Quyền và nghĩa vụ của chủ nợ và con nợ trong thủ tục phá sản

Dù ở những mức độ và phạm vi khác nhau nhưng phá sản bao giờ cũng kéo theo những hậu quả về kinh tế, xã hội mà trực tiếp là ảnh hưởng đến lợi ích kinh tế của các chủ nợ, của DN, HTX mắc nợ, của người lao động. Vì vậy, phải có những quy định cụ thể về trình tự, thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản cũng như quyền và nghĩa vụ của chủ nợ và con nợ trong thủ tục phá sản. Luật phá sản mới tạo lập được những cơ sở pháp lý để bảo vệ quyền lợi và lợi ích hợp pháp của các chủ nợ, những doanh nghiệp mắc nợ, tổ chức và cá nhân có liên quan, mới xác định rõ được quyền và nghĩa vụ của các bên có liên quan trong quá trình giải quyết yêu cầu phá sản. Luật phá sản năm 2004 ra đời thay thế cho Luật PSDN năm 1993 đã đáp ứng được nhu cầu cấp thiết của nền kinh tế thị trường, nó góp phần hoàn thiện hệ thống pháp luật nói chung và hệ thống pháp luật kinh tế nói riêng, tạo ra một hành lang an toàn về mặt pháp lý cho mọi hoạt động kinh doanh trong xã hội. Với mong muốn góp phần nhỏ bé vào công cuộc xây dựng pháp luật, luận văn đã nghiên cứu một cách toàn diện những vấn đề pháp lý về quyền và nghĩa vụ của chủ nợ và con nợ trong thủ tục phá sản, đánh giá thực trạng áp dụng Luật phá sản của Việt Nam trong những năm qua để từ đó chỉ ra những điểm hạn chế, những khiếm khuyết và bất cập cần phải được khắc phục. Trên cơ sở đó, luận văn đã đề xuất những kiến nghị bước đầu góp phần hoàn thiện pháp luật phá sản và nâng cao hiệu quả áp dụng. Tuy nhiên, do điều kiện nghiên cứu còn hạn chế, nhiều vấn đề luận văn chưa có điều kiện đi sâu nghiên cứu. Vì vậy, rất mong nhận được sự trao đổi để luận văn tiếp tục được nghiên cứu sâu hơn./.

doc60 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 8195 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Quyền và nghĩa vụ của chủ nợ và con nợ trong thủ tục phá sản, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TX phải được sự đồng ý bằng văn bản của thẩm phán trước khi thực hiện: + Cầm cố, thế chấp, chuyển nhượng, bán, tặng, cho, cho thuê tài sản; + Nhận tài sản từ một hợp đồng chuyển nhượng; + Chấm dứt thực hiện hợp đồng đã có hiệu lực; + Bán, chuyển đổi cổ phần hoặc chuyển quyền sở hữu tài sản; + Thanh toán các khoản nợ mới phát sinh từ hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, hợp tác xã và trả lương cho người lao động trong doanh nghiệp, hợp tác xã (Điều 31 Luật phá sản). * Nghĩa vụ kiểm kê tài sản. Ngoài việc tiếp tục duy trì hoạt động kinh doanh bình thường, con nợ còn có nghĩa vụ kiểm kê tài sản. Trong thời hạn ba mươi ngày, kể từ ngày nhận được quyết định mở thủ tục phá sản, DN, HTX lâm vào tình trạng phá sản phải tiến hành kiểm kê tài sản theo bảng kê chi tiết đã nộp cho Tòa án và xác định giá trị các tài sản đó; Thủ tục và thành phần hội đồng kiểm kê phải theo đúng quy định của pháp luật. Nếu DN, HTX thấy cần có thời gian dài hơn để thực hiện nhiệm vụ kể trên thì phải có văn bản đề nghị Thẩm phán gia hạn, nhưng không quá hai lần, mỗi lần không quá ba mươi ngày. Bảng kiểm kê tài sản đã được xác định giá trị do DN, HTX phải được gửi ngay cho Tòa án tiến hành thủ tục phá sản. Trong trường hợp xét thấy việc kiểm kê, xác định giá trị tài sản của DN, HTX là không chính xác thì Tổ quản lý, thanh lý tài sản tổ chức kiểm kê, xác định lại giá trị một phần hoặc toàn bộ tài sản của DN, HTX. Giá trị tài sản được xác định theo giá thị trường tại thời điểm kiểm kê. Thành phần hội đồng kiểm kê, định giá phải theo quy định chung. Chi phí kiểm kê định giá được tính vào chi phí phá sản theo quy định chung. Quy định này giúp cho thẩm phán cũng như tổ quản lí, thanh lí tài sản có thể nhanh chóng nắm bắt được một cách chính xác thực trạng tài sản của DN, HTX lâm vào tình trạng phá sản và có những giải pháp hợp lí, cần thiết trong quá trình tiến hành thủ tục phá sản. Ngoài ra, ngay sau khi nhận được quyết định mở thủ tục phá sản con nợ phải thông báo công khai cho tất cả nhân viên và người lao động của mình biết. Kể từ khi được thông báo, tất cả nhân viên và người lao động phải có nghĩa vụ bảo vệ tài sản của DN, HTX, không được thực hiện bất cứ hành vi nào nhằm che giấu, tẩu tán hoặc chuyển nhượng tài sản của con nợ. * Quyền khiếu nại. Quyền khiếu nại về danh sách chủ nợ không chỉ dành cho chủ nợ mà còn dành cả cho con nợ. Ngoài ra, trong thời hạn mười ngày, kể từ ngày niêm yết danh sách người mắc nợ DN, HTX thì con nợ có quyền khiếu nại với Tòa án về danh sách người mắc nợ (Điều 52, Điều 53 Luật phá sản). Luật phá sản quy định trong trường hợp cần thiết, theo đề nghị của tổ quản lí, thanh lí tài sản, thẩm phán phụ trách thủ tục phá sản có quyền quyết định áp dụng một hoặc một số biện pháp khẩn cấp tạm thời nhằm bảo toàn tài sản của DN, HTX lâm vào tình trạng phá sản. Trong thời hạn 3 ngày, kể từ ngày nhận được quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời của Tòa án, doanh nghiệp, hợp tác xã bị áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời có quyền khiếu nại với Chánh án Tòa án (Điều 56). 2.1.3. Giai đoạn tổ chức Hội nghị chủ nợ. a. Quyền và nghĩa vụ của chủ nợ. * Quyền tham gia hội nghị chủ nợ và biểu quyết những vấn đề thuộc thẩm quyền của Hội nghị chủ nợ. Mục đích cơ bản và quan trọng nhất của thủ tục phá sản là bảo vệ tối đa quyền, lợi ích hợp pháp của các chủ nợ. Bởi vậy, bất kì pháp luật quốc gia nào cũng giành cho chủ nợ quyền tham gia chủ nợ. Những người có quyền tham gia Hội nghị chủ nợ bao gồm: + Các chủ nợ có tên trong danh sách chủ nợ. Chủ nợ có thể ủy quyền bằng văn bản cho người khác tham gia Hội nghị chủ nợ và người được ủy quyền có quyền nghĩa vụ như chủ nợ. + Đại diện cho người lao động, đại diện công đoàn được người lao động ủy quyền. Trong trường hợp này đại diện cho người lao động, đại diện cho công đoàn có quyền, nghĩa vụ như chủ nợ. + Người bảo lãnh sau khi đã trả nợ thay cho doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản. Trong trường hợp này họ trở thành chủ nợ không có bảo đảm (Điều 62). Như vậy, thành phần cơ bản tham gia Hội nghị chủ nợ chính là các chủ nợ. Hội nghị chủ nợ do Thẩm phán triệu tập và chủ trì, có quyền quyết định những vấn đề quan trọng ảnh hưởng đến quyền lợi của các chủ nợ. Các chủ nợ đại diện cho ít nhất một phần ba tổng số nợ không có bảo đảm có quyền yêu cầu Thẩm phán triệu tập Hội nghị chủ nợ để quyết định các vấn đề liên quan đến chủ nợ, DN, HTX mắc nợ. Hội nghị chủ nợ được tiến hành gồm các chủ nợ có tên trong danh sách chủ nợ, đại diện cho người lao động hoặc đại diện công đoàn được người lao động ủy quyền (Điều 62). Hội nghị chủ nợ được coi là hợp lệ khi có đầy đủ các điều kiện sau đây (Điều 65 Luật phá sản): + Có quá nửa số chủ nợ không có bảo đảm đại diện cho từ hai phần ba trở lên tổng số nợ không có bảo đảm tham gia; + Có sự tham gia của những người có nghĩa vụ tham gia Hội nghị chủ nợ: "Người nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản quy định tại các điều 15, 16, 17 và 18 của Luật này có nghĩa vụ tham gia Hội nghị chủ nợ; trường hợp không tham gia được thì phải uỷ quyền bằng văn bản cho người khác tham gia Hội nghị chủ nợ. Người được uỷ quyền có quyền, nghĩa vụ như người uỷ quyền nếu họ tham gia Hội nghị chủ nợ; đối với doanh nghiệp tư nhân mà chủ doanh nghiệp tư nhân đã chết thì người thừa kế hợp pháp của chủ doanh nghiệp đó tham gia Hội nghị chủ nợ." (Khoản 1 Điều 63). Theo quy định của Luật phá sản (2004) thì Hội nghị chủ nợ có quyền quyết định các vấn đề sau: + Thảo luận và thông qua đề xuất các phương án, giải pháp tổ chức lại hoạt động kinh doanh làm cơ sở để Tòa án ra quyết định mở thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh. Nghị quyết của Hội nghị chủ nợ thông qua khi được sự chấp thuận của quá nửa (1/2) số chủ nợ không có bảo đảm có mặt tại Hội nghị đại diện cho từ hai phần ba (2/3) trở lên tổng số nợ không có bảo đảm thông qua (Điều 64); + Bầu người thay thế đại diện cho chủ nợ trong thành phần Tổ quản lý, thanh lý tài sản nếu xét thấy người đại diện cho chủ nợ trong Tổ này do Tòa án chỉ định không đáp ứng được lợi ích của các chủ nợ (Điều 64); + Đề nghị Thẩm phán thay thế người quản lý và điều hành doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản trong trường hợp xét thấy người quản lý của doanh nghiệp, hợp tác xã hiện tại không có khả năng điều hành hoặc tiếp tục điều hành hoạt động kinh doanh sẽ không có lợi cho việc bảo toàn tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã (Điều 30, 64); + Thảo luận và thông qua phương án phục hồi hoạt động sản xuất kinh doanh của con nợ do con nợ hoặc bất kỳ chủ nợ, người thứ ba đệ trình (Điều 71). Nghị quyết về phương án phục hồi hoạt động kinh doanh của con nợ được thông qua khi có quá nửa (1/2) số chủ nợ không có bảo đảm có mặt tai Hội nghị đại diện cho từ hai phần ba (2/3) trở lên tổng số nợ không có bảo đảm biểu quyết tán thành. Hội nghị chủ nợ là nơi đánh giá và quyết định có áp dụng hay không áp dụng thủ tục phục hồi. Bên cạnh đó, Hội nghị chủ nợ còn là thiết chế để các bên liên quan trong vụ việc phá sản xem xét, thảo luận và thống nhất về phương án phục hồi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Có thể nói, những thẩm quyền này có ý nghĩa rất quan trọng đối với Hội nghị chủ nợ. Bởi lẽ, thông qua thẩm quyền đó, Hội nghị chủ nợ vừa thể hiện vai trò của mình trong quá trình áp dụng thủ tục phục hồi vừa có thể đưa ra những "hiến kế" giúp doanh nghiệp vượt qua những khó khăn đang phải đối mặt. Để bảo vệ tốt hơn quyền, lợi ích của các chủ nợ Luật phá sản còn trao cho Hội nghị chủ nợ thẩm quyền đề nghị Thẩm phán ra quyết định cử người quản lý và điều hành hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Thẩm quyền này chính là biện pháp bảo đảm cho những quyết định của Hội nghị chủ nợ đạt được hiệu quả khi thực hiện trên thực tế. Luật phá sản (2004) không quy định cụ thể những chủ thể thuộc đối tượng nào có thể được cử làm người quản lý và điều hành hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Song đây là thẩm quyền lần đầu tiên Luật phá sản (2004) trao cho Hội nghị chủ nợ. Điều đó chứng tỏ rằng Luật phá sản (2004) đề cao vai trò của Hội nghị chủ nợ trong quá trình mở thủ tục phá sản nói chung và thủ tục phục hồi nói riêng. Bên cạnh đó, hội nghị chủ nợ còn có thẩm quyền bầu người đại diện hoặc bầu thay thế người đại diện trong Tổ quản lý, thanh lý tài sản. Tổ quản lý, thanh lý tài sản là chủ thể có vai trò quan trọng trong quá trình giải quyết đơn yêy cầu mở thủ tục phá sản. Vì vậy, sự tham gia của đại diện chủ nợ trong tổ chức này sẽ tạo điều kiện cho các chủ nợ bảo vệ tốt hơn quyền lợi của mình. b. Quyền và nghĩa vụ của con nợ. Tham gia Hội nghị chủ nợ và đề xuất phương án tổ chức lại hoạt động kinh doanh. Đối với con nợ, việc tham gia Hội nghị chủ nợ vừa là quyền đồng thời là nghĩa vụ không phân biệt con nợ nộp đơn hay chủ thể khác nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản. Đại diện của con nợ tham gia Hội nghị chủ nợ có thể là đại diện theo pháp luật (Tổng giám đốc, Giám đốc,...) hoặc đại diện theo ủy quyền. Đối với doanh nghiệp tư nhân mà chủ doanh nghiệp tư nhân đã chết thì người thừa kế hợp pháp của chủ doanh nghiệp tư nhân đã chết thì người thừa kế hợp pháp của chủ doanh nghiệp đó tham gia Hội nghị chủ nợ Theo PGS. TS Dương Đăng Huệ, pháp luật về phá sản của Việt Nam, NXBTP, 2005, tr 178. . Để khắc phục tình trạng đại diện hợp pháp của con nợ bỏ trốn hoặc cố tình không cử đại diện hợp pháp đến tham gia Hội nghị chủ nợ gây khó khăn cho việc tiến hành thủ tục phá sản. Luật phá sản (2004) đã cho phép Thẩm phán được chỉ định người đại diện cho DN, HTX tham gia Hội nghị chủ nợ trong trường hợp không có người đại diện cho doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản. Ngoài ra, tại Hội nghị chủ nợ còn có sự tham gia của đại diện cho người lao động, đại diện cho công đoàn có quyền, nghĩa vụ như chủ nợ tại Hội nghị chủ nợ. Khi tham gia Hội nghị chủ nợ, chủ doanh nghiệp hoặc đại diện hợp pháp của doanh nghiệp có trách nhiệm giải trình với Hội nghị chủ nợ về tình hình kinh doanh, thực trạng tài chính của doanh nghiệp, hợp tác xã, thực trạng tài sản của doanh nghiệp. Tại Hội nghị chủ nợ, con nợ có quyền kiến nghị với Hội nghị chủ nợ về phương án, giải pháp tổ chức lại hoạt động kinh doanh, khả năng và thời hạn thanh toán nợ cho các chủ nợ Theo PGS-TS. Dương Đăng Huệ, tạp chí TAND, đặc san chuyên đề về Luật phá sản tháng 8-2004, tr110. . 2.2. Giai đoạn phục hồi hoạt động kinh doanh. 2.2.1. Quyền và nghĩa vụ của chủ nợ. * Xây dựng phương án phục hồi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, hợp tác xã trình Hội nghị chủ nợ xem xét, quyết định. Một trong những mục đích lớn nhất của việc áp dụng thủ tục phục hồi là nhằm cứu vãn doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản. Thông qua việc thực hiện nội dung phương án phục hồi, giúp doanh nghiệp hoạt động kinh doanh trở lại bình thường, phục hồi khả năng thanh toán nợ. Do vậy, phương án phục hồi hoạt động kinh doanh có vai trò quyết định đến sự thành công hay thất bại của việc áp dụng thủ tục phục hồi. Theo Luật phá sản (2004), bất kỳ chủ nợ nào đều có quyền xây dựng phương án phục hồi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, hợp tác xã trình Hội nghị chủ nợ xem xét, quyết định (Điều 68). Đây là quyền mới được Luật phá sản (2004) ghi nhận nhằm tạo điều kiện cho các chủ nợ tham gia một cách tích cực và chủ động hơn vào quá trình phục hồi hoạt động của DN, HTX. Với qui định này cho thấy, vai trò chủ động của chủ nợ đã được nhấn mạnh, thông qua đó, các chủ nợ có thêm cơ hội để tự mình đề xuất phương án phục hồi hoạt động kinh doanh mà mình cho là phù hợp nhất để cứu DN, HTX mà thực chất là tự cứu mình trước nguy cơ con nợ không có khả năng thanh toán nợ cho mình. * Giám sát việc thực hiện phương án phục hồi hoạt động kinh doanh của DN, HTX. Theo quy định tại Điều 73, sau khi Hội nghị chủ nợ thông qua Nghị quyết về phương án phục hồi hoạt động kinh doanh và được Thẩm phán công nhận thì chủ nợ có nghĩa vụ giám sát DN, HTX trong quá trình thực hiện phương án phục hồi. Chủ nợ thực hiện giám sát nhằm bảo đảm DN, HTX thực hiện đúng phương án phục hồi đã được Hội nghị chủ nợ thông qua. Trong quá trình giám sát, chỉ có chủ nợ mới có quyền đồng ý cho phép con nợ sửa đổi, bổ sung nội dung của phương án phục hồi; Tòa án chỉ có quyền công nhận thỏa thuận sửa đổi, bổ sung phương án phục hồi (Điều 75). Trường hợp xét thấy con nợ thực hiện phương án phục hồi có hiệu quả thì chủ nợ có quyền đồng ý đình chỉ thủ tục phục hồi; sự đồng ý của chủ nợ được coi là hợp lệ khi được quá nửa số chủ nợ không có bảo đảm đại diện cho từ hai phần ba tổng số nợ không có bảo đảm trở lên chưa thanh toán nhất trí (Điều 76). Trong trường hợp phát hiện DN, HTX thực hiện không đúng hoặc không thực hiện được phương án phục hồi hoạt động kinh doanh thì chủ nợ có quyền yêu cầu Tòa án ra quyết định mở thủ tục thanh lý tài sản của DN, HTX (Điều 80) Theo PGS-TS. Dương Đăng Huệ, tạp chí TAND, đặc san chuyên đề về Luật phá sản tháng 8-2004, tr118. . Giám sát việc thực hiện phương án phục hồi vừa là quyền đồng thời vừa là nghĩa vụ của các chủ nợ, thông qua hoạt động này các chủ nợ có thể kiểm tra DN, HTX có thực hiện đúng và đầy đủ nội dung những cam kết về phục hồi hoạt động kinh doanh. Từ đó, đánh giá hiệu quả của phương án phục hồi đối với hoạt động sản xuất kinh doanh và tình hình tài chính của doanh nghiệp. Bên cạnh đó, việc giám sát thực hiện phương án phục hồi sẽ giúp các chủ nợ bảo vệ quyền lợi của mình được tốt nhất và kịp thời nhất. Theo quy định của Luật PSDN (1993), trong quá trình doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản thực hiện giải pháp tổ chức lại hoạt động kinh doanh, các chủ nợ có nghĩa vụ thực hiện những thỏa thuận tại Hội nghị chủ nợ và theo dõi doanh nghiệp thực hiện thỏa thuận đó. Ngoài ra, Luật PSDN (1993) không còn quy định nào khác về sự chịu kiểm tra, giám sát của doanh nghiệp khi thực hiện phương án phục hồi đã được thông qua. Vì vậy, mặc dù doanh nghiệp có những hành vi vi phạm cam kết với các chủ nợ nhưng trên thực tế không phải chịu bất cứ chế tài nào cả. Để các chủ nợ thực hiện tốt quyền giám sát của mình, đòi hỏi sự phối hợp thường xuyên, chặt chẽ giữa các chủ nợ với nhau. Bởi lẽ, trong quá trình thực hiện phương án phục hồi, doanh nghiệp vừa phải tiến hành thực hiện các giải pháp phục hồi hoạt động kinh doanh vừa phải thanh toán các khoản nợ cho các chủ nợ theo kế hoạch, thời gian được ghi nhận trong phương án phục hồi. Vì vậy, sự liên hệ, phối hợp giữa các chủ nợ sẽ giúp các chủ nợ kiểm tra doanh nghiệp có thực hiện đúng thời gian và thanh toán đầy đủ các khoản nợ cho chủ nợ hay không. * Quyền được thanh toán các khoản nợ từ tài sản của DN, HTX. Trong trường hợp DN, HTX thực hiện được phương án phục hồi đã được hội nghị chủ nợ thông qua thì các chủ nợ sẽ được thanh toán các khoản nợ theo nội dung đã đề ra trong phương án phục hồi. 2.2.2. Quyền và nghĩa vụ của con nợ. * Xây dựng phương án phục hồi kinh doanh để trình ra Hội nghị chủ nợ xem xét, thông qua. Sau khi có quyết định áp dụng thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh, DN, HTX có quyền đồng thời là nghĩa vụ xây dựng phương án phục hồi hoạt động kinh doanh để trình Thẩm phán xem xét, quyết định và đưa ra Hội nghị chủ nợ xem xét quyết định. Việc xây dựng phương án phục hồi hoạt động kinh doanh phải được thực hiện trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày Hội nghị chủ nợ thông qua Nghị quyết. Trường hợp cần thiết thì thời hạn có thể được kéo dài thêm (không quá 60 ngày) khi có sự đồng ý của Thẩm phán. Theo quy định tại Điều 69 thì phương án phục hồi hoạt động kinh doanh của DN, HTX lâm vào tình trạng phá sản phải nêu rõ các biện pháp cần thiết để phục hồi hoạt động kinh doanh như: huy động công nghệ sản xuất; tổ chức lại bộ máy quản lý; sáp nhập hoặc chia tách bộ phận sản xuất nhằm nâng cao năng suất, chất lượng sản xuất . . . Trong phương án phục hồi hoạt động kinh doanh, con nợ cũng phải nêu rõ điều kiện thời hạn, kế hoạch thanh toán các khoản nợ cho các chủ nợ. Phương án phục hồi hoạt động kinh doanh không được Hội nghị chủ nợ thông qua là một trong những căn cứ để Tòa án quyết định mở thủ tục thanh lý tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã (Điều 80) Theo PGS-TS. Dương Đăng Huệ, tạp chí TAND, đặc san chuyên đề về Luật phá sản tháng 8-2004, tr110. . Có thể thấy chủ doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản là chủ thể duy nhất có nghĩa vụ xây dựng các giải pháp tổ chức lại hoạt động kinh doanh, kế hoạch thanh toán nợ cho các chủ nợ nếu muốn được áp dụng thủ tục phục hồi. Bởi lẽ, vào thời điểm này chỉ có các chủ nợ là người hiểu rõ tình trạng tài chính, tình hình hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Vì vậy, chủ doanh nghiệp sẽ đưa ra được những giải pháp tổ chức lại hoạt động kinh doanh phù hợp và hiệu quả nhất. Điều đó không những giúp doanh nghiệp có thể thực hiện được những cam kết thanh toán nợ cho các chủ nợ mà còn là quyền lợi của chính bản thân doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản. * Nghĩa vụ thực hiện phương án phục hồi hoạt động kinh doanh sau khi Hội nghị chủ nợ thông qua và được Tòa án công nhận. Con nợ là chủ thể duy nhất có nghĩa vụ thực hiện phương án phục hồi hoạt động kinh doanh được thông qua tại Hội nghị chủ nợ nhưng phải chịu sự kiểm tra, giám sát chặt chẽ của Tòa án và chủ nợ trong quá trình thực hiện. Nghị quyết của Hội nghị chủ nợ thông qua phương án phục hồi hoạt động kinh doanh được Thẩm phán công nhận sẽ có hiệu lực đối với con nợ cũng như tất cả các bên có liên quan. Con nợ có trách nhiệm thực hiện phương án phục hồi hoạt động kinh doanh theo đúng thời hạn, nội dung, Theo quy định của Điều 73 thì định kỳ 6 tháng một lần, DN, HTX có trách nhiệm báo cáo với Tòa án về tình hình thực hiện phương án phục hồi hoạt động kinh doanh. Thời hạn thực hiện phương án phục hồi hoạt động kinh doanh của DN, HTX tối đa là 3 năm (Điều 74). Trong quá trình thực hiện phương án phục hồi hoạt động kinh doanh, DN, HTX có quyền thỏa thuận với các chủ nợ về việc sửa đổi, bổ sung phương án phục hồi hoạt động kinh doanh (Điều 75). Việc DN, HTX thực hiện xong phương án phục hồi hoạt động kinh doanh, thanh toán được các khoản nợ cho các chủ nợ theo kế hoạch là một trong những căn cứ để Thẩm phán ra quyết định đình chỉ thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh (Điều 76). Trong trường hợp này, DN, HTX sẽ được coi là không còn lâm vào tình trạng phá sản và được trở lại hoạt động sản xuất kinh doanh bình thường như các doanh nghiệp khác. Trong trường hợp DN, HTX thực hiện không đúng hoặc không thực hiện được phương án phục hồi hoạt động kinh doanh, không đáp ứng yêu cầu về việc thanh toán nợ mà không thỏa thuận khác được với các chủ nợ thì Tòa án sẽ ra quyết định mở thủ tục thanh lý tài sản của DN, HTX để trả nợ cho các chủ nợ (Điều 80) Theo PGS-TS. Dương Đăng Huệ, tạp chí TAND, đặc san chuyên đề về Luật phá sản tháng 8-2004, tr111. . 2.3. Giai đoạn thanh lý tài sản, thanh toán các khoản nợ. 2.3.1. Quyền và nghĩa vụ của chủ nợ. * Quyền khiếu nại quyết định mở thủ tục thanh lý. Các chủ nợ có quyền khiếu nại quyết định mở thủ tục thanh lý tài sản của con nợ. Thời hạn khiếu nại là hai mươi ngày, kể từ ngày cuối cùng đăng báo về quyết định mở thủ tục thanh lý tài sản. * Quyền được thanh toán các khoản nợ từ tài sản của DN, HTX. Trong trường hợp DN, HTX không thể phục hồi được hoạt động kinh doanh thì Tòa án phải ra quyết định mở thủ tục thanh lý tài sản của DN, HTX lâm vào tình trạng phá sản. Khi đó, Tòa án ra quyết định mở thủ tục thanh lý, các chủ nợ được quyền thanh toán các khoản nợ của mình theo quy định của pháp luật phá sản, cụ thể: - Đối với chủ nợ có bảo đảm: Theo Điều 35 Luật phá sản (2004), các khoản nợ có bảo đảm bằng tài sản thế chấp, cầm cố của DN, HTX lâm vào tình trạng phá sản được xác lập trước ngày Tòa án thụ lý đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản thì các khoản nợ này được ưu tiên thanh toán bằng tài sản đó. Nếu giá trị tài sản thế chấp, cầm cố không đủ thanh toán khoản nợ, thì phần nợ còn lại của chủ nợ có bảo đảm sẽ được thanh toán từ giá trị tài sản còn lại của DN, HTX như các khoản nợ không có bảo đảm. Nếu giá trị của tài sản thế chấp, cầm cố lớn hơn khoản nợ phải thanh toán thì phần giá trị chênh lệch cao hơn sẽ được nhập vào giá trị tài sản còn lại của DN, HTX để thanh toán cho các nghĩa vụ tài sản khác của DN, HTX. - Đối với chủ nợ không có bảo đảm: Việc thanh toán các nghĩa vụ tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã từ giá trị tài sản còn lại của doanh nghiệp, hợp tác xã được thực hiện theo thứ tự sau đây (Điều 37): + Phí phá sản; + Các khoản nợ lương, trợ cấp thôi việc, bảo hiểm xã hội theo quy định của pháp luật và các quyền lợi khác theo thỏa ước lao động tập thể và hợp đồng lao động đã ký kết; + Các khoản nợ không có bảo đảm phải trả cho các chủ nợ trong danh sách chủ nợ theo nguyên tắc: nếu giá trị tài sản đủ thanh toán các khoản nợ thì mỗi chủ nợ đều được thanh toán đủ số nợ của mình; nếu giá trị tài sản không đủ để thanh toán các khoản nợ thì mỗi chủ nợ chỉ được thanh toán một phần khoản nợ của mình theo tỷ lệ tương ứng với giá trị tài sản còn lại của doanh nghiệp, hợp tác xã. Như vậy, Luật phá sản (2004) vẫn quy định thứ tự ưu tiên thanh toán tài sản như quy định tại Điều 39 Luật PSDN (1993). Các khoản chi phí cho thủ tục phá sản và các khoản thanh toán quyền lợi cho người lao động vẫn được ưu tiên trước các khoản nợ không có bảo đảm. Tuy nhiên, khác với Luật PSDN (1993), Luật phá sản (2004) đã bãi bỏ ưu tiên thanh toán cho các khoản nợ thuế. Nợ thuế được coi là một khoản nợ không có bảo đảm và được thanh toán cùng hàng với các chủ nợ không có bảo đảm khác theo tỷ lệ tương ứng với giá trị tài sản còn lại của doanh nghiệp. Việc bãi bỏ ưu tiên thanh toán nợ thuế nhằm mục đích bảo đảm bình đẳng giữa các chủ nợ, khuyến khích chủ nợ không có bảo đảm tích cực tham gia vào thủ tục phá sản doanh nghiệp Theo PGS-TS. Dương Đăng Huệ, tạp chí TAND, đặc san chuyên đề về Luật phá sản tháng 8-2004, tr119. . 2.3.2. Quyền khiếu nại quyết định mở thủ tục thanh lý tài sản của con nợ. Con nợ có quyền khiếu nại quyết định mở thủ tục thanh lý tài sản. Thời hạn khiếu nại là 20 ngày, kể từ ngày cuối cùng đăng báo về quyết định mở thủ tục thanh lý tài sản. 2.4. Giai đoạn tuyên bố phá sản. Về nguyên tắc, quyết đinh tuyên bố phá sản doanh nghiệp sẽ giải phóng trách nhiệm tài sản của con nợ, bất kể giá trị tài sản còn lại của con nợ có đủ thanh toán cho các chủ nợ hay không. Tuy nhiên, phù hợp với chế độ trách nhiệm vô hạn của doanh nghiệp tư nhân, công ty hợp danh, Điều 90 Luật phá sản (2004) đã quy định “Quyết định tuyên bố doanh nghiệp, hợp tác xã bị phá sản . . . không miễn trừ nghĩa vụ về tài sản của chủ doanh nghiệp tư nhân, thành viên hợp danh của công ty hợp danh đối với chủ nợ chưa được thanh toán, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác". Điều đó có nghĩa là, trong trường hợp tài sản còn lại của doanh nghiệp tư nhân, công ty hợp danh không đủ để thanh toán cho các chủ nợ thì chủ doanh nghiệp tư nhân, thành viên hợp danh của công ty hợp danh có nghĩa vụ tiếp tục thanh toán phần nợ chưa được thanh toán bằng tài sản có được trong tương lai; nghĩa vụ này không bị giới hạn về thời gian Theo PGS-TS. Dương Đăng Huệ, tạp chí TAND, đặc san chuyên đề về Luật phá sản tháng 8-2004, tr112. . Để bảo đảm lợi ích hợp pháp của chủ nợ cũng như con nợ, Luật phá sản đã cho phép chủ nợ và con nợ được quyền khiếu nại quyết định của Tòa án tuyên bố doanh nghiệp, hợp tác xã bị phá sản trong thời hạn 20 ngày, kể từ ngày cuối cùng đăng báo quyết định tuyên bố phá sản (Điều 91). CHƯƠNG III THỰC TRẠNG GIẢI QUYẾT YÊU CẦU TUYÊN BỐ PHÁ SẢN VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN VÀ THỰC THI CÓ HIỆU QUẢ LUẬT PHÁ SẢN NĂM 2004 3.1. Thực trạng giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản. Luật phá sản Việt Nam ra đời đã góp phần hoàn thiện hệ thống pháp luật nói chung về hệ thống pháp luật kinh tế nói riêng. Luật phá sản (2004) thực sự đóng vai trò là một công cụ pháp lý của Nhà nước trong lĩnh vực phá sản doanh nghiệp Việt Nam đã góp phần tạo lập một môi trường kinh doanh thuận lợi cho các doanh nghiệp. Việc phổ biến học tập và nghiên cứu Luật phá sản cũng được quan tâm hưởng ứng của mọi ngành và các tầng lớp nhân dân, các nhà kinh doanh. Tuy vậy, việc đưa Luật phá sản Việt Nam vào thực tiễn cuộc sống còn gặp nhiều khó khăn. Theo thống kê, qua hơn 10 năm thực hiện Luật PSDN (năm 1993), ngành tòa án cả nước chỉ thụ lý 151 đơn yêu cầu tuyên bố phá sản, trong đó hoàn thành thủ tục tuyên bố phá sản là 46 doanh nghiệp (Thành phố Hồ Chí Minh 23 hồ sơ, ra quyết định tuyên bố phá sản 17; Hà Nội: 3 hồ sơ, Đà Nẵng 4 hồ sơ). Như thế có nghĩa là trong 10 năm, trung bình một tỉnh thành chỉ xét xử có một vụ phá sản doanh nghiệp. Thành phố Hồ Chí Minh có số lượng doanh nghiệp rất lớn, nhưng chỉ có 5 doanh nghiệp được tòa tuyên bố phá sản. Hầu hết các doanh nghiệp xin phá sản đều nợ ngân hàng như Công ty Tamexco nợ trên 450 tỷ đồng (không tài sản thế chấp), Công ty trách nhiệm hữu hạn Ngọc Thảo nợ trên 245 tỷ đồng, Công ty Thương mại Bình Tây nợ trên 2 triệu USD... Sự việc này là vô lý và không bình thường trong một nền kinh tế thị trường với hàng vạn doanh nghiệp đang hoạt động thuộc nhiều lĩnh vực, và thực tế lượng doanh nghiệp cần phá sản lớn hơn nhiều so với con số nêu trên. Theo tiến sĩ Đương Đăng Huệ, Vụ trưởng Vụ Pháp luật kinh tế Bộ Tư pháp, tình trạng trên là do các điều kiện quy định được xem là phá sản theo luật phá sản cũ vô cùng phức tạp, nên không ít doanh nghiệp lẽ ra đã được xử lý phá sản nhưng vẫn tiếp tục tồn tại. Luật phá sản (2004) ra đời, được giới doanh nhân, các nhà đầu tư trong và ngoài nước lẫn các cơ quan có thẩm quyền như toà án, các trung tâm trọng tài thương mại kỳ vọng rất nhiều nhưng tình hình thực thi cũng không cải thiện bao nhiêu so với Luật PSDN (1993). Theo báo cáo tổng kết của Tòa án nhân dân tối cao trong những năm 2005, 2006, 2007 cho biết tình hình giải quyết các vụ phá sản của các Tòa án các địa phương như sau: Theo báo cáo Tổng kết ngành Tòa án năm 2005 (từ ngày 01/10/2004 đến ngày 30/09/2005), thì Tòa kinh tế đã thụ lý 7 đơn yêu cầu tuyên bố phá sản. Trong số các đơn đã thụ lý, Tòa án đã quyết định đình chỉ giải quyết 1 vụ và chỉ tuyên bố phá sản với 1 doanh nghiệp. Tình hình thụ lý và giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản không phản ánh đúng thực tế. Báo cáo Tổng kết ngành Tòa án năm 2006, có 48 đơn yêu cầu tuyên bố phá sản. Trong đó, tuyên bố phá sản được 11 doanh nghiệp. Nhiều trường hợp xin tuyên bố phá sản doanh nghiệp nhưng Tòa án không thể ra quyết định mở thủ tục phá sản vì không có đủ tài liệu để tiến hành kiểm toán xem có đúng là doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản hay không?. Do đó việc giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản còn gặp nhiều khó khăn trở ngại. Theo báo cáo Tổng kết của Tòa án nhân dân tối cao năm 2007, thì Tòa án đã thụ lý 175 đơn yêu cầu tuyên bố phá sản. Trong đó, quyết định mở thủ tục phá sản là 164 đơn, quyết định không mở thủ tục phá sản 10 đơn. Trong những trường hợp mở thủ tục phá sản có 28 vụ ra quyết định tuyên bố phá sản trong trường hợp đặc biệt, 4 vụ tiến hành mở thủ tục thanh lý tài sản và 10 vụ đình chỉ tiến hành thủ tục phá sản. Còn lại 110 vụ đang giải quyết theo trình tự luật định. Tình hình trên cho ta thấy tuy các vụ phá sản được thụ lý giải quyết ở Tòa án không nhiều nhưng việc áp dụng Luật phá sản tại các tòa án được gải quyết còn nhiều vướng mắc. Có thể kể đến một số vướng mắc cơ bản sau đây trong quá trình giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản: Về thời điểm Tòa án ra quyết định mở thủ tục phá sản. Nếu việc lâm vào tình trạng phá sản là do sự điều chuyển tài sản của cấp trên trong quá trình sắp xếp lại doanh nghiệp thì có thuộc trường hợp phá sản không? So với quy định tại Điều 2 Luật PSDN năm 1993, khái niệm “lâm vào tình trạng phá sản” được quy định tại Điều 3 Luật phá sản năm 2004 đã có sự thay đổi cơ bản. DN, HTX bị coi là “lâm vào tình trạng phá sản” khi và chỉ khi “không có khả năng thanh toán được các khoản nợ đến hạn khi chủ nợ có yêu cầu”. Nguyên nhân vì sao dẫn đến việc không có khả năng thanh toán được các khoản nợ đến hạn không còn là điều kiện để xác định DN, HTX đó có lâm vào tình trạng phá sản hay không nữa. Vì vậy, khi xem xét để ra quyết định mở hoặc không mở thủ tục phá sản, Tòa án chỉ cần xem xét DN, HTX đó có thực sự bị mất khả năng thanh toán các khoản nợ đến hạn khi chủ nợ có yêu cầu hay không. Nguyên nhân dẫn đến việc DN, HTX đó lâm vào tình trạng phá sản là do sự điều chuyển tài sản của cấp trên trong quá trình sắp xếp lại doanh nghiệp hợp tác xã hay do một lý do nào khác cũng không có ý nghĩa trong việc xác định tình trạng phá sản của DN, HTX đó, không thể là căn cứ để Tòa án xem xét việc có mở hay không mở thủ tục phá sản đối với DN, HTX này. Vấn đề doanh nghiệp chủ nợ gửi đơn yêu cầu tuyên bố phá sản khi không xác định được địa chỉ và chủ doanh nghiệp con nợ. Hiện nay, nhiều doanh nghiệp thành lập nhưng hoạt động chẳng được bao lâu thì mất tích, nếu có chủ nợ xin mở thủ tục phá sản doanh nghiệp mà Tòa án không xác định được trụ sở doanh nghiệp vì theo địa chỉ đăng kí thì doanh nghiệp đã chuyển đi không để lại địa chỉ mới, xác minh nơi cư trú hoặc nơi đăng ký hộ khẩu thường trú của các thành viên công ty đều không có. Do đó cần có hướng dẫn cụ thể trong trường hợp này. Về khoản nợ của người mắc nợ doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản. Nếu khoản nợ của người mắc nợ DN, HTX lâm vào tình trạng phá sản thuộc loại khó đòi, đòi không được thì phải đòi bao lâu mới được ra quyết định tuyên bố phá sản. Có nên trao cho Tổ quản lý, thanh lý tài sản quyền chủ động thương lượng với các người mắc nợ DN, HTX lâm vào tình trạng phá sản, có quyền giảm một phần nợ cho các con nợ đó để có thể thu hồi được phần nợ còn lại không? Do đó, các cơ quan có thẩm quyền cần xem xét vấn đề này một cách cụ thể để có thể đưa ra một giải pháp phù hợp với thực tế. Về đất đai mà DN, HTX lâm vào tình trạng phá sản đang sử dụng. Riêng về đất đai mà DN, HTX lâm vào tình trạng phá sản đang sử dụng nhưng không phải là tài sản của DN, HTX đó mà trên đất này đang tồn tại bất động sản (nhà cửa, công trình kiến trúc, rừng trồng, cây công nghiệp,...) của DN, HTX, của cán bộ công nhân viên của họ hoặc DN, HTX này đang thế chấp cho Ngân hàng,... hiện nay các Tòa án rất khó xử lý. Do đó, Chính phủ cần có quy định chi tiết và hướng dẫn cách giải quyết. Về thủ tục thanh lý tài sản. Theo quy định tại khoản 2 Điều 10 Luật phá sản, Tổ quản lý, thanh lý tài sản thi hành nhiệm vụ, quyền hạn của mình theo quy định của pháp luật về thi hành án dân sự. Trong việc bán đấu giá tài sản của DN, HTX bị phá sản, nếu đã hai lần hạ giá mà không bán được, các chủ nợ cũng không ai nhận tài sản đã giảm giá đó mà lại thực hiện như quy định tại Điều 48 Pháp lệnh thi hành án dân sự 2004 (“trả lại tài sản đó cho người phải thi hành án và áp dụng biện pháp cưỡng chế khác”) thì không phù hợp. DN, HTX bị phá sản không còn tài sản nào khác để thanh toán cho các chủ nợ mà lại được nhận lại tài sản không bán đấu giá được? Đã không còn tài sản thì lấy đâu ra biện pháp cưỡng chế nào khác nữa? Do đó, Chính phủ cần sớm ban hành quy định về thủ tục thanh lý tài sản riêng biệt cho phù hợp với đặc điểm của công tác thanh lý tài sản DN, HTX bị phá sản, chứ không sử dụng pháp luật thi hành án dân sự như hiện nay. 3.2. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện và thực thi có hiệu quả Luật phá sản năm 2004. Qua tìm hiểu những tồn tại, vướng mắc trong quá trình thi hành Luật phá sản trong thời gian qua, chúng tôi kiến nghị một số vấn đề cụ thể sau đây để hoàn thiện pháp luật phá sản và thực sự đưa Luật phá sản vào đời sống, tạo điều kiện cho môi trường kinh doanh lành mạnh, ổn định và bình đẳng giữa các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế. Thứ nhất, cần khắc phục sự mâu thuẫn giữa Luật phá sản và các văn bản pháp luật có liên quan. Qua nghiên cứu, chúng tôi thấy một số quy định của Luật phá sản (2004) không phù hợp với các văn bản liên quan. Đây là một hạn chế gây không ít khó khăn cho các cơ quan có thẩm quyền trong quá trình giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản. Để đảm bảo Luật phá sản (2004) có khả năng thực thi cao trong thực tế thì cần phải khắc phục các mâu thuẫn này. Điều 2 Luật phá sản (2004) quy định “luật này áp dụng đối với doanh nghiệp , hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã được thành lập theo quy định của pháp luật”. Như vậy, theo Luật phá sản (2004), không phải mọi chủ thể kinh doanh ở Việt Nam đều có thể bị tuyên bố phá sản mà chỉ có hợp tác xã và những cơ sở sản xuất kinh doanh nào được gọi là doanh nghiệp khi lâm vào tình trạng phá sản mới có thể bị tuyên bố phá sản. Đó là doanh nghiệp tư nhân, công ty hợp danh, công ty trách nhiệm hữu hạn có từ hai thành viên trở lên, công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên là tổ chức, công ty cổ phần, doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp liên doanh, doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài, hợp tác xã gồm cả liên hiệp hợp tác xã, doanh nghiệp của các tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội. Quy định này của Luật phá sản là không thống nhất với quy định của Luật thương mại. Khoản 1 Điều 35 của Luật thương mại quy định “thương nhân bị tuyên bố phá sản hoặc giải thể” mà nội hàm của khái niệm thương nhân lại rộng hơn nội hàm của khái niệm doanh nghiệp, thương nhân có thể là cá nhân, pháp nhân, hộ gia đình, tổ hợp tác có đăng kí kinh doanh hoạt động thương mại. Như vậy, ngoài doanh nghiệp ra, thương nhân còn bao gồm các thực thể pháp lý khác. Thứ hai, đó là về thời gian mở thủ tục thụ lý. Khoản 1 Điều 28 quy định : “Trong thời hạn ba mươi ngày, kể từ ngày thụ lý đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản, Tòa án phải ra quyết định mở hoặc không mở thủ tục phá sản”. Tuy nhiên, trong thực tiễn giải quyết yêu cầu mở thủ tục phá sản thì thẩm phán chỉ có 20 ngày để quyết định có mở thủ tục thụ lý phá sản hay không vì hồ sơ phải đi qua các bộ phận thụ lý theo luật định. Với khoảng thời gian này, theo báo cáo của các Tòa án trong những năm vừa qua cho rằng thời gian đó là quá ít để có thể xem xét bao gồm cả việc triệu tập doanh nghiệp yêu cầu phá sản và những cá nhân và tổ chức người liên quan, nghiên cứu các báo cáo tình hình hoạt động của doanh nghiệp, những biện pháp khắc phục nhưng không thoát khỏi sự phá sản... Vì vậy, theo chúng tôi, Luật cần quy định kéo dài thêm thời gian mở thủ tục thụ lý để đáp ứng được nhu cầu của thực tế. Thứ ba, cần quy định tiêu chí xác định những tài sản thiết yếu của con người cho chủ doanh nghiệp tư nhân và thành viên hợp danh của công ty hợp danh khi doanh nghiệp tư nhân hoặc công ty hợp danh bị phá sản. Một trong những vướng mắc khi doanh nghiệp tư nhân hoặc công ty hợp danh phá sản là việc xác định tài sản của con nợ trong mối quan hệ với trách nhiệm của các chủ thể này. Ngoài tài sản trực tiếp đang sử dụng vào hoạt động kinh doanh, chủ doanh nghiệp tư nhân và thành viên hợp danh còn phải chịu trách nhiệm bằng cả tài sản không sử dụng vào hoạt động kinh doanh của mình, nếu tài sản trong doanh nghiệp hoặc công ty không đủ để thanh toán các khoản nợ. Chính vì vậy mà khi xác định tài sản phá sản của doanh nghiệp tư nhân và công ty hợp danh, pháp luật cần có những quy định cụ thể để loại trừ những tài sản phục vụ cho nhu cầu thiết yếu hàng ngày của con người. Trong trường hợp chủ doanh nghiệp tư nhân hay thành viên hợp danh của công ty hợp danh có vợ hoặc có chồng thì việc xác định tài sản riêng của họ cũng gặp không ít những khó khăn, để giải quyết vấn đề này, theo chúng tôi, Luật Hôn nhân và Gia đình cần có những quy định rõ ràng, tạo điều kiện cho việc xác định tài sản được chính xác và nhanh chóng. Thứ tư, Về các loại chủ nợ. Luật chỉ phân biệt chủ nợ có bảo đảm, chủ nợ không bảo đảm, chủ nợ có đảm một phần (Điều 6). Các chủ nợ khác nhau thì có địa vị pháp lý khác nhau trong thủ tục phá sản. Chủ nợ có bảo đảm và chủ nợ không có bảo đảm có quyền và nghĩa vụ khác nhau trong quá trình tham gia vào thủ tục phá sản. Điều này thấy rõ trong so sánh về quyền và nghĩa vụ giữa chủ nợ có bảo đảm và chủ nợ không có bảo đảm. Về nguyên tắc, Luật phá sản (2004) đã thể hiện tinh thần bảo vệ lợi ích của chủ nợ có bảo đảm triệt để hơn so với chủ nợ không có bảo đảm. Đó là lẽ đương nhiên. Nếu lợi ích của chủ nợ không có bảo đảm không được bảo vệ trong thủ tục phá sản thì bản thân chế định bảo đảm thực hiện nghĩa vụ của Bộ luật Dân sự sẽ không còn ý nghĩa. Tuy nhiên một số quy định của Luật phá sản 2004 không phù hợp với tinh thần chủ đạo đó. Cụ thể, ngay từ khi có quyết định thụ lý đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản thì quyền được thanh toán nợ đến hạn của chủ nợ có bảo đảm đã bị hạn chế - bị tạm đinh chỉ cho đến khi có quyết định thanh lý tài sản (Điều 27, Điều 35), trừ trường hợp được Tòa án cho phép. Trong khi đó, các chủ nợ không có bảo đảm vẫn có thể được thanh toán các khoản nợ đến hạn của mình sau khi có quyết định thụ lý đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản.Việc thanh toán các khoản nợ không có bảo đảm chỉ bị cấm sau khi có quyết định mở thủ tục phá sản (Điều 31). Chủ nợ có khả năng bù trừ nghĩa vụ với doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản cũng có lợi thế hơn chủ nợ có bảo đảm. Theo Điều 48 chủ nợ này có quyền thỏa thuận với doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản để thực hiện việc bù trừ và không có bất kỳ sự hạn chế nào của Luật, không chịu sự giám sát của thẩm phán. Theo ý kiến của chúng tôi, quy định như vậy là không hợp lý. Ngoài chủ nợ có bảo đảm, chủ nợ không có bảo đảm, chủ nợ có bảo đảm một phần còn một loại chủ nợ nữa mà Luật không đề cập đến mặc dù sự hiện diện của loại chủ nợ này trong thủ tục phá sản là hoàn toàn hiện thực và chủ nợ này có những quyền đặc trưng của mình. Đó là chủ nợ mới – chủ nợ xuất hiện trên cơ sở các hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp sau khi có quyết định mở thủ tục phá sản. Luật đề cập đến các khoản nợ mới (Điều 31, điểm e) nhưng Luật lại không nói về chủ nợ mới. Luật thừa nhận sau khi có quyết định mở thủ tục phá sản mọi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp vẫn tiến hành bình thường nhưng phải chịu sự giám sát, kiểm tra của Thẩm phán, Tổ quản lý tài sản (Điều 30). Điều này có nghĩa là doanh nghiệp có thể giao kết hợp đồng mới - xuất hiện những chủ nợ mới, các khoản nợ mới. Đây là sự thiếu lôgic và không chặt chẽ của Luật. Về lý thuyết, các chủ nợ mới – khác với các chủ nợ cũ (những chủ nợ xuất hiện trên cơ sở các hợp đồng giao kết trước khi có quyết định mở thủ tục phá sản) luôn có quyền được ưu tiên thanh toán trong mọi trường hợp. Chỉ có như vậy các quy định của Luật về thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp mới có tính khả thi. Nếu không có sự bảo đảm của Luật về quyền ưu tiên thanh toán thì không một chủ nợ nào lại giao kết hợp đồng với một con nợ đã có quyết định mở thủ tục phá sản và mọi cố gắng phục hồi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản chỉ là mong muốn chủ quan của nhà lập pháp mà thôi. Quyền ưu tiên thanh toán của chủ nợ mới cần được thừa nhận trong cả thủ tục thanh lý tài sản. Một vấn đề được đặt ra: Các chủ nợ mới có quyền tham gia vào danh sách chủ nợ hay không? Câu hỏi này không được trả lời rõ ràng trong Luật. Các chủ nợ có bảo đảm mặc dù có quyền ưu tiên thanh toán nhưng vẫn phải có tên trong danh sách chủ nợ để có quyền đòi nợ, có quyền tham gia Hội nghị chủ nợ. Theo lôgic này thì các chủ nợ mới cũng phải có tên trong danh sách chủ nợ. Tuy nhiên yêu cầu này có một số khó khăn. Vấn đề là danh sách chủ nợ được lập trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày cuối cùng đăng báo quyết định của Tòa án mở thủ tục phá sản. Sau thời hạn niêm yết và giải quyết khiếu nại (nếu có) thì khóa sổ danh sách chủ nợ. Trong khi đó doanh nghiệp có quyết định mở thủ tục phá sản vẫn tồn tại, vẫn hoạt động kinh doanh, vẫn phải ký kết các giao dịch mới, có các chủ nợ mới và chỉ chấm dứt hoạt động kinh doanh khi có quyết định thanh lý tài sản (Điều 82). Theo chúng tôi, để giải quyết khó khăn này, Luật cần quy định khả năng bổ sung danh sách chủ nợ trong những trường hợp cần thiết. Thứ năm, Về giao dịch vô hiệu (Điều 43). Theo Khoản 1 Điều 43 Luật phá sản quy định: Các giao dịch sau đây của doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản được thực hiện trong khoảng thời gian ba tháng trước ngày Toà án thụ lý đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản bị coi là vô hiệu: a) Tặng cho động sản và bất động sản cho người khác; b) Thanh toán hợp đồng song vụ trong đó phần nghĩa vụ của doanh nghiệp, hợp tác xã rõ ràng là lớn hơn phần nghĩa vụ của bên kia; c) Thanh toán các khoản nợ chưa đến hạn; d) Thực hiện việc thế chấp, cầm cố tài sản đối với các khoản nợ; đ) Các giao dịch khác với mục đích tẩu tán tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã. Nói cách khác là Luật phá sản (2004) thừa nhận khả năng hồi tố với các loại giao dịch này dù chúng đa thực hiện xong nhằm bảo toàn tài sản của con nợ, quy định này của Luật phá sản (2004) không thể bao hàm các giao dịch tương tự thực hiện trong khoảng thời gian từ khi có quyết định thụ lý đến khi có quyết định mở thủ tục phá sản. Trong khoảng thời gian 3 tháng trước ngày Tòa án thụ lý đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản mà DN, HTX thực hiện các hành vi quy định trên thì các hành vi đó bị coi là vô hiệu. Vậy các hành vi tương tự được DN, HTX thực hiện trong thời gian từ khi Tòa án thụ lý đơn đến khi Tòa án có quyết định mở thủ tục phá sản có bị coi là vô hiệu hay không? Theo lôgic, các hành vi quy định tại Khoản 1 Điều 43 Luật phá sản (2004) mà được DN, HTX thực hiện sau khi có quyết định thụ lý đơn của Tòa án thì cũng phải coi là vô hiệu. Tuy nhiên, Luật phá sản (2004) chỉ quy định những giao dịch bị cấm hoặc bị hạn chế sau khi có quyết định mở thủ tục phá sản (Điều 31). Đây là sự thiếu chặt chẽ của Luật PSDN 1993 mà Luật phá sản 2004 vẫn không khắc phục được. Vì vậy, Luật phá sản (2004) cần bổ sung quy định những hành vi tương tự như quy định tại Khoản 1 Điều 43 Luật phá sản (2004) được DN, HTX thực hiện trong thời gian từ khi Tòa án thụ lý đơn đến khi Tòa án có quyết định mở thủ tục phá sản cũng bị coi là vô hiệu. Thứ sáu, Về điều kiện hợp lệ của Hội nghị chủ nợ. Điều 65 Luật phá sản (2004) quy định Hội nghị chủ nợ chỉ hợp lệ khi có đầy đủ các điều kiện sau đây: 1. Quá nửa số chủ nợ không có bảo đảm đại diện cho từ hai phần ba tổng số nợ không có bảo đảm trở lên tham gia; 2. Có sự tham gia của người có nghĩa vụ tham gia Hội nghị chủ nợ quy định tại Điều 63 của Luật này. Quy định này của Luật phá sản (2004) cần được bàn định lại. Theo Luật PSDN (1993), Hội nghị chủ nợ hợp lệ khi có quá nửa số chủ nợ đại diện ít nhất 2/3 tổng số nợ không có bảo đảm tham dự. Luật phá sản (2004) lại quy định phải có "quá nửa số chủ nợ không có bảo đảm đại diện cho từ hai phần ba tổng số nợ không có bảo đảm trở lên tham gia". Theo quy định này, chỉ tính số chủ nợ không có bảo đảm, vai trò của chủ nợ có bảo đảm một phần tại Hôi nghị chủ nợ đã bị phủ nhận. Thực tiễn không thể phủ nhận vai trò tham gia Hội nghị chủ nợ của các chủ nợ có bảo đảm một phần. Ngoài ra, quy định như Luật phá sản (2004) sẽ không thể hiện được trong một số trường hợp. Chẳng hạn, doanh nghiệp X bị mở thủ tục phá sản đang có 12 tỷ đồng, trong đó tổng số nợ không có bảo đảm là 9 tỷ đồng mà số nợ không có bảo đảm của các chủ nợ không có bảo đảm là 5 tỷ đồng. Trong trường hợp này, Hội nghị chủ nợ sẽ không bao giờ hợp lệ, ngay cả trường hợp tất cả (100%) số chủ nợ không có bảo đảm đều có mặt tại Hội nghị chủ nợ. Vì vậy, theo chúng tôi, Khoản 1 Điều 65 Luật phá sản (2004) nên quy định như Điều 29 Luật PSDN (1993) thì sẽ hợp lý hơn. Thứ bảy, Về thủ tục phục hồi. Nội dung của thủ tục phục hồi trong Luật phá sản (2004) có nhiều tiến bộ hơn so với Luật PSDN (1993). Doanh nghiệp muốn hồi phục ngoài ý chí chủ quan của các bên thể hiện trong phương án phục hồi hoạt động kinh doanh cần có những điều kiện cần thiết về khả năng tài chính và có sự khuyến khích của Nhà nước. Một trong những khuyến khích của Nhà nước có thể có ở đây là quy định không tính lãi đối với các khoản nợ khi áp dụng thủ tục phục hồi nhằm giảm nhẹ gánh nặng tài chính cho doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản. Tuy nhiên, Luật phá sản (2004) không áp dụng quy định này ở thủ tục phục hồi mà lại áp dụng ở thủ tục thanh lý (Điều 34). Việc giảm nhẹ khó khăn tài chính cho con nợ như giảm nợ, không tính lãi... hoàn toàn phụ thuộc vào kết quả hòa giải giữa con nợ với các chủ nợ. Nói một cách khác là không có sự hỗ trợ, khuyến khích của Luật đối với thủ tục phục hồi... Về hậu quả của quyết định công nhận Nghị quyết về phương án phục hồi hoạt động kinh doanh: Theo Điều 72 Luật phá sản (2004), thẩm phán ra quyết định công nhận Nghị quyết của Hội nghị chủ nợ về phương án phục hồi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Nghị quyết này có hiệu lực đối với tất cả các bên có liên quan. Kể từ ngày Nghị quyết có hiệu lực, hoạt động của doanh nghiệp bị chi phối bởi phương án phục hồi hoạt động kinh doanh. Doanh nghiệp có nghĩa vụ tuân thủ phương án này và chịu sự giám sát của các chủ nợ và thẩm phán. Một câu hỏi được đặt ra khi Nghị quyết này có hiệu lực thì những điều cấm, hạn chế đối với hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp do Luật định tại Điều 31 có đương nhiên chấm dứt hay không? Luật không quy định cụ thể. Nhưng với suy luận lôgic thì câu trả lời ở đây là các điều cấm, hạn chế hoạt động kinh doanh của Điều 31 đương nhiên phải tạm đình chỉ trong thời hạn tối đa là 3 năm – thời hạn thực hiện phương án phục hồi hoặc phải chấm dứt hiệu lực. Mọi hoạt động của doanh nghiệp không phù hợp với phương án phục hồi đã được Hội nghị chủ nợ thông qua và Tòa án công nhận đều là các giao dịch trái pháp luật có thể bị tuyên bố vô hiệu. Vì vậy, Luật phá sản (2004) cần bổ sung quy định về hậu quả này khi thẩm phán công nhận Nghị quyết về phương án phục hồi của Hội nghị chủ nợ. Thứ tám, về vấn đề phá sản ngân hàng, các tổ chức tín dụng và công ty bảo hiểm. Khi nền kinh tế thị trường ngày càng phát triển thì các doanh nghiệp nói chung và các ngân hàng, các tổ chức tín dụng, cũng như các công ty bảo hiểm ngày càng đông đảo, kinh tế thị trường đồng nghĩa với mở cửa và hội nhập quốc tế và chấp nhận cơ chế cạnh tranh khốc liệt. Sự tham gia của các ngân hàng nước ngoài sau khi Việt Nam mở cửa thị trường tài chính ngân hàng theo cam kết gia nhập WTO, một mặt sẽ giúp cho các định chế tài chính của Việt Nam thay đổi và phát triển tích cực nhưng mặt khác cũng sẽ loại bỏ ra khỏi sân chơi chung những tổ chức làm ăn kém hiệu quả. Các ngân hàng và các tổ chức tín dụng có thể mất đi khách hàng và thị trường. Do xuất phát điểm thấp về chất lượng dịch vụ, khả năng hạn chế về nguồn vốn, kinh nghiệm cũng như công nghệ của các ngân hàng thương mại Việt Nam cộng với sự cạnh tranh mạnh mẽ từ phía nước ngoài các ngân hàng và các tổ chức tín dụng trong nước không có nhiều cơ hội phát triển và hoàn toàn có thể đi đến đóng cửa, phá sản, Luật phá sản (2004) lại chưa có quy định cụ thể trình tự, thủ tục cho việc giải quyết phá sản các loại hình doanh nghiệp đặc thù này. Sự phá sản của các ngân hàng thường có ảnh hưởng lớn đến đời sống kinh tế - xã hội và có sự tác động mang tính dây truyền. Do đó, các cơ quan có thẩm quyền cần phải có những văn bản hướng dẫn cụ thể về trường hợp này nhằm bảo đảm quyền lợi cho các chủ thể liên quan một cách kịp thời khi tình huống xảy ra. Thứ chín, quan tâm hơn nữa công tác đào tạo, bồi dưỡng nâng cao đội ngũ Thẩm phán trong việc áp dụng các quy định pháp luật về khôi phục doanh nghiệp mắc nợ. Phá sản doanh nghiệp nói chung và khôi phục doanh nghiệp mắc nợ nói riêng vốn rất phức tạp liên quan đến nhiều lĩnh vực khác nhau. Do đó, các cơ quan hữu trách như Tòa án nhân dân tối cao, Bộ tư pháp phải thường xuyên mở các lớp khóa học cập nhật kiến thức tài chính kịp thời cho các Thẩm phán. Bên cạnh đó, cũng nên thường xuyên và định kỳ tổ chức các hội thảo chuyên đề tổng kết, trao đổi kinh nghiệm xử lý phá sản giữa các tòa với nhau để có thể thống nhất với nhau quy cách xử lý vụ việc, góp phần làm cho Luật phá sản doanh nghiệp ngày càng hoàn thiện hơn. KẾT LUẬN Dù ở những mức độ và phạm vi khác nhau nhưng phá sản bao giờ cũng kéo theo những hậu quả về kinh tế, xã hội mà trực tiếp là ảnh hưởng đến lợi ích kinh tế của các chủ nợ, của DN, HTX mắc nợ, của người lao động. Vì vậy, phải có những quy định cụ thể về trình tự, thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản cũng như quyền và nghĩa vụ của chủ nợ và con nợ trong thủ tục phá sản. Luật phá sản mới tạo lập được những cơ sở pháp lý để bảo vệ quyền lợi và lợi ích hợp pháp của các chủ nợ, những doanh nghiệp mắc nợ, tổ chức và cá nhân có liên quan, mới xác định rõ được quyền và nghĩa vụ của các bên có liên quan trong quá trình giải quyết yêu cầu phá sản. Luật phá sản năm 2004 ra đời thay thế cho Luật PSDN năm 1993 đã đáp ứng được nhu cầu cấp thiết của nền kinh tế thị trường, nó góp phần hoàn thiện hệ thống pháp luật nói chung và hệ thống pháp luật kinh tế nói riêng, tạo ra một hành lang an toàn về mặt pháp lý cho mọi hoạt động kinh doanh trong xã hội. Với mong muốn góp phần nhỏ bé vào công cuộc xây dựng pháp luật, luận văn đã nghiên cứu một cách toàn diện những vấn đề pháp lý về quyền và nghĩa vụ của chủ nợ và con nợ trong thủ tục phá sản, đánh giá thực trạng áp dụng Luật phá sản của Việt Nam trong những năm qua để từ đó chỉ ra những điểm hạn chế, những khiếm khuyết và bất cập cần phải được khắc phục. Trên cơ sở đó, luận văn đã đề xuất những kiến nghị bước đầu góp phần hoàn thiện pháp luật phá sản và nâng cao hiệu quả áp dụng. Tuy nhiên, do điều kiện nghiên cứu còn hạn chế, nhiều vấn đề luận văn chưa có điều kiện đi sâu nghiên cứu. Vì vậy, rất mong nhận được sự trao đổi để luận văn tiếp tục được nghiên cứu sâu hơn./. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO Hiến pháp (1992). Luật doanh nghiệp nhà nước 2003. Quyết định số 315 HĐBT ngày 01/09/1990 của HĐBT. Luật doanh nghiệp tư nhân (1990). Luật công ty (1990). Luật phá sản doanh nghiệp ngày 30/12/1993. Nghị định số 189 của Chính phủ ngày 23/12/1994. Bộ luật Hình sự (1999). Luật doanh nghiệp nhà nước (2003). Luật phá sản (2004). Luật Thương mại (2005). Nghị quyết số 03/2005/NQ-HĐTP ngày 28/04/2005. Nghị định số 67/2006/NĐ-CP ngày 11/7/2006. Giáo trình Luật Thương mại (Đại học Luật Hà Nội). Báo cáo tổng kết ngành Tòa án năm 2005, 2006, 2007. Tạp chí Tòa án nhân dân tháng 11-2005 (Số 21). Tạp chí nhà nước và pháp luật năm 2005 (Số 6). PGS.TS Dương Đăng Huệ, Pháp luật phá sản của Việt Nam, NXB Tư pháp, 2005. Luật phá sản Hungari năm 1991. Luật phá sản Singapo năm 1985. Luật phá sản Australia. Luật phá sản Bỉ. Luật không có khả năng thanh toán và Luật treo giò giám đốc của Anh năm 1986. MỤC LỤC

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docQuyền và nghĩa vụ của chủ nợ và con nợ trong thủ tục phá sản.doc