Quyền bí mật đời tư - Dân sự

Quan điểm của chúng tôi cho rằng, việc vợ chồng đọc tin nhắn của nhau rõ ràng là sự xâm phạm bí mật đời tư của người kia. Trước hết, xét trên phương diện tình cảm, tập tục của người Việt thì việc vợ chồng xem trộm tin nhắn của nhau là chuyện rất bình thường và vẫn diễn ra hằng ngày ở nhiều gia đình. Quan hệ vợ chồng trong xã hội nước ta không chỉ chịu sự chi phối và điều chỉnh của pháp luật mà còn chịu ảnh hưởng bởi nhiều tập tục, quan niệm đã hình thành từ lâu đời, nhiều khi còn lấn át pháp luật. Xét trên quan điểm pháp luật, mặc dù vợ chồng là mối quan hệ gắn bó trên nhiều mặt và được pháp luật bảo vệ, tuy nhiên giữa vợ chồng vẫn có sự riêng tư, độc lập nhất định. Khoản 3 Điều 38 bộ luật dân sự có quy định “3. Thư tín, điện thoại, điện tín, các hình thức thông tin điện tử khác của cá nhân được đảm bảo an toàn và bí mật. Việc kiểm soát thư tín, điện thoại, điện tín, các hình thức thông tin điện tử khác của cá nhân được thực hiện trong trường hợp pháp luật có quy định phải có quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền”. Như vậy, Luật dân sự đã quy định rõ bí mật thư tín, điện thoại, điện tín, các hình thức thông tin điện tử khác của cá nhân được đảm bảo tuyệt đối (trừ trường hợp cá nhân đồng ý hoặc pháp theo quyết định của pháp luật). Điều đó có nghĩa, không ai, kể cả vợ, chồng được phép xâm phạm bí mật đời tư của người khác. Trong quan hệ vợ chồng, tuỳ hoàn cảnh, tuỳ trường hợp mà người vợ hoặc chồng cần phải có sự riêng tư nhất định. Không thể viện bất kì lý do gì để vợ hoặc chồng xâm phạm bí mật đời tư của người kia. Hơn nữa, xét trên phương diện tình cảm thì quan hệ vợ chồng sẽ bền vững trên cơ sở tôn trọng và tin tưởng lẫn nhau, việc kiểm tra điện thoại của người khác chỉ càng làm tăng thêm mối bất hoà và sự nghi ngờ trước đó. Tóm lại, từ sự phân tích trên có thể thấy người vợ trong tình huống trên hoàn toàn có thể kiện người chồng về việc xâm phạm bí mật đời tư, tuy nhiên trên thực tế, do quan niệm, phong tục của người á đông mà những vụ kiện như vậy ở nước ta rất hiếm, thậm chí chưa từng xảy ra. III. Kết luận. Như vậy, việc việc Bộ luật dân sự 2005 chưa có định nghĩa rõ ràng về bí mật đời tư khiến cho việc xét xử các vụ việc liên quan của toà án cũng như việc người dân thực hiện các biện pháp nhằm bảo vệ quyền của cá nhân về bí mật đời tư còn gặp rất nhiều khó khăn. Các vụ việc nhiều khi đã được toà giải quyết nhưng vẫn để lại dư luận vì chưa có những căn cứ pháp luật thật rõ ràng khi xét xử. Thiết nghĩ, biện pháp trước mắt Toà án nhân dân Tối cao cần có văn bản hướng dẫn cụ thể về vấn đề này để việc giải quyết của Toà án đối với các vụ việc tương tự được thống nhất, khách quan. Về lâu dài, cần xây dựng những quy định cụ thể, thống nhất về vấn đề bí mật đời tư để không ai có thể lợi dụng dụng sự chưa rõ ràng của pháp luật nhằm đạt được mục đích của mình. Mặt khác, cần có những quy định nghiêm hơn với những hành động coi thường pháp luật, xâm phạm thô bạo bí mật đời tư của người khác. Tăng cường tuyên truyền cho người dân hiểu và nhận thức được quyền chính đáng của bản thân và tự mình có những biện pháp bảo về quyền đó một cách phù hợp.

docx6 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 7589 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Quyền bí mật đời tư - Dân sự, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
bài tập nhóm dân sự_k33 (9 điểm đấy) Lời nói đầu Trong điều kiện thế giới hiện nay nói chung và điều kiện nước ta hiện nay nói riêng, khi mà các giá trị về vật chất của con người ngày càng được thoả mãn đầy đủ hơn thì chúng ta ngày có xu hướng quan tâm đến các giá trị của cá nhân, một trong những giá trị mà con người hướng tới chính là “quyền bí mật đời tư”.  Pháp luật xét về tính giai cấp luôn bảo vệ lợi ích của giai cấp thống trị, tuy nhiên xét đến cùng vẫn là một bộ phận của kiến trúc thượng tầng do đó luôn phải chịu sự chi phối của cơ sở hạ tầng. Đáp ứng những yêu cầu khách quan những mong muốn của các cá nhân trong xã hội, pháp luật hiện đại ngày càng ghi nhận và bảo vệ rộng rãi các quyền nhân thân của cá nhân, trong đó có quyền bí mật đời tư. Không nằm ngoài quy luật trên, Pháp luật nước ta cũng ghi nhận quyền cơ bản này của công dân thông qua nội dung của Điều 73 Hiến pháp, Điều 38 Bộ luật dân sự và một số quy định trong các văn bản pháp khác. Việc ghi nhận và bảo vệ quyền bí mật đời tư của cá nhân là một điểm tiến bộ của pháp luật nước ta, đưa pháp luật ngày càng gần với đời sống của nhân dân. Tuy nhiên, trên thực tế việc thực hiện quyền này của công dân vẫn còn nhiều điều phải bàn.  Với bài tiểu luận này, chúng tôi mong tìm hiểu và làm rõ hơn nữa về lý luận cũng như thực tế việc thực hiện quyền bí mật đời tư hiện nay. Bằng việc tiếp cận vấn đề thông qua một số vụ việc cụ thể trên thực tế chúng tôi mong muốn có được cái nhìn cụ thể và chính xác hơn về quyền bí mật đời tư của cá nhân. Với kiến thức của bản thân còn nhiều hạn chế do vậy không thể tránh khỏi những thiếu sót, rất mong nhận đựơc sự đóng góp từ phía thầy cô và các bạn. I. Vài nét về quyền bí mật đời tư của cá nhân. 1. “Bí mật đời tư” - quyền cơ bản của mọi cá nhân. Quyền bí mật đời tư là quyền cơ bản trong hệ thống các quyền nhân thân của cá nhân. Quyền bí mật đời tư được thừa nhận rộng rãi trong pháp luật nhiều nước trên thế giới và được ghi nhận trong Tuyên ngôn toàn thế giới về nhân quyền năm 1948, Công ước quốc tế về các quyền dân sự và một số công ước khác của Liên Hiệp Quốc. Điều 12 Tuyên ngôn toàn thế giới về nhân quyền ghi nhận: “Không ai phải chịu sự can thiệp một cách tuỳ tiện vào cuộc sống riêng tư, gia đình, nơi ở hoặc thư tín cũng như bị xúc phạm danh dự hoặc uy tín của cá nhân. Mọi người đều có quyền được pháp luật bảo vệ chống lại can thiệp và xâm phạm như vậy” Trong Công ước về các quyền dân sự và chính trị năm 1996, quyền bí mật đời tư được quy định tại điều 17: “1.Không ai bị can thiệp một cách độc đoán hoặc bất hợp pháp đến đời sống riêng tư, gia đình, nhà ở, thư tín hoặc bị xúc phạm bất hợp pháp đến danh dự và uy tín. 2. Mọi người đều có quyền được pháp luật bảo vệ chống lại những sự can thiệp hoặc xúc phạm như vậy.”  Có thể thấy rằng, bí mật đơi tư là một trong những quyền dân sự cơ bản của cá nhân được thế giới thừa nhận rộng rãi. Việc bảo vệ quyền bí mật đời tư còn đảm bảo cho việc thực hiện một số quyền khác của cá nhân (như quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở, quyền hiến xác, bộ phận cơ thể, quyền tự do tín ngưỡng…) được đảm bảo triệt để hơn. Xác định rõ tầm quan trọng của quyền bí mật đời tư với cá nhân, pháp luật Việt Nam cũng có những quy định nhằm bảo vệ quyền này của mỗi cá nhân. Điều 73 Hiến pháp nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam quy định: “Thư tín, điện thoại, điện tín của công dân đựơc bảo đảm an toàn bí mật. Việc khám xét chỗ ở, việc bóc mở, kiểm soát, thu giữ thư tín, điện tín cảu công dân phải do người có thẩm quyền tiến hành theo quy định của pháp luật.” Cụ thể hoá quy định này của hiến pháp Bộ luật dân sự 2005 dành riêng điều 38 quy định về quyền bí mật đời tư của cá nhân như sau:  “1. Quyền bí mật đời tư của cá nhân được tôn trọng và được pháp luật bảo vệ.  2. Việc thu thập, công bố thông tin, tư liệu về đời tư của cá nhân phải được người đó đồng ý; trong trường hợp người đó đã chết, mất năng lực hành vi dân sự, chưa đủ mười lăm tuổi thì phải được cha, mẹ, vợ, chồng, con đã thành niên hoặc người đại diện của người đó đồng ý, trừ trường hợp thu thập, công bố thông tin, tư liệu theo quyết định của cơ quan, tổ chức có thẩm quyền. 3. Thư tín, điện thoại, điện tín, các hình thức thông tin điện tử khác của cá nhân được đảm bảo an toàn và bí mật. Việc kiểm soát thư tín, điện thoại, điện tín, các hình thức thông tin điện tử khác của cá nhân được thực hiện trong trường hợp pháp luật có quy định phải có quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền”. Không chỉ luật dân sự, một số ngành luật khác như luật hình sự, luật hôn nhân gia đình, luật báo chí…cũng có những quy định bảo vệ quyền bí mật đời tư của cá nhân.  2. Định nghĩa về “Quyền bí mật đời tư”. Thực tế ở nước ta hiện nay cho thấy, số lượng vụ việc xâm phạm bí mật đời tư của cá nhân là không ít, tuy nhiên số vụ việc được giải quyết lại rất hạn chế. Trong các nguyên nhân dẫn tời hiện tượng trên thì việc thiếu một định nghĩa cụ thể trong luật về bí mật đời tư chính là một nguyên nhân chính, điều này khiến việc áp dụng pháp luật để giải quyết các vấn đề liên quan đến bí mật đời tư trở nên hết sức khó khăn do không xác định rõ ràng được những thông tin như thế nào mới là bí mật đời tư và được pháp luật bảo vệ. Như đã nói ở trên, mặc dù pháp luật nước ta có nhiều quy định liên quan đến quyền bí mật đời tư của cá nhân song vẫn chưa có một văn bản nào đưa ra được một định nghĩa chính thức về quyền này. Trước hết, xét về mặt ngữ nghĩa “bí mật” là “được giữ kín trong phạm vi một số ít người, không để lộ cho người ngoài biết” hoặc theo cuốn Đại từ điển tiếng Việt thì “bí mật” còn được giải thích là “giữ kín, không để lộ ra, không công khai”. Như vậy, về cơ bản có thể hiểu “bí mật đời tư” là những thông tin, tư liệu…của cá nhân được cá nhân đó giữ kín, không công khai (phạm vi “công khai” có thể khác nhau tuỳ từng trường hợp) và những thông tin, tư liệu này nếu được công khai thường sẽ gây bất lợi cho bản thân cá nhân đó và những người có liên quan. Tuy nhiên, những “thông tin”, những “tư liệu”… như thế nào mới được coi là bí mật cá nhân và cần được pháp luật bảo vệ. Như chúng đã biết, đời sống cá nhân là một phạm trù rộng bao gồm rất nhiều phương diện, nhiều khía cạnh. Do vậy, không thể coi tất cả các mặt liên quan đến các nhân là bí mật đời tư, việc xác định phạm vi của “bí mật đời tư” có ý nghĩa rất quan trọng trong thực tiễn pháp luật hiện nay. “Theo quan điểm của một số người làm công tác pháp luật, bí mật đời tư có thể được hiểu là những gì gắn với nhân thân con người, là quyền cơ bản. Đó có thể là những thông tin về hình ảnh, cuộc sống gia đình, tên gọi, con cái, các mối quan hệ... gắn liền với một cá nhân mà người này không muốn cho người khác biết. Những bí mật đời tư này chỉ có bản thân người đó biết hoặc những người thân thích, người có mối liên hệ với người đó biết và họ chưa từng công bố ra ngoài cho bất kỳ ai. “Bí mật đời tư” có thể hiểu là “chuyện trong nhà” của cá nhân nào đó. Ví dụ: con ngoài giá thú, di chúc, hình ảnh cá nhân, tình trạng sức khỏe, bệnh tật, các loại thư tín, điện thoại, điện tín, v.v…” . Còn theo Tiến sĩ Nguyễn Văn Luật thì khái niệm bí mật đời tư được bao quát trên các phương diện: “tình cảm, tinh thần” và “nghề nghiệp, vật chất”. Trong Luận án tiến sĩ về “Quyền bí mật đời tư theo quy định của pháp luật dân sự Việt Nam”, Tiến sĩ Lê Đình Nghị có định nghĩa về khái niệm bí mật đời tư như sau: “Bí mật đời tư là những thông tin, tư liệu (gọi chung là thông tin) về tinh thần, vật chất, quan hệ xã hội hoặc những thông tin khác liên quan đến cá nhân trong quá khứ cũng như trong hiện tại, được pháp luật bảo vệ và những thông tin đó được bảo mật bằng những biện pháp mà pháp luật thừa nhận”. Như vậy, có thể thấy hiện nay còn rất nhiều ý kiến khác nhau về cách định nghĩa khái niệm bí mật đời tư, tuy nhiên, theo chúng tôi, dù hiểu thế nào thì khi một cá nhân muốn yêu cầu pháp luật bảo vệ về việc bị xâm phạm bí mật đời tư thì phải chứng minh được rằng bí mật đó là bí mật thuộc về cá nhân người đó và chưa từng được công bố, công khai ở nơi công cộng theo ý muốn của bản thân người đó. Ngoài ra, bí mật đó phải đảm bảo được yêu cầu là không xâm phạm lợi ích Nhà nước, lợi ích công cộng, xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của người khác (ví dụ: thông tin liên quan đến hành vi phạm tội, chuẩn bị phạm tội…). II. Thực tiễn bảo vệ “Quyền bí mật đời tư” tại Việt Nam. 1. Báo chí có xâm phạm qyuền bí mật đời tư của công dân? Tóm tắt vụ việc như sau: Ông Trần Tiến Đức, ngụ tại phường 10, quận Phú Nhuận, Tp HCM được TAND quận phú nhuận xử cho li hôn với vợ của ông là bà N.T.T vào ngày 15/12/1994. Tháng 10 năm 1996, nhà xuất bản trẻ phối hợp với báo Tuổi trẻ xuất bản cuốn “Kí sự pháp đình”, tác giả là nhà báo Thuỷ Cúc, trong đó có bài “Tổ ấm”. Đây là bài kí sự có nội dung viết về phiên toà li hôn cảu ông Trần Tiến Đức, mặc dù họ tên của nguyên đơn đã được viết tắt là T.T.Đ. Sau khi cuốn sách được phát hành, một người bạn của ông Đức đọc và nói lại nội dung cho ông Đức biết. Giữa năm 2006 ông Trần Tiến Đức đã khởi kiện tại tòa án nhân dân quận 3 TP Hồ Chí Minh đối với các đồng bị đơn: Nhà xuất bản trẻ, báo Tuổi trẻ và nhà báo Thủy Cúc. Theo nội dung đơn khởi kiện, ông Đức cho rằng mình đã bị xâm phạm bí mật đời tư khi bài “Tổ ấm” đề cập đến quá khứ của bà N.T.T (vợ cũ của ông) và quyền truy nhận cha cho con của ông, bên cạnh đó nhà báo Thuỷ Cúc còn nêu quan điểm cá nhân xúc phạm đời sống riêng tư của ông Đức… Từ đó, ông Đức đưa ra yêu cầu trong nội dung đơn khởi kiện: Cấm tái bản, cấm lưu hành “Tổ ấm”, đăng cải chính xin lỗi trên báo, bồi thường tinh thần bằng tiền theo mức cụ thể như sau: tác giả (nhà báo Thuỷ Cúc) bồi thường 3 triệu đồng, Nhà xuất bản Trẻ và Báo Tuổi Trẻ mỗi đơn vị 3,5 triệu đồng. Phản bác lại những yêu cầu do phía nguyên đơn đưa ra, đại diện của nhà báo Thuỷ Cúc tại phiên toà cho rằng: yêu cầu của nguyên đơn là vô lý, không thể chấp nhận được. Bài viết “Tổ ấm” là ấn phẩm ký sự pháp đình, không bôi nhọ danh dự, nhân phẩm cũng như bí mật riêng tư của ai – mà đó là nhiệm vụ của người cầm bút với cái tâm trong sáng thể hiện những thông tin đã công khai tại phiên toà chứ không phải là bí mật đời tư. Thông qua hiện thực khách quan, bài báo đã gửi đến bạn đọc một thông điệp. Ngoài ra bài viết đã được “gọt rũa” cẩn thận, đã viết tắt tên của những người liên quan. Nhà xuất bản Trẻ không đồng ý đăng cải chính trên báo bởi theo Nhà xuất bản trẻ, “bí mật” là những gì không được công khai, mặt khác đây là bài viết dạng ký sự nên tác giả có thể lồng thêm ý kiến cá nhân vào. Đại diện Báo Tuổi Trẻ cũng trình bày: Báo Tuổi Trẻ không đăng bài báo này trên Báo Tuổi Trẻ và cũng không liên kết với Nhà xuất bản Trẻ phát hành ấn phẩm nêu trên nên không liên quan đến việc xúc phạm ông Đức và yêu cầu được đưa ra khỏi vụ kiện. Về phía nguyên đơn, trong phần tranh luận, ông Đức có đưa ra một số tranh luận đối với đại diện Báo Tuổi Trẻ, nhà báo Thuỷ Cúc. Nội dung tranh luận tập trung vào một số vấn đề: Thứ nhất, ông Đức cho rằng cuốn “Ký sự pháp đình” có bài viết “Tổ ấm” là ấn phẩm của Báo Tuổi Trẻ vì trên trang bìa của cuốn sách có in logo của Báo Tuổi Trẻ, trong cuốn sách cũng có ghi: “Nhà xuất bản Trẻ và Báo Tuổi Trẻ phối hợp”. Do đó, đây chính là sự liên kết giữa hai đơn vị này nên cả hai phải liên đới bồi thường. Thứ hai, đối với nhà báo Thuỷ Cúc, mặc dù tên nhân vật trong bài báo đã được viết tắt, nhưng lại đề cập đến công việc và con người của ông, sự đề cập đó không phải đề cao ông mà để mọi người nhận ra ông khi đọc bài viết đó. Thậm chí, bài viết còn vẽ hình biếm hoạ ba đứa con của ông – đó là sự xúc phạm. Ông Đức cũng cho rằng nếu bài viết trong ấn phẩm này tiếp tục được phát hành sẽ ảnh hưởng đến cuộc sống của các con ông về sau. Sau khi xét hỏi, tranh luận và nghị án, chiều ngày 20/9/2006, Hội đồng xét xử đã tuyên án. Theo nội dung bản án, Hội đồng xét xử nhận định là có hành vi xâm phạm bí mật đời tư của ông Trần Tiến Đức của ba đồng bị đơn là nhà báo Thuỷ Cúc, Báo Tuổi Trẻ và Nhà xuất bản Trẻ. Từ đó, Hội đồng xét xử đã quyết định: chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn là ông Trần Tiến Đức, buộc nhà báo Thuỷ Cúc, Báo Tuổi Trẻ và Nhà xuất bản Trẻ phải đăng lời cải chính trên Báo Tuổi Trẻ 1 kỳ/1 bị đơn; buộc ba đồng bị đơn phải liên đới bồi thường cho ông Đức 1,75 triệu đồng tiền tổn thất về tinh thần (Nhà báo Thuỷ Cúc 1 triệu đồng, Nhà xuất bản Trẻ 500 nghìn đồng và Báo Tuổi Trẻ 250 nghìn đồng). Ngoài ra, Hội đồng xét xử cũng tuyên buộc Nhà xuất bản Trẻ không được lưu hành, không được tái bản cuốn Ký sự pháp đình của nhà báo Thuỷ Cúc có bài viết “Tổ ấm”. Không đồng ý với phán quyết của Toà án cấp sơ thẩm, các đồng bị đơn đã kháng cáo. Lý do kháng cáo được các đồng bị đơn đưa ra: Bản án sơ thẩm được tuyên không có căn cứ pháp luật; Hội đồng xét xử đã tự “sáng tác” luật, lạm quyền trong khi xét xử bởi vì pháp luật chưa có định nghĩa thế nào là bí mật đời tư, mặt khác những thông tin được công khai tại phiên tòa không thể xem là “bí mật”. Ngoài ra, tác phẩm “Tổ ấm” của nhà báo Thuỷ Cúc không đề cập cụ thể đến tên của ông Trần Tiến Đức… Với những nhận định tương tự như Toà án cấp sơ thẩm, Hội đồng xét xử cấp phúc thẩm đã tuyên buộc Báo Tuổi Trẻ, NXB Trẻ và nhà báo Thủy Cúc phải đăng lời cải chính, xin lỗi ông Đức trên trang 4 Báo Tuổi Trẻ 1 kỳ. Đồng thời, Báo Tuổi Trẻ phải bồi thường cho ông Đức 250.000 đồng; NXB Trẻ bồi thường 500.000 đồng và nhà báo Thủy Cúc bồi thường 1 triệu đồng. Tuyên cấm lưu hành cuốn ký sự pháp đình có bài “Tổ ấm” khi tái bản. Mặc dù vụ việc đã đựơc giải quyết nhưng xung quanh nó vẫn tồn tại nhiều ý kiến trái ngược về cách giải quyết của toà án. Cá nhân chúng tôi cho rằng cách giải quyết của toà án như vậy là hợp lý và có cơ sở. Thứ nhất, mặc dù Điều 38 Bộ luật dân sự không đưa ra định nghĩa cụ thể về bí mật đời tư, tuy nhiên, như đã phân tích ở phần I của tiểu luận, có thể hiểu “bí mật đời tư” là những thông tin, tư liệu…của cá nhân được cá nhân đó giữ kín, không công khai (phạm vi “công khai” có thể khác nhau tuỳ từng trường hợp) và những thông tin, tư liệu này nếu được công khai thường sẽ gây bất lợi cho cá nhân có liên quan. Vụ ly hôn của ông T.T.Đ là thông tin về cá nhân ông Đức mà bản thân ông không muốn tiết lộ rộng rãi bởi việc tiết lộ đó có thể gây bất lợi cho bản thân ông cũng như gia đình ông.  Thứ hai, mặc dù tên nhân vật đã được viết tắt nhưng thông qua nội dung và những tình tiết trong câu truyện, người đọc quen biết ông đức hoặc sinh sống gần đó có thể dễ dàng nhận ra đó là ông Đức, bằng chứng là việc một người bạn đã đọc bài báo, phát hiện ra đó là ông Đức và chỉ cho ông biết. Hơn nữa, theo ông Đức thì nội dung bài viết đã có sự xúc phạm ông và các con ông.  Mặt khác, theo Điều 13 Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2005: “Cơ quan, người tiến hành tố tụng dân sự phải giữ bí mật nhà nước, bí mật công tác theo quy định của pháp luật; giữ gìn thuần phong mỹ tục của dân tộc, giữ bí mật nghề nghiệp, bí mật kinh doanh, bí mật đời tư của các đương sự theo yêu cầu chính đáng của họ”. Như vậy, việc công khai thông tin ở toà không thể coi là căn cứ để cho rằng những thông tin đó là không còn mang tính “bí mật” và cần được giữ kín. Hơn nữa, những thông tin liên quan đến vụ việc li hôn của ông Đức với bà N.T.T là những thông tin riêng giữa hai vợ chồng, không xâm phạm lợi ích Nhà nước, lợi ích công cộng, xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của người khác do vậy không thể “bị” công bố khi chưa được sự đồng ý của bản thân những người liên quan hoặc quyết định theo pháp luật của cơ quan có thẩm quyền. Nghị định số 51/2002/NĐ – CP ngày 26/4/2002 của Chính Phủ hướng dẫn chi tiết thi hành Luật Báo chí cũng quy định: “Không đựơc đăng, phát tin bài ảnh hưởng xấu đến đời tư, công bố tài liệu thư riêng khi chưa được sự đồng ý của ngời viết thư, người nhận thư hoặc người chủ sở hữu hợp pháp tài liệu, bức thư đó”. Như vậy, việc nhà báo Thuỷ Cúc đưa những thông tin về cá nhân ông Đức cần phải được sự cho phép của bản thân ông. Trên đây là quan điểm của chúng tôi về cách giải quyết của toà án trong vụ kiện của ông T.T.Đ. Thực tế xét xử cho thấy vụ kiện của ông Đức chỉ là một trường hợp hiếm hoi. Việc báo chí đưa những thông tin có tính chất xâm phạm bí mật đời tư của cá nhân không phải là chuyện hiếm thấy, thậm chí phổ biến. Tuy nhiên, việc pháp luật còn thiếu những quy định cụ thể và người dân cũng ý thức chưa đầy đủ về quyền lợi của mình nên chưa có những biện pháp bảo vệ thích đáng với quyền quan trọng này. Vụ việc trên cũng chính là sự biểu hiện sự xung đột giữa quyền bí mật đời tư với quyền tự do thông tin, tự do báo chí được quy định tại Điều 69 Hiến pháp và một số văn bản pháp luật khác. 2. Về việc Mobifone làm lộ thông tin khách hàng. Tóm tắt vụ việc như sau: Chị Mai Thị H (trú tại 47, NTX, phường Hiệp Hoà Bắc, Quận Liên Chiểu, TP. Đà Nẵng) khiếu nại về việc Mobifone làm lộ bí mật khách hàng khiến gia đình chị tan vỡ. Chị H sử dụng dịch vụ MobiCard được 2 năm. Ngày 21/11/2005, chồng chị mang về những bảng in chi tiết số điện thoại của chị từ tháng 5/2005 đến tháng 9/2005. Trong đó, chồng chị gạch rõ từng ngày chị thực hiện bao nhiêu cuộc gọi, gọi vào những số nào, giờ nào? Chồng chị còn truy ra hơn 20 số điện thoại của những người đàn ông gọi cho chị, gọi điện đến từng người tra hỏi tên, tuổi, địa chỉ... Cuối cùng, chị H phải kí vào đơn ly dị mặc dù không hề mong muốn Chị H đã tìm đến bộ phận chăm sóc khách hàng của MobiFone tại Đà Nẵng. Nhân viên ở đây cho rằng có thể chồng chị đã biết mã pin điện thoại của chị và vào trang web của MobiFone để in bảng chi tiết. Tuy nhiên, chị H khẳng định là chưa bao giờ dùng máy của mình để xin mã pin và chị cũng chưa bao giờ vào trang web của MobiFone để đăng ký! Chị H cho biết sẽ khởi kiện MobiFone về vụ làm lộ thông tin này.  Chiều 23/5/2006, ông Trịnh Hồng Kim - Giám đốc MobiFone khu vực 3 cho biết: "Đối với thuê bao MobiCard, việc thực hiện tính cước online, quản lý các cuộc gọi chi tiết của khách hàng được tập trung tại Hà Nội. Chúng tôi không quản lý nên không có chuyện bí mật các cuộc gọi của khách hàng tại Đà Nẵng bị lộ từ phía chúng tôi". Bất bình trước lời giải thích của Mobifone, chị H đã làm đơn khởi kiện công ty này tại Toà án nhân dân quận Liên Chiểu, TP. Đà Nẵng. Theo nội dung đơn kiện, chị H cho rằng mình đã bị xâm phạm bí mật đời tư khi mạng Mobifone tiết lộ nhật ký cuộc gọi của chị cho chồng chị, dẫn đến gia đình chị tan vỡ và yêu cầu phía Mobifone phải bồi thường và xin lỗi chị. Ngày 5/1/2006, Hội đồng xét xử đã tuyên án. Theo nội dung bản án, Hội đồng xét xử xét thấy có hành vi xâm phạm bí mật đời tư chị H của mạng di động Mobifone, ảnh hưởng đến hạnh phúc gia đình chị, vi phạm Điều 38 Bộ luật dân sự năm 2005 về quyền bí mật đời tư, Điều 9 pháp lệnh bưu chính, viễn thông 2002. Từ đó, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn là chị Mai Thị H, yêu cầu mạng di động Mobifone bồi thường cho chị H số tiền là 3 triệu tám trăm năm mươi VNĐ. Ngoài ra, Hội đồng xét xử cũng đưa ra lời cảnh cáo với mạng di động Mobifone không được tiết lộ bí mật của khách hàng khi không có sự cho phép và yêu cầu đơn vị này xin lỗi chị H về hành vi của mình.  Theo quan điểm của chúng tôi, cách giải quyết của toà án nhân dân quận Liên Chiểu là hợp lí và có căn cứ pháp luật. Khoản 3 Điều 38 Bộ luật dân sự 2005 đã quy định: “Thư tín, điện thoại, điện tín, các hình thức thông tin điện tử khác của cá nhân được bảo đảm an toàn và bí mật”. Bản kê chi tiết danh sách gọi chính là một trong những hình thức “thông tin điện tử khác của cá nhân” do vậy cũng được pháp luật bảo vệ. Điều 9 pháp lệnh bưu chính, viễn thông 2002 về bảo đảm bí mật thông tin có quy định tại khoản 1 như sau: “Bí mật đối với thông tin riêng chuyển qua mạng bưu chính, mạng viễn thông của mọi tổ chức, cá nhân được bảo đảm theo quy định của pháp luật. Việc giữ bí mật thông tin bằng kỹ thuật mật mã trong bưu chính, viễn thông được thực hiện theo quy định của pháp luật về cơ yếu”.Tại điểm c khoản 2 Điều 42 Pháp lệnh trên cũng quy định: Người sử dụng dịch vụ viễn thông “Được bảo đảm bí mật thông tin riêng theo quy định của pháp luật”. Thông tin về "Chi tiết cuộc gọi gốc", sơ đồ di chuyển của các thuê bao di động (vị trí của các thuê bao tại các thời điểm) và các bảng kê cuộc gọi của khách hàng được liệt vào danh sách thông tin mật. Những thông tin này không được cung cấp cho bất kỳ ai ngoài chủ thuê bao (hoặc một số trường hợp được chủ thuê bao uỷ quyền) hoặc trừ khi cơ quan điều tra yêu cầu với những lý do chính đáng. Như vậy, Mobifone không có quyền cung cấp bản kê chi tiết các cuộc gọi của chị H cho bất kì ai, kể cả chồng chị H khi không có sự đồng ý của chị.  Thực tế hiện nay cho thấy, việc quản lý, giữ bí mật thông tin cá nhân của khách hàng tại các công ty viễn thông còn rất lỏng lẻo. Thậm chí, còn có cả tình trạng nhân viên một số mạng di động đọc các tin nhắn có nội dung "lạ" của các khách hàng, sau đó in ra và photo truyền nhau đọc tại công ty. Tuy đây chỉ là trò vui đối với các nhân viên này nhưng xét trên phương diện pháp luật, đây là sự vi phạm nghiêm trọng quy định bảo mật thông tin của khách hàng. Vụ việc trên cùng cách giải quyết của toà án cũng góp một tiếng nói đến các công ty viễn thông trong việc bảo mật các thông tin khách hàng. 3. Có bí mật đời tư giữa vợ và chồng? Tóm tắt vụ việc: “Một tòa án ở TP HCM vừa giải quyết vụ ly hôn khá lạ. Anh chồng có trong tay nhiều tin nhắn mùi mẫn từ điện thoại di động của vợ gửi cho "người hàng xóm" ở nước ngoài”  Trong vụ việc này, không xét đến việc toà án có chấp nhận chứng cứ do anh chồng đưa ra để giải quyết ly hôn hay không, vấn đề đặt ra là việc anh chồng xem trộm tin nhắn của vợ có phải là hành động xâm phạm bí mật đời tư? Xung quanh vấn đề này có một số ý kiến khác nhau. Nhiều ý kiến cho rằng việc chồng đọc lén thư tín, ghi âm điện thoại của vợ là can thiệp thô bạo vào đời tư của người khác, có ý kiến lại cho rằng Hai vợ chồng "tuy hai mà một" nên có quyền được biết những gì xảy ra với người kia do vậy không có sự xâm phạm bí mật đời tư khi người này đọc tin nhắn của người kia. Quan điểm của chúng tôi cho rằng, việc vợ chồng đọc tin nhắn của nhau rõ ràng là sự xâm phạm bí mật đời tư của người kia. Trước hết, xét trên phương diện tình cảm, tập tục của người Việt thì việc vợ chồng xem trộm tin nhắn của nhau là chuyện rất bình thường và vẫn diễn ra hằng ngày ở nhiều gia đình. Quan hệ vợ chồng trong xã hội nước ta không chỉ chịu sự chi phối và điều chỉnh của pháp luật mà còn chịu ảnh hưởng bởi nhiều tập tục, quan niệm đã hình thành từ lâu đời, nhiều khi còn lấn át pháp luật. Xét trên quan điểm pháp luật, mặc dù vợ chồng là mối quan hệ gắn bó trên nhiều mặt và được pháp luật bảo vệ, tuy nhiên giữa vợ chồng vẫn có sự riêng tư, độc lập nhất định. Khoản 3 Điều 38 bộ luật dân sự có quy định “3. Thư tín, điện thoại, điện tín, các hình thức thông tin điện tử khác của cá nhân được đảm bảo an toàn và bí mật. Việc kiểm soát thư tín, điện thoại, điện tín, các hình thức thông tin điện tử khác của cá nhân được thực hiện trong trường hợp pháp luật có quy định phải có quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền”. Như vậy, Luật dân sự đã quy định rõ bí mật thư tín, điện thoại, điện tín, các hình thức thông tin điện tử khác của cá nhân được đảm bảo tuyệt đối (trừ trường hợp cá nhân đồng ý hoặc pháp theo quyết định của pháp luật). Điều đó có nghĩa, không ai, kể cả vợ, chồng được phép xâm phạm bí mật đời tư của người khác. Trong quan hệ vợ chồng, tuỳ hoàn cảnh, tuỳ trường hợp mà người vợ hoặc chồng cần phải có sự riêng tư nhất định. Không thể viện bất kì lý do gì để vợ hoặc chồng xâm phạm bí mật đời tư của người kia. Hơn nữa, xét trên phương diện tình cảm thì quan hệ vợ chồng sẽ bền vững trên cơ sở tôn trọng và tin tưởng lẫn nhau, việc kiểm tra điện thoại của người khác chỉ càng làm tăng thêm mối bất hoà và sự nghi ngờ trước đó. Tóm lại, từ sự phân tích trên có thể thấy người vợ trong tình huống trên hoàn toàn có thể kiện người chồng về việc xâm phạm bí mật đời tư, tuy nhiên trên thực tế, do quan niệm, phong tục của người á đông mà những vụ kiện như vậy ở nước ta rất hiếm, thậm chí chưa từng xảy ra.  III. Kết luận. Như vậy, việc việc Bộ luật dân sự 2005 chưa có định nghĩa rõ ràng về bí mật đời tư khiến cho việc xét xử các vụ việc liên quan của toà án cũng như việc người dân thực hiện các biện pháp nhằm bảo vệ quyền của cá nhân về bí mật đời tư còn gặp rất nhiều khó khăn. Các vụ việc nhiều khi đã được toà giải quyết nhưng vẫn để lại dư luận vì chưa có những căn cứ pháp luật thật rõ ràng khi xét xử. Thiết nghĩ, biện pháp trước mắt Toà án nhân dân Tối cao cần có văn bản hướng dẫn cụ thể về vấn đề này để việc giải quyết của Toà án đối với các vụ việc tương tự được thống nhất, khách quan. Về lâu dài, cần xây dựng những quy định cụ thể, thống nhất về vấn đề bí mật đời tư để không ai có thể lợi dụng dụng sự chưa rõ ràng của pháp luật nhằm đạt được mục đích của mình. Mặt khác, cần có những quy định nghiêm hơn với những hành động coi thường pháp luật, xâm phạm thô bạo bí mật đời tư của người khác. Tăng cường tuyên truyền cho người dân hiểu và nhận thức được quyền chính đáng của bản thân và tự mình có những biện pháp bảo về quyền đó một cách phù hợp.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docxQuyền bí mật đời tư - Dân sự.docx
Luận văn liên quan