng như hỗ trợ các công ty mà công ty mẹ có đầu tư tại Việt Nam - Hỗ trợ cho các dự án của công ty mẹ đầu tư tại Việt Nam làm các thủ tục về đầu tư, như: thủ tục về xuất nhập khẩu, xây dựng, môi trường, bao tiêu sản phẩm,... 3.3.2.2. Hoàn thiện các quy định liên quan đến đất đai trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài * Giảm giá tiền thuê đất đối với dự án đầu tư nước ngoài ngang bằng với giá thuê đất của các doanh nghiệp trong nước Trước đây, giá thuê đất đối với các dự án đầu tư trong nước bằng khoảng 60% so với giá thuê đất áp dụng cho các dự án đầu tư nước ngoài; sau khi có Quyết định 179/1998/QĐ-BTC của Bộ tài chính thì giá này bằng 70%-80% và đến nay khi có Quyết định số 189/2000/QĐ-BTC ngày 24/11/2000 của Bộ Tài chính thay thế Quyết định 179/1998/QĐ-BTC thì bằng khoảng 80%-90% giá thuê đất của các dự án đầu tư nước ngoài. Mức chênh lệch về giá thuê đất này là không cần thiết và cần được xóa bỏ để tận dụng những lợi thế của Việt Nam, cạnh tranh với các nước trong khu vực và trên thế giới. * Cần hướng dẫn trường hợp thuê đất đến 70 năm Luật Đầu tư nước ngoài (sửa đổi) năm 1992 đã cho phép thời hạn hoạt động của dự án thông thường tối đa là 50 năm. Ngoài ra, căn cứ vào quy định của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chính phủ quyết định thời hạn dài hơn đối với từng dự án, nhưng tối đa không quá 70 năm. Tuy vừa qua Luật Đất đai được Quốc hội thông qua, trong đó cũng quy định cho phép thuê đất đến 70 năm, nhưng chưa cụ thể. Do đó, xin kiến nghị cần sớm ban hành văn bản hướng dẫn về vấn đề này. * Cần ban hành sớm Luật Kinh doanh bất động sản Cần nghiên cứu, xem xét việc cho các nhà đầu tư nước ngoài và người Việt Nam định cư ở nước ngoài được tham gia đầu tư vào các hoạt động của thị trường bất động sản nhằm khai thác tiềm năng từ đất và thu hút vốn vào Việt Nam. Cần xây dựng cơ chế để doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài được xây dựng, kinh doanh nhà ở và xây dựng, kinh doanh phát triển khu đô thị mới. * Cho phép các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài được thế chấp giá trị quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất tại các tổ chức tín dụng ở nước ngoài Theo quy định của Luật Đầu tư nước ngoài năm 1996, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chỉ được thế chấp giá trị quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất tại các tổ chức tín dụng của Việt Nam. Luật Đầu tư nước ngoài (sửa đổi) năm 2000 đã bổ sung các quy định mở rộng thêm một bước là cho phép thế chấp giá trị quyền sử dụng đất tại các tổ chức tín dụng được phép hoạt động ở Việt Nam (Điều 46 khoản 3). Điều này có nghĩa là cho phép doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài thế chấp giá trị quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất tại các tổ chức tín dụng Việt Nam và tổ chức tín dụng nước ngoài được phép hoạt động tại Việt Nam. Tuy nhiên, quy định như vậy vẫn chưa thật sự thỏa mãn nhu cầu vay vốn của các doanh nghiệp. Bởi lẽ, nhiều khi các tổ chức tín dụng được phép hoạt động ở Việt Nam, kể cả tổ chức tín dụng nước ngoài tại Việt Nam, do hạn chế hoặc bị khống chế về vốn, nên mức cho vay cũng chỉ có hạn, nên nhiều khi không đáp ứng đủ nhu cầu vay vốn của doanh nghiệp. Trong khi các tổ chức tín dụng ở nước ngoài có khi đã là bạn hàng lâu năm của đối tác nước ngoài có dự án đầu tư ở Việt Nam, có thể cho vay một số vốn lớn, nhưng đặt điều kiện phải thế chấp dự án đầu tư tại tổ chức tín dụng ở nước ngoài đó, tức là thế chấp cả quyền sử dụng đất. Do vậy, việc mở rộng hơn nữa khả năng thế chấp giá trị quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất tại tổ chức tín dụng ở nước ngoài là cần thiết hiện nay. 3.3.2.3. Sửa đổi một số quy định về thuế * Sửa đổi thuế thu nhập cá nhân đối với người Việt Nam Hiện nay, các quy định về thuế thu nhập của người Việt Nam là yếu tố cản trở doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài sử dụng người Việt Nam ở những vị trí quản lý hoặc làm việc có trình độ kỹ thuật cao. Theo quy định hiện hành, với thuế suất lũy tiến từng phần tối đa là 60% và phụ thu 30% đối với phần thu nhập sau thuế lớn hơn 8 triệu đồng (mức thu lên đến 72% đối với thu nhập sau 11, 75 triệu đồng), chi phí để thuê lao động Việt Nam ở các vị trí này sẽ trở nên quá lớn, có thể thuê được chuyên gia nước ngoài. Theo biểu thuế thu nhập cao hiện hành, ta dễ dàng nhận thấy: cùng với một công việc đòi hỏi trình độ cao như nhau, trả lương cao như nhau, thì người lao động Việt Nam bị khấu trừ thuế thu nhập cá nhân cao hơn nhiều so với người lao động nước ngoài. Điều đó đã không khuyến khích doanh nghiệp sử dụng lao động có trình độ cao của Việt Nam. Vì vậy, cần nâng mức khởi điểm đánh thuế thu nhập cao đối với người Việt Nam, và hạ mức thuế suất lũy tiến đối với người Việt Nam, để những người có trình độ của Việt Nam khi làm việc cho doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài được đối xử tương xứng; đồng thời doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài cũng không phải trả lương quá cao cho người lao động, giảm chi phí cho doanh nghiệp. 3.3.2.4. Quản lý ngoại hối * Quản lý ngoại hối trong Khu chế xuất Nghị định 36/1998/NĐ-CP ngày 24/4/1997 về Khu công nghiệp, khu chế xuất, quy định: việc quản lý ngoại hối trong Khu chế xuất được thực hiện theo quy định chung về quản lý ngoại hối. Nhưng Điều 1 khoản 3 Nghị định 63/1998/NĐ-CP ngày 17/8/1998 về quản lý ngoại hối lại quy định: vấn đề quản lý ngoại hối trong Khu chế xuất thì theo quy định riêng. Nhưng cho tới nay vẫn chưa có quy định riêng nào cả, việc quản lý ngoại hối trong Khu chế xuất hiện còn bị bỏ trống, không có căn cứ pháp lý để quản lý. Do đó, cần nhanh chóng ban hành quy định điều chỉnh việc quản lý ngoại hối trong Khu chế xuất. * Cần quy định doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài có quyền thanh toán bằng ngoại tệ đối với trường hợp xuất khẩu tại chỗ Xuất nhập khẩu hàng hóa là một hoạt động thông thường trong kinh doanh của một doanh nghiệp. Việc thanh toán bằng ngoại tệ cho hoạt động xuất nhập khẩu là đương nhiên. Xuất khẩu tại chỗ cũng là một hoạt động thương mại trong lĩnh vực xuất nhập khẩu nói trên. Do đó, việc các doanh nghiệp thanh toán cho hoạt động xuất khẩu tại chỗ bằng ngoại tệ cũng là lẽ đương nhiên. Điều 58 Nghị định 24 cho phép doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài xuất khẩu tại chỗ. Theo đó Mục 6 khoản 1 Thông tư số 22/2000/TT-BTM ngày 15/12/2000 của Bộ Thương mại hướng dẫn hoạt động xuất nhập khẩu đối với đầu tư nước ngoài, cho phép việc xuất khẩu tại chỗ được thanh toán bằng ngoại tệ. Trong Thông tư số 122/2000/TT-BTC ngày 29/12/2000 của Bộ Tài chính hướng dẫn về thực hiện Thuế giá trị gia tăng, phần II, mục 1.3, khoản c cũng quy định trường hợp xuất khẩu tại chỗ phải thanh toán qua ngân hàng và bằng ngoại tệ. Trong khi đó, Thông tư số 01/1999/TT-NHNN7 ngày 15/4/1999 của Ngân hàng Nhà nước hướng dẫn thực hiện Quy chế quản lý ngoại hối lại quy định: mọi giao dịch của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài trên lãnh thổ Việt Nam phải thực hiện qua ngân hàng và bằng đồng Việt Nam. Đó là một biểu hiện của sự chồng chéo, mâu thuẫn trong việc ban hành các văn bản pháp quy của các Bộ ngành, không có sự phối hợp với nhau. Điều đó dẫn tới thiệt hại và làm ngưng trệ sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Cần sửa đổi lại quy định hướng dẫn thi hành Quy chế quản lý ngoại hối, theo hướng: cho phép các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, nếu có hoạt động xuất khẩu tại chỗ, thì có quyền được thanh toán qua ngân hàng bằng tiền Việt Nam hoặc bằng ngoại tệ, tùy theo sự cân đối và nhu cầu của doanh nghiệp. 3.3.2.5. Sửa đổi các quy định về tổ chức, hoạt động của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài * Nguyên tắc nhất trí Nguyên tắc nhất trí được quy định lần đầu tiên trong Luật Đầu tư nước ngoài năm 1987 nhằm đảm bảo cho Bên Việt Nam trong doanh nghiệp liên doanh được quyền tham gia quyết định những vấn đề quan trọng, như: phương án sản xuất, kinh doanh dài hạn và hàng năm, ngân sách, vay nợ; sửa đổi, bổ sung Điều lệ doanh nghiệp liên doanh; bổ nhiệm, miễn nhiệm Chủ tịch Hội đồng quản trị, Tổng Giám đốc, Phó Tổng giám đốc thứ nhất và kế toán trưởng, trong khi tỷ lệ vốn góp của Bên Việt Nam rất thấp. Luật Đầu tư nước ngoài năm 1996 đã sửa đổi quy định này theo hướng thu hẹp phạm vi cần bảo đảm nguyên tắc nhất trí, chỉ áp dụng nguyên tắc này đối với một số vấn đề quan trọng nhất trong tổ chức và hoạt động của doanh nghiệp liên doanh. Luật Đầu tư nước ngoài năm 1996 cũng đã bỏ quy định về ba phương pháp giải quyết trong trường hợp không đạt được nguyên tắc nhất trí và dành cho doanh nghiệp quyền tự chủ giải quyết vấn đề này (Điều 14 Luật Đầu tư nước ngoài năm 1996). Luật Đầu tư nước ngoài (sửa đổi) năm 2000 đã sửa đổi quy định trên theo hướng tiếp tục hạn chế phạm vi áp dụng nguyên tắc nhất trí. Tuy nhiên, so sánh với pháp luật đầu tư nước ngoài của một số nước trên thế giới thì thấy rằng: việc quy định nguyên tắc nhất trí trong Luật Đầu tư nước ngoài (sửa đổi) năm 2000 vẫn chưa phù hợp với các nguyên tắc phổ biến về xí nghiệp liên doanh trên thế giới và trái với tinh thần của Luật Doanh nghiệp nước ta. Do vậy, theo các thông lệ quốc tế thì cần bãi bỏ nguyên tắc nhất trí trong việc bổ nhiệm, miễn nhiệm Tổng Giám đốc, Phó Tổng Giám đốc thứ nhất, chỉ cần bảo đảm nguyên tắc nhất trí đối với vấn đề sửa đổi, bổ sung Điều lệ doanh nghiệp. Theo thông lệ quốc tế, ai góp nhiều vốn, thì người đó được nắm quyền điều hành doanh nghiệp. * Sửa đổi quy định về giảm vốn pháp định Điều 16 Luật Đầu tư nước ngoài hiện hành quy định: "Vốn pháp định của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài ít nhất phải bằng 30% vốn đầu tư của doanh nghiệp. Trong trường hợp đặc biệt, tỷ lệ này có thể thấp hơn 30%, nhưng phải được cơ quan quản lý nhà nước về đầu tư nước ngoài chấp nhận. Trong quá trình hoạt động, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài không được giảm vốn pháp định". Thực tiễn hoạt động đầu tư nước ngoài tại Việt Nam trong thời gian qua cho thấy, có những trường hợp bất khả kháng, dẫn đến việc doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài buộc phải xin giảm vốn pháp định. Đó là các trường hợp sau đây: Thứ nhất, một trong các Bên trong doanh nghiệp liên doanh rút khỏi liên doanh vì những nguyên nhân nhất định, trong khi đó, các Bên còn lại có nguyện vọng vẫn tiếp tục duy trì hoạt động sản xuất, kinh doanh. Thứ hai, doanh nghiệp liên doanh buộc phải giảm quy mô đầu tư so với kế hoạch đề ra ban đầu, bởi thị trường tiêu thụ sản phẩm đã có biến động theo hướng nếu cứ duy trì theo quy mô cũ, thì doanh nghiệp sẽ lâm vào tình trạng làm ăn thua lỗ. Thứ ba, vì những khó khăn về tài chính của các công ty mẹ, nên Bên nước ngoài buộc phải xin giảm vốn pháp định của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Trong những trường hợp trên, nguyện vọng của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài xin giảm vốn pháp định là chính đáng và phải được các cơ quan quản lý nhà nước về đầu tư nước ngoài chấp nhận. Điều 34 Nghị định số 24 quy định về cơ cấu lại vốn đầu tư, vốn pháp định đã cho phép doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài được cơ cấu lại vốn đầu tư, vốn pháp định khi có những thay đổi về mục tiêu, quy mô dự án, đối tác, phương thức góp vốn và các trường hợp khác. Việc giảm vốn pháp định nói trên phải đảm bảo điều kiện là không được làm tỷ lệ vốn pháp định của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài xuống dưới mức quy định, có nghĩa là không được thấp hơn 30% so với tổng vốn đầu tư, trường hợp đặc biệt không dưới 20%. 3.3.2.6. Vấn đề xử lý phá sản doanh nghiệp Trong những năm qua, khi việc giải thể doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, nhất là giải thể doanh nghiệp trước thời hạn, thường nảy sinh tình trạng doanh nghiệp không có khả năng thanh toán các khoản nợ cho chủ nợ. Theo quy định hiện hành, hết thời hạn thanh lý thì các tranh chấp được chuyển cho Tòa án giải quyết. Tuy nhiên, nếu chỉ căn cứ vào Luật Phá sản doanh nghiệp và Nghị định 189/CP ngày 23/12/1996 quy định chi tiết thi hành Luật Phá sản doanh nghiệp, thì trên thực tế nhiều trường hợp chưa đủ căn cứ pháp lý để xử lý việc phá sản của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Tuy đối tượng áp dụng luật này bao gồm cả các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, nhưng các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài có những đặc thù riêng, cần phải được quan tâm xem xét cho thích hợp 3.3.2.7. Sửa đổi, bổ sung quy định về bảo đảm đầu tư Điều 66 Luật Đầu tư nước ngoài hiện hành quy định: "căn cứ vào những nguyên tắc quy định trong Luật này, Chính phủ có thể ký các thỏa thuận với nhà đầu tư nước ngoài hoặc đưa ra các biện pháp bảo lãnh về đầu tư". Quy định này chưa làm cho các nhà đầu tư các dự án lớn như dự án dầu khí Nam Côn sơn, Dự án điện BOT Phú Mỹ 3, Phú Mỹ 2.2... yên tâm, vì theo thông lệ quốc tế, các nước thường quy định bảo lãnh của Nhà nước, chứ không quy định bảo lãnh của Chính phủ. Họ lý giải rằng Hiến pháp quy định tài nguyên, khoáng sản... trên lãnh thổ Việt Nam là thuộc sở hữu Nhà nước, đồng thời quy định đất đai là sở hữu toàn dân do Nhà nước thống nhất quản lý. Như vậy, những giá trị vật chất cơ bản là do Nhà nước nắm giữ. Nhưng Luật Đầu tư nước ngoài lại quy định là Chính phủ đứng ra bảo lãnh. Vậy, Chính phủ có gì để bảo lãnh? Đồng thời, Nhà nước thì tồn tại lâu dài, còn Chính phủ thì có thể thay đổi. Tất nhiên, chúng ta đều hiểu, Chính phủ cũng là đại diện cho Nhà nước. Do đó, quy định này có nghĩa là Chính phủ đại diện cho Nhà nước Việt Nam đứng ra bảo lãnh. Nhưng phía các nhà đầu tư nước ngoài khó hiểu vai trò này của Chính phủ. Họ luôn yêu cầu phải có sự bảo lãnh của Nhà nước chứ không phải là của Chính phủ như hiện nay. Hơn nữa, các dự án BOT này toàn là những dự án lớn, có ý nghĩa đối với nền kinh tế. 3.3.2.8. Tiếp tục hoàn thiện các quy định của pháp luật đầu tư nước ngoài cho phù hợp với các điều ước quốc tế mà Việt nam đã ký kết hoặc gia nhập Việc sửa đổi, bổ sung các quy định của pháp luật về đầu tư nước ngoài không phải chỉ nhằm thực hiện cam kết trong các điều ước quốc tế, mà là một giải pháp nằm trong chủ trương chung của Nhà nước ta về cải thiện môi trường đầu tư và chủ động hội nhập sâu, rộng hơn vào kinh tế khu vực và thế giới. Việc hoàn thiện các quy định của pháp luật về đầu tư nước ngoài nhằm thực hiện cam kết trong các điều ước quốc tế mà Việt Nam đã ký kết hoặc gia nhập được thực hiện theo các hướng sau đây: Thứ nhất, điều chỉnh các quy định về thành lập, tổ chức hoạt động của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài nhằm tiến tới thực hiện đối xử quốc gia đối với các nhà đầu tư nước ngoài. Đây là cam kết có liên quan trực tiếp đến các quy định của pháp luật đầu tư nước ngoài hiện hành. Do vậy, việc thực hiện các cam kết này đòi hỏi phải điều chỉnh một số quy định của pháp luật đầu tư nước ngoài về hình thức góp vốn, huy động vốn, tỷ lệ góp vốn, chuyển nhượng vốn và nguyên tắc nhất trí trong doanh nghiệp liên doanh. Trừ cam kết liên quan đến hình thức góp vốn, toàn bộ các cam kết này phải được thực hiện với thời hạn tối đa 3 năm kể từ ngày Hiệp định Thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ có hiệu lực. Thứ hai, điều chỉnh các cam kết về việc thực hiện chế độ thẩm định cấp giấy phép đầu tư và chế độ đăng ký cấp giấy phép đầu tư Luật đầu tư nước ngoài (sửa đổi) năm 2000 đã luật hóa quy định về chế độ thẩm định cấp giấy phép đầu tư và chế độ đăng ký cấp giấy phép đầu tư, nhưng không quy định cụ thể đối tượng, phạm vi cũng như nội dung của các chế độ này. Để có thời gian rút kinh nghiệm việc triển khai chế độ đăng ký cấp giấy phép đầu tư đã được quy định cụ thể tại Nghị định 24 và Luật Đầu tư nước ngoài (sửa đổi) năm 2000 cho phù hợp với lộ trình đã cam kết trong các điều ước quốc tế mà Việt Nam đã ký kết hoặc gia nhập, cần sửa đổi Nghị định nói trên với các quy định có tính nguyên tắc sau đây: Một là, công bố rõ ràng, công khai điều kiện cấp phép đối với tất cả các dự án đầu tư. Khi đáp ứng các điều kiện này, nhà đầu tư được cấp giấy phép mà không buộc phải thực hiện bất kỳ yêu cầu nào khác. Hai là, từng bước mở rộng phạm vi các dự án được thực hiện chế độ đăng ký cấp giấy phép đầu tư theo hướng: - Chỉ áp dụng các tiêu chí thực hiện chế độ đăng ký cấp giấy phép đầu tư đã cam kết gồm: các dự án đầu tư vào khu công nghiệp, khu chế xuất; các dự án có tỷ lệ xuất khẩu tối thiểu 50%; các dự án có vốn đầu tư đến 5 triệu USD. - Trong vòng từ 2 - 3 năm, mở rộng chế độ đăng ký cấp giấy phép đầu tư đối với tất cả các dự án thuộc lĩnh vực sản xuất khác không phụ thuộc vào quy mô vốn đầu tư, trừ các dự án phải thực hiện chế độ thẩm định cấp giấy phép đầu tư. Thứ ba, điều chỉnh các cam kết về việc xóa bỏ một số điều kiện đầu tư và tạo môi trường kinh doanh thuận lợi cho hoạt động của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. Thứ tư, điều chỉnh các cam kết về mở cửa thị trường và dành quy chế đối xử quốc gia cho các nhà đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực thương mại hàng hóa và thương mại dịch vụ. Những cam kết về vấn đề này có liên quan trực tiếp đến các quy định của pháp luật về điều kiện đầu tư hoặc hành nghề của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực thương mại và dịch vụ. Phần lớn các vấn đề này thuộc phạm vi điều chỉnh của các văn bản dưới luật do Chính phủ hoặc các Bộ, ngành quản lý kinh tế, kỹ thuật ban hành. Vì vậy, hướng điều chỉnh những cam kết này là rà soát toàn bộ các văn bản pháp quy của các ngành có liên quan về điều kiện đầu tư hoặc hành nghề của các doanh nghiệp nói chung để sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với các cam kết của Nhà nước ta. KẾT LUẬN 1. Là một bộ phận hợp thành hệ thống pháp luật Việt Nam, pháp luật đầu tư nước ngoài có vị trí độc lập tương đối trong toàn bộ chỉnh thể của hệ thống và có mối quan hệ hữu cơ với các đạo luật của nhiều ngành luật trong hệ thống đó. Nghiên cứu lịch sử hình thành và phát triển của pháp luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam cho thấy, pháp luật đầu tư nước ngoài đã thường xuyên được sửa đổi, bổ sung, tạo dựng một khung pháp lý cơ bản, điều chỉnh hoạt động đầu tư trong nước cũng như đầu tư nước ngoài, trên cơ sở quán triệt quan điểm "mở cửa", hội nhập kinh tế quốc tế của Đảng, phù hợp với thực tiễn và thông lệ quốc tế. Những đóng góp của hoạt động đầu tư vào việc thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội của đất nước là một minh chứng khẳng định vai trò tích cực của pháp luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. 2. Nghiên cứu thực trạng sự hình thành và phát triển của pháp luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam cho thấy, từ năm 1977 cho đến nay, pháp luật đầu tư nước ngoài đã luôn luôn được hoàn thiện, tạo dựng được khung pháp lý điều chỉnh hoạt động đầu tư nước ngoài, trên cơ sở quán triệt quan điểm mở cửa, hội nhập kinh tế quốc tế của Đảng, về cơ bản phù hợp với thực tiễn và thông lệ quốc tế. Những đóng góp của đầu tư nước ngoài vào việc thực hiện các mục tiêu kinh tế – xã hội của đất nước là một minh chứng khẳng định vai trò tích cực của pháp luật đầu tư nước ngoài. Tuy nhiên, ra đời trong bối cảnh công cuộc đổi mới đất nước đang diễn ra rất nhanh chóng và nhiều đạo luật về kinh tế đã được ban hành và thường xuyên có sự bổ sung, sửa đổi, nên pháp luật đầu tư nước ngoài cũng đã bộc lộ một số hạn chế như: không ít quy định còn chồng chéo, không thống nhất, thiếu tính đồng bộ và chưa rõ ràng. Tình trạng trên cùng với việc chậm ban hành các văn bản hướng dẫn thi hành đạo luật Đầu tư nước ngoài của các Bộ, ngành có liên quan đã tạo nên sự thiếu thống nhất trong việc áp dụng pháp luật, ảnh hưởng đến hiệu quả của pháp luật đầu tư nước ngoài. 3. Để chủ động hội nhập có hiệu quả, cần nỗ lực chủ quan rất lớn và phải có kế hoạch tổng thể tham gia hội nhập kinh tế quốc tế, xây dựng lộ trình hợp lý và chương trình hành động trong từng thời kỳ, phát huy quyền chủ động của các cấp, các ngành. Xu thế hội nhập kinh tế quốc tế và toàn cầu hóa kinh tế đòi hỏi mỗi quốc gia phải phát triển hệ thống pháp luật nói chung, pháp luật đầu tư nước ngoài nói riêng để tương đồng với các nước ASEAN và các nước khác trong khu vực và phù hợp với thông lệ quốc tế. Đây có thể nói là yêu cầu mang tính khách quan, bởi lẽ nếu ta không phát triển hệ thống pháp luật nói chung, pháp luật đầu tư nước ngàoi nói riêng, thì nước ta rất khó hội nhập kinh tế khu vực và thế giới. Vì vậy, việc tiếp tục hoàn thiện pháp luật đầu tư nước ngoài là một nhu cầu có tính khách quan nhằm đáp ứng yêu cầu mới, tạo môi trường pháp lý ổn định, thông thoáng, hấp dẫn các nhà đầu tư vào đầu tư tại Việt Nam là cần thiết. Tuy nhiên, việc hoàn thiện pháp luật đầu tư nước ngoài cần tuân thủ các nguyên tắc nhất định, đặc biệt phải quán triệt đường lối, chính sách của Đảng về mở cửa và hội nhập kinh tế quốc tế. 4. Mục tiêu của việc hoàn thiện pháp luật đầu tư nước ngoài trong thời gian tới là đổi mới thêm một bước hành lang pháp lý và cải thiện môi trường đầu tư với ba mục tiêu: tháo gỡ kịp thời những khó khăn, cản trở đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đã được cấp Giấy phép và đang hoạt động; thu hút nhiều dự án đầu tư mới, với chất lượng cao hơn; đưa các quy định của pháp luật đầu tư nước ngoài xích gần thêm một bước với các quy định của pháp luật đầu tư trong nước, tiến tới một mặt bằng pháp lý chung cho cả đầu tư nước ngoài và đầu tư trong nước, tạo thế chủ động trong hội nhập quốc tế. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO Bộ Kế hoạch và Đầu tư (1996), Báo cáo tổng kết tình hình đầu tư nước ngoài năm 1996, 2000, 2002. Bộ Kế hoạch và Đầu tư (1999), “Tăng cường sự hấp dẫn của môi trường đầu tư nước ngoài tại Việt Nam”, Hội thảo do Bộ Kế hoạch và Đầu tư và Cộng đồng châu Âu đồng tổ chức, Hà Nội. Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2000), Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, Nxb Thống kê, Hà Nội. Đảng Cộng sản Việt Nam (1986), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Nxb Sự thật, Hà Nội. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII. Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. TS. Lê Đăng Doanh - TS. Nguyễn Minh Tú (chủ biên) (2001), Tăng trưởng kinh tế và chính sách xã hội ở Việt Nam trong quá trình chuyển đổi từ năm 1991 đến nay - kinh nghiệm của các nước ASEAN, Nxb Lao động, Hà Nội. Hiến pháp Việt Nam (1946, 1959, 1980, 1992) (1995), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Luật Khuyến khích đầu tư trong nước (1994), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Luật Phá sản doanh nghiệp (1994), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Luật Thương mại (1997), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Luật Doanh nghiệp (1999), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. TS. Nguyễn Minh Mẫn (1996), Đổi mới và hoàn thiện khung pháp luật kinh tế trong điều kiện kinh tế thị trường ở Việt Nam, Luận án phó tiến sĩ luật học, Hà Nội. TS. Vũ Trường Sơn (1996), Đầu tư trực tiếp nước ngoài với tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam, Luận án phó tiến sĩ khoa học kinh tế, Hà Nội. TS. Lê Mạnh Tuấn (1996), Cơ sở khoa học của việc hoàn thiện khung pháp luật đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam, Luận án phó tiến sĩ luật học, Hà Nội. PGS.TS Chu Hồng Thanh (1993), Nhà nước quản lý kinh tế bằng pháp luật trong cơ chế thị trường ở Việt Nam hiện nay, Luận án phó tiến sĩ luật học, Hà Nội. Nguyễn Như ý (chủ biên) (1998), Đại từ điển tiếng Việt, Nxb Văn hóa – Thông tin, Hà Nội. TS. Hoàng Phước Hiệp (1996), Cơ chế điều chỉnh pháp luật trong lĩnh vực đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam, Luận án phó tiến sĩ luật học, Hà Nội.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docPhương hướng hoàn thiện pháp luật đầu tư nước ngoài tiến tới mặt bằng pháp lý chung cho đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài tại Việt Nam.doc