Quan điểm giải tích về các cách tiếp cận khái niệm giới hạn và việc phát huy tính tích cực nhận thức của học sinh trong dạy học chủ đề giới hạn ở bậc THPT

MỞ ĐẦU 1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI 1.1. Đổi mới phương pháp dạy học nhằm phát huy tính tích cực nhận thức của học sinh là yêu cầu tất yếu và cấp bách của Giáo dục. Để đáp ứng được những yêu cầu mới của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, sự thách thức trước nguy cơ tụt hậu trên con đường tiến vào thế kỷ XXI bằng cạnh tranh trí tuệ đang đòi hỏi phải đổi mới Giáo dục, trong đó có việc đổi mới căn bản về phương pháp dạy và học, sớm tiếp cận trình độ giáo dục Phổ thông ở các nước phát triển trong khu vực và trên Thế giới (đây không phải vấn đề riêng của nước ta, mà là vấn đề đang được quan tâm ở mọi quốc gia) nhằm nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện thế hệ trẻ, phát triển nguồn nhân lực trong giai đoạn mới, phục vụ các yều cầu đa dạng của nền Kinh tế – Xã hội. Sự phát triển với tốc độ mang tính bùng nổ của khoa học công nghệ thể hiện qua sự ra đời nhiều thành tựu mới cũng như khả năng ứng dụng chúng vào thực tế cao, rộng và nhanh cũng đòi hỏi phải đổi mới Giáo dục. Trong bối cảnh hội nhập giao lưu, học sinh được tiếp nhận nhiều nguồn thông tin đa dạng, phong phú, từ nhiều mặt của cuộc sống, nên hiểu biết linh hoạt và thực tế hơn nhiều, so với các thế hệ cùng lứa trước đây mấy chục năm (đặc biệt là học sinh THPT). Vì vậy, đòi hỏi Giáo dục - Đào tạo phải xác định lại mục tiêu, nội dung, phương pháp, phương tiện, tổ chức, cách đánh giá, theo định hướng đổi mới phương pháp dạy học đã được xác định trong các tài liệu sau: + Nghị quyết Trung ương 4 khóa VII (1- 1993) đã đề ra nhiệm vụ ''đổi mới phương pháp dạy học ở tất cả các cấp học, bậc học". + Nghị quyết Trung ương 2 khóa VIII (12- 1996) đã chỉ rõ: "phương pháp Giáo dục - Đào tạo chậm được đổi mới, chưa phát huy được tính tích cực, chủ động sáng tạo của người học". + Luật Giáo dục (12- 1998), cụ thể hóa trong các chỉ thị của Bộ Giáo dục - Đào tạo, đặc biệt chỉ thị số 14 (4-1999). + Luật Giáo dục, điều 28.2, đã ghi: ''Phương pháp Giáo dục - Phổ thông phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh; phù hợp với đặc điểm từng lớp học, môn học; bồi dưỡng phương pháp tự học, rèn luyện kỹ năng, vận dụng kiến thức vào thực tiễn; tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui hứng thú cho học sinh'. Như vậy, quan điểm chung về hướng đổi mới phương pháp dạy học hiện nay (và cũng là một trong những xu thế dạy học hiện đại trên Thế giới), trong đó có phương pháp dạy học môn Toán đã được khẳng định, không còn là vấn đề để tranh luận nữa: Cốt lõi của phương pháp dạy học là phát huy TTCNT trong học tập của học sinh, khơi dậy và phát triển khả năng tự học, nhằm hình thành cho học sinh tư duy tích cực, độc lập, sáng tạo, để tạo cho học sinh học tập một cách tích cực, chủ động, chống lại thói quen học tập thụ động. Đó là hướng tới học tập trong hoạt động và bằng hoạt động, tức là cho học sinh được suy nghĩ nhiều hơn, thảo luận nhiều hơn, hoạt động nhiều hơn, khi đứng trước một vấn đề của nội dung bài học hay một yêu cầu thực tiễn của cuộc sống. Đây chính là tiêu chí, thước đo, đánh giá sự đổi mới phương pháp dạy học. Trên tinh thần đó, việc dạy học không chỉ phải thực hiện nhiệm vụ trang bị cho học sinh, những kiến thức cần thiết về môn dạy, mà điều có ý nghĩa to lớn còn ở chổ dần dần hình thành và rèn luyện cho học sinh tính tích cực, độc lập sáng tạo trong quá trình học tập, để học sinh có thể chủ động, tự lực, tự đào tạo, tự hoàn thiện tri thức trong hoạt động thực tiễn sau này. Do đó, việc thiết kế những nội dung dạy học cụ thể, nhằm tạo môi trường để tư duy nhận thức của học sinh được hoạt động tích cực, là rất cần thiết. Chẳng hạn, dạy học khái niệm về chủ đề Giới hạn có thể là minh chứng rõ nét cho việc dạy học theo hướng phát huy TTCNT của học sinh. 1.2. Chủ đề ''Giới hạn'' là một trong những chương quan trọng, cơ bản, nền tảng và khó của Giải tích Toán học ở THPT. Khái niệm Giới hạn không chỉ là kiến thức cơ bản nền tảng của Giải tích vì: ''không có Giới hạn thì không có Giải tích. Hầu hết các khái niệm của Giải tích đều liên quan đến Giới hạn'' [37, tr. 147] mà còn là khái niệm Toán học khó đối với học sinh. Có thể nói khi học về chủ đề Giới hạn là quá trình biến đổi về chất trong nhận thức của học sinh, ở đây học sinh được xem xét các sự kiện trong mối liên hệ qua lại của thế giới khách quan rõ ràng nhất. Vì ta đã biết Đại số đặc trưng bởi kiểu tư duy “hữu hạn”, “rời rạc”, “tĩnh tại”, còn khi học về Giải tích kiểu tư duy chủ yếu được vận dụng liên quan đến “vô hạn”, “liên tục”, “biến thiên”. Khái niệm Giới hạn chính là cơ sở cho phép nghiên cứu các vấn đề gắn liền với “vô hạn, liên tục, biến thiên. Do vậy, nắm vững được nội dung khái niệm Giới hạn là khâu đầu tiên, là tiền đề quan trọng để xây dựng cho học sinh khả năng vận dụng vững chắc, có hiệu quả các kiến thức Giải tích Toán học ở phổ thông. Chủ đề Giới hạn có vai trò hết sức quan trọng trong toán học phổ thông còn lẽ vì : "khái niệm Giới hạn là cơ sở, hàm số liên tục là vật liệu để xây dựng các khái niệm đạo hàm và tích phân. Đây là nội dung bao trùm chương trình Giải tích THPT [4, tr. 12]. Để hiểu được chứng minh, nắm vững nội dung của những khái niệm Giới hạn cần thiết phải có những phương thức sư phạm tốt, đó là các cách thức và phương tiện thích hợp, những lời nói sinh động, những hình ảnh trực quan, những ví dụ cụ thể, rèn luyện và phát triển khả năng chuyển đổi từ ngôn ngữ thông thường sang ngôn ngữ Toán học, khả năng thực hiện các thao tác tư duy cơ bản, những sơ đồ, bảng biểu, những bài tập thích hợp và những tình huống sư phạm .). Trong quá trình dạy học, giáo viên phối hợp sử dụng với từng nội dung bài học hợp lý để góp phần tạo nên những hoạt động và giao lưu của giáo viên với học sinh và học sinh với học sinh, nhằm đạt được các mục tiêu dạy học chủ đề quan trọng này. 1.3. Thực tiễn của đổi mới chương trình, cải cách phương pháp dạy học hiện nay cho thấy việc sử dụng các phương thức sư phạm thích hợp theo hướng phát huy TTCNT của học sinh thì sẽ nâng cao chất lượng dạy học. Học vấn nhà trường trang bị không thể thâu tóm được mọi tri thức mong muốn. Vì vậy giáo viên phải coi trọng việc dạy chiếm lĩnh và kiến tạo kiến thức của loài người. Đối với từng nội dung kiến thức, giáo viên phải biết khai thác sử dụng những phương thức sư phạm với qui trình dạy học thích hợp để phát huy TTCNT của học sinh, trên cơ sở đó người học có năng lực và thói quen tiếp tục học tập suốt đời. Xã hội đòi hỏi người có học vấn hiện đại, không chỉ có khả năng lấy ra từ trí nhớ các tri thức có sẵn đã lĩnh hội ở nhà trường phổ thông, mà còn phải có khả năng chiếm lĩnh và biết cách thức sử dụng tri thức một cách độc lập, có khả năng đánh giá các sự kiện, hiện tượng mới các tư tưởng một cách thông minh sáng suốt, khi gặp trong cuộc sống trong lao động và trong quan hệ với mọi người. Do có những thay đổi trong đối tượng giáo dục, học sinh được tiếp nhận nhiều nguồn thông tin đa dạng, phong phú, từ nhiều mặt của cuộc sống, hiểu biết được nhiều hơn, linh hoạt và thực tế hơn so với các thế hệ cùng lứa tuổi trước đây. Mặt khác, trong học tập học sinh không thỏa mãn với vai trò người tiếp thu thụ động, không chỉ chấp nhận các giải pháp đã có sẵn được đưa ra, ở lứa tuổi này nảy sinh một yêu cầu và cũng là một quá trình: sự lĩnh hội độc lập các tri thức và phát triển các kĩ năng. Để hình thành phương thức học tập một cách độc lập, phát huy được vai trò tích cực học tập của học sinh một cách chủ định thì cần phải có sự hướng dẫn của giáo viên, các biện pháp, phương thức sư phạm thích hợp đối với từng nội dung bài học cụ thể, giúp học sinh học tập hứng thú, vận dụng tốt tiềm lực sẵn có để phát huy cao TTCNT. Vì những lý do trên đây, chúng tôi chọn đề tài nghiên cứu của luận văn: “Quan điểm Giải tích về các cách tiếp cận khái niệm Giới hạn và việc phát huy TTCNT của học sinh trong dạy học chủ đề Giới hạn ở bậc THPT''.

doc100 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 3927 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Quan điểm giải tích về các cách tiếp cận khái niệm giới hạn và việc phát huy tính tích cực nhận thức của học sinh trong dạy học chủ đề giới hạn ở bậc THPT, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
mục tiêu bài học, giáo viên dự kiến một số câu hỏi bài tập khái niệm giới hạn và tổ chức cho học sinh tự đánh giá về kết quả học tập của bản thân và của bạn . Giáo viên đánh giá tổng kết về kết quả giờ học . e) Hướng dẫn học sinh học bài và làm việc ở nhà - Giáo viên hướng dẫn học sinh luyện tập, củng cố bài củ thông qua làm bài tập thực hành, tự ôn luyện, hệ thống lại các kiến thức giới hạn đã học. - Giáo viên hướng dẫn học sinh chuẩn bị bài học mới. 2.2.2. Minh họa dạy học về khái niệm Giới hạn theo hướng phát huy TTCNT của học sinh Để phát huy TTCNT của học sinh cần xây dựng phương tiện trực quan tượng trưng (mô hình, hình vẽ, sơ đồ, đồ thị, biểu bảng,…) làm chổ dựa trực giác. Xây dựng hệ thống ví dụ và phản ví dụ kết hợp với các phương tiện trực quan tổ chức cho học sinh hình dung được nội dung khái niệm, phát hiện dấu hiệu bản chất của khái niệm và khái quát hình thành khái niệm. Theo như định hướng nhóm tác giả Đoàn Quỳnh chủ biên là không dùng định nghĩa khái niệm Giới hạn thông qua định nghĩa ngôn ngữ '','', '', '' chủ yếu do học sinh khó có thể lĩnh hội được các định nghĩa qua hình thức đó. Nhưng ngay cả khi không còn sử dụng định nghĩa như vậy nữa và theo định nghĩa kiểu mô tả thì người ta thừa nhận rằng không thể đòi hỏi học sinh hiểu một cách sâu sắc bản chất sâu sắc về khái niệm Giới hạn, chính vì vậy chỉ yêu cầu học sinh hiểu khái niệm một cách trực quan và bước đầu hình dung được thế nào là giới hạn dãy số, hàm số từ đó biết lĩnh hội, vận dụng các định nghĩa, định lý, phương pháp giải bài toán về giới hạn. Thực tế đâu đó trong cách dạy học giáo viên thường lướt qua đại khái các định nghĩa và chỉ tập trung luyện tập cho học sinh các thủ thuật tính giới hạn, khử các dạng vô định hay xét tính liên tục. Kết quả cuối cùng không ít học sinh không những biết giải các bài tập liên quan mà còn giải thành thạo nhưng rốt cục lại không hiểu bản chất khái niệm về giới hạn và liên tục. 2.2.2.1. Ví dụ minh họa dạy học khái niệm Giới hạn dãy số a) Mục tiêu +) Về kiến thức: Hiểu được một cách trực quan, và nắm được bản chất khái niệm giới hạn của dãy số có thể là: 0 ; L0; , thông qua xét các ví dụ. +) Về kĩ năng: Giúp học sinh biết vận dụng định nghĩa và các kết quả cơ bản đặc biệt để nhận biết chứng minh dãy số có giới hạn và tính giới hạn dãy số. +) Về tư duy: Bước đầu hình thành kiểu tư duy logíc, linh hoạt, phát triển suy luận toán học gắn liền với sự vô hạn, liên tục, biến thiên +) Về thái độ: Có thái độ học tập tích cực, độc lập, phát huy tính sánh tạo. b) Chuẩn bị phương tiện trực quan dạy học +) Thực tiễn: Học sinh biết biểu diễn sắp xếp thứ tự các số thực trên trục số. +) Phương tiện: Chuẩn bị bảng biểu, để minh họa giới hạn dãy số trên trục số. c) Gợi ý về phương pháp dạy học Sử dụng các phương pháp dạy học cơ bản sau một cách linh hoạt nhằm phát huy TTCNT giúp học sinh tự tìm tòi, phát hiện chiếm lĩh tri thức chủ động: + Gợi mở, vấn đáp ; + Phát hiện và giải quyết vấn đề; + Tổ chức đan xen hoạt động học tập cá nhân và nhóm d) Ví dụ minh họa dạy học khái niệm Giới hạn dãy số theo hướng phát huy TTCNT của học sinh. *) Xây dựng định nghĩa khái niệm Giới hạn dãy số: Để gợi nhu cầu cho học sinh nhận thức, hình dung được nội dung khái niệm, phát hiện dấu hiệu bản chất và khái quát hình thành, củng cố, khắc sâu khái niệm về Giới hạn của dãy số điều quan trọng là học sinh hiểu được bản chất khái niệm mệnh đề, không nên coi trọng lập luận chặt chẽ chính xác toán học, đưa ra xét ví dụ giúp học sinh hình dung giới hạn của dãy số: Bước 1 : Tổ chức cho học sinh phát hiện bản chất khái niệm giới hạn dãy số Ví dụ 20: Xét dãy số un = ; n = 1,2,3,… (?1): Viết một số các số hạng dạng khai triển của dãy số đó ? (!) : Là -1,. (?2) :Thông qua biểu diễn các số hạng của dãy un = trên trục số nhận xét vị trí tương đối của các điểm đó với điểm 0 ? (!) : Khi n tăng điểm biểu diễn “chụm lại “ quanh điểm 0 (ở hình vẽ). un un+2 0 un+1 ( Dãy có giới hạn 0) (?3): Khi n+thì khoảng cách từ điểm un với điểm 0 tức |un- 0| = |un| = ? nhận xét ? (!) : Khoảng cách từ điểm un đến điểm 0, tức | un| = trở nên nhỏ bao nhiêu cũng được (nhưng không thể bằng 0), khi n càng lớn. (?4) : Hãy minh họa rõ qua lập bảng ? (!) : Cụ thể n 1 2 … 10 11 … 76 77 …1000000 1000001 1000002 … 1 … … … ... (?5) : Mọi số hạng đã cho, kể từ số hạng thứ mấy trở đi, thì đều có giá trị tuyệt đối nhỏ hơn số dương () là Vì sao ? ( !) : Với số dương tức là |un| = 1000000, nghĩa là bắt đầu từ số hạng thứ 1000001 trở đi; (!) : Vì khi đó thì |un| < - < un < tức là khoảng (-;) trên trục số thực, chứa tất cả các số hạng của dãy un = và bên ngoài khoảng đó chỉ chứa hữu hạn các số hạng thứ tự từ 1 đến 1000000 của dãy số đã cho Như vậy mọi số hạng của dãy số đã cho đều có giá trị tuyệt đối nhỏ hơn một số thực dương () nhỏ tùy ý cho trước (nhưng không thể bằng 0), kể từ một số hạng nào đó trở đi, ta nói rằng dãy số un = có giới hạn là 0. Bước 2 : Khái quát hóa và nêu ra định nghĩa khái niệm giới hạn của dãy số (?6): Đó là nội dung định nghĩa dãy số có giới hạn 0, hãy phát biểu định nghĩa ? cho ví dụ minh họa ? (!) : Định nghĩa1:" un = 0 | un | < m là một số thực dương nhỏ tùy ý cho trước (nhưng không bằng 0), kể từ một số hạng nào đó trở đi". (?7) : áp dụng tính C = ? Từ đó hãy phát biểu định nghĩa dãy có giới hạn L 0 ( L R) qua định nghĩa dãy số có giới hạn 0 ? cho ví dụ minh họa? (!) : Định nghĩa 2: un = L (un – L) = 0 . (?*8) : Trong định nghĩa sử dụng cụm từ ''nhỏ tùy ý '' có ý nghĩa gì ? (!*) : Thực ra, nếu không có lời giải thích đó học sinh sẽ ít chú trọng đến tính chất ''vô cùng bé '' và tính “biến thiên’’, đây là đặc trưng của Giải tích mà học sinh chỉ nghĩ đến giá trị cố định của số dương, thì tư duy lại theo kiểu ''tĩnh tại'', ''rời rạc’', ''hữu hạn'' của Đại số. Lời giải thích này hướng vào kiểu tư duy ''biến thiên'', ''liên tục'', ''vô hạn'' của Giải tích. (?9) : Trở lại định nghĩa 1: nếu + Thay dấu “ ”; + Thay bởi - M ( hoặc M ); + Bỏ dấu giá trị tuyệt đối của Un miền giá trị của Un = ? ; + Thay cụm từ “nhỏ tùy ý “ , bởi cụm từ “lớn tùy ý “ ; thì đó là nội dung hai định nghĩa về khái niệm giới hạn âm vô cực ( dương vô cực), hãy phát biểu ? (!) : Định nghĩa 3: "un = + un > M , với M là một số thực dương lớn tùy ý cho trước, kể từ một số hạng nào đó trở đi". (!): Định nghĩa 4: "un = - un > - M, với M là một số thực dương lớn tùy ý cho trước, kể từ một số hạng nào đó trở đi ". (? 10): Mối liên hệ giữa hai định nghĩa 3 và định nghĩa 4 ? (!) : Xem định nghĩa dãy số un có giới hạn - thông qua + như sau: ''Dãy số un được gọi là có giới hạn - nếu (- un ) = +”. Bước 3: Nhận dạng củng cố, khắc sâu khái niệm về Giới hạn của dãy số (?11): Phân biệt rõ ''giới hạn hữu hạn '' và ''giới hạn vô hạn”minh họa trục số ? + Khi n tăng các điểm biểu diễn các số hạng của dãy số un có giới hạn hữu hạn là L (với LR) thì chụm lại quanh điểm L. +Với n tăng các điểm biểu diễn các số hạng của dãy số un có giới hạn vô cực: + (hoặc - ) là một ''quá trình biến thiên'' đi xa mãi theo chiều dương (hoặc chiều âm) của trục số vượt qua mọi điểm M ( hoặc - M ) cho trước dù số thực dương M lớn tùy ý đến đâu thì điểm biểu diễn của dãy số un đều nằm bên phải điểm M ( hoặc đều nằm bên trái điểm M ) có thể kể từ một số hạng nào đó trở đi, được minh họa rõ ở hình vẽ : un un+2 L un+1 ( Dãy có giới hạn L) -M (Dãy có giới hạn - ) M un un+1 un+2 (Dãy có giới hạn +) Đây là bước không thể thiếu được khi học về khái niệm mới, để cũng cố cho học sinh ta dùng các bài toán mà trong đó phải trả lời các câu hỏi như: “ kể từ số hạng nào trở đi thì nhỏ hơn một số dương (cho trước nhỏ tùy ý nhưng không thể bằng 0) ?”, bằng cách cho : Làm bài kiểm tra (15 phút) sau đây: Câu 1 : Cho dãy số un = . Các khoảng nào cho sau đây chứa tất cả các số hạng của dãy (có thể trừ ra một số hữu hạn số hạng của dãy) ? A. B. C. D. Câu 2 : Cho dãy số un = Các khoảng nào cho sau đây chứa tất cả các số hạng của dãy (có thể trừ ra một số hữu hạn số hạng của dãy) ? A. B. C. (2;3) D. Câu 3 : Hãy cho biết dãy nào có giới hạn ? A. un = với q < 1 B. un = C. un =(-1)n D. un = . * Dụng ý sư phạm của đề kiểm tra (15 phút) : Câu 1: Nhằm kiểm tra xem học sinh có nắm được bản chất khái niệm dãy số có giới hạn là 0 qua vận dụng định nghĩa, chỉ yêu cầu nhận biết; Câu 2: Cũng nhằm kiểm tra học sinh có nắm được bản chất khái niệm dãy số có giới hạn L0 qua vận dụng định nghĩa, chỉ yêu cầu nhận biết; Câu 3: Kiểm tra học sinh nắm vững khái niệm định nghĩa dãy có giới hạn, không phải mọi dãy số đều là hoặc có giới hạn hữu hạn ( L0 ) hoặc có giới hạn vô cực (), chỉ yêu cầu nhận biết. b) Cho các bài tập về nhà luyện tập sau đây: Bài 1: Tìm các số hạng của dãy un = sao cho khoảng cách giữa chúng đến số 0 là : a) nhỏ hơn ; b ) nhỏ hơn 2 . Bài 2 : Tìm các số hạng của dãy un = sao cho khoảng cách của chúng đến số 1 là : a) nhỏ hơn ; b) nhỏ hơn 1. Bài 3 : Hãy cho biết dãy nào có giới hạn ? Nếu dãy số có giới hạn chỉ ra giới hạn của dãy số ? Kể từ số hạng thứ mấy trở đi thì nhỏ hơn 0,00001 ? a ) un = (-1)nn ; b) vn = (-1)n ; c) wn = n ; d) zn = . Tóm lại khi học về Giới hạn của dãy số ta cần làm cho học sinh nắm vững hiểu rõ bản chất qua xét các ví dụ và phân biệt được ''giới hạn hữu hạn '' với ''giới hạn vô hạn” của dãy số bằng ” trực giác hình học'' trên trục số kết hợp với lập luận ''trực giác số”. 2.2.2.2. Sử dụng tư liệu kiến thức lịch sử Toán học dạy khái niệm giới hạn Ngoài ra, nếu có điều kiện ta có thể sử dụng tư liệu lịch sử Toán về khái niệm giới hạn để gợi động cơ, hình thành, củng cố, khắc sâu khái niệm qua đó khơi dậy phát huy TTCNT của học sinh trong các tiết dạy tự chọn, ôn luyện hay ngoại khóa, tùy theo từng đối tượng học sinh mà giáo viên có thể khai thác thêm một số nghịch lý thể hiện qua các ví dụ sau : Ví dụ 22: Nghịch lí “ 0 = 1 “. Xét S = 1 – 1 + 1 – 1 +…+ 1 - 1 +… Ta có, S = ( 1 – 1 ) + ( 1 – 1 ) +…+( 1 – 1) +…= 0 + 0 +…+ 0 + …= 0. (*) Mặt khác, S =1 + (-1 + 1) + (-1 + 1) +…+ (-1 + 1) +…= 1 + 0 + 0 + …+ 0 +…= 1. (**) Từ (*) và (**) suy ra : 1 = 0 (!?). Ví dụ 23: Nghịch lý “ -2 là số dương “. Cho x = 1 + (***) Suy ra : x = (****) Từ (***) ta thấy x là tổng của các số dương nên x > 0. Nhưng lấy (***) trừ đi (****) ta có : x - x = 1 hay x = -2 . Vậy từ đó ta dẫn đến -2 là một số dương. Các nghịch lý trên cho thấy các phép toán và qui tắc đại số không giải thích được các phép toán liên quan đến quy trình vô hạn. Như vậy, nhu cầu tất yếu là khám phá phép toán mới để giải quyết các vấn đề liên quan đến nghịch lí trên. Đối với cách dạy dạng này phù hợp với tiết dạy tự chọn, ngoại khóa. Qua đây cho học sinh thấy được sự hạn chế của phép toán và qui tắc đại số trong việc giải quyết các vấn đề liên quan tới sự vô hạn. Mặt khác tạo động cơ tiếp thu khái niệm mới, cũng như cho học sinh ý thức đựơc tầm quan trọng của khái niệm giới hạn và có nhu cầu hứng thú học về khái niệm giới hạn. Thực tế, trong dạy học tùy vào từng đối tượng học sinh để có phương pháp dạy học phù hợp, không phải những câu hỏi đặt ra đều được học sịnh trả lời đúng như mong đợi, vì vậy trên đây là những câu hỏi và trả lời định hướng mắt xích của vấn đề, để phát huy được TTCNT của học sinh khi xây dựng về khái niệm Giới hạn dãy số, đòi hỏi bản thân mỗi giáo viên, phải tinh tế, lựa chọn sử lý các tình huống, vận dụng những biện pháp, phương thức sư phạm thích hợp sao cho đạt được kết quả trong quá trình dạy học . 2.2.3. Dạy học bài tập về Giới hạn với chức năng phát huy TTCNT của học sinh. Trong dạy học, bài tập toán được sử dụng với những chức năng khác nhau như: dạy học, phát triển, giáo dục, kiểm tra. Mỗi bài tập toán cụ thể có dụng ý và những chức năng khác nhau, như ở đây với chức năng dạy học bài tập được xây dựng nhằm hình thành ý thức tự cũng cố đào sâu, hệ thống hóa khái niệm và rèn luyện kỹ năng kỹ xảo cho học sinh đối với các kiến thức về khái niệm chủ đề giới hạn đã học, bài tập như thế này là hình thức tốt nhất để phát huy TTCNT của học sinh. 2.2.3.1. Bài tập về Giới hạn là phương tiện phát huy TTCNT của học sinh Trong dạy học Toán ở trường phổ thông, có thể xem việc giải toán là hình thức chủ yếu của hoạt động toán học đối với học sinh. Hệ thống bài tập toán là cầu nối gắn liền lí thuyết với thực tiễn, đồng thời bài tập là hình thức tốt nhất để rèn luyện tính tích cực trong hoạt động nhận thức ở học sinh, đây là một phương tiện rất có hiệu quả và không thể thay thế được trong việc giúp học sinh nắm vững tri thức, phát triển tư duy, hình thành kỹ năng, kỹ xảo vận dụng toán học vào thực tiễn. Vì vậy, làm bài tập toán nói chung và giải bài tập về chủ đề Giới hạn nói riêng là một phương tiện tốt để phát huy TTCNT của học sinh. 2.2.3.2. Ví dụ minh họa dạy học luyện tập về các bài toán tính Giới hạn và xét tính liên tục của hàm số theo hướng phát huy TTCNT của học sinh. i) Ví dụ dạng bài tập về Giới hạn vô cực và dần về vô cực của hàm số Thực tế cho thấy các dạng bài tập về giới hạn của hàm số như: khử các dạng vô định,…nói chung học sinh cũng đã được làm quen và thực hành tương đối nhiều ở các loại sách tham khảo, nhưng đối với dạng bài tập này học sinh thường gặp khó khăn bởi vì căn bản ở SGK chưa phân biệt vô cực rõ ràng ra + và - mà thường dùng chung chung là , nên khi tính giới hạn của hàm số cùng là một cách tiến của x tới điểm giáp ranh x = a nào đó, mà về hai phía khác nhau của điểm x = a đó là , nhưng kết quả dẫn đến hai giá trị hoàn toàn khác nhau, chẳng hạn là: + và - . Hoặc khi , hoàn toàn xa nhau nhưng hàm số dần về hai phía của một giá trị là L+; L đối với dạng bài tập này sử dụng phương tiện biểu đồ, đồ thị làm chổ dựa trực quan bản chất của vấn đề, cụ thể được minh họa rõ qua các dạng bài tập sau: Bài tập 1: Cho hàm số và đường thẳng y = x (có đồ thị hình 5). a) Quan sát và nêu nhận xét vị trí tương đối của đồ thị trên hệ trục tọa độ, dự đoán giới hạn của hàm số khi x 0+, x 0 - , x-, x + ? b) Kiểm tra lại các nhận xét dự đoán giới hạn nêu trên bằng cách tìm : , , , , = 0 ?, = 0 ? Giải: a) Quan sát đồ thị và nêu nhận xét vị trí tương đối của đồ thị trên hệ trục tọa độ, dự đoán giới hạn của hàm số + Khi x 0+, thì + và đồ thị của hàm số càng đi lên càng sát dần bên phải với trục tung tức : = +. + Khi x 0- , thì - và đồ thị của hàm số càng đi xuống càng sát dần bên trái với trục tung tức là : = -. + Khi x -, thì - nghĩa : = -và đồ thị của hàm số càng đi xuống càng sát dần phía dưới với đường thẳng y = x tức là : = 0 . + Khi x+, thì + nghĩa : = + và đồ thị của hàm số càng đi lên càng sát dần phía trên với đường thẳng y = x tức là : = 0 . Kết hợp sử dụng kết quả của qui tắc về xét dấu phép toán chia vô cực, ta có: = = + ; = = -; = = - ; = = +; = = ; = = . (hình 5- của bài tập 1 ) (hình 6- của bài tập 2) Bài tập 2 : Cho hàm số = (có đồ thị như hình 6) a) Dựa vào đồ thị và nêu nhận xét dự đoán giới hạn của hàm số = khi , , , , , ? b ) Kiểm tra lại các nhận xét dự đoán giới hạn nêu trên bằng cách tìm : , , , , , ? Giải :a) Dựa vào đồ thị và dự đoán giới hạn của: = = -, = +, = +, = -, = 2 +, = 2 + . Kiểm tra lại các nhận xét dự đoán giới hạn nêu trên bằng cách tìm : , , , , , Kết hợp sử dụng kết quả của bảng 4 qui tắc phép toán chia vô cực, ta có: *) Vì(2x2-15x+12) = -1< 0, (x2-5x+4) = 0+ nên = - *)Vì (2x2-15x+12)= -1< 0, (x2-5x+4) = nên = + *)Vì(2x2-15x+12)= -16 < 0,(x2-5x+4)= nên = + *)Vì(2x2-15x+12)= -16 < 0,(x2-5x+4)= 0+ nên = - *) = = 2+. *) = = 2-. Bài tập 3: Cho ba hàm số:= ; = ; = Các đường cong C7, C8, C9( h.7, 8, 9) là đồ thị của ba hàm số này, xét trên tập R\, (không xếp theo thứ tự). a) Quan sát đồ thị và nêu nhận xét dự đoán giới hạn của các hàm số khi : x 0+, x 0 - , x-, x + ? b) Chỉ dùng kết quả tính giới hạn của hàm số, , khi: x0 - , x0+, x-, x+ từ đó hãy xác định đường cong nào là đồ thị của hàm số đã cho ? (Hình 7 ) ( Hình 8) ( Hình 9 ) Giải: a) Nhận xét dự đoán giới hạn của hàm số: *) Đối với đồ thị hình 7 (đường cong C7) Khi x 0-, thì (nhánh đường cong C7) + và càng sát dần bên trái với . Khi x 0+ , thì (nhánh đường cong C7) - và càng sát dần bên phải với . Khi x -, thì (nhánh đường cong C7) + càng sát dần phía trên với đường thẳng y = -x. Khi x+, thì (nhánh đường cong C7) -và đồ thị càng sát dần phía dưới với đường thẳng y = - x. *) Đối với đồ thị hình 8 của (đường cong C8) Khi x 0+, thì (nhánh đường cong C8)- và càng sát dần bên phải với . Khi x 0- , thì (nhánh đường cong C8) - và càng sát dần bên trái với . Khi x -, thì (nhánh đường cong C8) - và càng sát dần phía dưới với đường thẳng y = x. Khi x+, thì (nhánh đường cong C8) +và càng sát dần phía dưới với đường thẳng y = x. *) Đối với đồ thị hình 9 của (đường cong C9) Khi x 0+, thì (nhánh đường cong C9) + và càng sát dần bên phải với . Khi x 0- , thì (nhánh đường cong C9) - và càng sát dần bên trái với . Khi x -, thì (nhánh đường cong C9) - và đồ thị càng sát dần phía dưới với đường thẳng y = x. Khi x+, thì (nhánh đường cong C9)+và đồ thị càng sát dần phía trên với đường thẳng y = x. b) Kết quả tính giới hạn của hàm số, , khi: x0 - , x0+, x-, x+ *) Ta có : = + ; = - . Từ kết quả này và đồ thị đã cho suy ra đường cong C8 là đồ thị của hàm số vì chỉ C8 là có hai nhánh đồ thị dần ra - khi x0 - , x0+. *) Xét : = =+ Kết hợp với đồ thị suy ra đường cong C9 là đồ thị của hàm số. Vì trong hai đường cong còn lại chỉ có C9 là có nhánh đồ thị dần tới + khi x+. *) Từ hai kết quả trên, suy ra có đồ thị là đường cong C7. ii) Ví dụ minh họa dạy hoc về loại bài tập xét tính liên tục của hàm số Tập cho học sinh thói quen tìm hiểu sâu sắc bản chất của khái niệm về tính liên tục hàm số, chẳng hạn từ nội dung của định lí : “ f(x) liên tục trên [ a ; b] và f(a).f(b) < 0 = 0 “. Cho học sinh khai thác các giả thiết của định lí là: f(x) liên tục trên [ a ; b] và f(a).f(b) < 0 , qua dạng bài tập sau: Bài tập 4 : Cho hàm số f(x) liên tục trên [a;b]. Nếu f(a).f(b) > 0 thì phương trình f(x) = 0 có nghiệm hay không trong khoảng (a;b) ? Cho ví dụ minh họa ? Giải : Với hàm số f(x) liên tục trên [a;b]. Nếu f(a).f(b) > 0 thì phương trình f(x) = 0 có thể có nghiệm hoặc vô nghiệm trong khoảng (a;b), chẳng hạn: Xét hàm số f(x) = x2 – 1 liên tục trên [-2;2] và f(-2). f(2) = 9 > 0. Phương trình x2 – 1 = 0 có nghiệm x = 1 trong khoảng (-2;2). Xét hàm số (x) = x2 + 1 liên tục trên [-1;1] và f(-1). f(1) = 4 > 0. Phương trình x2 + 1 = 0 vô nghiệm trong khoảng (-1;1) mà còn vô nghiện trên R. Bài tập 5: Cho hàm số f(x) không lên tục trên đoạn [a;b], nhưng f(a).f(b)< 0. phương trình f(x) = 0 có nghiệm hay không trong khoảng (a;b) ? Hãy minh họa câu trả lời bằng đồ thị ? Giải : Nếu hàm số f(x) không liên tục trên đoạn [a;b] và f(a). f(b) < 0 thì phương trình f(x) = 0 có thể nhiệm hoặc vô nghiệm trong khoảng (a;b). Chẳng hạn minh họa hình học : (hình 10), f(x) = 0 có nghiệm (a;b) (hình 11), f(x) = 0 vô nghiệm (a;b) Bài tập 6 : Cho hàm số . Hãy đánh dấu đúng (sai) tương ứng với khẳng định đúng (sai). Thì ; (Đúng). Phương trình có ít nhất một nghiệm ;(Sai).Vì sao? Phương trình có ít nhất một nghiệm . (Đúng). Qua làm các dạng bài tập này, học sinh sẽ thấy rằng ba điều kiện để hàm số f(x) liên tục tại điểm x = a , cần thoả mãn đồng thời là: f(x) xác định tại x = a ; ii) Tồn tại f(x) ; iii) f(x) = f(a). Trong khi dạy học thì phản ví dụ có vai trò rất quan trọng trong việc tránh sai lầm của học sinh khi lĩnh hội khái niệm, chẳng hạn đưa ra phản ví dụ sau để nhận dạng khái niệm hàm số f(x) liên tục tại một điểm: (?) Vậy như thế nào thì hàm số không liên tục tại một điểm ? Cho ví dụ minh họa ? Ví dụ24: +) Hàm số f(x) = , không liên tục tại x= 9 (không thõa mãn điều kiện i); +) Hàm số g(x) = , không liên tục tại x= 0 ( không thõa mạn ii); +) Hàm số h(x) = , không liên tục tại x = 1 (không thõa mạn iii). Qua các dạng bài tập về xét tính liên tục của hàm số mà bản chất chính là xét tính liên tục tại một điểm của hàm số ta có thể tóm tắt sơ đồ về qui trình các bước đó như sau: (Sơ đồ 4) f(x0) f(x) f(x) = f(x0) f(x) liên tục tại x0 f (x) gián đoạn tại x0 Bắt đầu Kết thúc Lấy bất kỳ x0(a;b) f(x0) f(x) liên tục tại x0 f(x) liên tục trên (a;b) f(x) không liên tục trên (a;b) Kết thúc Hàm số liên tục trên (a;b) Hàm số liên tục tại Ngoài ra khi xét tính liên tục của hàm số nói chung, xét tính liên tục của hàm số tại một điểm nói riêng ta cần xét đến tập xác định của hàm số đó, chẳng hạn ta xét hai hàm số f(x) và g(x) qua hai ví dụ sau: Ví dụ 25: Cho f(x)= Giải: f(x) tập xác định D1 = [-2 ; + ) Hàm số liên tục trên tập [-2 ; + )\{2} Là gián đoạn tại điểm x = 2 (minh họa rõ ở hình vẽ 12 ). Ví dụ 26 : Cho hàm số g(x) = Giải : Hàm số g(x) = có tập xác định D2 = [-2 ;2 ] Nhưng so với ví dụ 25 dễ dàng thấy rằng hàm số này liên tục trên tập [ -2; 2]. Vì vậy khi dạy học cần chú ý tận dụng khai thác các tình huống dễ mắc sai lầm, giúp học sinh phát hiện, khắc phục các khó khăn và sữa chữa các sai lầm thường gặp. 2.2.4. Dự đoán phát hiện nguyên nhân và hướng khắc phục những khó khăn sai lầm của học sinh khi học chủ đề Giới hạn. Khi học chủ đề Giới hạn học sinh sẽ làm quen với đối tượng mới, kiểu tư duy mang tính biện chứng hơn. Do đó học sinh gặp phải rất nhiều khó khăn sai lầm không thể tránh khỏi. Bởi vì, sai lầm có tác dụng tích cực, sai lầm cũng có ích trong việc xây dựng tri thức, đặc biệt khi tạo nên sự xem xét lại các tri thức đã biết trước đây. Vì vậy trong quá trình dạy và học Toán ở trường THPT, việc tìm hiểu những khó khăn, sai lầm và chướng ngại mà học sinh phải vượt qua để chiếm lĩnh một tri thức toán học được đưa ra giảng dạy là bước đầu không thể bỏ qua trong quá trình tìm kiếm những phương pháp dạy học hiệu quả nhằm giúp học sinh nắm vững tri thức đó. Hơn nữa, việc phát triển và biết khai thác các tình huống sai lầm làm học sinh hay mắc phải trong học tập cũng chính là quá trình phát huy TTCNT của học sinh. + ở mức độ tri thức khoa học, giáo viên cần hiểu được lý do phát sinh và bản chất của tri thức cần dạy, mặt khác là những trở ngại mà các nhà khoa học đã gặp phải trong quá trình xây dựng và phát triển tri thức này. Đây là cơ sở cho việc xác định nguồn gốc khoa học luận của những khó khăn mà học sinh phải vượt qua để nắm vững tri thức đó. + ở mức độ tri thức cần dạy, thông qua việc phân tích chương trình và SGK sẽ làm sáng tỏ những đặc trưng của việc dạy một tri thức trong quá trình chuyển hóa sư phạm. Nghiên cứu này sẽ giúp giáo viên xác định nguồn gốc sư phạm của những khó khăn mà học sinh thường gặp. Từ việc phát hiện những khó khăn và chướng ngại của từng tri thức Toán học, giáo viên có thể dự đoán được những sai lầm thường gặp ở học sinh khi lĩnh hội tri thức này. + Ta nói rằng có một chướng ngại nếu vấn đề chỉ được giải quyết sau khi ta đã cấu trúc lại những quan niệm hay thay đổi quan điểm lý thuyết. + Ta nói rằng có một khó khăn nếu vấn đề được giải quyết mà không cần phải xem xét lại những quan điểm của lý thuyết đang xét hay thay đổi quan niệm hiện hành. Như ta đã biết, sai lầm không phải là hậu quả của sự không biết, không chắc chắn, ngẫu nhiên, theo cách nghĩ của những người theo chủ nghĩa kinh nghiệm và chủ nghĩa hành vi, mà còn có thể là hậu quả của những kiến thức đã có từ trước, những kiến thức đã từng có ích đối với việc học tập trước kia nhưng lại là sai lầm hoặc đơn giản là không còn phù hợp nữa đối với việc lĩnh hội kiến thức mới. Những sai lầm kiểu này không phải là không dự kiến trước được, chúng sẽ được tạo nên từ những chướng ngại. Những sai lầm sinh ra từ một chướng ngại thường tồn tại rất dai dẳng và có thể tái xuất hiện ngay cả sau khi chủ thể đã có ý thức loại bỏ quan niệm sai lầm ra khỏi hệ thống nhận thức của mình. Vì vậy giúp học sinh tìm ra các sai lầm, phân tích nguyên nhân dẫn đến các sai lầm và tìm cách khắc phục những khó khăn sai lầm đó trong quá trình lĩnh hội khái niệm là việc làm mang nhiều ý nghĩa quan trọng trong quá trình dạy học theo hướng phát huy tính tích cực hoạt động nhận thức của học sinh góp phần nâng cao hiệu quả dạy học. Thực tiễn cho thấy trong quá trình học tập học sinh thường gặp phải các khó khăn sai lầm: 2.2.4.1) Khó khăn sai lầm về kiến thức, bao gồm: a) Các khó khăn sai lầm liên quan việc nắm bản chất của khái niệm, định lý Nếu xét Giải tích ở trường THPT nói chung khái niệm Giới hạn nói riêng rất khó hình thành cho học sinh vì học sinh chưa nhận thức hết tầm quan trọng cũng như các khía cạnh tinh vi trong lập luận xung quanh vấn đề này, nếu như muốn nắm vững được bản chất đích thực vấn đề này. Còn mấy lâu nay khi tìm Giới hạn hay xét tính liên tục, học sinh vẫn đang còn nặng về thuật toán, nói cách khác là thiên về cú pháp mà còn coi nhẹ ngữ nghĩa, chẳng hạn ngay sau khi học xong khái niệm giới hạn hàm số ( mà chưa học đến các định lý về giới hạn và hàm số f(x) liên tục) thì học sinh cho rằng việc tìm giới hạn của f(x) khi xa rất đơn giản: chỉ việc thay x = a và tính f(a). Khi đó f(x) =f(a) điều này phản ánh rằng học sinh chưa hiểu bản chất kí hiệu: lim. Ví dụ27: Tính với cách nghĩ như vậy nên việc tìm giới hạn chỉ là thay x = 9 vào để cho kết quả, suy nghĩ kiểu như vậy dẫn đến cho rằng không tồn tại. Để cho học sinh xem xét đồng thời những đối tượng thõa mãn các định nghĩa khái niệm và định lí (qua các ví dụ) và các đối tương không thõa mãn một trong các khái niệm định nghĩa, định lí (xét phản ví dụ ) qua đó làm sáng tỏ cho học sinh hiểu và nắm vững bản chất của một khái niệm hay định lí, chẳng hạn: Ví dụ28: Tính (?) : Học sinh cho rằng : = f(9) = = 0 vậy = 0 (!) : Thực ra thì hàm số f(x) = không có giới hạn tại x = 9 vì tập xác của hàm số f(x) : , tức tập xác định là K = . Do đó không thể áp dụng định nghĩa f(x) được vì không thể lấy bất kỳ dãy nào cả để thõa mãn điều kiện của định nghĩa đó là: xn K , xn 9 mà 9 , nên hàm số đã cho không có giới hạn tại x = 9. b) Khó khăn sai lầm về hình thức (như hiểu sai công thức, kí hiệu…) Với SGK ở phổ thông của nước ta là chỉ sử dụng có kí hiệu là để viết Giới hạn vô cực của dãy số. Nên tùy vào từng trường hợp mà kí hiệu này, có thể được hiểu theo các cách khác nhau như + hoặc - hay hỗn hợp cả hai + và - , chẳng hạn xét: Ví dụ 29: Với lim n2 = , kí hiệu được hiểu là +. Với lim (-n) = , kí hiệu này được hiểu là -. Với lim (-1)nn = , kí hiệu ở đây được hiểu là cả - và +. Vì vậy, nên khi xét giới hạn vô cực của dãy số phải xét cụ thể chỉ rõ ràng, giới hạn + hay giới hạn - tức là un = + hoặcun = - . Do R là một tập hợp sắp thứ tự nên không thể kết luận chung chung giới hạn là hay viếtun= . Cụ thể, (trở lại ví dụ 21) xét giới hạn vô cực của dãy un = (-1)n theo như phân tích này thì: (-1)nn không tồn tại. Bản chất của + và - không phải là những số thực cụ thể rất lớn nào đó, mà đúng ra nói đến lân cận của + tức là khoảng ( a , +) và lân cận của - là khoảng (-; a) với R, do đó không thể thực hiện các qui tắc hay phép toán đại số trên chúng. Chẳng hạn: nếu = L và = + nhưng không thể viết . Nhưng kết quả giới hạn ( nếu có) của dãy số un có thể là: Giới hạn hữu hạn ( 0, hằng số L0 ) hoặc Giới hạn vô cực (), nên ta có thể xem kí hiệu + và - như là giới hạn của dãy số. Như vậy, khi thực hành trong giải toán học sinh dễ bị lẫn lộn, giữa hai khái niệm ''giới hạn hữu hạn'' và ''giới hạn vô hạn vô cực'', trong việc biến đổi các phép toán về giới hạn và dẫn đến sai lầm trong kí hiệu như : ( +) - ( + ) = 0 ? ; 0 . = 0 ?... Ví dụ 30: Tính Học sinh A: = ; Học sinh B: = ; Học sinh C : = . c) Khó khăn sai lầm liên quan đến thao tác tư duy Học sinh hay sai lầm khi nghiễm nhiên áp dụng một công thức, một khái niệm cho trường hợp suy biến. Trong lịch sử điển hình về sai lầm khi vận dụng phép tương tự: Ví dụ 31: Tính tổng: S = 1- 1 + 1 – 1 + ... Cách 1: S = (1 - 1) + (1 - 1) + … = 0 Cách 2: S = 1 – (-1 + 1) – (1 - 1) + … = 1 Cách 3 : S = - 1 + 1 – 1 + 1 - 1... = -1 + (1 -1) + (1 -1) + ... = -1 Cách 4: Nhà Toán học Gơviđơ - Gơzanđi người Italia nêu ra cách tính tổng như sau : S = 1 - 1 + 1 – 1 + ... S – 1 = -1 + 1 – 1 + ... - S = S - 1 S = . Với ba cách giải đầu đã áp dụng tính chất kết hợp của tổng hữu hạn các số hạng cho tổng vô hạn của các số hạng. Một tổng hữu hạn các số hạng không phụ thuộc vào thứ tự các số hạng. Với ba cách giải đầu đã áp dụng tính chất kết hợp của tổng hữu hạn các số hạng cho tổng vô hạn của các số hạng. Một tổng hữu hạn các số hạng không phụ thuộc vào thứ tự các số hạng. 2.2.4.2. Khó khăn sai lầm về kĩ năng, bao gồm: Hiện nay ở trường THPT, nhìn chung tính tích cực, sánh tạo, của học sinh còn yếu. Học sinh ở các trường chuyên lớp chọn còn có ý thức tự học tự độc lập suy nghĩ để sáng tạo tự tìm tòi lời giải cho các bài toán, tự mình giải quyết các nhiệm vụ học tập, còn đại đa số học sinh thì ỷ lại thầy cô, sách giải bài tập, thiếu tính xem xét, phân tích đào sâu hay mở rộng việc khai thác các định lý dạng bài tập cơ bản, dẫn đến học tập một cách máy móc, rập khuôn, không phát huy kỹ năng sáng tạo và không rèn được kỹ năng kỹ xảo giải bài toán cho nên khi giải toán thừơng gặp các khó khăn sai lầm . a) Khó khăn sai lầm khi vận dụng: định nghĩa, định lý, công thức Ví dụ 32: Tính (?) : Học sinh cho ngay kết quả : = (!) : Nhưng đúng ra kết quả này không tồn tại mà lúc này ta phải phân biệt ra: = - và = +, vậy không tồn tại. ở ví dụ này thì ta thấy: + Điểm a = 1 là điểm “giáp ranh’’ cho nên khi x tức là các dãy (xn – 1) mang giá trị âm; còn khi x tức là các dãy ( xn -1) mang giá trị dương + Điểm a 1 các dãy xna, (a 1) thì ta thấy rằng dù cho xa+ hay xa- thì các dãy (xn -1) không đổi dấu. Ví dụ 33 : Tính (?) : = = 0+0+... +0 = 0 (!) : Các định lý về phép toán Giới hạn chỉ phát biểu cho hữu hạn số hạng. Trong lời giải trên đã áp dụng cho giới hạn của tổng vô hạn các số hạng nên đã dẫn đến sai lầm. Lời giải đúng là: Ta có: 1+2+….+n = do đó : = = = = (!) : Nhận xét: Tổng vô hạn các đại lượng có giới hạn 0 chưa chắc đã có giới hạn 0 (tức là các phép toán giới hạn tổng, hiệu, tích , thương chỉ phát biểu và được sử dụng cho hữu hạn các số hạng ). Vì vậy thường sử dụng phép đánh giá kẹp giữa và phép biến đổi phân tích để tính toán các tổng vô hạn các đại lượng có giới hạn 0. Ví dụ 34 : Tính (?) : Không tồn tại Giới hạn vì dãy số đang xét có: u1 = 1 , u2 = , u3 = , … không tăng cũng không giảm. (!) : Lời giải đưa ra không đúng, vì định lý về dãy đơn điệu bị chặn thì có giới hạn chỉ là nêu lên điều kiện đủ mà không phải là điều kiện cần để dãy số có giới hạn. Mặt khác cũng cần lưu ý rằng: Những số hạng đầu tiên của dãy số không ảnh hưởng tới sự tồn tại giới hạn của dãy số. Chẳng hạn, kể từ số hạng thứ dãy số bắt đầu tiến và bị chặn trên thì dãy số vẫn có giới hạn, còn các số hạng từ (-1) trở về trước không cần quan tâm. Sự quan tâm tới những số hạng đầu tiên của dãy chỉ giúp cho sự phán đoán mà thôi, lời giải đúng như sau: Vì và = 0 nên = 0. Ví dụ 35: Tính (?): Học sinh đã áp dụng sai, nhầm lẫn tính chất: Nếuun= L và vn= thì Tức: Với un = (-1)n , vn = thì . (!) : Kết quả thì vẫn đúng nhưng nhầm lẫn ở đây là (-1)n không có giới hạn, do un = (-1)n là dãy bị chặn nhưng không có giới hạn. Vậy thường sử dụng phép đánh giá kẹp giữa hai đai lượng có cùng giới hạn đó là: do = = 0 nên = 0. Khái niệm giới hạn của hàm số là một khái niệm khó hiểu đối với học sinh (thậm chí đối với cả giáo viên), khi dạy khái niệm giới hạn giáo viên không quan tâm tới giải thích tập xác định của hàm số có vai trò trong tính giới hạn như thế nào? Ví dụ 36: Tính Có học sinh lập luận: Ta có và . Vậy theo định lí về giới hạn của tổng hai hàm số thì: = 0. Thực ra nhưng hàm số f(x) = không có giới hạn tại x = 1 bởi lẽ biểu thức chỉ có nghĩa duy nhất tại điểm x = 1 nên tập xác định của f(x) là K=. Do đó không thể định nghĩa được, vì không thể lấy bất kì dãy nào với , mà dần tới 1 được. Học sinh áp dụng định lí nhưng không hiểu rõ phạm vi áp dụng của định lí. Ví dụ 37: Tìm giới hạn I = (?): Ta có , ...,. Nên I = 0 + 0 + ...+ 0 = 0 (!): Định lí về giới hạn của tổng, hiệu, tích, thương các dãy chỉ phát biểu cho một số hữu hạn các dãy, các dãy này phải có giới hạn, nhưng học sinh đã áp dụng cho tổng vô hạn. Lời giải đúng là: Đặt , ta có: 2nAn = = 2sin Nên , chứ không phải là 0 như lời giải sai trên đây của học sinh. Nhiều ví dụ khác xung quanh chủ đề giới hạn, xét tính liên tục, khả vi của hàm số cho bởi nhiều công thức, tập xác định chia thành nhiều khoảng, Ví dụ 38 : Tìm giới của hàm số f(x) = Rất nhiều học sinh suy nghĩ rằng do do đó . Thực ra lời giải đúng phải xét giới hạn bên phải, bên trái tại x = a. b) Khó khăn sai lầm về kĩ năng biến đổi Ví dụ 39 : Tìm (?) : Học sinh giải : = x+1 = = 2, kết quả trên là đúng nhưng thật sai lầm khi biến đổi đồng nhất = x+1 dấu bằng không thể xảy ra, vì chúng có tập xác định hoàn toàn khác nhau (!) : Ta hiểu bản chất là chọn dãy xn 1, xn1 = xn+1 Khi đó = = 2. Ví dụ 40 : Tìm (?) : Học sinh biến đổi là: = = = (!) : Thực ra ở đây học sinh thường hay nhầm lẫn khi đưa biểu thức ra khỏi dấu căn dạng , kết quả trên chỉ đúng khi x + nên phải biến đổi, Ta có : và khi đó = = Một sai lầm mà học sinh hay mắc phải là khi đã định hướng phân chia ra hai trường hợp x và x rồi nhưng khi biến đổi chỉ xét có một trong hai trường hợp thường là với xra đến kết quả, lấy kết quả này thay đổi dấu và kết luận là của trường hợp x , nhưng qua ví dụ này kết quả lại không như vậy. Mặt khác nếu không dùng kí hiệu dạng chung chung mà phân ra hai loại rõ ràng x hoặc x thì chắc chắn học sinh sẽ đỡ gặp những khó khăn sai lầm như trên. c) Khó khăn sai lầm về định hướng kĩ năng tính toán Ví dụ 41: Tính (?): Thực hiện:== đến đây gặp dạng vô định và học sinh tính toán tiếp để khử dạng vô định này bằng cách cùng nhân và chia cả tử và mẫu với cặp biểu thức liên hợp có dạng phân thức và sẽ rất phức tạp, khó khăn trong tính toán, khi đó dễ gì đi đến kết quả đúng. (!) : Khi tìm giới hạn, một số học sinh không có thói quen định hướng và xác định dạng, trước khi biến đổi tính toán đại số, nếu ngay từ đầu xác định được khi n thì tử số và mẫu số đều có dạng vô định (-) thì ta phải khử dạng vô định này trước, cụ thể: Tính : = Khi tìm giới hạn, một số học sinh không có thói quen xác định đúng dạng thuộc lọai vô định nào trước khi định hướng biến đổi tính toán đại số, do đó xem các dạng: (-) + (-), (+) + (+), (+) - (-), (-) - (+) đều thuộc dạng vô định là () - (), nên hay áp dụng các kỷ thuật tính toán khử dạng vô định này để giải. Đôi khi việc áp dụng cho phép tính được kết quả giới hạn, nhưng đa số các trường hợp khác chỉ dẫn tới các dạng vô định loại khác nữa, chẳng hạn: Ví dụ 42: Tìm (x2 – x) = = = +; Ví dụ 43 : Tìm nếu cứ thực hiện biến đổi (dạng) Nên đối với những dạng đó nếu hiểu được bản chất và kết hợp với các bảng kết quả phép toán vô cực đã lập (ở mục 2.1.4.3.e ) thì sẽ có ngay đáp số: Ví dụ 42 : (x2 – x) = x2 - x = + Ví dụ 43 : = x = + Hoặc có thể xét như sau, cụ thể: Ví dụ 42 : (x2 – x) = Ví dụ 43 : = 2.3. Kết luận chương 2 Chương 2 của luận văn làm sáng tỏ thực trạng về dạy học chủ đề các khái niệm giới hạn bằng việc mô tả những khó khăn, sai lầm của học sinh khi giải Toán về chủ đề này mà nguyên nhân chủ yếu của những khó khăn, sai lầm là những chướng ngại về nhận thức khi học các khái niệm giới hạn. Đặc biệt trong việc mở rộng khái niệm giới hạn của dãy và hàm số sẽ kéo theo một số vấn đề khi dạy học về các khái niệm này . Chương 2 này cũng phần nào làm sáng tỏ nhận định các quan điểm giải tích từ đó đã hệ thống hóa, phân tích, diễn giải được những cách tiếp cận khái niệm chủ đề giới hạn để thiết kế cách thức, ví dụ minh hoạ dạy học khái niệm và bài tập về chủ đề giới hạn theo hướng phát huy TTCNT của học sinh. Điều này cho thấy phương pháp dạy học này huy động được học sinh tham gia vào quá trình nhận thức. Nếu được rèn luyện bởi phương pháp dạy học phát huy TTCNT của học sinh thì bản thân các em dần dần có những phẩm chất và năng lực thích ứng với thời đại. ý thức được mục đích việc học, tự nguyện tự giác học tập có ý thức và trách nhiệm cao trong học tập, biết học mọi lúc, mọi nơi, tiến tới biết tự học, tự đánh giá. Phương pháp dạy học phát huy TTCNT học sinh không phải là một phương pháp riêng lẽ mà là một hệ thống các phương pháp tác động liên tục của giáo viên nhằm phát huy TTCNT của học sinh, tư duy độc lập, bao gồm cả trong đó những pha đầu tiên của phương pháp dạy học sáng tạo, để có được phong cách học tập có hiệu quả đòi hỏi học sinh phải thực sự tự giác, chủ động có ý thức học tập cao . Chương 3 Thực nghiệm sư phạm 3.1. Mục đích thực nghiệm Thực nghiệm sư phạm được tiến hành nhằm mục đích kiểm tra tính khả thi và tính hiệu quả của việc dạy học chủ đề khái niệm Giới hạn lớp 11- THPT theo hướng phát huy TTCNT của học sinh ; kiểm nghiệm tính đúng đắn của Giả thuyết khoa học. 3.2. Tổ chức và nội dung thực nghiệm 3.2.1. Tổ chức thực nghiệm Thực nghiệm sư phạm được tiến hành tại trường THPT Nguyễn Công Trứ, Nghi xuân, Hà tĩnh. Lớp thực nghiệm: 11A có 51 học sinh, giáo viên dạy Đào Thị Thu Hà ; Lớp đối chứng : 11B có 57 học sinh , giáo viên dạy Phan Thị Hằng. Với chất lượng khảo sát đầu năm của hai lớp là tương đối đều nhau. Thời gian thực nghiệm sư phạm được tiến hành trong 3 tháng theo phân phối chương trình của Bộ Giáo dục và Đào tạo ở bộ sách Giải tích- Đại số lớp 11, với nội dung chủ đề Giới hạn. Tác giả chọn một số chủ đề dạy thực nhiệm : + Giới hạn dãy số ; + Luyện tập về bài tập Giới hạn của hàm số. Với sự phong phú của bài tập nội dung chủ đề này nên một số bài tập dạng củng cố, nâng cao, khắc sâu được giảng dạy cho học sinh trong các tiết học tự chọn ngoại khóa, phụ đạo bồi dưỡng. 3.2.2 . Nội dung thực nghiệm Tổ chức thực hiện dạy học Chương Giới hạn *) Tại lớp thực nghiệm + ) Giáo viên thực hành theo tiến trình dạy học theo hướng phát huy TTTNT của học sinh. +) Quan sát hoạt động học tập của học sinh, đánh giá trên hai mặt định tính và định lượng để nhận định kết quả về TTCNT của học sinh. *) Tại lớp đối chứng +) Giáo viên vẫn dạy học bình thường không tiến hành như đối với lớp thực nghiệm và quan sát điều tra kết quả học tập của học sinh ở lớp đối chứng. Thực nghiệm được tiến hành trong 19 tiết Chương Giới hạn . Sau khi dạy thực nghiệm, chúng tôi cho học sinh làm cùng một đề đối với bài kiểm tra 1 tiết. Cụ thể nội dung bài kiểm tra là: Đề kiểm tra (45 phút ) : Câu 1: Tìm các số hạng của dãy un = sao cho khoảng cách của chúng đến số 1 là : a) nhỏ hơn 1 ; b) nhỏ hơn Câu 2: Hãy cho biết dãy số nào có giới hạn ? Nếu dãy số có giới hạn chỉ ra giới hạn của dãy số ? Kể từ số hạng thứ mấy trở đi thì nhỏ hơn 0,00001 ? a ) un = (-1)nn ; b) vn = (-1)n ; c) wn = n ; d) zn = . Câu 3 : Cho ba hàm số:= ; = ; = Các đường cong C1, C2, C3( h.1,2,3) là đồ thị của ba hàm số này, xét trên tập R\, (không xếp theo thứ tự). a) Quan sát đồ thị và nêu nhận xét dự đoán giới hạn của các hàm số khi x 0+, x 0 - , x-, x + ? b) Chỉ dùng kết quả tính giới hạn của hàm số, , khi: x0 - , x0+, x-, x+ từ đó hãy xác định đường cong nào là đồ thị của hàm số đã cho ? (Hình 1 ) ( Hình 2) ( Hình 3 ) * Dụng ý sư phạm của đề kiểm tra (45 phút) : Câu 1: Cũng nhằm kiểm tra học sinh có nắm được bản chất khái niệm dãy số có giới hạn L0 qua vận dụng định nghĩa, bằng cách chỉ ra cụ thể tương ứng với từng số dương (ở đây ngầm hiểu là số ) tương ứng cụ thể; Câu 2: Kiểm tra học sinh nắm vững khái niệm định nghĩa dãy có giới hạn, không phải mọi dãy số đều là hoặc có giới hạn hữu hạn ( L0 ) hoặc có giới hạn vô cực (), nếu dãy số nào có giới hạn hãy chỉ ra giới hạn của dãy số bằng cách vận dụng định nghĩa và áp dụng với dãy số nhỏ hơn 0,00001; Câu 3 : Nhằm kiểm tra học sinh bằng nhận định trực quan dựa vào đồ thị nêu nhận xét dự đoán giới hạn của các hàm số, rồi từ đó xác định được đồ thị nào là của hàm số tương ứng . 3.3. Đánh giá kết quả thực nghiệm 3.3.1. Đánh giá định tính Chủ đề khái niệm giới hạn của hàm số là một nội dung khó trong chương trình toán THPT. Thông qua quá trình thực nghiệm, kiểm tra chất lượng trả lời câu hỏi, cũng như, bài kiểm tra của học sinh, có thể rút ra một số nhận xét sau: Đối với lớp dạy thực nghiệm Nhìn chung trong lớp các em tích cực hoạt động, lớp học sôi nổi không khí thoãi mái giờ học đã phát huy được TTCNT , tính độc lập sáng tạo vì phương pháp dạy học này huy động được học sinh tham gia vào quá trình nhận thức phù hợp với trình độ tiếp thu của học sinh. Nhưng cũng có mặt hạn chế là một số học sinh trong lớp còn quá bở ngỡ , qua tìm hiểu thực trạng học tập của các em còn yếu và thực tế các em chưa thực sự ý thức tham gia vào hoạt động học tập một cách tích cực. Như vậy với hình thức dạy học này sẽ phù hợp hơn với tất cả các đối tượng học sinh nếu như trong lớp học sinh chất lượng tương đương nhau. Đối với lớp học đối chứng Hoạt động học tập của học sinh còn ít, chủ yếu tiếp thu kiến thức một cách thụ động nên khi mở rộng hay làm bài tập tổng hợp hay nâng cao đòi hỏi phải tư duy thì các em chưa tự mình phát hiện, phát huy tính độc lập sáng tạo mặc dù các kiến thức cơ bản đó các em nắm được đây là đIểm khác biệt của lớp đối chứng so với lớp được dạy thực nghiệm . Vậy thực tế cho thấy học sinh ở lớp được dạy thực nghiệm đã phát huy được tính tích cực độc lập sáng tạo có khả năng tiếp thu kiến thức mới một cách chủ động hơn nhiều so với lớp đối chứng . 3.3.2. Đánh giá định lượng Kết quả làm bài kiểm tra của học sinh 11A lớp thực nghiệm (TN) và học sinh 11B lớp đối chứng (ĐC) được thể hiện thông qua 2 Bảng thống kê sau đây; Bảng 1 Lớp TN: Số học sinh và (tỷ lệ%) ĐC: Số học sinh và (tỷ lệ%) Điểm 0 0 (0%) 0 (0%) 0 (0%) 0 (0%) 2 (3,9%) 0 (0%) 0 (0%) 3 (5,3%) 6 (11,8%) 13(22,8% ) 7 (13,7%) 7 (12,3%) 7 (13,7%) 17 (29,8%) 10 (19,6%) 9 (15,8%) 9 (17,6%) 4(7%) 9 (17,6%) 4 (7%) 1 (2%) 0 (0%) Lớp TN ĐC Trung bình 6,6 điểm 5,8 điểm Tỷ lệ đạt yêu cầu 84,3% 71,9% Tỷ lệ điểm kém 15,7% 28,1% Tỷ lệ điểm trung bình 27,4% 42,1% Tỷ lệ điểm khá 37,2% 28,8% Tỷ lệ điểm giỏi 19,6% 7% Bảng 1 cho thấy: điểm trung bình cộng; tỷ lệ đạt yêu cầu; tỷ lệ đạt điểm khá, giỏi ở lớp thực nghiệm cao hơn so với lớp đối chứng. Câu hỏi đặt ra là: Có phải phương pháp dạy ở lớp thực nghiệm tốt hơn phương pháp dạy ở lớp đối chứng không, hay chỉ do ngẫu nhiên mà có ? Chúng ta đề ra Giả thuyết thống kê H0: “Không có sự khác nhau giữa hai phương pháp” và sử dụng Phương pháp U[23, tr. 58] nhằm bác bỏ H0 (xem bảng) Bảng 2 Điểm số Xếp hạng TN ĐC TN ĐC 2 2 1,5 1,5 3 3 3 4 4 4 4 4 4 4 4 4 4 4 4 4 4 4 4 4 4 4 4 4 4 15 15 15 15 15 15 15 15 15 15 15 15 15 15 15 15 15 15 15 5 5 5 5 5 5 5 5 5 5 5 5 5 5 36,5 36,5 36,5 36,5 36,5 36,5 36,5 36,5 36,5 36,5 36,5 36,5 36,5 36,5 6 6 6 6 6 6 6 6 6 6 6 6 6 6 6 6 6 6 6 6 6 6 6 6 55,5 55,5 55,5 55,5 55,5 55,5 55,5 55,5 55,5 55,5 55,5 55,5 55,5 55,5 55,5 55,5 55,5 55,5 55,5 55,5 55,5 55,5 55,5 55,5 7 7 7 7 7 7 7 7 7 7 7 7 7 7 7 7 7 7 7 77 77 77 77 77 77 77 77 77 77 77 77 77 77 77 77 77 77 77 8 8 8 8 8 8 8 8 8 8 8 8 8 93 93 93 93 93 93 93 93 93 93 93 93 93 9 9 9 9 9 9 9 9 9 9 9 9 9 106 106 106 106 106 106 106 106 106 106 106 106 106 106 10 113 n1 = 51 n2 = 57 R1 = 3411 R2 = 2696 = 3411 - = 3411 – 1326 = 2085 = 2696 - = 2696 – 1653 = 1043 = = 1453,5 ; = 161 u = = = 3,92 Với mức ý nghĩa a = 0,05 thì giá trị tới hạn = 1,64. Vì u = 3,92 > 1,64 = nên Giả thuyết H0 bị bác bỏ. Vậy phương pháp dạy ở lớp thực nghiệm tốt hơn so với phương pháp dạy ở lớp đối chứng. 3.4. Kết luận chung về thực nghiệm Quá trình thực nghiệm cùng những kết quả rút ra sau thực nghiệm cho thấy: mục đích thực nghiệm đã được hoàn thành, tính khả thi và hiệu quả của các quan điểm đã được khẳng định. Thực hiện các phương thức đó sẽ góp phần phát huy TTCNT của học sinh, đồng thời góp phần quan trọng vào việc nâng cao hiệu quả dạy học môn Toán ở trường THPT. Kết luận Luận văn đã thu được những kết quả chính sau đây: 1. Đã hệ thống hóa các quan điểm của nhiều nhà khoa học về cách phát huy TTTCN của học sinh trong dạy học nói chung, cũng như trong dạy học đặc thù của bộ môn Toán nói riêng ; 2. Luận văn làm sáng tỏ nhận định các quan điểm giải tích từ đó đã hệ thống hóa, phân tích, diễn giải được những cách tiếp cận chủ đề khái niệm giới hạn ; 3. Đã đề xuất được xu hướng dạy học phù hợp với việc tập luyện cho học sinh phát huy được TTCNT cụ thể là xây dựng được năm phương thức sư phạm thông qua dạy học chủ đề các khái niệm giới hạn của giải tích ở bậc THPT; 4. Đã phần nào làm sáng tỏ thực trạng về dạy học chủ đề các khái niệm giới hạn bằng việc mô tả những khó khăn, sai lầm của học sinh khi giải Toán về chủ đề này mà nguyên nhân chủ yếu của những khó khăn, sai lầm này là sự chướng ngại về nhận thức khi học các khái niệm giới hạn. Đặc biệt trong việc mở rộng khái niệm giới hạn của dãy và hàm số sẽ kéo theo một số vấn đề cần quan tâm khi dạy học về các khái niệm này ; 5. Thiết kế cách thức, ví dụ minh hoạ dạy học theo hướng nhằm phát huy TTCNT của học sinh thông qua dạy học khái niệm và dạy học bài tập về chủ đề giới hạn; 6. Đã tổ chức thực nghiệm sư phạm để minh họa tính khả thi và hiệu quả của những giải pháp phương thức đã đề xuất xây dựng; Như vậy, có thể khẳng định rằng: Mục đích nghiên cứu đã được thực hiện, Nhiệm vụ nghiên cứu đã hoàn thành và Giả thuyết khoa học là chấp nhận được. Tài Liệu Tham Khảo [1] Lê Quang Anh, (1995) Giới hạn dãy số, Nxb Đồng Nai. [2] Nguyễn Ngọc Bảo, (1995) Phát triển tính tích cực, tính tự lực của học sinh trong quá trình dạy học, Nxb Giáo dục. [3] Nguyễn Vĩnh Cận, Lê Thống Nhất, Phan Thành Quang, (1996) Sai lầm phổ biến khi giải toán, Nxb Giáo dục. [4] Phan Đức Chính, Ngô Hữu Dũng, (1996) Bộ sách Đại số và Giải tích 11, Nxb Giáo dục. [5] Phan Đức Chính, Ngô Hữu Dũng, Hàn Liên Hải, Trần Văn Hạo, (1995) Bộ sách Đại số và Giải tích 11 Ban TN, Nxb Giáo dục. [6] Phan Đức Chính, Trần Văn Hạo, Ngô Xuân Sơn, (1996) Bộ sách Đại số và Giải tích 11 Ban KHTN, Nxb Giáo dục. [7] Vũ Cao Đàm, (2005) Phương pháp luận nghiên cứu khoa học, Nxb- KHKT. [8] Võ Giang Giai, Nguyễn Ngọc Thu, (2006) Một số bài toán về dãy số các đề thi OLYMPIC 30-4, Nxb ĐHQG HN. [9] Trần Văn Hạo (Chủ biên phần I), Cam Duy Lễ Ngô Thúc Lanh (Chủ biên phần II) Ngô Xuân Sơn, Vũ Tuấn, (2000) Bộ sách Đại số và Giải tích11 (Sách chỉnh lý hợp nhất 2000), Nxb Giáo dục. [10] Trần Văn Hạo, cùng cộng sự, (2004) Bộ 2, bộ sách Đại số và Giải tích 11, Nxb Giáo dục. [11] Phạm Văn Hoàn, Nguyễn Gia Cốc, Trần Thúc Trình, (1981) Giáo dục học môn toán , Nxb Giáo dục, Hà Nội. [12] Trần Bá Hoành cùng, cộng sự, (2002) áp dụng dạy và học tích cực trong môn toán, Nxb ĐHSP. [13] Nguyễn Thái Hòe, (1989) Tìm tòi lời giải các bài toán và ứng dụng vào việc dạy toán, học toán, Nxb Giáo dục. [14] Nguyễn Phụ Hy, (2003) ứng dụng giới hạn để giải toán THPT, Nxb Giáo dục. [15] Phan Huy Khải, (1998) Toán nâng cao Đại số và Giải tích lớp 11, Nxb ĐH QG Hà Nội. [16] Phan Huy Khải, (2001) Giới thiệu các dạng toán luyện thi đại học (tập III), Nxb Hà Nội. [17] Phan Huy Khải, (2000) Toán bồi dưỡng học sinh THPT, Nxb Hà nội. [18] Kharlamop I. F, (1987) Phát huy tính tích cực của học sinh như thế nào? (tập I), Nxb Giáo dục. [19] Kharlamop I. F, (1987) Phát huy tính tích cực của học sinh như thế nào? (tập II), Nxb Giáo dục. [20] Nguyễn Bá Kim, (1999) Học tập trong hoạt động và bằng hoạt động, Nxb Giáo dục. [21] Nguyễn Bá Kim, (2006) Phương pháp dạy học môn Toán, Nxb Giáo dục. [22] Nguyễn Bá Kim, Vũ Dương Thụy, (1997) Phương pháp dạy học Môn Toán, Nxb Giáo dục. [23] Nguyễn Bá Kim,Vũ Dương Thụy, Phạm Văn Kiều, (1997) Phát triển lý luận dạy học môn Toán ( tập 1)-NCKHGD, Nxb Giáo dục. [24] Ngô Thúc Lanh, cùng cộng sự, (1992) Bộ sách Đại số và Giải tích 11 , Nxb Giáo dục. [25] Ngô Thúc Lanh, (1997) Tìm hiểu giải tích phổ thông, Nxb Giáo dục. [26] Lê Quang Long, (1999) Thử đi tìm những PPDH hiệu quả, Nxb Giáo dục. [27] Nguyễn Văn Mậu, (2001) Giới hạn dãy số và hàm số, Nxb Giáo dục. [28] Trần Thành Minh, (2000) Giải toán Đại số và Giải tích lớp 11, Nxb Giáo dục. [29] Bùi Văn Nghị, cùng cộng sự, (2005) Tài liệu BD TX cho giáo viên THPT chu kỳ III, Viện nghiên cứu SP. [30] Lê Viết Ngư, Phan Văn Danh, Nguyễn Định, Lê Văn Hạp, Nguyễn Hoàng, (1998) Toán cao cấp Giải tích-hàm một biến(tập hai), Nxb Giáo dục, Hà Nội. [31] Phạm Quốc Phong, (2004) Chuyên đề nâng cao toán THPT Đại số và Giải tích, Nxb ĐH QG. [32] Nguyễn Lan Phương, (2000) Cải tiến phương pháp dạy học toán với yêu cầu tích cực hóa hoạt động học tập theo hướng giúp học sinh phát hiện và giải quyết vấn đề qua phần giảng dạy ''quan hệ vuông góc trong không gian'' lớp 11 THPT. Luận án tiến sĩ . [33] Trần Phương, Nguyễn Đức Tấn, (2004) Sai lầm thường gặp và các sáng tạo khi giải toán, Nxb Hà Nội . [34] Polia.G, (1997) Giải bài toán như thế nào?, Nxb Giáo dục. [35] Polia.G, (1995) Sáng tạo toán học, Nxb Giáo dục. [36] Polia.G, (1995) Toán học và những suy luận có lý, Nxb Giáo dục. [37] Đoàn Quỳnh, cùng cộng sự, (2004) Bộ 1, bộ sách Đại số và Giải tích 11, Nxb Giáo dục. [38] Đoàn Quỳnh, cùng cộng sự, (2006) Tài liệu bồi dưỡng –giáo viên- môn Toán, Nxb Giáo dục. [39] Trần Quyết Thắng, cùng cộng sự, (1995) Kỷ yếu hội nghị chuyên đề đổi mới phương pháp DH môn toán ở PT,Vinh. [40] Trần Văn Thương, Phạm Đình, Lê Văn Đỗ, (1995) Phương pháp giải toán Đại số và Giải tích lớp 11, Nxb Giáo dục. [41] Đặng Thị Dạ Thủy, (1999) Phát huy tính tích cực của học sinh trong làm việc với SGK - NC GD. [42] Lê Văn Tiến, (2000) Một số quan điểm khác nhau về giảng dạy giải tích ở trường phổ thông, Tạp chí Nghiên cứu Giáo dục, số 338 và số 339. [43] Nguyễn Cảnh Toàn, (2006) Nên học toán thế nào cho tốt? , Nxb Giáo dục. [44] Trần Thúc Trình, (1998) Cơ sở lý luận dạy học nâng cao, Nxb Hà Nội. [45] Thái Duy Tuyên, ( 2001) Giáo dục học hiện đại, Nxb ĐH QG.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docQuan điểm Giải tích về các cách tiếp cận khái niệm Giới hạn và việc phát huy TTCNT của học sinh trong dạy học chủ đề Giới hạn ở bậc THPT.doc
Luận văn liên quan