Rủi ro và đánh giá rủi ro trong thẩm định dự án xin vay vốn tại Sở giao dịch I, ngân hàng Công Thương

Lời nói đầu Yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế là một vấn đề cấp thiết của nước ta trong xu thế toàn cầu hoá hiện nay. Nhất là trong giai đoạn khủng hoảng kinh tế thế giới với nguyên nhân chính xuất phát từ hệ thống tài chính – ngân hàng mà cụ thể là do các khoản tín dụng rủi ro cao. Do tính chất lây lan ngày càng cao của đợt suy thoái này khiến nhiều nhà kinh tế phải nhìn lại các chính sách của mình để bảo đảm hoạt động ổn định cho nền kinh tế. Ở nước ta Nhà nước đã có nhiều chính sách thích hợp nhưng bản thân mỗi ngân hàng cần có cho mình những cách thức và lối đi riêng để có thể tồn tại và phát triển trong điều kiện hiện nay. Một trong những yếu tố quan trọng nhất chính là giảm thiểu rủi ro trong hoạt động tín dụng. Và hoạt động đánh giá rủi ro trong thẩm định dự án đầu tư là yếu tố vô cùng quan trọng. Chính vì vậy, yêu cầu cần thiết là phải đánh giá phân tích rủi ro đối với một dự án, để đưa ra quyết định cho vay hay khước từ đối với dự án. Từ đó đưa ra một quyết định cho vay chính xác và đảm bảo thu hồi vốn cho ngân hàng. Do đó, các cán bộ ngân hàng cần đánh giá rủi ro đối với dự án một cách thận trọng và chính xác. Nhận thức rõ được điều này, em đã lựa chọn cho mình đề tài: “Rủi ro và đánh giá rủi ro trong thẩm định dự án xin vay vốn tại Sở giao dịch I, ngân hàng Công Thương”. Nội dung cụ thể của chuyên đề gồm 2 phần chính: Chương I: Thực trạng công tác đánh giá rủi ro trong thẩm định dự án xin vay vốn tại Sở giao dịch I Ngân hàng Công Thương Chương II. Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng công tác đánh giá rủi ro đối với dự án xin vay vốn tại Sở giao dịch I ngân hàng Công Thương

doc69 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 2696 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Rủi ro và đánh giá rủi ro trong thẩm định dự án xin vay vốn tại Sở giao dịch I, ngân hàng Công Thương, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
của ngành giáo dục, các thiết bị trường học, các cấp học, ngành học, tuy nhiên phải cạnh tranh với công ty in ấn phát hành khác. Do vậy công ty cần phải cải tiến nội dung, hình thức sản phẩm cũng như phương thức bán hàng quảng cáo phù hợp với nhu cầu hiện tại. Và ngày nay, khi chất lượng giáo dục được ưu tiên đặt lên hàng đầu, nhiều đầu sách tham khảo mới được xuất bản, nội dung phong phú đa dạng, giáo dục được ưu tiên ngay cả những vùng sâu vùng xa, vùng nông thôn, chính vì vậy đã góp phần làm tăng lên số lượng sách cần xuất bản, và thị trường tiêu thụ sản phẩm cũng ngày trở nên đa dạng hơn. Tuy nhiên tình trạng sách lậu, sách nhái in với nội dung sao chép sách giáo khoa và sách tham khảo ngày càng trở nên phổ biến, chính vì vậy cần có sự can thiệp của các cơ quan chức năng để hạn chế tình trạng này xảy ra, không làm ảnh hưởng đến chất lượng, uy tín và hơn nữa còn ảnh hưởng đến sự tồn tại và phát triển của công ty. Rủi ro do nhu cầu sản phẩm giảm: Đời sống nhân dân từng ngày được cải thiện nhưng sự phân cực giàu nghèo vẫn còn rõ rệt. Đa số nhân dân ở các vùng sâu vùng xa còn nghèo thu nhập thấp đời sống gặp nhiều khó khăn. Hơn nữa, năm năy thiên tai liên tục xảy ra, hạn hán kéo dài ở nhiều nơi trong cả nước, gây ảnh hưởng đến đời sống của người nông dân, do đó mà lượng mua sách giáo khoa giảm, việc đầu tư cho cơ sở vật chất trường học trong đó có tủ sách giáo khoa bị hạn chế. Về khả năng thanh toán: công ty có khả năng thanh toán tốt, do năng lực quản lý, kiểm soát hiệu quả kinh doanh của công ty đạt chất lượng tốt. Qua 2 năm công ty đã thu về được lợi nhuận khá cao. Hơn nữa, công ty cổ phần đầu tư và phát triển giáo dục Hà Nội có kinh nghiệm trong việc biên soạn, biên tập, xuất bản, in ấn…thêm vào đó công ty đã đầu tư tràng thiết bị máy móc hiện đại, năng suất cao phù hợp với yêu cầu ngày càng cao trong nên kinh tế tri thức, kế hoạch sản xuất kinh doanh đề ra năm 2009 có tính khả thi cao. P Rủi ro kinh tế vĩ mô: -   Rủi ro lạm phát: dự án có thể gặp rủi ro khi lạm phát xảy ra làm tăng chi phí những nguyên vật liệu đầu vào, do đó gây ảnh hưởng tới dòng tiền và lợi nhuận của dự án. Do vậy, công ty cần phải có những biện pháp hợp lý định sẵn khi trưởng hợp lạm phát xảy ra. Để từ đó, hạn chế rủi ro xảy ra một cách tốt nhất có thể. -   Rủi ro thay đổi tỷ giá hối đoái: Công ty hầu hết sử dụng nguyên vật liệu nhập trong nước, sản phẩm phục vụ nhu cầu trong nước do vậy rủi ro về tỷ giá hối đoái ở mức an toàn. Kết luận: Rủi ro về kinh tế vĩ mô của công ty hoàn toàn chấp nhận được, tuy vậy vẫn cần phải làm tốt công tác dự báo, cũng như đề phòng rủi ro. P Rủi ro kỹ thuật vận hành bảo trì Công ty cổ phần đầu tư và phát triển giáo dục Hà Nội có tràng bị máy móc hiện đại, đội ngũ lao động và quản lý có kỹ năng, kinh nghiệm và trình độ nhất định. Kết luận: rủi ro về kỹ thuật vận hành bảo trì được đánh giá ở mức an toàn và chấp nhận được. P Rủi ro môi trường xã hội Nguyên vật liệu đầu vào của công ty là giấy, mực in, các chi phí liên quan khác. Với hệ thống máy móc thiết bị với mức tiêu hao nhiên liệu thấp đảm bảo tiêu chuẩn an toàn không gây môi nhữêm ra môi trường. Do vậy, mà mức ô nhiễm trong quá trình hoạt động là hoàn toàn chấp nhận được. Kết luận: Dự án tuân thủ đẩy đủ các quy định về môi trường. 1.3.2.3 Rủi ro cho vay (rủi ro tín dụng) của ngân hàng. Quan hệ tín dụng: - Công ty là khách hàng mới có quan hệ lần đầu với Sở giao dịch I Ngân hàng Công Thương. - Bảo đảm tiền vay: khoản vay không có tài sản đảm bảo - Về mức độ đáp ứng các điều kiện tín dụng theo quy định hiện hành của Ngân hàng Công Thương: + Hệ số tự tài trợ = 86%------------------------------------------Đủ điều kiện + Vốn lưu động ròng = 87.907 triệu đồng (>0)--------------- Đủ điều kiện + Tỷ suất lợi nhuận (LN/VCSH) = 24%-----------------------Đủ điều kiện + Xếp hạng tín dụng : AA- --------------------------------------Đủ điều kiện + Báo cáo năm 2007, 2008 đã kiểm toán----------------------Đủ điều kiện 1.5 Đánh giá công tác thẩm định rủi ro trong thẩm định dự án xin vay vốn tại Sở giao dịch I Ngân hàng Công Thương. 1.5.1 Những kết quả đạt được 1.5.1.1 Về quy trình đánh giá rủi ro Trong hoạt động cho vay tại ngân hàng, việc đánh giá và nhận diện rủi ro một cách chặt chẽ, kỹ lưỡng và khoa học sẽ làm giảm những rủi ro không đáng có đối với một dự án đầu tư mà ngân hàng gặp phải. Một dự án đầu tư xin vay vốn, đều được đánh giá theo một quy trình nghiệp vụ nhất định. Cán bộ thẩm định sẽ tiến hành nghiêm túc việc xác định rủi ro của một dự án theo một trình tự và phương pháp định sẵn sẽ được tiến hành sau khi nhận và thu thập đủ hồ sơ dự án. Đối với sở giao dịch I, công tác thẩm định rủi ro luôn đảm bảo đúng yêu cầu, thời hạn thẩm định và nhanh chóng trả lời khách hàng vay vốn, để giúp cho các nhà đầu tư không bỏ lỡ cơ hội đầu tư của mình. Trong công tác thẩm định rủi ro, ngân hàng chú ý hơn cả là khả năng tài chính của doanh nghiệp, khả năng hoàn trả vốn vay, khả năng sinh lời của dự án, cũng như thời gian trả nợ vốn vay… Sở luôn cố gắng thực hiện một cách rõ ràng minh bạch nhất để đảm bảo có thể đưa ra quyết định chính xác phục vụ cho lợi ích của khách hàng và ngân hàng. 1.5.1.2 Về phương pháp phân tích rủi ro Ngân hàng đã áp dụng nhiều phương pháp trong thẩm định rủi ro nhằm xác định một cách đầy đủ, toàn diện và chính xác nhất các rủi ro có khả năng xảy ra đối với dự án. + Phương pháp định tính xác định rủi ro xảy ra trong trường hợp nào, có ảnh hưởng như thế nào, từ đó cán bộ thẩm định có thể đưa ra được biện pháp trực tiếp và cụ thể cho từng loại rủi ro đó. + Đối với phương pháp định lượng bằng phân tích độ nhạy: Xác định được nhân tố nào tác động mạnh nhất đến kết quả và hiệu quả đầu tư, để từ đó có sự đánh giá phù hợp. Việc sử dụng phương pháp này đã hạn chế được những rủi ro không lường trước, cũng như hạn chế được sự tác động của các yếu tố bất định đối với dự án. Cán bộ thẩm định đánh giá rủi ro đối với dự án, bằng cách kết hợp các khả năng khác nhau, tìm kiếm giải pháp để đạt được mục tiêu về hiệu quả nhưng phải giới hạn sự nhạy cảm đối với rủi ro. + Đối với phương pháp thẩm định theo trình tự: Rủi ro được đánh giá theo các bước từ chi tiết đến tổng hợp. Bằng cách đánh giá các khía cạnh của dự án như: Pháp lý, thị trường, tổng vốn đầu tư, tính khả thi của nguồn vốn, cơ cấu nguồn vốn…từ đó tổng hợp lại các nhóm rủi ro chung của dự án. Điều này đảm bảo tính chuyên sâu hơn nữa trong công tác nhận diện và đánh giá rủi ro nhất là các rủi ro tiềm ẩn, bên cạnh đó giúp tránh việc phải đánh giá lại các rủi ro.  Hơn nữa, rủi ro của dự án được đánh giá một cách đầy đủ hơn, toàn diện hơn tránh việc đánh giá thiên lệch về một khía cạnh nào đó mà bỏ qua các khía cạnh khác. Phương pháp dự báo: Cán bộ thẩm định sẽ xác định được những yếu tố ảnh hưởng lớn đến hiệu quả của dự án, thông qua công tác dự báo. Từ đó, có cái nhìn tổng thể về dự án, và đưa ra những biện pháp để giảm thiểu rủi ro, để hạn chế mức tối đa mức độ ảnh hưởng của nó đến dự án. 1.5.1.3 Về nội dung phân tích Các dự án được đánh giá định tình đầy đủ các phương diện, để từ đó định tính đưa ra được cái nhìn cơ bản về chủ đầu tư, về dự án và góp phần đưa ra quyết định xem ngân hàng có nên cho vay vốn hay không? Đối với phương pháp định lượng qua phân tích độ nhạy các dự án đã được đánh giá rủi ro một cách khách quan hơn qua một hệ thống bảng biểu chỉ tiết về doanh thu, chi phí lãi vay, khấu hao…Kết luận đưa ra dự trên các chỉ tiêu tài chính như NPV, IRR, DSCR….Do vậy nội dung phân tích định lượng được xem như khá đầy đủ và đa dạng. Bao gồm: Rủi ro về cơ chế chính sách, rủi ro thị trường, rủi ro thu thập, thanh toán, rủi ro về cung cấp, rủi ro kinh tế vĩ mô, rủi ro về kỹ thuật vận hành bảo trì, rủi ro về xây dựng hoàn tất, rủi ro về môi trường xã hội, rủi ro tài chính, rủi ro tín dụng. 1.5.1.4 Về trình độ công nghệ Hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ của Sở được xây dựng trên một phần mềm chuyên dụng và có tính bảo mật cao. Bên cạnh đó ngân hàng còn trang bị những phần mềm có những chức năng ưu việt như: hỗ trợ ra quyết định cho vay, cho phép trích lập dự phòng trực tiếp và chiết xuất ra được các báo cáo theo yêu cầu quản trị. Ngoài ra ngân hàng đã xây dựng đường truyền hội sở và các chi nhánh, điều này đảm bảo phục vụ kịp thời cho yêu cầu quản lý chung. Do vậy, hoạt động hệ thống công nghệ thống tin cơ bản đáp ứng yêu cầu. Bên cạnh đó, ngân hàng còn trang bị các trang thiết bị khá đầy đủ và tiện lợi như: các phương tiện thống tin liên lạc để liên lạc với khách hàng và các ngân hàng khác trong việc trao đổi thống tin, hệ thống máy tính được nối mạng 100% cho các cán bộ để tiện lợi cho việc thu thập và tìm kiếm thống tin để phục vụ cho công tác thẩm định và quản lý rủi ro. Bên cạnh đó, ngân hàng đã trang bị cho toàn hệ thống các phần mềm có bản quyền cho như  phần mềm Windows XP, CDSL Orande, IBM AIX 5.3… 1.5.1.5 Về đội ngũ cán bộ Đội ngũ cán bộ phục vụ cho công tác thẩm định ở Sở giao dịch I ngân hàng Công Thương là một đội ngũ những cán bộ có trình độ đại học trở lên, dày dặn kinh nghiệm, sáng tạo trong công việc, có tinh thần làm việc cao, có trách nhiệm với công việc. Hàng năm các cán bộ thẩm định thường xuyên được tham gia vào những khoá học, đào tạo, bồi dưỡng nâng cao chuyên môn nghiệp vụ thẩm định. Bên cạnh đó thường xuyên có các buổi toạ đàm, thoả thuận nghiệp vụ, Sở cũng cần tổ chức những khoá học ngắn ngày hoặc cử cán bộ đi tập huấn và học hỏi kinh nghiệm nước ngoài để nâng trình độ của cán bộ. Công tác phân tích đánh giá rủi ro ngày càng được chú trọng và có hiệu quả. Do vậy cán bộ ở Sở không ngừng nâng cao nghiệp vụ để đánh giá một cách chính xác nhất, nâng cao uy tín cho ngân hàng. Ở Sở cán bộ thẩm định được chia thành từng nhóm và chịu trách nhiệm một số lĩnh vực xác định. Chính vì việc chuyên môn hoá này đã cho thấy hiệu quả trong công tác thẩm định tại Sở. 1.5.1.6 Về thông tin + Về công tác thu thập thông tin: Cán bộ thẩm định ở Sở giao dịch I Ngân hàng Công Thương đã thu thập đầy đủ thông tin về khách hàng cũng như dự án của khách hàng thông qua hồ sơ dự án, ngoài ra cán bộ thẩm định ngân hàng đã thu thập thêm thông tin từ việc đi khảo sát thực tế từ trên mạng. Mặt khác, cán bộ thẩm định đã biết bám sát thực tế, không ngừng trau dồi kiến thức, xây dựng các kênh thu nhận thông tin kịp thời và hiệu quả. Một mặt, tìm hiểu thêm thông tin thực tế ngoài xã hội, mặt khác ra sức học hỏi cũng như tìm hiểu thông tin chuyên sâu, thường xuyên nghiên cứu luật và chính sách của nhà nước. Hơn nữa, công tác dự báo cũng ngày được chú trọng, cán bộ thẩm định ở sở giao dịch Ngân hàng Công Thương thường xuyên có những buổi toạ đàm, thảo luận để nâng cao trình độ cũng như nghiệp vụ đồng thời áp dụng một số mô hình thống kê vào dự báo rủi ro của dự án do vậy chất lượng thẩm định ở ngân hàng ngày càng được nâng cao. + Về công tác xử lý thông tin Thông tin thu thập về được cán bộ thẩm định xem xét kỹ càng về mọi khía cạnh, sau đó sẽ trình duyệt ban lãnh đạo Ngân hàng để có kết quả thẩm định chính xác hơn nữa. Trong đó công tác xử lý thông tin được các cán bộ thẩm định thực hiện chuyên nghiệp thông qua việc áp dụng các phương pháp thẩm định và cùng với việc sử dụng các phần mềm máy tính chuyên dụng để tính toán. + Về công tác lưu trữ thông tin Các cán bộ ngân hàng sẽ lưu giữ thông tin về từng dự án cụ thể được để trong hộp tài liệu riêng biệt và được sắp xếp một cách có khoa học để đảm bảo dễ dàng cho việc tìm kiếm hồ sơ dự án khi cần thiết. Mặt khác, dự án còn được lưu trữ trên máy tính của cán bộ thẩm định ngân hàng, nên thông tin được lưu trữ khá tốt đảm bảo độ an toàn cho thông tin. 1.5.2 Những tồn tại cần khắc khắc phục 1.5.2.1 Hạn chế về quy trình đánh giá Đối với hoạt động cho vay tại sở giao dịch I ngân hàng Công Thương, công tác thẩm định và quản lý rủi ro luôn được đặt lên hàng đầu, nhằm đảm bảo một sự tăng trưởng, bền vững. Tuy vậy, quy trình tổng hợp rủi ro mà cán bộ tại Sở đang sử dụng còn sơ sài và chưa cụ thể. Những chỉ tiêu định tính được đánh giá qua loa, nên đa số các dự án vay vốn đều khả thi trong đó rủi ro là có. Mặt khác, trong quy trình đánh giá rủi ro chưa có phân biệt thứ tự quan trọng các chỉ tiêu, tiêu chí đánh giá. 1.5.2.2 Hạn chế về phương pháp đánh giá rủi ro Đối với phương pháp đánh giá rủi ro tại Sở giao dịch I ngân hàng Công Thương, việc đưa ra những quy định hướng dẫn về phân tích, đánh giá rủi ro nói chung còn thể hiện rõ tính chất quy phạm nhất định. Hơn nữa các nội dung mà phương pháp phân tích đưa ra chưa thể hiện được đẩy đủ quan điểm hệ thống và mối liên hệ logic chặt chẽ.  Các phương pháp phân tích rủi ro cho thấy cán bộ thẩm định rủi ro chỉ phân tích rủi ro dự án ở trạng thái tĩnh là chủ yếu. Đối với phương pháp định tính mà Sở giao dịch I sử dụng để đánh giá rủi ro về cơ bản đã xét trên nhiều khía cạnh khác nhau, tuy nhiên các khía cạnh mới chỉ được xem xét độc lập và chưa được đánh giá tương quan với các khía cạnh khác. Đối với phương pháp phân tích độ nhạy khi ngân hàng sử dụng để định lượng rủi ro đối với dự án đầu tư, ngân hàng đã không tính đến mối quan hệ giữa các yếu tố, ví dụ như giá và sản lượng có quan hệ với nhau. Hơn nữa, trong quá trình phân tích độ nhạy của dự án đầu tư, chỉ một vài nhân tố thay đổi, các nhân tố khác giữ nguyên do vậy kết quả phân tích không phản ánh đúng thực tế của dự án. Thêm vào đó, phương pháp này còn không tính đến xác suất xảy ra các biến cố, việc phân tích còn mang tính chất tổng quát sơ sài, chưa tính toán một cách toàn diện và cụ thể các rủi ro xảy ra vì vậy kết quả phân tích độ nhạy chỉ được coi là tài liệu tham khảo. Cán bộ thẩm định rủi ro tại Sở giao dịch I, thường chú trọng đến những yếu tố biến động lớn như giá bán sản phẩm, tổng chi phí, doanh thu…mà it chú ý đến những yếu tố có sự thay đổi so với dự toán như tổng vốn đầu tư… Việc phân tích rủi ro hầu hết được thực hiện bằng phương pháp thủ công, số lượng các phương pháp làm căn cứ phân tích, đánh giá dự án không nhiều song thực tế cũng chưa đầy đủ, đúng mức hoặc không đúng như các phương pháp đã được quy định. Chính vì vậy, cán bộ thẩm định cần đánh giá kỹ càng hơn nữa tấc động của những yếu tố này khi có sự thay đổi, để đảm bảo sự chính xác trong công tác đánh giá rủi ro tại Sở giao dịch I. 1.5.2.3 Hạn chế về nội dung phân tích rủi ro - Thứ nhất, đối với việc xác định nhu cầu vốn đầu tư gặp rất nhiều khó khăn. Bởi lẽ, khí đánh giá lại nhu cầu vốn đầu tư, cán bộ ngân hàng phải dựa vào kinh nghiệm thẩm định và dự toán của chủ đầu tư, trong khi các dự án mới, với việc sử dụng máy móc thiết bị ít, các cán bộ thẩm định thường rất khó khăn trong việc đánh giá chính xác nhu cầu thực sự về vốn đầu tư của dự án. Do vậy, khả năng xảy ra rủi ro về vốn đầu tư không hợp lý là rất có thể xảy ra. - Thứ hai, việc tính toán hai chỉ tiêu doanh thu và chi phí dự kiến của dự án gặp rất nhiều khó khăn. Những yếu tố cấu thành doanh thu gồm có giá cả bán sản phẩm, công suất dự kiến của dự án cũng như khả năng tiêu thụ của sản phẩm đó trên thị trường. Mà các thông số này được dựa vào sự chấp nhận theo dự toán của chủ đầu tư. Như yếu tố giá bán sản phẩm được xác định theo sự tham khảo giá của các sản phẩm cùng loại trên thị trường kết hợp với kế hoạch dự kiến của doanh nghiệp. Mặt khác, việc dự báo giá cả và khả năng tiêu thụ sản phẩm của dự án theo cung cầu thị trường trong tương lai còn gặp nhiều hạn chế, thiếu chính xác và độ tin cậy còn chưa cao. Còn đối với yếu tố chi phí của dự án, cũng dựa trên ý kiến chủ quan của con người là chủ yếu, như một số loại chi phí về quản lý doanh nghiệp, chi phí vận hành thường là chấp nhận theo dự toán của chủ đầu tư. Do vậy, các thông số mà chủ đầu tư đưa ra là hoàn toàn mong manh khi mà thực tế thì con người không thể lường trước được sẽ thay đổi như thế nào? Hơn nữa, việc điều chỉnh chi phí này, sẽ liên quan đến kết quả của việc phân tích các chỉ tiêu tài chính mà chủ đầu tư hình thành. Chình vì vậy, đó là sự tiềm tàng những rủi ro trong phân tích hiệu quả tìa chính của dự án đối với cán bộ thẩm định. - Thứ ba, việc phân tích tài chính tưởng như khá đầy đủ và chi tiết nhưng lại dựa trên một hệ thống các chỉ tiêu (NPV, IRR, T…) khi bỏ qua các yếu tố lạm phát và trượt giá. Do vậy, dự án sẽ có rủi ro khi gặp lạm phát, trượt giá là hoàn toàn có thể. 1.5.2.4 Hạn chế về trình độ công nghệ. Hiện nay, Sở giao dịch I chưa có phần mềm riêng để hỗ trợ cho công tác thẩm định, do vậy các cán bộ thẩm định phải tính toán các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả tài chính bằng phần mềm excel, chính vì vậy đã kéo dài thời gian tính toán. Do vậy, các cán bộ thẩm định sẽ càng gặp khó khăn hơn khi phải thẩm định một dự án phức tạp. 1.5.2.5 Hạn chế về cán bộ Đội ngũ cán bộ thẩm định tại Sở giao dịch I ngân hàng Công Thương về công tác đánh giá rủi ro trong thẩm định dự án xin vay vốn của ngân hàng hầu hết đều là những người có kinh nghiệm, tuy nhiên do sự thận trọng quá cao khi đánh giá rủi ro nên một số dự án có khả thi đã không được xem xét thấu đáo nên đã vô tình bỏ qua và ngân hàng đã quyết định không cho vay vốn. Điều này đã gây ra một số vướng mắc cho ngân hàng. Hoà cùng với tốc độ phát triển kinh tế và khoa học kỹ thuật như hiện nay, nhiều thành tựu tiên tiến đã được áp dụng trong ngân hàng như thiết bị và các phần mềm chuyên dụng…Tuy nhiên, với đa phần các cán bộ lâu năm tại ngân hàng việc áp dụng các tiến bộ khoa học đó còn nhiều hạn chế, do vậy khiến công tác thẩm định còn chưa thực sự linh hoạt, đôi khi gây khó khăn và chậm trễ cho khách hàng. Đồng thời với số lượng dự án tiếp cận ngày càng cao thì yêu cầu về tiến độ, chất lượng, tính chính xác của những báo cáo rủi ro sẽ giảm xuống. Bên cạnh đó, những cán bộ trẻ tại Sở giao dịch I còn gặp nhiều khó khăn do thiếu kinh nghiệm, khi giải quyết công việc còn nôn nóng mang tính chủ quan. Ngoài ra, đội ngũ nhân sự của phòng quản lý rủi ro còn khá mỏng nên khi cần thẩm định nhiều dự án sẽ gặp không ít khó khăn và đạt hiệu quả chưa thực sự như mong muốn. Nước ta đang trong quá trình công nghiệp hoá và hội nhập kinh tế quốc tế, nhất là khi nước ta đã trở thành một thành viên của WTO thì các hoạt động tài chính ngày càng diễn ra sôi động đan xen cả những cơ hội và thách thức. Chính vì vậy, công tác đánh giá rủi ro trong thẩm định dự án xin vay vốn là rất khó khăn và đòi hỏi yêu cầu ngày càng cấp thiết về mọi mặt. Những gì mà công tác đánh giá rủi ro tại sở giao dịch I đã đạt được trong thời gian qua là rât đáng ghi nhận. Tuy nhiên, cần có những biện pháp khắc phục thật sự thiết thực và hiệu quả để có thể giải quyết những hạn chế và tồn tại nêu trên. Điều này, sẽ giúp ngân hàng ngày càng phát triển đi lên một cách an toàn, bên vững, hiệu quả để trở thành một trong những ngân hàng cổ phần lớn mạnh ở nước ta cũng như vươn ra thì trường quốc tế. 1.5.2.6 Hạn chế về mặt thông tin Để công tác đánh giá rủi ro trong thẩm định dự án đạt được hiệu quả và chính xác từ đó đưa ra các quyết định đầu tư đúng đắn thì điều quan trọng bậc nhất là công tác thu thập và xử lý thông tin. Tuy nhiên, tại Sở giao dịch I thì công tác trên vẫn chưa thực hiện thật hiệu quả, bởi lẽ nguồn thông tin mà ngân hàng thu  thập được từ các dự án có chất lượng không cao. Lý do chính là việc thu thập thông tin của các cán bộ vẫn chủ yếu dựa trên thông tin cơ bản do khách hàng cung cấp, bởi các thông tin đó thường chưa qua quá trình kiểm tra kiểm toán của cơ quan có thẩm quyền, do vậy độ tin cậy chưa cao. Thêm vào đó, những thông tin mà cán bộ thẩm định thu thập được mới chỉ dừng lại ở việc xem xét doanh nghiệp và tìm kiếm trong sổ sách giao dịch… Vì thế, xuất hiện sự thiếu hụt các nguồn thông tin về các nội dung như: thị trường tiêu thụ, tác động môi trường, nguồn cung cấp…; Nên quá trình đánh giá thị trường tại Sở còn mang tính hình thức và thiếu cơ sở tin cậy. Hiện nay, cán bộ thẩm định tại Sở giao dịch I đã có sự khai thác thông tin từ nhiều nguồn, giúp nguồn thông tin thu thập được chính xác hơn. Bởi lẽ, bên cạnh nguồn thông tin có tính chất chủ quan từ phía khách hàng, cán bộ tín dụng cần phải khai thác thông tin trên mạng internet hoặc số liệu thống kê của các cơ quan trung ương. Tuy nhiên, những hạn chế về công tác thu thập thông tin vẫn còn tồn tại đó là: đối với nguồn số liệu thống kê về thị trường đầu vào và đầu ra của dự án thường chưa được cập nhật đầy đủ nên tính hữu dụng còn thấp; độ tin cậy chưa cao đối với các thông tin được thu thập được trên Internet bởi đa phần các thông tin đó chưa có cơ quan nào đứng ra đánh giá và ra xác nhận. Những vấn đề về thu thập thông tin còn nhiều bát cập dẫn đến “sự lựa chọn đối nghịch” và “rủi ro đạo đức” do các doanh nghiệp vay vốn thực hiện trái với những cam kết sau khi nhận được khoản tiền vay từ ngân hàng, đưa đến việc khó có thể hoàn trả vốn vay gây rủi ro cho ngân hàng. 1.5.3 Nguyên nhân của những tồn tại trong quá trình thẩm định rủi ro Những hạn chế nêu trên trong công tác đánh giá rủi ro tại Sở giao dịch I ngân hàng Công Thương xuất phát từ nhiều nguyên nhân trong đó có nguyên nhân từ phía khách hàng và nguyên nhân từ chính ngân hàng… Xác định được những nguyên nhân trên, ngân hàng cần có những biện pháp hợp lý nhằm khắc phục để hạn chế những rủi ro có thể xảy ra đối với dự án xin vay vốn. -   Nguyên nhân từ phía các doanh nghiệp + Hầu hết các doanh nghiệp hiện nay thường không muốn công khai minh bạch hoá tình hình tài chính của mình, họ thường dấu đi những mặt còn chưa đạt, bởi lẽ với một nền tài chính kém sáng sủa, các chỉ tiêu tài chính đạt chất lượng không cao sẽ là cản trở doanh nghiệp được vay vốn từ các tổ chức tài chính hay vay từ ngân hàng. Vì vậy, khi thực hiện công tác thẩm định rủi ro, cán bộ ngân hàng sẽ gặp rất nhiều khó khăn, hay chỉ là đánh giá dựa trên những số liệu mà các doanh nghiệp cung cấp, đôi khi không biết thực tế như thế nào, do đó cán bộ ngân hàng thiếu thông tin để tiến hành đánh giá. + Việc kiểm tra dư nợ trong công tác thẩm định rủi ro tại Sở giao dịch I cũng gặp rất nhiều khó khăn, do các ngân hàng đang cho doanh nghiệp vay vốn thường sẽ bảo mật thông tin cho khách hàng nhằm giữ chân khách hàng. -   Khó khăn từ chính bản thân ngân hàng + Do đội ngũ cán bộ trong công tác thẩm định và đánh giá rủi ro đa phần là các cán bộ lâu năm, việc áp dụng khoa học công nghệ, hay những phần mêm chuyên dụng gặp nhiều khó khăn, chính vì vậy đã làm giảm tiến độ của công việc đôi khi gây chậm trễ cho khách hàng. Còn đối với những cán bộ trẻ mời bước vào nghề, thiếu kinh nghiệm ảnh hưởng không ít đến quá trình thẩm định rủi ro. Mặt khác, trình độ nhiều nhân viên chưa đáp ứng yêu cầu đặt ra, công tác quản lý thẩm định chưa hợp lý đã gây khó khăn cho công tác thâm định dự án xin vay vốn tại ngân hàng. + Từ phía ngân hàng, việc thiếu các chỉ tiêu định mức để so sánh cũng như hiệu quả dự án đầu tư đã làm ảnh hưởng đến chất lượng đánh giá rủi ro của khách hàng hay dự án đầu tư xin vay vốn. + Quá trình đánh giá những nội dung phi tài chính của cán bộ thẩm định, chưa được chi tiết do thiếu hẳn những thông tin về mảng này. Nguyên nhân chính là do những chuyên môn họ được đào tạo không phải là nội dung đó. Các cán bộ tại Sở giao dịch I tham gia quá trình đánh giá rủi ro hầu hết là được học tập, tại các trường đại học thuộc khối ngành kinh tế nên nắm rất chắc các vấn đề về tài chính; tuy nhiên đối với các mảng phi tài chính thì họ chưa được đào tạo thật bài bản mà chủ yếu là thông qua tìm hiểu trên các phương tiện thông tin. -   Một số nguyên nhân khác: + Đáng lẽ ra ngân hàng Nhà Nước phải có nhiệm vụ là đóng vai trò chủ đạo, định hướng và quản lý hỗ trợ cho các Ngân Hàng Thương Mại nhất là các ngân hàng mới thực hiện quá trình cổ phân hoá; tuy nhiên nhiệm vụ này đã và đang chưa được thực hiện thực sự có hiệu quả. Bên cạnh đó, nhiều khó khăn trở ngại trong quá trình hoạt động thẩm định đánh giá rủi ro của các ngân hàng xảy ra do các văn bản pháp quy về quy trình thẩm định dự án còn chưa được hoàn chỉnh hay được sửa đôi và đôi khi còn khác nhau giữa nhiều cấp ngành. + Trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của nước ta hiện nay, Nhà Nước rất khuyến khích quá trình cổ phần hoá các ngân hàng Thương mại, và thành lập các ngân hàng cổ phần mới. Tuy nhiên điều này đã gây ra, sự cạnh tranh rất lớn trong nên kinh tế bởi lẽ số lượng các khách hàng tiềm năng là hạn chế. Chính vì sự cạnh tranh này, nên nhiều ngân hàng ít khi chia sẻ thông tin với nhau về các khách hàng của mình cũng như các hoạt động có liên quan. Mặc dù vậy nhằm giảm thiểu rủi ro với các quyết định cho vay bằng cách minh bạch các quan hệ tín dụng của khách hàng thật sự cần thiết phải có một kênh để liên kết thông tin giữa các ngân hàng. + Ở nhiều nước có nền tài chính phát triển hiệu quả thường có một tổ chức chuyên đứng ra đảm nhận việc đánh giá và xếp loại các doanh nghiệp đang hoạt động trong lĩnh vực này mà hầu hết là do Nhà Nước đứng ra giao nhiệm vụ. Ở nước ta thực sự chưa có một tổ chức nào như vậy, vì thế các ngân hàng hoạt động thiếu hẳn một kênh thông tin đáng tin cậy trong hoạt động thẩm định dự án cho vay vốn. Các hoạt động ấy như việc chấm điểm xếp hạng đánh giá doanh nhiệp vẫn chủ yếu do các ngân hàng tự đứng ra thực hiện theo văn bản hướng dẫn của chính bản thân ngân hàng. Nhận xét: Về bản chất rủi ro là một phạm trù mà bản thân nó không phải là đại lượng dễ đo lường; đồng thời cũng không thể giảm thiểu một cách tuyệt đối. Bởi trong các yếu tố phòng ngừa rủi ro lại tiềm ẩn không ít rủi ro. Các rủi ro lại muôn hình vạn trạng, tồn tại ở mọi yếu  tố cấu thành lên dự án. Mặt khác từ khi chuẩn bị dự án đến khi kết thúc dự án có vô số sự kiện xảy ra, do vậy đòi hỏi kinh nhgiệm và phương tiện hiện đại mới có thể dự báo chính xác được. Vì những đặc điểm nêu trên mà trong quá trình thẩm định rủi ro một dự án xin vay vốn, điều mà chúng ta có thể thực hiện được chỉ có thể là đánh giá một cách chính xác nhất có thể mà thôi, do đó thay vì việc chúng ta đi tìm biện pháp để triệt tiêu rủi ro chúng ta sẽ đi dự kiến các rủi ro có thể xảy ra để dự phòng và từ đó chế ngự nó. Trong những năm qua, Sở giao dịch I ngân hàng Công Thương đã làm khá tốt nhiệm vụ của mình, trong quá trình thẩm định dự án đã phát hiện khá chính xác những bất chắc có thể xảy ra, từ đó đo lường, và đánh giá những rủi ro đó. Bằng các phương tiện ngày một hiện đại, hệ thống thông tin đã được mở rộng và tiêu chuẩn hoá, đội ngũ cán bộ được chú trọng đào tạo…nhờ vậy mà cong tác phân tích đánh giá rủi ro ngày một trở nên chính xác hơn, và theo đó chất lượng thẩm định dự án ngày một đảm bảo. Chương II. Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng công tác đánh giá rủi ro đối với dự án xin vay vốn tại Sở giao dịch I ngân hàng Công Thương 2.1 Phương hướng của Sở giao dịch I ngân hàng Công Thương trong thời gian tới 2.1.1 Về huy động vốn - Sở giao dịch I ngân hàng Công Thương tích cực thu hút lượng tiền gửi từ dân cư, tập trung đẩy mạnh việc huy động vốn, nâng cao tỷ trọng huy động trung và dài hạn để đáp ứng cho nhu cầu cho vay đầu tư và phát triển. - Sở ngày một đa dạng hoá các loại sản phẩm huy động, để đáp ứng nhu cầu tiền gửi của khách hàng một cách tối đa. - Mối quan hệ với các khách hàng truyền thống, với những khách hàng lớn ngày được tăng cường và xiết chặt, cũng như ngày một mở rộng quan hệ với khách hàng mới và khách hàng tiềm năng. - Với mục tiêu đảm bảo tự chủ về nguồn vốn, đảm bảo thanh khoản và đáp ứng hoàn toàn nhu cầu cho vay và đầu tư, Sở giao dịch I đề ra cho mình cơ cấu nguồn hợp lý. - Sở giao dịch I đã, đang và sẽ xây dựng, phát triển sản phẩm huy động vốn mang đặc trưng của mình. Theo đó, mở rộng danh mục khách hàng, phát triển những kế hoạch có tiềm năng lớn về tiền gửi. - Sở luôn luôn phải theo dõi, nắm bắt thông tin, nghiên cứu cũng như dự báo xu hướng biến động của lãi suất để có kế hoạch điều chỉnh kịp thời. 2.1.2 Về thẩm định và cho vay dự án - Sở giao dịch luôn đề ra cho mình phương hướng nhằm nâng cao chất lượng công tác tín dụng, thẩm định dự án do đó làm tăng trưởng dư nợ cho vay. - Sở luôn luôn chú trọng công tác kiểm tra, giám sát sau khi giả ngân, hạn chế tối đa những rủi ro có thể xảy ra đối với khoản vay, đảm bảo sử dụng vốn đúng mục đích. - Nâng cao vai trò của công tác đánh giá rủi ro và thẩm định dự án, để đảm bảo an toàn trong tín dụng và bảo lãnh. Sở giao dịch I đảm bảo việc trích lập dự phòng rủi ro tín dụng theo đúng với thực tế hoạt động tín dụng cũng như quy định của ngân hàng và hướng dẫn của Hội sở chính. - Thường xuyên rà soát, đôn đốc theo dõi các khoản vay, đảm bảo việc sử dụng vốn đúng mục đích. Từ đó tiếp tục nâng cao chất lượng tín dụng trên cơ sở an toàn và chắc chắn. - Tăng cường việc rà soát hồ sơ tín dụng, đảm bảo thực hiện tuân thủ đầy đủ những quy trình đã đề ra, và thống nhất theo quy định của NHNN hay Hội sở chính. Song song với việc tiếp tục theo dõi, bám sát các doanh nghiệp có rủi ro như có nợ xấu, nợ tồn đọng, từ đó bám sát và xử lý, tận thu các khoản nợ khó đòi để tạo điều kiện cơ cấu lại nợ. - Sở giao dịch I ngân hàng Công Thương ngày một đa dạng hoá các hình thức cho vay như cho vay nhà ở, cho vay trả góp, vay tín dụng… 2.2 Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng công tác đánh giá rủi ro trong thẩm định dự án xin vay vốn tại Sở giao dịch I ngân hàng Công Thương 2.2.1 Giải pháp về thông tin Dự án đầu tư rất nhạy cảm trước những biến động về kinh tế, chính trị, xã hội. Do vậy thông tin đã và đang là một yếu tố rất quan trọng đối với hoạt động cho vay. Cũng chính vì lý do đó, để tạo tiền đề vững chắc cho các quyết định cho vay của Sở, thông tin mà các cán bộ thẩm định thu thập được để đánh giá rủi ro cần phải được cập nhật, khai thác triệt để, nhằm mục đích phục vụ cho hoạt động này một cách hiệu quả hơn. -   Ngân hàng cần không ngừng tăng cường hệ thống thông tin nội bộ: Tại Sở giao dịch I ngân hàng Công Thương, các phòng ban đều được trang bị máy tính được nối mạng nội bộ khá hiện đại do vậy rất thuận tiện cho việc trao đổi thông tin. Ngân hàng cần ban hành một quy chế thông tin định kỳ cho các bộ phận thong tin ở các chi nhánh cũng như Hội sở. Bởi lẽ, để đảm bảo đánh giá rủi ro một các hiệu quả nhất, thông tin mà cán bộ thẩm định thu thập được phải đảm bảo nhanh, chính xác, kịp thời. Do vậy, những thông tin cần thiết đối với một dự án xin vay vốn phải được cung cấp thông suốt, chính xác, đầy đủ và nhanh chóng trong toàn hệ thống của ngân hàng. -   Sở giao dịch I cần đề cao việc thu thập thông tin từ bên ngoài: Để có dữ liệu vô tận qua mạng thông tin toàn cầu, Sở giao dịch I cần phát triển hệ thống thông tin từ bên ngoài như từ Ngân hàng Nhà nước, các ngân hàng thương mại khác, trung tâm thông tin trong nước và quốc tế qua việc kết nối mạng lưới máy tính với các tổ chức trên. Thuế là cơ quan của nhà nước thường xuyên theo dõi, thu thập tình hình tài chính của doanh nghiệp thông qua những số liệu có độ tin cậy cao. Chính vì vậy, cán bộ thẩm định tại Sở giao dịch I có thể khai thác thông tin từ cơ quan này, để dó những thông tin chính xác hơn về tình hình tài chính của doanh nghiệp thông qua việc so sanh đối chiếu với những thông tin mà doanh nghiệp cung cấp. Ngoài ra, để nắm bắt được tình hình quan hệ thanh toán cũng như khả năng đảm bảo của việc cung cấp đầu vào và vấn đề tiêu thụ đầu ra của dự án, Sở có thể đa dạng hoá nguồn thông tin này từ các bạn hàng của doanh nghiệp. Đồng thời, ý kiến của các chuyên gia tư vấn kỹ thuật cũng rất quan trọng trong việc thẩm tra khía cạnh tài chính của dự án, chính vì vậy việc tham khảo ý kiến của các chuyên gia có trình độ học vấn, có kinh nghiệm là rất quan trọng. Một trong những thông tin rất quan trọng cho cán bộ thẩm định rủi ro đánh giá những rủi ro về môi trường và kinh tế xã hội của dự án đó là những thông tin về chủ trương, chính sách, chiến lược phát triển vùng, ngành, lãnh thổ phải được ngân hàng nắm bắt và cập nhật thường xuyên. 2.2.2 Giải pháp về cán bộ Yếu tố con người trong hoạt động vay vốn tại ngân hàng nói chung và trong hoạt động thẩm định rủi ro nói riêng luôn là nhân tố quyết định. Nó là yếu tố đặc biệt quan trọng, bởi lẽ nó ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động thẩm định rủi ro. Chính vì vậy, Sở giao dịch I luôn luôn quan tâm đến công tác cải thiện về cả số lượng và chất lượng của cán bộ tại đơn vị mình. Đối với mỗi ngân hàng, để xây dựng một chiến lược nguồn nhân lực dài hạn, cần phải đề ra cho mình yêu cầu hay những mục tiêu hướng tời trong chiến lược ấy. Một cán bộ thẩm định giỏi phải có đầy đủ những tố chất như trình độ, năng lực, cũng như đạo đức nghề nghiệp. Đạo đức nghề nghiệp thể hiện ở lòng yêu nghề, tâm huyết với nghề, trung thực, có tình thần trách nhiệm cao. Chính vì vậy, để đạt được yêu cầu với nguồn nhân lực như trên, Sở đã đề ra cho mình những giải pháp sau: -   Coi trọng công tác tuyển dụng cán bộ: Công tác tuyển dụng là công tác sàng lọc để chọn ra những cán bộ có đủ năng lực đáp ứng yêu cầu của từng công việc. Chính vì vậy, việc tuyển dụng trước tiên phải đảm bảo khách quan, công bằng, tránh tình trạng tiêu cực trong công tác tuyển dụng. Đề thi sử dụng nên có sự đóng góp ý kiến của các tổ chức, các chuyên gia có kinh nghiệm, các viện nghiên cứu đảm bảo có được một đề thi tuyển hợp lý bám sát với thực tế. -   Bố trí cán bộ một cách hợp lý: Công tác bố trí cán bộ cần được đánh giá cao hơn nữa. Bởi lẽ, việc bố trí cán bộ không hợp lý, việc khen thưởng đào thải cản bộ không đúng, không công bằng sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng của công tác thẩm định rủi ro đối với các dự án xin vay vốn. Chính vì vậy, cần bố trí lao động phù hợp với trình độ chuyên môn cũng như khả năng công tác đồng thời phải kiên quyết kiểm điểm, loại bỏ, hay chuyển công tác đối với những cán bộ thiếu phẩm chất đạo đức nghề nghiệp. -   Xây dựng chính sách bồi dưỡng, đào tạo cán bộ Để đảm bảo mục tiêu nâng cao chất lượng công tác thẩm định đánh giá rủi ro, cán bộ thẩm định không những cần được trang bị những kiến thức cơ bản về dự án kỹ năng thẩm định (bao gồm: nội dung, chu trình, các bước nghiên cứu, và phương pháp phân tích rủi ro dự án) mà còn cần thiết nắm vững các quy định của Nhà nước có liên quan đến lĩnh vực đầu tư. Ngoài ra, cán bộ thẩm định cần có những hiểu biết nhất định, biết cách thu thập và phân tích thông tin để phục vụ chức năng nhiệm vụ của mình. Trong đó, chú trọng đến các kỹ năng thực hành bằng các phần mềm mà cán bộ thẩm định được trang bị, bở lẽ,  nó giúp cho công việc được thực hiện nhanh và chính xác hơn rất nhiều. Cán bộ thẩm định phải được thường xuyên đào tạo những kiến thức cập nhật đối với công tác quản lý rủi ro, cũng như việc cập nhật những quy định có liên quan của Nhà nước đến lĩnh vực đó. Có được điều đó là do những quy định này thì mang tính chất nghiêm ngặt và chặt chẽ để bảo vệ cho lợi ích của nhà nước, của chủ đầu tư cũng như của cả cộng đồng. Để ngày một nâng cao chất lượng, kinh nghiệm của nguồn nhân lực phục vụ công tác thẩm định và quản lý rủi ro trong ngân hàng, Sở giao dịch I cần phải tổ chức những lớp tập huấn ngắn hạn và dài hạn cho các cán bộ với sự tham gia của các chuyên gia có trình độ, kinh nghiệm cao. Vấn đề đào tạo cho nguồn nhân lực, luôn luôn phải được chú trọng hàng đầu, chính vì vậy việc đào tạo cho cán bộ cần được xem xét như một mục tiêu hàng đầu, nhằm hướng tới đội ngũ cán bộ có đầy đủ năng lực, phẩm chất đạo đức cùng góp phần xây dựng cho sự phát triển ngày một lớn mạnh hơn của Sở giao dịch I. -   Cở chế đãi ngộ thích hợp Để kích thích tinh thần làm việc hết mình của của các nhân viên cũng như kích thích sự sáng tạo trong công việc thì Sở giao dịch I cần có những chính sách đãi ngộ, phù hợp bằng các chính sách như: khen thưởng kịp thời cho các thành tích mà các cán bộ đạt được, hay xây dựng các chương trình phúc lợi cho các cán bộ công nhân viên chức trong ngân hàng, động viên giúp đỡ những gia đình cán bộ gặp điều kiện khó khăn… 2.2.3 Giải pháp về quy trình đánh giá rủi ro Quy trình đánh giá rủi ro tại Sở giáo dịch I còn sơ sài và có phần chưa hợp lý. Chính vì vậy, ngân hàng cần khắc phục bằng cách đánh giá một cách đầy đủ hơn nữa các khía cạnh của dự án: + Thẩm định cơ sở pháp lý của dự án => Rủi ro về cơ chế chính sách + Thẩm định khía năng cung cấp, đáp ứng nguyên vật liệu đầu vào = > Rủi ro về cung cấp + Thẩm định về thị trường của sản phẩm => Rủi ro về thị trường và thu nhập + Thẩm định các điều kiện vĩ mô => Rủi ro về kinh tế vĩ mô + Thẩm định về kỹ thuật và công nghệ => Rủi ro về kỹ thuật vận hành + Thực hiện về phương thức diện tổ chức và quản lý thực hiện dự án => Rủi ro về thi công xây dựng + Thẩm định hiệu quả tài chính dự án => Rủi ro về khả năng trả nợ của dự án Để đánh giá rủi ro trong thẩm định dự án xin vay vốn nhiều ngân hàng ở nước ta đã áp dụng phương thức xếp hạng tín dụng, với những cách thức rất chuyên nghiệp để đưa ra từng mức điểm đối với dự án từ đó đưa ra kết luận của mình, đồng ý cho vay hay khước từ đối với dự án. Phương thức xếp hạng tín dụng là rất quan trọng, do vậy Sở giao dịch I cần tiếp tục xây dựng và củng cố phương thức này có chiều sâu hơn nữa, để có những cách nhìn, cách đánh giá về dự án ngày càng chính xác và đầy đủ hơn. Một trong những yếu tố quan trọng nhất của phương pháp này, là sự tham gia của các chuyên gia giàu kinh nghiệm để đáp ứng đầy đủ yêu cầu quản trị trong tình hình mới và tiếp cận tối đa với các chuẩn mực quốc tế. Việc đo lường và định dạng các loại rủi ro tín dụng tại Sở giao dịch I sẽ ngày càng được thực hiện thống nhất và tập trung hơn trong suốt quá trình cho vay, quản lý khoản vay từ Hội sở đến tất cả các điểm giao dịch. Từ đó, giúp cho Sở giao dịch có thể hoạch định được các chính sách tín dụng và chính sách quản trị rủi ro phù hợp, thực hiện phân loại nợ và trích lập dự phòng đúng theo quy định của ngân hàng Nhà nước. Về phần các khách hàng, việc áp dụng thành công chương trình này cũng sẽ mang nhiều lợi ích hơn cho họ. Bở lẽ, thông qua phương thức chấm điểm tự động thời gian xử lý các giao dịch của ngân hàng sẽ nhanh chóng hơn. Đồng thời, các khách hàng được xếp loại tốt sẽ nhận được nhiều chính sách ưu đãi về giá, phí, chương trình khách hàng thân thiết hay có nhiều cơ hội hợp tác cùng ngân hàng. Ngoài ra các khách hàng sẽ có cơ hội thường xuyên được bảo đảm hoạt động tài chính, kinh doanh lành mạnh. Bởi lẽ, họ sẽ được tư vấn chu đáo hơn từ các cán bộ của ngân hàng. Chính vì vậy, Sở giao dịch I ngân hàng Công Thương cần nhanh chống đưa hệ thống mô hình xếp hạng tín dụng nội bộ thành công sau khi được ngân hàng Nhà nước phê duyệt. Tuy vậy, trong công tác đánh giá rủi ro tín dụng thì kinh nghiệm đánh giá và chuyên môn của chính các cán bộ tác nghiệp vẫn là yếu tố chủ quan và quan trọng hơn cả mà không có phương pháp phân tích hay một hệ thống phức tạp nào có thể thay thế được. Chính vì vậy, trong phương thức này, Sở giao dịch I cần kết hợp nhuần nhuyễn yếu tố về nhân sự cũng như yếu tố về công nghệ để đảm bảo được thành công trong chương trình này, xứng đáng là một trong những ngân hàng hàng đầu thành công trong công tác xếp hạng tín dụng nội bộ theo chuần mực quốc tế. 2.2.4 Giải pháp về trình độ công nghệ Thiết bị, công nghệ thông tin hiện nay là yếu tố không thể thiếu được trong hoạt động của từng ngân hàng. Để đảm bảo cho công tác quản lý rủi ro trong thẩm định dự án xin vay vốn của ngân hàng được tiến hành kịp thời, chính xác hơn nữa, cũng như việc tiếp tục hoàn thiện đường truyền hội sở tại các chi nhánh Sở giao dịch I cần mua sắm thêm thiết bị công nghệ thông tin cho toàn hệ thống, quan trọng hơn là các phần mềm có bản quyền cho hệ thống. Song song với nó, Sở phải không ngừng nâng cao trình độ quản lý, ngoại ngữ, nghiệp vụ và kỹ năng tiếp cận những công nghệ mới đó cho toàn đội ngũ nhân sự tại ngân hàng. 2.2.5 Giải pháp về nội dung phân tích Để đưa ra được quyết định xem có nên tài trợ cho dự án hay không, ngân hàng sử dụng các kết quả của việc phân tích các nội dung đánh giá rủi ro. Chính vì vậy, để đưa ra sự đánh giá một cách chính xác đối với 1 dự án đầu tư, Sở giao dịch I phải xử lý tốt các nội dung đánh giá, từ đó giúp Ngân hàng lựa chọn được cho mình nhà đầu tư thích hợp nhằm đem lại hiệu quả cho vốn đầu tư mà Ngân hàng bỏ ra. -   Đầu tiên chúng ta đi xem xét công tác đánh giá nhu cầu vốn đầu tư của dự án. Sở giao dịch I cần phải xây dựng cho mình một bảng giá định mức trong từng lĩnh vực cụ thể để làm căn cứ cho việc tiến hành thẩm định đánh giá rủi ro. Mặt khác, ngân hàng cũng phải thành lập một tổ định giá độc lập để từ đó có thể định giá một cách chính xác nhất những nhu cầu vốn đầu tư trong từng trường hợp của dự án, cũng như những dự án đầu tư đặc thù. -   Thứ hai, Sở giao dịch I cần xác định lại những yếu tố doanh thu hoặc chi phí một cách chính xác và đầy đủ hơn nữa. Điều này đòi hỏi cán bộ thẩm định phải có kiến thức về chuyên môn cũng như cần phải có kiến thức về thị trường liên quan với những vấn đề của dự án. Đối với chi phí của dự án, việc xác định thường có nhiều khó khăn. Bởi lẽ, giá cả của các yếu tố đầu vào của khối lượng tính toán thường được xác định theo định mức. Trong khi đó, các định mức này cần phải được xây dựng dựa trên những quy định của ngành và Nhà nước hay từ các dự án tương tự đã và đang hoạt động. Chính vì vậy, cán bộ thẩm định đánh giá rủi ro luôn cần cập nhật các quy định của Nhà nước đối với những vấn đề có liên quan đến dự án để có thể xây dựng được những thông số chuẩn hơn đánh giá chi phí từ đó có hiệu quả tốt nhất trong công tác thẩm định rủi ro. -   Thứ ba, trong công tác đánh giá hiệu quả tài chính đối với một dự án đầu tư, khi tính toán đến dòng tiền của dự án, Sở cần tính đến các yếu tố lạm phát hay trượt giá, yếu tố này rất có thể sẽ xảy ra, và khi đó nó có thể gây ảnh hưởng không nhỏ đến dự án nếu dự án được thực thi. Nguyên nhân là do có liên quan đến tỷ suất chiết khấu của dự án, từ đó liên quan đến dòng tiền và hiệu quả tài chính đối với dự án. 2.2.6 Giải pháp về phương pháp đánh giá rủi ro P Đối với phương pháp định lượng -   Để việc đánh giá trở nên hoàn thiện hơn, khi phân tích độ nhạy, Sở cần đưa ra nhiều giá trị mà một yếu tố ảnh hưởng có khả năng thay đổi. Ví dụ như việc xét trường hợp doanh thu dự án tăng 10%, 15% hay chi phí giảm 10%, 15%, cũng như xem xét các chỉ tiêu tài chính khi doanh thu giảm 10%, 15% hay chi phí tăng 10%, 15% có còn đạt hiệu quả không, từ đó ngân hàng quyết định cho vay hay không? -   Bên cạnh đó, Sở giao dịch I cũng cần đánh giá dự án trong trường hợp có sự thay đổi đồng thời của hai hay ba yếu tố để từ đó có cách nhìn chính xác hơn về các chỉ tiêu hiệu quả tài chính của dự án khi có các biến động xảy ra. P  Đối với phương pháp định tính Để khắc phục những hạn chế đã nêu Sở giao dịch I cần áp dụng thêm các phương pháp như: phương pháp ma trận SWOT, mô hình 5 lực lượng của Porter… Phương pháp ma trận SWOT Nghiên cứu mô hình SWOT chủ yếu dựa vào phân tích điểm yếu, điểm mạnh, cơ hội, đe doạ/thách thức (Strength, Weakness, Opportunity , Threat). Cụ thể ở đây, trong hoạt động tín dụng của ngân hàng, việc áp dụng mô hình SWOT sẽ tập trung vào phân tích dựa trên những khí cạnh chủ yếu như: Môi trường, ngành, quản lý, sở hữu và khả năng sinh lợi/dòng tiền của một doanh nghiệp. + Môi trường kinh doanh: Là những điều kiện về kinh tế, sự ổn định về chính trị - xã hội, các chính sách của chính phủ, các khía cạnh xã hội, thị hiếu của người dân… Sở cần xem xét những vấn đề nêu trên thì đầu là điểm mạnh của doanh nghiệp, liệu rằng ngân hàng có khả năng thích nghi với sự thay đổi của môi trường kinh doanh hay không? Sản phẩm của doanh nghiệp có đáp ứng nhu cầu của khách hàng không? Cũng trong điều kiện như vậy, Sở cần phải nắm được những điểm yếu của doanh nghiệp. Trong những thay đổi về môi trường kinh doanh mà con người khó có thể biết trước được đó, doanh nghiệp có thể vượt qua được những khó khăn đó không? Và làm sao để họ có thể tận dụng được cơ hội cũng như có đủ bản lĩnh để đương đầu với những thách thức đặt ra đó. Từ đó, Sở sẽ đưa ra những kết luận: Những rủi ro về môi trường kinh doanh xảy ra đối với doanh nghiệp chủ yếu là gí? Và doanh nghiệp đã làm thế nào để giảm thiểu những rủi ro đó, và Sở có thể kiểm soát những rủi ro đó hay không? + Ngành kinh doanh: Cán bộ thẩm định rủi ro phải nắm được vị trí của doanh nghiệp, nhà cung cấp chủ yếu, khách hàng, đối thủ cạnh tranh, tính chu ký, tuổi thọ sản phẩm từ dó có thể làm cơ sở đánh giá liệu rằng doanh nghiệp có giành được thế chủ động trong môi trường cạnh tranh đó không? Sản phẩm có phù hợp với thị hiếu của người tiêu dùng hay không? Xu hướng phát triển của sản phẩm trong tương lai có gặp khó khăn và trở ngại không? + Công nghệ - máy móc sản xuất + Vấn đề quản lý Bên cạnh những yếu tố chủ yếu khác quyết định sự thành công hay thất bại trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, thì vấn đề quản lý cũng cực kỳ quan trọng. Ngân hàng cần đánh giá, xem xét những điểm mạnh, điểm yếu của đội ngũ lãnh đạo trong doanh nghiệp, từ đó xem xét doanh nghiệp có đủ tin cậy để ngân hàng có quan hệ lâu dài hay không? Theo đó, ngân hàng cần có sự giám sát và theo dõi thực tiễn quản lý điều hành doanh nghiệp, cũng như khả năng sẵn sàng đối phó với những thay đổi, hay các mối quan hệ với các chủ nợ, mối quan hệ với các ban ngành, khả năng xác định và liệt kê các điểm yếu trong nguồn lực cảu doanh nghiệp. Từ đó đánh giá, nhìn nhận mối quan hệ với nhân viên, và có cách nhìn bao quát nhất về ban điều hành trong doanh nghiệp. + Vấn đề sở hữu: Ngân hàng xem xét vấn đề sở hữu trong một doanh nghiệp cũng cần phải để ý đến một số khía cạnh như giá cả và xu thế hướng biến động của giá cổ phiếu trên thị trường, hay mức độ đa dạng của thu nhập và vốn… + Khả năng sinh lời, dòng tiền. Theo mô hình này cần đánh giá những thay đổi môi trường kinh doanh, lĩnh vực kinh doanh, chiến lược phát triển của công ty ảnh hưởng đến mức dự báo trong tương lai cũng như một số biến động trong lịch sử hay không? 2.3 Một số kiến nghị 2.3.1 Kiến nghị với Chính phủ và các Bộ, Ngành có liên quan Chính phủ cần phối hợp với các Bộ, Ngành chỉ đạo các doanh nghiệp nghiêm túc thực hiện chế độ hạch toán, kế toán, lập các báo cáo tài chính theo đúng quy định đã đề ra. Đồng thời cần nghiêm túc thực hiện chế độ kiểm toán các báo cáo tài chính, để đảm bảo tính rõ ràng, đúng đắn của các báo cáo này, điều này sẽ tạo điều kiện cho ngân hàng trong phân tích tình hình tài chính, cũng như hỗ trợ công tác đánh giá rủi ro từ đó ra quyết định cho vay đối với các doanh nghiệp được chính xác hơn. Chính phủ cần xây dựng một hệ thống luật pháp thống nhất để tránh tình trạng chồng chéo giữa các quy định của ngành, gây khó khăn việc thực thi quy định trong hoạt động của ngân hàng. Mặt khác, các Bộ, Ngành nên đưa ra các chỉ tiêu định mức kinh tế kỹ thuật cũng như các chỉ tiêu đánh giá xếp hạng doanh nghiệp một cách hợp lý và chi tiết hơn nữa để các cán bộ thẩm định làm cơ sở đánh giá doanh nghiệp với các doanh nghiệp cùng ngành nghề, từ đó định giá doanh thu và chi phí một cách chính xác hơn. Đối với các bộ chủ quan như Bộ Công nghiệp, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Nông nghiệp, Bộ Tài chính, Tổng cục thống kê cần phải hệ thống hoá hơn nữa thông tin trong lĩnh vực mà mình quản lý ở mỗi năm, để Ngân hàng thuận tiện hơn trong việc thu thập thông tin phục vụ công tác đánh giá rủi ro của đơn vị mình. 2.3.2 Kiến nghị với ngân hàng Nhà nước Trong thời gian tới, NHNN cần nỗ lực phát triển và củng cố hoạt động của trung tâm thông tin tín dụng để đảm bảo chức năng thu thập và cung cấp dịch vụ thông tin tín dụng cho NHNN, các tổ chức tín dụng nhằm đảm bảo an toàn cho hoạt đông của ngân hàng, phục vụ tốt công tác quản lý của NHNN, do đó sẽ hạn chế rủi ro tín dụng và phát triển kinh tế xã hội. Mặt khác, NHNN cần xây dựng những chiến lược phát triển phù hợp hơn nữa trong toàn ngành. Đồng thời tạo điều kiện thuận lợi cho sự hợp tác hoạt động của các ngân hàng với nhau đối với những dự án quy mô lớn, từ đó sẽ tận dụng được những lợi thế của mỗi ngân hàng trong công tác thẩm định rủi ro đối với dự án đầu tư. NHNN cần tổ chức nhiều hơn nữa những buổi hội thảo, trao đổi kinh nghiệm về thẩm định và quản lý rủi ro đối với dự án giữa các ngân hàng. 2.3.3 Kiến nghị với Sở giao dịch I Ngân hàng Công Thương. Sở cần xây dựng một hệ thống thông tin thông suốt trong toàn ngành cũng như phải có sự cập nhật thông tin từ nhiều nguồn khác nhau để có được những nguồn thông tin đáng tin cậy phục vụ tốt hơn trong công tác đánh giá rủi ro. Hơn nưa, Sở cần phải tạo điều kiện cho nhân viên tham gia lớp tập huấn trong và ngoài nước để học hỏi kinh nghiệm từ đó đảm nhận tốt hơn trách nhiệm của mình 2.3.4 Kiến nghị với chủ đầu tư Thông tin chủ đầu tư cung cấp ảnh hưởng rất lớn đến kết quả thẩm định và đánh giá rủi ro của dự án. Chính vì vậy, chủ đầu tư cần phải trung thực đưa ra chính xác những thông tin về dự án mà mình định vay vốn cho ngân hàng. Do vậy, mà chủ đầu tư cũng phải chấp hành nghiêm chỉnh chế độ thống kê, kế toán, chủ động cung cấp thông tin cho cán bộ ngân hàng để làm cơ sở cho công tác phân tích và đánh giá rủi ro khách hàng cũng như rủi ro dự án. Kết luận Trong nền kinh tế thị trường và trong xu thế hội nhập nền kinh tế quốc tế hiện nay thì rủi ro trong kinh doanh là một yếu tố không tránh khỏi, mà đặc biệt là rủi ro trong ngân hàng có phản ứng lây lan và ngày càng biểu hiện phức tạp hơn. Rủi ro là một đại lượng khó xác định và là một yếu tố không thể triệt tiêu hoàn toàn, chính vì vậy, các cán bộ ngân hàng cần biết đánh giá phân tích rủi ro đối với một dự án, để từ đó đưa ra quyết định cho vay hay khước từ đối với dự án đó. Để đưa ra một quyết định cho vay chính xác và đảm bảo thu hồi vốn cho ngân hàng, cán bộ ngân hàng cần đánh giá rủi ro đối với dự án một cách thận trọng và chính xác. Sở giao dịch I ngân hàng Công Thương đang trên đà phát triển và để khẳng định uy tín trong hoạt động kinh doanh Sở cần phải nâng cao chất lượng công tác thẩm định đánh giá rủi ro trong thẩm định dự án xin vay vốn tại ngân hàng. Trong thời gian thực tập tại phòng “Quản lý rủi ro” em đã chọn đề tài: “Rủi ro và đánh giá rủi ro trong thẩm định dự án xin vay vốn tại Sở giao dịch I ngân hàng Công Thương” với mục đích tìm ra được giải pháp nhằm nâng cao chất lượng trong công tác đánh giá rủi ro đối với dự án đầu tư. Do kiến thức của em còn hạn chế nên em rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến của các thầy cô giáo cũng như các cán bộ tại phòng Quản lý rủi ro.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docRủi ro và đánh giá rủi ro trong thẩm định dự án xin vay vốn tại Sở giao dịch I, ngân hàng Công Thương.doc
Luận văn liên quan