Thị trường trái phiếu doanh nghiệp Việt Nam và những giải pháp phát triển

Thị trường trường TPDN là một bộ phận quan trọng và không thể tách rời của thị trường tài chính. Nó thể hiện vai trò của mình là một kênh huy động vốn hữu hiệu, giảm bớt gánh nặng cho những kênh huy động vốn còn lại trên thị trường tài chính. Tăng nguồn vốn cho đầu tư phát triển của các DN, góp phần phát triển kinh tế. Vì vậy việc phát triển thị trường TPDN ở Việt Nam là một vấn đề bức thiết của nền kinh tế, cung như nhu cầu vốn đầu tư phát triển của các DN, nhất là trong giai đoạn cạnh tranh ngày càng gay gắt. Trong điều kiện của Việt Nam, những điều kiện cần thiết, những yếu tố cơ sở cho sự phát triển thị trưởng TPDN còn thiếu và yếu, đòi hỏi sự tham gia tích cực của nhiều thành phần bao gồm cả chính phủ, các DN, các NĐT và những chủ thể liên quan cùng đóng góp và xây dựng thị trường. Trong đó, vai trò của chính phủ là hết sức quan trọng. Trong giai đoạn đầu phát triển thị trường TPDN, chính phủ vừa là cơ quan tạo lập những cơ sở nền tảng cho sự phát triển của thị trường, vừa khuyến khích sự tham gia của các chủ thể liên quan.Với thực tế nền kinh tế Việt Nam trong giai đoạn hiện nay gặp rất nhiều khó khăn, đòi hỏi cơ quan quản lý nhà nước cần phải cân nhắc thật kỹ càng, giải quyết các vấn đề một cách thấu đáo thì mới có thể giúp thị trường TPDN phát triển đúng tầm của mình.

doc44 trang | Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2781 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Thị trường trái phiếu doanh nghiệp Việt Nam và những giải pháp phát triển, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ng lệ quốc tế và luật pháp của Việt Nam; Đánh giá hệ số tín nhiệm: người phát hành chủ trì , phối hợp với các cơ quan liên quan của Việt Nam tổ chức làm việc với các cơ quan đánh giá hệ số tín nhiệm để xác nhận hệ số tín nhiệm quốc gia trước đợt phát hành (trong trường hợp phát hành TPCP). Đối với DN, việc xác định hệ số tín nhiệm tùy thuộc vào yêu cầu của từng đợt phát hành. Tổ chức quảng bá và thực hiện phát hành: việc tổ chức quảng bá chào bán trái phiếu do người phát hành thực hiện tùy thuộc yêu cầu của từng hình thức phát hành, cụ thể: Người phát hành phối hượp với tổ chức các Ngân hàng bảo lãnh phát hành tổ chức chiến dịch quảng bá trái phiếu tại các trung tâm tài chính lớn trên Thế giới để tiếp xúc với cộng đồng các NĐT quốc tế trước khi thực hiện việc định giá để phát hành trái phiếu; Người phát hành quyết định các điều kiện, lãi suất danh nghĩa, các điều khoản phát hành trái phiếu trong quá trình định giá trái phiếu trên cơ sở tư vấn của tổ hợp các Ngân hàng bảo lãnh phát hành, phù hợp với điều kiện thị trường và các nguyên tắc nêu tại đề án phát hành đã được phê duyệt; Người phát hành tổ chức việc tiếp nhận nguồn vốn trái phiếu đã phát hành theo đúng thỏa thuận đã ký; Hoàn tất giao dịch phát hành: sau khi nhận tiền bán trái phiếu, người phát hành hoàn tất và ký kết các văn bản pháp lý kết thúc giao dịch phù hợp với thông lệ quốc tế, đông thời báo cáo kết quả phát hành theo quy định hiện hành. 1.4.3. Phương thức phát hành Phương thức phát hành TPDN là hình thức để DN đưa trái phiếu ra bán cho các NĐT. Thông thường có các phương thức phát hành phổ biến sau đây: Đấu thầu phát hành trái phiếu; Bảo lãnh phát hành trái phiếu; Đại lý phát hành trái phiếu; Bán trực tiếp cho NĐT trái phiếu (trong trường hợp DN phát hành là tổ chức tín dụng). CHƯƠNG 2 THỰC TRẠNG THỊ TRƯỜNG TRÁI PHIẾU DOANH NGHIỆP VIỆT NAM 2.1. Tổng quan về nền kinh tế và thị trường tài chính Việt Nam thời gian qua 2.1.1. Bối cảnh nền kinh tế Trong khoảng 2 năm trở lại đây nền kinh tế Thế giới được xem là rơi vào trạng thái “u ám nhất” kể từ những ngày khủng hoảng năm 2008-2009. Trong khi kinh tế Mỹ và Nhật Bản tăng trưởng một cách “ì ạch”, thì Chấu Âu vẫn đang “vùng vẫy” trong cuộc khủng hoảng nợ công. Ngay cả các nền kinh tế mới nổi có tốc độ tăng trưởng khá nhanh như Trung Quốc, Ấn Độ, Brazil…cũng phải đối mặt với đà suy giảm kinh tế. Báo cáo Tình hình và Triển vọng kinh tế Thế giới năm 2013 của Liên hợp quốc công bố trong những tuần cuối năm , dự bào kinh tế toàn cầu tăng trưởng 2.2% trong năm 2012 thấp hơn so với mức dự báo 2.5% hồi tháng 6/2012 và tiếp tục tăng trưởng dưới tiềm năng với mức tăng dự báo 2.4 % năm 2013 và 3.2% năm 2014. Trong báo cáo Triển vọng kinh tế trước đó, Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD) cũng hạ dự báo và tăng trưởng kinh tế Thế giới năm 2012 và 2013 từ 3.4% và 4.2% xuống còn 2.9% và 3.4%. Khủng hoảng nợ công ở Châu Âu và kinh tế qoàn cầu yếu kém , nỗi lo ngại về “vách đá tài chính” ở Mỹ, đà hồi phục của kinh tế toàn cầu chậm lại cộng thêm những thách thức về cơ cấu và đầu tư yếu đi khiến cho các nền kinh tế mới nổi tăng trưởng nhanh ở Châu Á, như Trung Quốc và Ấn Độ đánh mất đà tăng trưởng. Theo dự báo của Ngân hàng Thế giới (WB), tăng trưởng của Trung Quốc năm 2012 chỉ đạt 7.9% nhỉnh hơn đôi chút so với ước đoán 7.5% của Chính phủ nước này và là mức thấp nhất kể từu năm 1999. Tuy nhiên báo cáo của Liên hợp quốc nhận định rằng, xét tương quan với các khu vực khác, kinh tế Châu Á – Thái Bình Dương năm 2012 vẫn khả quan với tốc độ ước đạt 5.6% dù vẫn thấp hơn mức tăng trưởng dự báo 6.5% trước đó. Khu vực Đông Á và Thái Bình Dương ước đoán tăng 7.5% năm 2012 và 8.1% năm 2013. Đối với Việt Nam, cũng không thể tránh khỏi đà suy giảm kinh tế trên Thế giới, tốc độ tăng trưởng kinh tế năm 2011 còn 5.9 % thấp hơn so với 6.8% năm 2010. Và trong năm 2013 cũng chỉ đạt mức 5.03% (theo số liệu công bố của Tổng cục thống kê) giảm 0.87% so với năm 2011. Bảng 2.1: Tăng trưởng kinh tế khu vực Đông Á và Thái Bình Dương (Đơn vị: %)  Năm 2009 2010 2011 2012e 2013f Đông Á và Thái Bình Dương 7.5 9.7 8.3 7.5 8.1 Trung Quốc 9.2 10.4 9.2 8.1 8.6 In-đô-nê-sia 4.6 6.2 6.5 6.0 6.5 Ma-lay-sia -1.6 7.2 5.1 4.4 5.2 Phi-lip-pin 1.1 7.6 3.7 4.0 5.0 Thái Lan -2.3 7.8 0.1 4.3 5.2 Việt Nam 5.3 6.8 5.9 5.7 6.3 Các nước Đông Á 1.5 7.0 4.5 5.1 5.8 trừ Trung Quốc (Nguồn: cập nhật tình hình kinh tế Châu Á và Thái Bình Dương, tháng 5/2012) Trong bối cảnh này đòi hỏi Việt Nam phải có những chính sách phát triển hợp lý để kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, duy trì mức tăng trưởng một cách hợp lý và gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng và tái cơ cấu nền kinh tế, nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế. Đồng thời cũng phải chú trọng tới tình hình sức khỏe của các DN trong nước, vì sức khỏe của các DN chính là sức khỏe của nền kinh tế. Năm 2011-2012 có khoảng 100.000 DN ngừng hoạt động hoặc phá sản bằng 50% số DN rút khỏi thị trường suốt 20 năm qua. Nguyên nhân do tình hình kinh tế trong nước và Thế giới gặp nhiều khó khăn như trên khiến sức mua và khả năng tiêu dùng trong và ngoài nước giảm. Làm các DN không bán được hàng. Chỉ số tồn kho tại thời điểm 1/1/2013 tăng 21% so với cùng thời điểm năm trước. Với số lượng hàng tồn kho lớn như vậy DN sẽ không thể có khả năng quay vòng vốn để tái đầu tư. Thậm chí còn nhiều DN chấp nhận bán lỗ. Đồng thời trong giai đoạn này hệ thống Ngân hàng cũng gặp nhiều khó khăn nên việc vay vốn tín dụng không hề dễ dàng, nhất là đối với các DN vừa và nhỏ. Do đó đòi hỏi các DN phải tìm cho mình những nguồn vốn thích hợp khác để có thể duy trì hoạt động và tồn tại. 2.1.2. Thực trạng thị trường tài chính Năm 2000, đánh dấu một cột mốc đáng chú ý, có ảnh hưởng lớn và đáng tự hào nhất đối với thị trường tài chính Việt Nam. Đó là sự ra đời của TTCK, một kênh huy động vốn hiệu quả cho nền kinh tế. Ngày 20/07/2000 Trung tâm Giao dịch chứng khoán TP.Hồ Chí Minh chính thức đi vào hoạt động và đến ngày 08/03/2005 Trung tâm Giao dịch chứng khoán Hà Nội cũng đã chính thức chào đời. Tù khi TTCK ra đời đã tạo nên bước chuyển nhảy vọt quan trọng. Thị trường tài chính có thêm một kênh huy động vốn giải quyết áp lực đối với nguồn vốn vay tín dụng Ngân hàng từ trước đến nay vẫn là nguồn huy động vốn chủ yếu của DN. Đồng thời thị trường tài chính cũng bùng nổ với hàng loạt các quỹ đầu tư trong nước và nước ngoài ra đời, các NHTM cổ phần nhiều hơn, mức độ huy động vốn lớn hơn, tạo ra một sức mạnh lớn cho nền kinh tế. Năm 2010 cũng đánh dấu chặng đường 10 năm của TTCK Việt Nam. Thị trường cũng đã có những phát triển vượt bậc. Quy mô thị trường có bước tăng trưởng mạnh mẽ, vững chắc, từng bước đóng vai trò là kênh dẫn vốn trung và dài hạn quan trọng, đóng góp tích cực cho sự nghiệp công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước. TTCK đã có sự tăng trưởng không chỉ về quy mô niêm yết mà cả về tính thanh khoản của thị trường. Nếu như năm 2005, bình quân có 667.600 cổ phiếu được giao dịch một phiên, thì năm 2006, con số này tăng lên 2,6 triệu đơn vị (tăng 3,93 lần) và tăng lên 9,79 triệu và 18,07 triệu trong hai năm sau đó. Tốc độ luân chuyển thị trường trong giai đoạn này liên tục tăng từ 0.43 lần năm 2006 lên 0.64 vào năm 2007, 0.68 lần vào năm 2008 và đạt khoảng 1.13 lần năm 2009. Số lượng các NĐT tham gia TTCK ngày càng đông đảo cùng với việc nhận thức và sự tham gia của cộng đồng vào TTCK ngày càng được nâng cao. Số lượng nhà NĐT nhân và tổ chức, trong nước và nước ngoài đã gia tăng đáng kể. Năm 2011 và năm 2012, TTCK Việt Nam tồn tại khá nhiều bất ổn do cả những nguyên nhân khách quan và chủ quan. Giá cả chứng khoán trên thị trường biến động khó lường Đối với nguồn vốn tín dụng Ngân hàng, ngành Ngân hàng tăng trưởng nhanh cả về số lượng và quy mô tài sản trong giai đoạn 2000-2010, cũng trong giai đoạn này tín dụng trung bình tăng 32% cao hơn mức tăng 29% của huy động và 7.15% của GDP. Mức tăng này có thể ảnh hưởng đến sức khỏe của hệ thống Ngân hàng nói riêng và nền kinh tế nói chung. Năm 2012 là một năm xuống dốc của hệ thống Ngân hàng. Tín dụng tăng trưởng thấp nhất trong 20 năm qua. Theo số liệu của NHNN, tín dụng của toàn hệ thống tăng 4.85% trong 11 tháng đầu năm ước tăng 5 - 5.5% trong cả năm 2012. Tốc độ tăng nợ xấu ở mức báo động, khi chỉ trong 9 tháng đầu năm tăng 66% so với cuối năm 2011, tỷ lệ nợ xấu của toàn hệ thống đến cuối tháng 9 là 8.82% trên tổng dư nợ cả năm vào khoảng 8.5 – 10%. Bảng 2.2: Tình hình nợ năm 2011-2012 Năm 2011 2012 Nợ công 54.9% GDP 55.4% GDP Nợ xấu / tổng dư nợ 3.80% 8.8% - 10% (Ngồn: tổng hợp) Tình trạng này ảnh hưởng rất lớn việc huy động vốn của DN qua kênh tín dụng Ngân hàng, các DN sẽ rất khó khăn trong việc vay vốn tín dụng Ngân hàng nhất là các DN vừa và nhỏ. 2.2. Thực trạng hoạt động của thị trường trái phiếu doanh nghiệp Việt Nam 2.2.1. Thực trạng phát hành trái phiếu 2.2.1.1.Giai đoạn trước năm 2006 Sau khi Chính phủ ban hành Nghị định 120/1994/NĐ-CP ngày 17/09/1994 về phát hành cổ phiếu, trái phiếu của DNNN, thị trường trái phiếu bắt đầu manh nha hình thành. Tuy nhiên trên thực tế số lượng DN huy động vốn qua phát hành trái phiếu còn rất ít, điều này cho thấy kênh huy động vốn qua phát hành trái phiếu còn rất hạn chế và quá mới mẻ đối với DN. Trong khoảng thời gian này, kênh cấp vốn cho DN chủ yếu là thông qua tín dụng Ngân hàng hoặc Ngân sách Nhà nước, hoạt động huy động vốn trực tiếp trên thị trường hầu như chưa phát triển. Các tổ chức phát hành trong giai đoạn này chủ yếu là các tổ chức tín dụng và rất ít DN phát hành trái phiếu. Công ty xi măng Hoàng Thạch và Nhà máy xi măng Anh Sơn là hai đơn vị đi tiên phong trong việc thực hiện Nghị định 120/1994/NĐ-CP. Trong năm 1994, Công ty xi măng Hoàng Thạch đã phát hành 44,45 tỷ đồng trái phiếu kỳ hạn 4 năm, Nhà máy xi măng Anh Sơn phát hành 7,7 tỷ đồng trái phiếu kỳ hạn 3 năm và 5 năm. Năm 1997, đề án phát hành trái phiếu của Công ty thép Miền Nam được Bộ Tài chính phê duyệt với khối lượng huy động dự kiến là 9,2 tỷ đồng, thời hạn trái phiếu từ 25 – 30 năm, lãi suất công bố hàng năm và được tính toán dựa trên kết quả kinh doanh của DN. Đối tượng mua trái phiếu này chủ yếu là cán bộ công nhân viên của công ty. Cùng với trái phiếu của những công ty trên, còn có một khối lượng đáng kể trái phiếu của các tổ chức tín dụng cũng đã được phát hành theo Quyết định 212/QĐ/NH1 ngày 22/9/1994 của Thống đốc NHNN về việc ban hành thể lệ phát hành trái phiếu NHTM, Ngân hàng đầu tư, và hướng dẫn phát hành trái phiếu của các tổ chức tín dụng. Trong thời gian này có rất ít các Công ty cổ phần phát hành trái phiếu, mãi tới năm 1996 Công ty cổ phần cơ điện lạnh (REE) đã phát hành trái phiếu chuyển đổi ngày 01/7/1996 với tổng mệnh giá 5 triệu USD được chuyển đổi thành cổ phiếu vào năm 1998 theo hệ số chuyển đổi đã được xác định trước khi phát hành. Năm 2001, Công ty cổ phần công nghệ thông tin (EIS) cũng đã phát hành trái phiếu chuyển đổi với tổng mệnh giá 10 tỷ đồng, thời hạn 3 năm và được chuyển đổi vào năm 2004 với hệ số chuyển đổi được xác định trước. Tính đến thời điểm cuối năm 2004, cả nước có thêm một số công ty thực hiện phát hành trái phiếu ra công chúng để huy động vốn như: Công ty tài chính dầu khí (PVFC) phát hành 300 tỷ đồng (2003), Tổng công ty điện lực Việt Nam (EVN) phát hành 300 tỷ đồng (2003), Tổng công ty xi măng phát hành 200 tỷ đồng (2003), Công ty tài chính tàu thủy phát hành 50 tỷ đồng (2004), Công ty tài chính cao su phát hành 300 tỷ đồng (2004). Năm 2005, Tổng công ty công nghiệp tàu thủy Việt Nam (Vinashin) phát hành trái phiếu với tổng mệnh giá là 1.000 tỷ đồng, Tổng công ty điện lực Việt Nam và Tổng công ty Sông Đà phát hành trái phiếu với cùng tổng giá trị là 200 tỷ đồng. Cũng trong năm 2005, Ngân hàng ngoại thương Việt Nam đã tổ chức đấu giá phát hành thành công 1.375 tỷ đồng trái phiếu chuyển đổi trong thời gian 7 năm. Kết thúc giai đoạn này, Công ty tài chính dầu khí (PVFC) đã trở thành đơn vị “khóa sổ” Nghị định 120/CP trong tháng 6/2006 với tổng giá trị trái phiếu phát hành ra thị trường đạt 700 tỷ đồng. Bên cạnh đó, trong giai đoạn này, việc phát hành trái phiếu quốc tế để huy động vốn nước ngoài cũng đã được cụ thể hóa trong Nghị định 23/1994/NĐ-CP của Chính phủ, song trên thực tế chưa có NHTM quốc doanh hay DNNN nào phát hành trái phiếu theo Nghị định này. Nguyên nhân chủ yếu là do Việt Nam có định mức tín nhiệm rất thấp trên thị trường vốn quốc tế nên mức bù rủi ro đối với trái phiếu Việt Nam rất cao, dẫn đến chi phí cho việc phát hành cao, vượt quá khả năng chịu đựng của các DN trong nước. Như vậy có thể thấy rằng, trong giai đoạn 1994 – 2006, dù Nhà nước đã ban hành những quy định tạo điều kiện cho các DN phát hành trái phiếu để huy động vốn nhưng trên thực tế phương thức này vẫn chưa được các DN quan tâm và vận dụng một cách phổ biến, giá trị vốn huy động thông qua trái phiếu trong giai đoạn này vẫn còn quá ít so với nhu cầu và tiềm lực của các DN. Thị trường TPDN trong giai đoạn này chỉ mới ở mức khởi đầu và còn rất sơ khai. Tổng giá trị TPDN lưu hành trên thị trường trong năm 2005 chỉ đạt 110 triệu USD, chiếm tỷ trọng 2,48% toàn thị trường và 0,2% GDP. Tuy nhiên, sự ra đời của thị trường TPDN trong giai đoạn này có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, bước đầu mở ra và giúp các DN làm quen với một kênh huy động vốn mới với nhiều tiện ích, là tiền đề để từng bước hoàn thiện và phát triển thị trường vốn nói chung và thị trường TPDN nói riêng trong những giai đoạn tiếp theo. 2.2.1.2. Giai đoạn từ năm 2006 đến nay Năm 2006, sự ra đời của Nghị định 52/2006/NĐ-CP về phát hành TPDN đã tạo bước ngoặt mới cho sự phát triển thị trường TPDN Việt Nam. Chủ thể phát hành trái phiếu được mở rộng hơn, không chỉ có DNNN như trước đây, mà bao gồm cả Công ty TNHH, Công ty cổ phần, DN có vốn đầu tư nước ngoài. Điều kiện để phát hành TPDN cũng thoáng hơn rất nhiều. Nếu như giai đoạn trước năm 2006, thị trường TPDN mới chỉ bắt đầu ở thời kỳ hình thành với quy mô thị trường nhỏ và không đáng kể thì trong giai đoạn từ năm 2006 đến nay, thị trường TPDN Việt Nam đã có những bước phát triển vượt bậc. Tổng giá trị trái phiếu phát hành trong năm 2006 lên đến khoảng 22.000 tỷ đồng (bao gồm cả trái phiếu của các NHTM), trong đó Tổng công ty điện lực Việt Nam (EVN) là 6.000 tỷ đồng, Vinashin là 2.600 tỷ đồng, Tổng công ty Sông Đà là 260 tỷ đồng, Công ty tài chính dầu khí (PVFC) là 365 tỷ đồng, Công ty CP đầu tư hạ tầng kỹ thuật TP. HCM (CII) huy động được 131,5 tỷ đồng, Công ty cổ phần May Nhà Bè là 36 tỷ đồng …Bên cạnh các DN trên, trong năm 2006, một số tổ chức tín dụng cũng đã tiến hành huy động vốn thông qua phát hành trái phiếu với quy mô lớn như: Ngân hàng Đầu tư – phát triển Việt Nam BIDV (5.000 tỷ đồng), Ngân hàng Nông nghiệp & phát triển nông thôn Việt Nam (5.000 tỷ đồng), Ngân hàng Phát triển nhà Đồng bằng sông Cửu Long – MHB (1.500 tỷ đồng), Ngân hàng Thương mại cổ phần Sài Gòn – SCB (1.000 tỷ đồng), Ngân hàng Thương mại cổ phần Quân Đội – MB (220 tỷ đồng)… Năm 2007, thị trường TPDN Việt Nam tiếp tục đà tăng trưởng mạnh mẽ cả về số lượng DN lẫn giá trị trái phiếu phát hành. Số lượng DN đã tiến hành huy động vốn thông qua kênh phát hành trái phiếu trong năm 2007 là khoảng 27 DN (bao gồm cả các NHTM) với tổng giá trị vốn huy động được vào khoảng 36.000 tỷ đồng. Trong số này có một số DN đã phát hành trái phiếu với quy mô khá lớn như: Vinashin (8.000 tỷ đồng), Công ty tài chính dầu khí PVFC (1.000 tỷ đồng), Tổng công ty xuất nhập khẩu và xây dựng Vinaconex (1.000 tỷ đồng), Tập đoàn công nghiệp than & khoáng sản Việt Nam – Vinacomin (1.500 tỷ đồng), Lilama (1.500 tỷ đồng), Tổng công ty thương mại Sài Gòn – Satra (1.000 tỷ đồng), Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam (BIDV) (3.000 tỷ đồng), Ngân hàng thương mại cổ phần Sài Gòn SCB (1.400 đồng), Ngân hàng thương mại cổ phần Á Châu (4.170 tỷ đồng), Techcombank (1.750 tỷ đồng)… Mặc dù trong năm 2008, thị trường tài chính nói chung và thị trường trái phiếu Việt Nam nói riêng không tránh khỏi ảnh hưởng từ khủng hoảng tài chính Thế giới nhưng xét trên tổng thể thì thị trường TPDN Việt Nam vẫn có những bước phát triển nhất định. Trong năm 2008, đã có một số DN lựa chọn giải pháp phát hành trái phiếu ra thị trường để huy động vốn. Công ty cổ phần Địa ốc Sài Gòn thương tín (Sacomreal) đã thực hiện 2 đợt phát hành vào tháng 2 và 3/2008 với tổng mệnh giá cả 2 đợt là 850 tỷ đồng. Trong tháng 02/2008, Ngân hàng thương mại cổ phần Á Châu cũng đã phát hành trái phiếu ra thị trường với tổng giá trị đạt 1.350 tỷ đồng. Tiếp nối thành công trong năm 2007, Công ty cổ phần Vincom cũng đã công bố phát hành thành công trái phiếu trong tháng 4/2008 với tổng mệnh giá đạt 2.000 tỷ đồng. Trong năm 2008 có 2 gương mặt mới lần đầu tiên xuất hiện trên thị trường TPDN là Công ty cổ phần Du lịch & thương mại Vinpearl (tháng 5/2008) và Công ty cổ phần Hoàng Anh Gia Lai (tháng 9/2008). Hai công ty này đã chính thức gia nhập thị trường TPDN bằng việc phát hành ra thị trường 1.000 tỷ đồng trái phiếu cho mỗi công ty trong năm 2008. Bên cạnh đó, một số DNNN cũng đã huy động được vốn từ thị trường TPDN trong năm 2008 như: Công ty tài chính dầu khí PVFC (1.500 tỷ đồng), Tập đoàn công nghiệp tàu thủy Việt Nam Vinashin (650 tỷ đồng), Tổng công ty đường cao tốc Việt Nam (VEC) được Chính phủ bảo lãnh cũng đã phát hành trái phiếu đạt 28% so với kế hoạch đề ra trong 2008. Tiếp đà phát triển, năm 2009, trên thị trường có khoảng 39 giao dịch phát hành TPDN với tổng khối lượng vốn huy động đạt gần 30.000 tỉ đồng. Đến năm 2010 có 45 giao dịch phát hành với tổng vốn huy động đạt gần 45.500 tỷ đồng. Năm 2011, tổng khối lượng phát hành TPDN đạt trên 6000 tỷ đồng, giảm 10% tổng giá trị phát hành năm 2010. Phần lớn các tổ chức phát hành là các DN vừa và nhỏ, sử dụng trái phiếu như sản phẩm thay thế cho khoản vay và người mua là tổ chức tín dụng không chào bán ra thị trường. Hoạt động trầm lắng của thị trường TPDN trong năm 2011 là do Chính phủ áp dụng chính sách tiển tệ và tài khóa thắt chặt tác động không nhỏ đến hoạt động sản xuất kinh doanh của DN và từ đó hạn chế khả năng phát hành trái phiếu. Hơn thế nữa trong năm qua hàng loạt quy định mới nhằm kiểm soát chặt chẽ hơn hoạt động phát hành TPDN được đưa ra cũng là yếu tố hạn chế lượng trái phiếu phát hành. Năm 2012, do tình hình sản xuất kinh doanh của các DN vẫn chưa được cải thiện, nhưng DN lại khó khăn trong việc tiếp cận với nguồn vốn tín dụng Ngân hàng. Do đó nhiều DN này quan tâm hơn tới kênh huy động vốn bằng phát hành TPDN. Thị trường trong nước, tổng khối lượng phát hành thực tế đạt được là 16.144 tỷ đồng. Trên thị trường quốc tê, Công ty cổ phần Vincom và Vietinbank đã phát hành thành công 550 triệu USD trái phiếu ra thị trường quốc tế. Biểu đồ 2.1: Khối lượng TPDN phát hành thành công từ 10/2011-10/2012 2.2.2. Tình hình giao dịch trái phiếu trên thị trường Hiện nay ở nước ta vẫn chưa có một thị trường trái phiếu riêng biệt. Cơ cấu TPDN trong thị trường trái phiếu doanh nghiệp Việt Nam vẫn còn khiêm tốn, năm 2012 chỉ chiếm khoảng 23%. Biểu đồ 2.2: Cơ cấu thị trường trái phiếu năm 2012 Đồng thời, các dịch vụ trên thị trường TPDN cũng ít hoắc hầu như kém phát triển. Chính vì thế, cho dù đến nay tuy thị trường phát hành trái phiếu đã có những bước phát triển nhưng tình hình giao dịch TPDN trên TTCK vẫn còn khá ảm đạm, chưa tương xứng với giá trị các TPDN đang niêm yết. Biểu đồ 2.3: Số vốn huy động qua TTCK giai đoạn 2007-2012 (Tỷ VNĐ) Do đó, trong thời điểm hiện nay, việc đưa ra biện pháp cho việc phát triển thị trường TPDN là rất cần thiết để có thể không những cải thiện về số lượng trái phiếu phát hành mà còn cả tính thanh khoản của nó, góp phần đưa thị trường TPDN trở thành kênh huy động vốn quan trọng. 2.3. Những hạn chế của thị trường trái phiếu doanh nghiệp Việt Nam 2.3.1. Hệ thống pháp luật và khung pháp lý chưa được hoàn chỉnh Hoạt động của thị trường TPDN nói riêng và TTCK nói chung cần phải diễn ra trong một khuôn khổ pháp lý hoàn chỉnh, được xây dựng trên nguyên tắc đảm bảo sự công bằng cho tất cả các đối tượng tham gia, ngăn chặn những hành vi gian lận, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người đầu tư. Thực tế hiện nay, hoạt động phát hành trái phiếu của mỗi nhóm DN được dựa trên cơ sở pháp lý khác nhau và chịu sự quản lý của các cơ quan quản lý khác nhau như Bộ tài chính (đối với các DNNN), Uỷ ban nhân dân tỉnh/thành phố (đối với các DN phát hành theo quy định của Luật DN), NHNN (đối với các tổ chức tín dụng) và Uỷ ban chứng khoán (đối với việc phát hành trái phiếu ra công chúng). Mặt khác, Luật pháp ở Việt Nam về chứng khoán và TTCK vẫn chưa có sự thống nhất và đầy đủ. Tình trạng phổ biến không chỉ tồn tại trong lĩnh vực chứng khoán mà trong cả nhiều lĩnh vực khác là các văn bản pháp quy còn chồng chéo, thậm chí là có những điểm mâu thuẫn. Ngoài ra, các đợt phát hành trái phiếu hiện nay được phê duyệt căn cứ theo năng lực của tổ chức phát hành nhưng lại không có quy định rõ ràng về tiêu chí để xác định năng lực trong các văn bản pháp luật, dẫn đến các tổ chức phát hành và các cơ quan phê duyệt tốn rất nhiều thời gian trong việc đàm phán và vì thế đã không khuyến khích được các DN tiềm năng tham gia. Có thể khẳng định hệ thống pháp luật điều chỉnh hoạt động của thị trường TPDN vẫn chưa được hoàn chỉnh. Vì lẽ đó thị trường sơ cấp kém phát triển dẫn đến thiếu hàng hóa cho thị trường thứ cấp. Đặc biệt nguồn cung trái phiếu bị hạn chế bởi đại đa số các DN Việt Nam là các DN vừa và nhỏ, ít có danh tiếng nên phương thức huy động vốn chủ yếu là vay vốn tín dụng Ngân hàng. 2.3.2. Cơ sở hạ tầng kém phát triển Ở thời điểm hiện tại, sự thiếu hoàn thiện về mặt cơ sở hạ tầng của thị trường TPDN thể hiện ở sự thiếu vắng hệ thống đấu giá cạnh tranh, hệ thống giao dịch thị trường sẵn sàng cung cấp các thông tin về giá và khối lượng theo thời gian thực, thiếu vắng hệ thống thanh toán bù trừ tiên tiến, hệ thống định mức tín nhiệm…Đây là một một điều kiện hết sức quan trọng khi các NĐT quyết định đầu tư vào một loại trái phiếu nào đó. Họ cần phải biết được mức độ rủi ro mà mình phải gánh chịu để có thể đồi hỏi một mức lãi suất hợp lý đối với trái phiếu họ đầu tư. Và đây cũng là một trong những lý do khiến cho TPDN Việt Nam vẫn chưa thực sự phát triển, có tính thanh khoản cao, các NĐT còn rất dè dặt khi tham gia vào thị trường mới mẻ này. 2.3.3. Thiếu vắng các nhà đầu tư và nhà tạo lập thị trường chuyên nghiệp Về phía công chúng, NĐT, do thói quen phổ biến trong nhiều năm là gửi tiền tiết kiệm vừa hưởng lãi vừ đảm bảo an toàn, hoặc mua vàng, ngoại tệ cất giữ. Việc đầu tư vào các công cụ trên TTCK nói chung và TPDN nói riêng còn rất mới mẻ, tâm lý ngại rủi ro do thiếu hiểu biết. Bên cạnh đó một quan niệm thường thấy ở NĐT, là đều coi TPDN như một khoản tiết kiệm hơn là một công cụ đầu tư nên họ thường nắm giữ trái phiếu đến khi đáo hạn để hưởng đủ lãi và gốc ban đầu của mình. Điều này làm hạn chế việc giao dịch, mua bán trao đổi trên thị trường thứ cấp, hay nói cách khác là làm cho thị trường thứ cấp rơi vào tình trạng đóng băng. Đồng thời, sự thành công của thị trường, phụ thuộc vào các NĐT có tổ chức (Công ty chứng khoán, NHTM, công ty bảo hiểm, các quỹ đầu tư…) chứ không phải là các NĐT cá nhân. Do họ có khả năng phân tích, và đầu tư chuyên nghiệp hơn. Còn đại đa số các NĐT nhỏ lẻ đầu tư theo tâm lý bầy đàn. Các NĐT tổ chức này cũng có thể là các nhà tạo lập thị trường, môi giới hay bảo lãnh. Hiện nay về cơ bản chúng ta đã hình thành một hệ thống các định chế tài chính trung gian tham gia giao dịch trên thị trường TPDN như các NHTM, công ty chứng khoán, công ty bảo hiểm, công ty tài chính, các quỹ đầu tư…Tuy nhiên do một số nguyên nhân mà sự tham gia của các định chế tài chính này còn nhiều hạn chế. Điều đó thể hiện ở việc thị trường chưa có NĐT thứ cấp thực sự, trong khi có quá nhiều thành viên đấu thầu và thành viên bảo lãnh phát hành. Hiện nay các thành viên tham gia thị trường chủ yếu gồm: các Ngân hàng, công ty bảo hiểm, các quỹ đầu tư… Dễ dàng nhận ở thị trường TPDN Việt Nam chưa thực sự có các nhà tạo lập thị trường và NĐT chuyên nghiệp, cơ cấu chưa thật sự đa dạng, chưa tham gia tích cực vào thị trường TPDN. CHƯƠNG 3 GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG TRÁI PHIẾU DOANH NGHIỆP VIỆT NAM 3.1. Định hướng phát triển thị trường trái phiếu doanh nghiệp trong thời gian tới 3.1.1. Kinh nghiệm phát triển thị trường trái phiếu của một số quốc gia Ở Mỹ, hầu hết các giao dịch đều diễn ra trên thị trường OTC, với khuynh hướng hiện tại là giao dịch thỏa thuận điện tử. Nhờ có cơ sở hạ tầng phát triển mà các giao dịch diễn ra thuận lợi, dễ dàng, minh bạch, tạo tâm lý yên tâm cho các NĐT. Từ năm 2002, Hiệp hội môi giới chứng khoán Mỹ đã có sự điều chỉnh nhằm làm minh bạch hóa giá cả trái phiếu giao dịch trên thị trường OTC. Những thay đổi này làm cho thị trường trái phiếu nói chung và TPDN Mỹ nói riêng ngày càng phát triển. Ở Australia, từ giữa những năm 1990, thị trường TPDN Australia đã phát triển rất nhanh chóng. Nguyên nhân là do: sự phát triển bền vững của nền kinh tế vĩ mô suốt những năm 1990; Australia đã trải qua một đợt bùng nổ bất động sản đến tận năm 2003, mà việc vay vốn tín dụng Ngân hàng truyền thống không huy động đủ nguồn vốn cho đầu từ, do đó có rất nhiều NĐT đâ tham gia vào thị trường TPDN, huy động vốn thông qua phát hành trái phiếu có đảm bảo bằng tài sản cầm cố. Đồng thời thị trường Australia cũng phát triển mạnh nhờ vào sự tồn tại của một thị trường ngoại hối hội nhập sâu và tính thanh khoản cao.Vì thị trường ngoại hối có phát triển sé giúp NĐT nước ngoài đầu tư vào trong nước, cũng như NĐT trong nước đầu tư ra nước ngoài yên tâm hơn, giảm thiểu rủi ro tỉ giá. Ở Hàn Quốc, thị trường trái phiếu nói chung và TPDN nói riêng cũng có những bước phát triển riêng. Nguyên nhân do thị trường trái phiếu Hàn Quốc đã có những thay đổi đáng chú ý như: Hiệp hội các nhà kinh doanh chứng khoán Hàn Quốc đã phát triển các chỉ số thị trường trái phiếu để giúp các thành viên tham gia thị trường dự báo biến động của thị trường và những rủi ro (như chỉ số khảo sát thị trường trái phiếu, chỉ số tập trung thị trường, và chỉ số rủi ro tín dụng thị trường); Hệ thống định mức tín nhiệm ngày càng trở nên quan trọng đối với thị trường trái phiếu Hàn Quốc, các tổ chức định mức tín nhiệm liên tục ra đời như tổ chức Định mức Tín nhiệm Dịch vụ cho các nhà đầu tư Hàn Quốc (Korea Investors Service – KIS) năm 1985, tổ chức Đánh giá Tín nhiệm và Thông tin Quốc gia (National Information and Credit Evaluation – NICE), Công ty Định mức Tín nhiệm và Quản trị Hàn Quốc (Korea Management and Credit Rating Corporation)… 3.1.2. Định hướng phát triển thị trưởng Trong khi Thế giới coi TPDN là kênh huy động vốn hữu hiệu thì DN Việt Nam vẫn chọn cách hút vốn truyền thống là vay vốn tín dụng Ngân hàng hoặc vốn ưu đãi của Nhà nước. Hiện nay, phát hành trái phiếu được các DN nước ngoài sử dụng là kênh huy động vốn hiệu quả bên cạnh việc phát hành cổ phiếu. Đây cũng là xu hướng chung phổ biến của các nền kinh tế phát triển trên thế giới. Tuy nhiên, tại thị trường Việt Nam, kênh huy động vốn này lại chỉ được Chính phủ và một số DN có quy mô vốn lớn sử dụng. Trong bối cảnh các NHTM gặp nhiều khó khăn, thị trường cổ phiếu thì không ổn định, thì phát triển thị trường TPDN là xu hướng tất yếu của thị trường tài chính Việt Nam trong thời gian tới. Thông qua phương thức huy động vốn này, DN sẽ huy động được nguồn vốn trực tiếp trên thị trường tài chính và đa dạng hóa cơ cấu vay của DN. Và nó sẽ trở thành một trong những kênh huy động vốn quan trọng và tiềm năng trong tương lai đáp ứng nhu cầu vốn phục vụ cho sự phát triển của nền kinh tế đồng thời sẽ làm giảm áp lực phải cung ứng vốn trung dài hạn của hệ thống NHTM. Tuy nhiên để đảm bảo một nền kinh tế phát triển bền vững, chúng ta không nên quá tập trung vào một hình thức huy động duy nhất mà phải bảo đảm sự cân đối, hài hòa giữa các nguồn huy động. Bởi lẽ, sự kết hợp giữa 3 hình thức huy động kể trên giống như một cái kiềng ba chân. Nếu một trong ba chân của cái kiềng bị “quá tải” hay tổn thương thì nó sẽ không đứng vững được. Nhu cầu phát triển xã hội ngày càng cao, nền kinh tế thị trường ngày càng phát triển tất yếu sẽ kéo theo sự phát triển của thị trường TPDN cả về quy mô và chất lượng; ngược lại khi thị trường TPDN phát triển sẽ tác động trở lại góp phần giúp cho nền kinh tế phát triển ổn định, đây là mối quan hệ tác động qua lại và mang tính tương hỗ. Với xu thế hội nhập nền kinh tế toàn cầu và xu hướng phát triển của nền kinh tế Việt Nam, với nhu cầu về vốn ngày càng lớn đặc biệt là nhu cầu vốn trung và dài hạn thì việc phát triển thị trường TPDN Việt Nam là một xu hướng tất yếu không thể bỏ qua. Và định hướng phát triển thị trường TPDN Việt Nam: phát triển thị trường TPDN phải phù hợp với thực tế, nhu cầu của DN và định hướng phát triển kinh tế - xã hội của đất nước; phát triển thị trường TPDN phải phối hợp đồng bộ với các bộ phận còn lại trên thị trường tài chính nhằm đảm bảo an toàn, hiệu quả góp phần huy động vốn cho đầu tư phát triển; tạo mọi điều kiện để thị trường phát triển, có chính sách khuyến khích các chủ thể tham gia vào thị trường. 3.1.3. Những khó khăn, thách thức gặp phải trong quá trình phát triển Trong quá trình phát triển của mình những khó khăn và thách thức thị trường TPDN Việt Nam gặp phải sẽ không ít: Thị trường trái phiếu Việt Nam còn non trẻ, hàng hóa chủ yếu trên thị trường này là TPCP, khung pháp lý cho việc hình thành thị trường chuyên buôn bán loại tài sản này cũng chưa đầy đủ, rõ ràng. Một thực tế thường hay xảy ra ở nước ta là tình trạng: “Mất bò mới lo làm chuồng”. Cụ thể, việc ban hành các chính sách, hướng dẫn còn chậm và thiếu đồng bộ không theo kịp sự phát triển của nền kinh tế. Tầm nhìn chiến lược của các cơ quan làm luật còn hạn chế, dẫn đến lúng túng chưa thể đối phó kịp thời với những biến động bất thường của nền kinh tế. Dẫn đến tình trạng khi thị trường tài chính đã bị ảnh hưởng rồi mới đề ra những giải pháp khắc phục. Việc ban hành luật còn nhiều bất cập, chưa đồng bộ. Cụ thể, luật chứng khoán được ban hành ngày 01/01/2007 nhưng sau ngày có hiệu lực thì DN phải chờ thông tư nghị định hướng dẫn thi hành thì DN mới thực hiện việc phát hành và giao dịch theo luật này. Do đó, DN thường lúng túng khi quyết định hình thức tài trợ vốn trung và dài hạn, phía NĐT thì lo lắng về quyền lợi của mình khi đầu tư vào trái phiếu. Sự phát triển mạnh của thị trường tài chính sẽ kéo theo hệ thống Ngân hàng ngày càng phát triển. Một thực tế là hiện nay hệ thống NHTM vẫn chủ yếu kinh doanh trên thị trường vốn tín dụng truyền thống và đó cũng là kênh cung ứng vốn chủ yếu cho nền kinh tế. Do đó, các DN thường không mặn mà với kênh huy động vốn bằng phát hành trái phiếu. Điều này làm nguồn cung trái phiếu bị hạn chế, ảnh hưởng đến sự phát triển thị trường TPDN. Việc cụ thể hóa mô hình, chính sách và giải pháp trong chiến lược phát triển TTCK còn chậm. Cơ chế quản lý DN, chế độ kế toán kiểm toán còn nhiều điểm chưa phù hợp thông lệ quốc tế, chưa có quy định chuẩn về công bố thông tin … TTCK Việt Nam còn hạn chế như vậy chắc chắn sẽ là rào cản cho sự phát triển của thị trường TPDN. Mặc dù, trong thời gian qua, thu nhập của người dân có tăng lên nhưng so với mặt bằng thế giới vẫn còn thấp. Nguồn tiền nhàn rỗi manh múng, nhỏ lẻ nên người dân thường có thói quen tích luỹ bằng cách mua vàng cất giữ hoặc gửi tiết kiệm. Với họ, khái niệm đầu tư vào TPDN là khá xa lạ. Hạn chế này khiến cho nguồn tiền nhàn rỗi trong dân cư thường chảy vào Ngân hàng là tất yếu, thị trường TPDN khó lôi kéo nhóm đối tượng này. Tóm lại, để thị trường TPDN trở thành kênh huy động vốn trung và dài hạn cho nền kinh tế, thì cần phải có những biện pháp thích hợp để phát triển thị trường TPDN. 3.2. Những giái pháp khuyến nghị nhằm phát triển thị trường trái phiếu 3.2.1. Nhóm giải pháp trước mắt 3.2.1.1. Giải pháp phát triển thị trường sơ cấp Xây dựng hệ thống pháp lý hiệu quả khuyến khích phát hành trái phiếu Bên cạnh các hình thức huy động vốn như vay Ngân hàng, phát hành cổ phiếu…, để đáp ứng nhu cầu về vốn ngày càng lớn của các DN trong thời kỳ hội nhập thì việc tài trợ vốn qua kênh phát hành trái phiếu có vai trò rất quan trọng. Tuy nhiên, hệ thống văn bản pháp luật hiện hành vẫn chưa thật sự hoàn thiện, đồng bộ và chặt chẽ nên chưa thu hút sự quan tâm đáng kể từ phía các DN. Do đó trong thời gian tới, cần tiếp tục khắc phục những hạn chế trong khung pháp lý, đơn giản hóa các tiêu chuẩn niêm yết trái phiếu để tạo điều kiện thuận lợi hơn cho các DN phát hành trái phiếu ra công chúng. Bên cạnh đó, cũng cần có một số biện pháp cụ thể để khuyến khích DN củng cố và nâng cao hình ảnh, uy tín, thương hiệu nhằm tiếp cận dễ dàng hơn với các NĐT. Chính sách tín dụng của NHNN cũng có tác động rất lớn đến việc lựa chọn hình thức huy động của các DN, qua đó cũng có ảnh hưởng đến sự phát triển của thị trường sơ cấp. Nếu NHNN thực hiện chính sách mở rộng tín dụng thì sẽ không khuyến khích DN phát hành trái phiếu vì khi đó khả năng tiếp cận vốn vay ngân hàng rất dễ dàng và không mất nhiều chí phí. Mặt khác, cần phải thực hiện một cách triệt để việc tạo lập một môi trường kinh doanh bình đẳng thực sự cho các DN thuộc mọi thành phần kinh tế ngay cả trong lĩnh vực tín dụng – ngân hàng mà điều trước tiên là phải hạn chế bớt các kênh bao cấp tín dụng, giảm bớt việc khoanh xóa nợ cho những đối tượng không thuộc chính sách, tránh tình trạng DN trông chờ ỷ lại vào nguồn vốn ngân sách, tín dụng ưu đãi và sự bảo lãnh của nhà nước. Trong thời gian đầu xây dựng và phát triển thị trường, cần có chế độ miễn giảm các loại thuế, phí và lệ phí phát hành (như miễn, giảm thuế thu nhập DN, phí lưu ký, phí niêm yết…) đối với các tổ chức phát hành trái phiếu ra công chúng. Nâng cao hoạt động kế toán – kiểm toán Nhờ đó cũng đồng thời tạo điều kiện pháp lý chuẩn cho hoạt động kế toán – kiểm toán, để nâng cao chất lượng trái phiếu được phát hành, tạo tâm lý yên tâm cho các NĐT. Việc từng bước hoàn thiện hệ thống kế toán – kiểm toán, tạo một khung pháp lý chuẩn cho hoạt động kế toán – kiểm toán là vấn đề có ý nghĩa tác động rất tích cực đối với sự phát triển của TTCK nói chung và thị trường TPDN nói riêng. Một hệ thống kế toán – kiểm toán hoàn chỉnh còn là một trong những yếu tố tạo thuận lợi cho việc chuyển từ chế độ quản lý theo chất lượng sang chế độ quản lý theo công bố thông tin đầy đủ trong tương lai, khi kiến thức và kinh nghiệm của các nhà đầu tư về TTCK được nâng cao. Để thực hiện được vấn đề này, cần tiến hành một số công việc cụ thể như sau: Công bố hệ thống chuẩn mực kế toán Việt Nam đầy đủ và phù hợp với thông lệ quốc tế và được quốc tế công nhận, làm cơ sở cho việc ghi chép kế toán và lập báo cáo tài chính được các tổ chức quốc tế như WB, ADB, IMF và nhà đầu tư nước ngoài chấp nhận. Hoàn chỉnh hệ thống chuẩn mực kiểm toán Việt Nam phù hợp với thông lệ quốc tế và được quốc tế công nhận làm cơ sở cho các kiểm toán viên kiểm tra tính trung thực và hợp lý của báo cáo tài chính, phục vụ các tổ chức tài chính và nhà đầu tư nước ngoài. Phát triển mạnh mẽ về số lượng, quy mô và nâng cao chất lượng hoạt động của các công ty dịch vụ kế toán – kiểm toán trong nước. Tạo điều kiện thuận lợi để các công ty kiểm toán nước ngoài hoạt động một cách bình đẳng với công ty kiểm toán trong nước, tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh, thúc đẩy các công ty trong nước nâng cao chất lượng và tiếp cận kinh nghiệm cũng như kỹ năng kiểm toán quốc tế để có thể nhanh chóng hội nhập với hoạt động kiểm toán quốc tế. Hoàn thiện các quy trình đào tạo, thi tuyển, đăng ký hành nghề kế toán – kiểm toán, tăng cường quản lý hoạt động, kiểm soát chất lượng dịch vụ và đạo đức nghề nghiệp của kiểm toán viên. Đa dạng hóa các loại trái phiếu doanh nghiệp Trái phiếu DN phát hành trong thời gian qua còn tương đối đơn điệu, chưa đáp ứng được nhu cầu đa dạng của NĐT. Việc đa dạng hóa các hình thức trái phiếu có ý nghĩa rất quan trọng, do nó có khả năng khai thác tối đa mọi nguồn vốn trong xã hội, mở ra nhiều hình thức trái phiếu cho các NĐT lựa chọn để phù hợp với từng điều kiện nhất định và làm phong phú về hàng hóa cho TTCK. Để tăng tính hấp hấp dẫn của trái phiếu, DN có thể lựa chọn phát hành trái phiếu dưới các hình thức như: trái phiếu đa thời hạn (là trái phiếu có nhiều ngày đáo hạn khác nhau tính từ ngày phát hành đến thời hạn lưu hành cuối cùng của trái phiếu), trái phiếu chiết khấu, trái phiếu chuyển đổi, trái phiếu có lãi suất thả nổi, trái phiếu có lãi suất đảm bảo bằng vàng hay lãi suất thực được đảm bảo dương trong trường hợp lạm phát cao… Với trái phiếu chuyển đổi, sau một thời gian xác định, loại trái phiếu này được quyền chuyển đổi thành cổ phiếu với một tỷ lệ nhất định. Khi đó, cơ cấu vốn của DN sẽ thay đổi từ nợ sang vốn chủ sở hữu, các trái chủ sẽ được chuyển đổi thành cổ đông và được quyền hưởng các thu nhập thặng dư của DN trong kinh doanh. Ngoài ra, DN còn có thể phát hành trái phiếu thanh toán từng phần - là loại trái phiếu mà DN thực hiện thanh toán từng phần nợ của trái phiếu theo thời gian. Loại trái phiếu này sẽ tăng thêm độ an toàn cho người sở hữu trái phiếu. Hoặc DN cũng có thể phát hành trái phiếu kèm quyền mua cổ phiếu với giá ưu đãi. 3.2.1.2. Giải pháp phát triển thị trường thứ cấp Xây dựng hệ thống giao dịch hệ thống giao dịch chuyên biệt cho thị trường trái phiếu doanh nghiệp Tính chất của giao dịch trái phiếu khác với giao dịch cổ phiếu. Phương thức giao dịch trái phiếu thường thiên về thỏa thuận chứ không phải khớp lệnh. Người sử dụng hệ thống thường là NĐT cuối cùng, vì vậy nhu cầu thỏa thuận trực tiếp là rất cao. Hệ thống thường pha trộn giữa hệ thống thỏa thuận với hệ thống tra cứu thông tin có kèm các công cụ phân tích. Thông thường, nếu không đáp ứng được yêu cầu này, hệ thống sẽ không phát huy hiệu quả. Sự pha trộn giữa giao dịch trái phiếu và giao dịch cổ phiếu như hiện nay sẽ cản trở sự phát triển của giao dịch trái phiếu và làm giảm tính thanh khoản của thị trường. Do đó, cần phải xây dựng một hệ thống giao dịch chuyên biệt và hiệu quả cho thị trường trái phiếu nói chung và thị trường TPDN nói riêng để tăng tính thanh khoản của thị trường. Đây là việc làm hết sức cần thiết, gắn liền với sự phát triển của nền kinh tế và những cải cách trong từng giai đoạn phát triển của thị trường vốn, phù hợp với chiến lược phát triển thị trường vốn Việt Nam trong những năm tới. Phát triển thị trường phi tập trung (OTC) Bên cạnh thị trường giao dịch tập trung, hầu hết các nước trên thế giới đều có cơ chế cho hoạt động của thị trường giao dịch phi tập trung (OTC). Đây là thị trường giao dịch những chứng khoán chưa niêm yết hoặc chưa đủ điều kiện niêm yết trên thị trường tập trung. TPDN đáp ứng đầy đủ các yêu cầu kỹ thuật, ngoài việc được niêm yết và giao dịch tại Sở giao dịch chứng khoán còn được giao dịch trên thị trường OTC, giá cả và khối lượng giao dịch đều được thực hiện trên cơ sở thỏa thuận giữa các tổ chức kinh doanh trái phiếu. Đối với các loại TPDN chưa đáp ứng được các điều kiện để được niêm yết giao dịch trên Sở giao dịch chứng khoán sẽ được giao dịch mua bán trên thị trường OTC, ở đây TPDN được mua bán trực tiếp giữa các công ty chứng khoán, NĐT và chủ sở hữu trái phiếu. Vì vậy, việc phát triển thị trường giao dịch phi tập trung cùng với việc hoàn thiện khuôn khổ pháp lý và cơ chế hoạt động cho thị trường này đã trở thành nhu cầu cấp thiết hiện nay. Thực tế trong thời gian qua, quy mô thị trường OTC đã có sự tăng trưởng mạnh cả về giá trị giao dịch lẫn số lượng DN tham gia, một phần vì tâm lý e ngại giao dịch trên sàn chính thức của các DN, một phần vì hầu hết DN Việt Nam có quy mô nhỏ và vừa nên chưa đủ điều kiện niêm yết trên thị trường tập trung. Tuy nhiên, thị trường OTC vẫn chưa có cơ chế quản lý chặt chẽ, vì vậy quyền và lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư vẫn chưa được đảm bảo và còn tiềm ẩn nhiều rủi ro. Do vậy cần phải có những chính sách nhằm phát triển thị trường OTC một cách hợp lý. Phát triển các định chế tài chính trung gian, các nhà đầu tư chuyên nghiệp và các nhà tạo lập thị trường Theo kinh nghiệm của nhiều nước cho thấy, muốn phát triển mạnh mẽ thị trường trái phiếu nói chung và thị trường TPDN nói riêng, điều đặc biệt quan trọng là phải phát triển các NĐT có tổ chức, bao gồm các công ty chứng khoán, NHTM, công ty bảo hiểm, quỹ đầu tư… Đối với các NĐT cá nhân, việc mua TPDN thường nhằm mục đích chủ yếu là hưởng lãi ổn định, nhu cầu mua bán rất ít. Đối với các NĐT có tổ chức, việc mua bán trái phiếu còn có mục đích tăng khối lượng quản lý tài chính hoặc tài sản trong danh mục đầu tư. Thông qua hoạt động kinh doanh của mình, các NĐT có tổ chức đóng vai trò là nhà tạo lập thị trường, nâng cao tính thanh khoản và thúc đẩy hoạt động thị trường thứ cấp phát triển. Vì vậy, trong thời gian tới, cần đặc biệt quan tâm phát triển các NĐT có tổ chức, tạo môi trường thuận lợi cho việc hình thành các quỹ đầu tư. Đặc biệt, cần tập trung phát triển các định chế tài chính phi ngân hàng như các công ty bảo hiểm, quỹ hưu trí, công ty đầu tư, phát triển thêm nhiều loại hình quỹ đầu tư và công ty quản lý quỹ (quỹ đầu tư mạo hiểm, quỹ đầu tư trái phiếu, công ty quản lý quỹ công chúng và công ty quản lý quỹ thành viên). Để đảm bảo cho sự phát triển ổn định của thị trường, đặc biệt là các đợt phát hành trái phiếu, cần thiết phải xây dựng một hệ thống bao gồm các nhà phân phối chính và những khách hàng lớn tham gia đấu thầu phát hành. Đối với thị trường TPDN thì các định chế tài chính trung gian đóng vai trò rất quan trọng trong quá trình phát triển thị trường. Sự có mặt của các tổ chức này góp phần quan trọng trong việc tạo ra cung chứng khoán thông qua hoạt động tư vấn, hỗ trợ hoặc bảo lãnh cho nhà phát hành. Mặt khác các định chế tài chính trung gian còn thúc đẩy cầu chứng khoán thông qua chức năng quản lý vốn và tư vấn đầu tư cho các tổ chức và cá nhân, nhất là các NĐT nhỏ và ít hiểu biết. Trong tương lai, các định chế tài chính như công ty tài chính, quỹ đầu tư, công ty bảo hiểm, các NHTM sẽ là những nhà đầu tư lớn và là những thành viên tham gia thường xuyên trên thị trường thực hiện các nghiệp vụ bảo lãnh phát hành trái phiếu. Vì vậy các định chế tài chính này phải không ngừng được hoàn thiện, ngày càng chuyên nghiệp hóa. 3.2.2. Nhóm giải pháp dài hạn 3.2.2.1. Sự cần thiết của tổ chức xếp hạng tín nhiệm Ngày nay, hầu hết TTCK trên thế giới đều tồn tại ít nhất một tổ chức định mức tín nhiệm, một phần là do xu thế của thời đại, nhưng phần lớn là do vai trò quan trọng của tổ chức định mức tín nhiệm trên thị trường tài chính. Hiện nay Việt Nam đã có TTCK, song hoạt động của các tổ chức định mức tín nhiệm vẫn còn rất hạn chế và chưa chuyên nghiệp. Với xu thế toàn cầu hóa, hội nhập kinh tế quốc tế và tự do hóa tài chính thì việc khuyến khích phát triển các tổ chức định mức tín nhiệm chuyên nghiệp tại Việt Nam hiện nay là vấn đề hết sức cấp thiết. Do ý nghĩa quan trọng của tổ chức định mức tín nhiệm đối với sự phát triển của TTCK nói chung và thị trường TPDN nói riêng, để khuyến khích phát triển các tổ chức định mức tín nhiệm chuyên nghiệp, cần thực hiện các biện pháp sau: Ngoài việc tạo hành lang pháp lý, các điều kiện khác cũng có vai trò quyết định đối với sự ra đời của tổ chức định mức tín nhiệm chuyên nghiệp như quy mô thị trường phải đạt kích cỡ đủ lớn với sự đa dạng các hàng hóa trên thị trường, phải có một số lượng NĐT nhất định để tạo ra nhu cầu định mức tín nhiệm… Tổ chức định mức tín nhiệm muốn được các chủ thể tham gia thị trường thừa nhận và tồn tại thì bản thân nó phải là một tổ chức hoạt động độc lập, không thiên vị, có năng lực về kỹ thuật và có khả năng tiếp cận được với những thông tin đáng tin cậy của tổ chức được định mức. Trong thời gian đầu có thể nghiên cứu xây dựng mô hình tổ chức định mức tín nhiệm là công ty cổ phần. Để thực sự phát huy tính độc lập của tổ chức định mức tín nhiệm được tổ chức theo mô hình cổ phần, cơ cấu sở hữu của tổ chức này phải do nhiều chủ thể nắm giữ. Tuy nhiên, Việt Nam nên thực hiện cơ cấu nắm giữ cổ phần theo hướng không một chủ thể nào nắm giữ đa số và không một chủ thể nào nắm quyền chi phối đối với việc hình thành và hoạt động của tổ chức định mức tín nhiệm. Tổ chức định mức tín nhiệm theo mô hình công ty cổ phần hoàn toàn không giới hạn số lượng cổ đông, cổ đông có thể vừa là pháp nhân vừa là thể nhân. Tuy nhiên, cần thu hút sự tham gia của những cổ đông có uy tín trên thị trường tài chính trong và ngoài nước. Hợp tác quốc tế trọng việc thành lập tổ chức định mức tín nhiệm tại Việt Nam. Đây là một trong những điều kiện tiên quyết để phát triển ngành định mức tín nhiệm trong nước. Việc hỗ trợ về mặt kỹ thuật, tài chính, đào tạo sẽ hình thành nên những đảm bảo uy tín đối với NĐT. Trong thời gian đầu, do quy mô nhỏ nên khó có thể liên kết với những công ty lớn, vì vậy Việt Nam cũng nên tính đến khả năng có thể liên kết với các tổ chức định mức tín nhiệm khu vực Đông Á, đặc biệt là khu vực Đông Nam Á. Việc hình thành tổ chức định mức tín nhiệm dưới hình thức liên doanh sẽ tạo thuận lợi trong việc mở rộng quy mô hoạt động dưới mọi loại hình dịch vụ, đảm bảo chất lượng xếp hạng tín nhiệm trong thị trường nội địa, từng bước thâm nhập vào thị trường quốc tế, đảm bảo bảo hoạt động của tổ chức định mức tín nhiệm phù hợp với thông lệ quốc tế, nâng dần uy tín của tổ chức định mức tín nhiệm Việt Nam. 3.2.2.2. Phát triển hệ thống Ngân hàng trong vai trò hỗ trợ cho sự phát triển của thị trường trái phiếu doanh nghiệp Giữa thị trường TPDN và sự phát triển của hệ thống Ngân hàng tồn tại mối quan hệ phức tạp. Với thực tế Việt Nam, mối quan hệ này mang tính tác động một chiều từ phía NHTM nhiều hơn. Do mối cạnh tranh tiềm ẩn, sự phát triển của hệ thống Ngân hàng có thể có một phần tác động khống chế thị trường TPDN, tuy nhiên, khi thị trường TPDN phát triển hơn, tác động một chiều sẽ giảm và khuynh hướng cạnh tranh tăng dần. Mà khi có sự cạnh tranh giữa hai thị trường này sẽ buộc các thị trường phải phát huy hết tiềm năng của mình, thúc đẩy nhau cùng phát triển. Do đó, chúng ta cần xem xét phân tích mối quan hệ này để có những quyết sách phù hợp. Theo xu hướng của các doanh nghiệp khi lựa chọn nguồn vốn, trong điều kiện bình thường, các công ty lớn và có uy tín thường lựa chọn phát hành trái phiếu trong khi các công ty nhỏ, ít danh tiếng trên thị trường thường có xu hướng lựa chọn vốn vay ngân hàng. Do đó trong dài hạn, thị trường Việt Nam nên định hướng hệ thống Ngân hàng thiên về tín dụng cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ đồng thời phát triển thị trường TPDN với sự tham gia tích cực và năng động hơn của các định chế tài chính phi Ngân hàng. Hiện nay, một số Ngân hàng và các tổ chức tài chính đang định hướng phát triển theo mô hình ngân hàng đa năng, sự hấp dẫn của thị trường chứng khoán cũng thu hút nhiều định chế tài chính khác đặc biệt là các NHTM vào xu hướng này. Mô hình Ngân hàng đa năng này đã rất thành công và tạo điều kiện cho sự phát triển của thị trường TPDN ở các nước có thị trường tài chính phát triển ở mức cao. Do đó khi thị trường tài chính Việt Nam phát triển đến một mức độ nào đó có thể xem xét đến giải pháp trên. KẾT LUẬN Thị trường trường TPDN là một bộ phận quan trọng và không thể tách rời của thị trường tài chính. Nó thể hiện vai trò của mình là một kênh huy động vốn hữu hiệu, giảm bớt gánh nặng cho những kênh huy động vốn còn lại trên thị trường tài chính. Tăng nguồn vốn cho đầu tư phát triển của các DN, góp phần phát triển kinh tế. Vì vậy việc phát triển thị trường TPDN ở Việt Nam là một vấn đề bức thiết của nền kinh tế, cung như nhu cầu vốn đầu tư phát triển của các DN, nhất là trong giai đoạn cạnh tranh ngày càng gay gắt. Trong điều kiện của Việt Nam, những điều kiện cần thiết, những yếu tố cơ sở cho sự phát triển thị trưởng TPDN còn thiếu và yếu, đòi hỏi sự tham gia tích cực của nhiều thành phần bao gồm cả chính phủ, các DN, các NĐT và những chủ thể liên quan cùng đóng góp và xây dựng thị trường. Trong đó, vai trò của chính phủ là hết sức quan trọng. Trong giai đoạn đầu phát triển thị trường TPDN, chính phủ vừa là cơ quan tạo lập những cơ sở nền tảng cho sự phát triển của thị trường, vừa khuyến khích sự tham gia của các chủ thể liên quan.Với thực tế nền kinh tế Việt Nam trong giai đoạn hiện nay gặp rất nhiều khó khăn, đòi hỏi cơ quan quản lý nhà nước cần phải cân nhắc thật kỹ càng, giải quyết các vấn đề một cách thấu đáo thì mới có thể giúp thị trường TPDN phát triển đúng tầm của mình. Với đề tài “ Thị trường trái phiếu doanh nghiệp Việt Nam và giải pháp phát triển”, một lĩnh vực phức tạp đòi hỏi phải có sự nghiên cứu sâu rộng, mặc dù đã cố hết sức nhưng với trình độ hạn chế và kinh nghiệm còn ít, nội dung đề tài không tránh khỏi những thiếu sót. Rất mong được sự góp ý của cô. Em xin chân thành cảm ơn! TÀI LIỆU THAM KHẢO GS.TS Trần Đăng Khâm, Giáo trình Thị trường chứng khoán, NXB Đại học Kinh tế Quốc dân, 2008. PGS.TS Nguyễn Hữu Tài, Giáo trình lý thuyết tài chính tiền tệ, NXB Đại học Kinh tế Quốc dân, 2009. Ngị định 90/2011/NĐ-CP về phát hành trái phiếu doanh nghiệp. Ngân hàng Thế giới: Ngân hàng Nhà nước Việt Nam: Tổng cục Thống kê: Tạp chí Tài chính: Trang thông tin chứng khoán: MỤC LỤC BẢNG CHỮ VIẾT TẮT Chữ viết tắt Tên đầy đủ Ý nghĩa NĐT Nhà đầu tư Nhà đầu tư TPCP Trái phiếu chính phủ Trái phiếu chính phủ TPDN Trai phiếu doanh nghiệp Trái phiếu doanh nghiệp DN Doanh nghiệp Doanh nghiệp DNNN Doanh nghiệp nhà nước Doanh nghiệp nhà nước NHTM Ngân hàng thương mại Ngân hàng thương mại TNHH Trách nhiệm hữu hạn Trách nhiệm hữu hạn OTC Over-The-Counter Chứng khoán phi tập trung TTCK Thị trường chứng khoán Thị trướng chứng khoán NHNN Ngân hàng nhà nước Ngân hàng nhà nước WB Word bank Ngân hàng thế giới OECD Organization for Economic Cooperation and Development Tổ chức Hợp tác Kinh tế và Phát triển ADB Asian Development Bank Ngân hàng phát triển Châu Á IMF International Monetary Fund Quỹ Tiền tệ Quốc tê DANH MỤC SƠ ĐỒ, BẢNG BIỂU Bảng 2.1: Tăng trưởng kinh tế khu vực Đông Á và Thái Bình Dương 16 Bảng 2.2: Tình hình nợ năm 2011-2012 16 Biểu đồ 2.1: Khối lượng TPDN phát hành thành công từ 10/2011-10/2012 16 Biểu đồ 2.2: Cơ cấu thị trường trái phiếu năm 2012 16 Biểu đồ 2.3: Số vốn huy động qua TTCK giai đoạn 2007-2012 (Tỷ VNĐ) 16

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docde_an_da_sua_cua_tuan_9537.doc