Thủ tục rút gọn trong tố tụng hình sự Việt Nam

MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Nghị quyết số 08 – NQ/TW của Bộ chính trị ngày 02/01/2002 về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới đã nêu rõ: “ Nghiên cứu để quy định và thực hiện thủ tục tố tụng rút gọn đối với những vụ án đơn giản, phạm tội quả tang, chứng cứ rõ ràng, hậu quả ít nghiêm trọng ”. Thể chế hoá Nghị quyết của Đảng, Bộ luật tố tụng hình sự (BLTTHS) năm 2003 đã xây dựng một chương mới (chương XXXIV) gồm 7 điều, từ Điều 318 đến Điều 324 quy định về thủ tục rút gọn, đánh dấu bước phát triển mới của tố tụng hình sự Việt Nam. Tuy nhiên, những quy định của BLTTHS năm 2003 về thủ tục rút gọn (TTRG) lại có nhiều điểm chưa hợp lý, một số quy định còn chung chung, chưa cụ thể, rõ ràng trong khi hiện nay chưa có một văn bản nào hướng dẫn áp dụng các quy định này, do đó hiệu quả áp dụng trong thực tế không cao, chưa đạt được mục đích mà BLTTHS đề ra khi quy định áp dụng thủ tục này. Cùng với công cuộc đổi mới toàn diện đất nước trên mọi lĩnh vực trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền và hội nhập quốc tế, Nghị quyết số 48 – NQ/TW ngày 25/5/2005 về Chiến lược xây dựng hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020 và Nghị quyết số 49 – NQ/TW ngày 02/6/2005 về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 đã chỉ rõ việc cần phải tiếp tục sửa đổi, bổ sung nhằm tiếp tục hoàn thiện BLTTHS, nâng cao chất lượng công tác điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự của các cơ quan tiến hành tố tụng. Những quy định của BLTTHS về TTRG cần phải được nghiên cứu, sửa đổi bổ sung để đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng chống tội phạm được nhanh chóng, kịp thời, không để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội. Mặt khác, Bộ luật hình sự (BLHS) năm 1999 đã phân hóa tội phạm thành bốn loại tội khác nhau, tính chất phức tạp của các vụ án hình sự cũng khác nhau, do đó việc BLTTHS năm 2003 quy định các hình thức tố tụng khác nhau để giải quyết là hoàn toàn hợp lý và có cơ sở khoa học. Một chế định về TTRG trong pháp luật tố tụng hình sự đầy đủ, hoàn thiện và hợp lý hiện nay vẫn là một yêu cầu với các nhà lập pháp nước ta. Tuy nhiên những nghiên cứu toàn diện về TTRG trong tố tụng hình sự Việt Nam lại chưa nhiều. Các quan điểm khoa học về TTRG trong tố tụng hình sự chưa thống nhất. Ý kiến hoàn thiện pháp luật về TTRG còn theo nhiều chiều hướng khác nhau do xuất phát từ các phương diện nghiên cứu khác nhau. Với những lý do trên, luận văn thạc sỹ với đề tài: “ Thủ tục rút gọn trong tố tụng hình sự Việt Nam” mong muốn đưa ra một cái nhìn cơ bản và toàn diện về thủ tục rút gọn trong tố tụng hình sự Việt Nam. 2. Tình hình nghiên cứu Là một thủ tục tố tụng tiến bộ với nhiều ưu điểm được BLTTHS năm 2003 quy định trên cơ sở kế thừa và phát huy những quy định trước đây, TTRG được các nhà nghiên cứu, các nhà hoạt động thực tiễn quan tâm và nghiên cứu. Có thể chia các công trình nghiên cứu về TTRG thành ba nhóm lớn sau: Nhóm luận văn, luận án, đề tài nghiên cứu khoa học: trong nhóm các công trình nghiên cứu này phải kể đến Luận văn thạc sỹ Luật học “ Thủ tục rút gọn trong pháp luật tố tụng hình sự - Những vấn đề lý luận và thực tiễn”, Hà Nội, 2001 của Nguyễn Minh Quang; Luận văn thạc sỹ Luật học “ Thủ tục rút gọn trong tố tụng hình sự Việt Nam”, Hà Nội, 2004 của Nguyễn Văn Hiển; Trường Đại học Luật Hà Nội “ Thủ tục đặc biệt trong tố tụng hình sự” đề tài nghiên cứu khoa học cấp trường năm 2008 . Các công trình nghiên cứu này đã đề cập đến sự cần thiết phải xây chế định TTRG trong pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam và các vấn đề cơ bản của TTRG. Tuy nhiên, những công trình nghiên cứu này mới chỉ dừng lại ở các vấn đề mang tính lý luận mà chưa đề cập đến thực tiễn áp dụng thủ tục này. Nhóm giáo trình, sách bình luận chuyên khảo về vấn đề này gồm có cuốn sách “ Thủ tục rút gọn trong pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam”, NXB Tư pháp, Hà Nội 2004 của tác giả Nguyễn Văn Hiển. Giáo trình Luật tố tụng hình sự Việt Nam, Đại học Luật Hà Nội, Nhà xuất bản Công an nhân dân, 2009; Bình luận khoa học Bộ luật hình sự năm 2003, PGS.TS Võ Khánh Vinh (chủ biên), Nhà xuất bản Công an nhân dân, 2004 Các công trình trên mới chỉ dừng lại ở việc phân tích, bình luận các quy định của BLTTHS năm 2003 về TTRG và cũng chưa đề cập đến thực tiễn áp dụng các quy định này. Nhóm các bài báo, tạp chí chuyên ngành luật: trong nhóm này có thể kể đến các bài viết như: “Thủ tục rút gọn trong Bộ luật tố tụng hình sự ” của TS. Khuất Văn Nga và ThS. Trần Đại Thắng (Tạp chí Kiểm sát số 7/2004); “Thủ tục rút gọn” của tác giả Đỗ Văn Chỉnh (Tạp chí Toà án nhân dân (TAND) số 11 tháng 6/2004); “Thủ tục rút gọn trong tố tụng hình sự từ sự quy định của pháp luật tới thực tiễn áp dụng” của PGS.TS Phạm Hồng Hải (Tạp chí Kiểm sát số 4/2006); “Về thủ tục rút gọn và những bất cập trong thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử” của tác giả Lê Quốc Thể (Tạp chí TAND số 13 tháng 7/2007); “Bàn về phạm vi, điều kiện và thẩm quyền áp dụng thủ tục rút gọn theo quy định BLTTHS năm 2003” của ThS. Nguyễn Văn Quảng (Tạp chí Nhà nước và pháp luật số 5/2008); “Giải quyết án hình sự theo thủ tục rút gọn - Thực trạng và những kiến nghị đề xuất” của tác giả Nguyễn Văn Quảng (Tạp chí Nhà nước và pháp luật số 7/2008); “ Hoàn thiện thủ tục rút gọn đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp” của TS. Nguyễn Đức Mai (Tạp chí TAND số 15 tháng 8/2008), “Hoàn thiện các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự về thủ tục rút gọn đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp” của ThS. Nguyễn Văn Quảng (Tạp chí Kiểm sát số 18&20 tháng 9&10 /2008); “Một số ý kiến về thủ tục rút gọn trong tố tụng hình sự” của tác giả Trần Quốc Văn (Tạp chí Kiểm sát số 13 tháng 7/2009); “ Những vướng mắc khi áp dụng thủ tục rút gọn trong tố tụng hình sự và một số kiến nghị” của TS. Phạm Minh Tuyên (Tạp chí TAND số 1 tháng 1/2011) Các bài viết kể trên đã đề cập đến các vấn đề cơ bản của TTRG, một số ít bài viết đề cập đến thực tiễn áp dụng cũng như những bất cập, vướng mắc khi giải quyết án hình sự theo thủ tục này tuy nhiên cũng chỉ mới dừng lại ở phạm vi một số địa phương. Như vậy, hiện nay chưa có một công trình khoa học nào nghiên cứu một cách toàn diện, chuyên sâu, đầy đủ và có hệ thống về TTRG trên cả hai phương diện lý luận và thực tiễn. Các công trình nghiên cứu chủ yếu tập trung vào quy định của pháp luật tố tụng hình sự về TTRG, thực tiễn thi hành ít được quan tâm nghiên cứu. 3. Mục đích nghiên cứu và nhiệm vụ nghiên cứu Mục đích nghiên cứu của đề tài là thông qua việc nghiên cứu lý luận và thực tiễn về TTRG trong pháp luật tố tụng hình sự, tìm ra những bất cập trong quy định về TTRG của BLTTHS năm 2003 nhằm đề xuất một số kiến nghị hoàn thiện quy định của BLTTHS về TTRG và một số giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng thủ tục này trong tố tụng hình sự. Nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài được xác định như sau: - Nghiên cứu, làm rõ những vấn đề lý luận về thủ tục rút gọn như: khái niệm thủ tục rút gọn, ý nghĩa của thủ tục rút gọn - Nghiên cứu và đánh giá các quy định của BLTTHS năm 2003 về TTRG; - Đánh giá thực tiễn thi hành quy định của BLTTHS năm 2003 về thủ tục rút gọn; xác định nguyên nhân của thực trạng đó. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài Đối tượng nghiên cứu Nhằm đạt được mục đích nghiên cứu và hoàn thành các nhiệm vụ đặt ra trong đề tài, đối tượng nghiên cứu của luận văn gồm: - Những vấn đề lý luận về TTRG trong tố tụng hình sự. - Những quy định về TTRG theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam và một số nước trên thế giới. - Thực tiễn áp dụng TTRG trong tố tụng hình sự Việt Nam. Phạm vi nghiên cứu Với những đối tượng nghiên cứu nêu trên, phạm vi nghiên cứu đề tài được xác định như sau: - Những quy định về TTRG trong BLTTHS năm 2003 của Việt Nam và một số nước trên thế giới. - Thực tiễn thi hành quy định của BLTTHS năm 2003 về TTRG từ năm 2006 đến năm 2010. 5. Phương pháp nghiên cứu Đề tài nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận, quan điểm duy vật lịch sử, duy vật biện chứng của Chủ nghĩa Mác – Lênin, quan điểm của Đảng và Nhà nước về cải cách tư pháp. Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu khoa học như: phương pháp phân tích, so sánh, tổng hợp, thống kê, lịch sử, phương pháp kết hợp giữa lý luận và thực tiễn để làm sáng tỏ những vấn đề cần nghiên cứu. 6. Những đóng góp mới của luận văn - Luận văn đã làm sáng tỏ những dấu hiệu đặc trưng của TTRG trong tố tụng hình sự, xây dựng khái niệm về TTRG, nêu lên mục đích, ý nghĩa của TTRG góp phần thống nhất nhận thức về vấn đề này. - Luận văn đã phân tích các quy định của pháp luật tố tụng hiện hành về TTRG, thực tiễn áp dụng TTRG trong thời gian qua, đưa ra những nhận xét, đánh giá, xác định nguyên nhân của thực trạng áp dụng TTRG, xác định những bất cập trong các quy định của pháp luật về TTRG cần được hoàn thiện, những vướng mắc trong việc áp dụng TTRG cần được giải quyết. - Luận văn đưa ra những kiến nghị, đề xuất nhằm hoàn thiện quy định của BLTTHS năm 2003 về TTRG và những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng thủ tục này trong thực tiễn. - Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo phục vụ cho công tác đào tạo, nghiên cứu khoa học và những người quan tâm đến vấn đề này. 7. Kết cấu của luận văn Luận văn bao gồm: phần mở đầu, phần nội dung và kết luận; danh mục tài liệu tham khảo; danh mục từ viết tắt. Phần nội dung của luận văn gồm hai chương: Chương 1: Khái quát chung về thủ tục rút gọn trong tố tụng hình sự Việt Nam. Chương 2: Thực tiễn áp dụng thủ tục rút gọn và một số giải pháp nâng cao hiệu quả việc áp dụng thủ tục rút gọn trong tố tụng hình sự Việt Nam.

doc70 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 4172 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Thủ tục rút gọn trong tố tụng hình sự Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
iểm sát cấp huyện thực hiện tăng thẩm quyền theo quy định của BLTTHS vẫn còn nhiều khó khăn chưa được tháo gỡ, như: có nơi chưa có trụ sở, thiếu phương tiện làm việc” [42]. Thiếu quy chế phối hợp giữa các cơ quan tiến hành tố tụng trong việc điều tra , truy tố, xét xử đối với những vụ án có đủ điều kiện để giải quyết theo thủ tục rút gọn. Để việc giải quyết một số loại án hình sự theo TTRG được nhanh chóng, kịp thời, đảm bảo chất lượng và thời hạn luật định đòi hỏi các cơ quan tiến hành tố tụng phải phối hợp chặt chẽ, đồng bộ với nhau. Tuy nhiên, cho đến nay, vẫn chưa có một quy chế riêng thống nhất về vấn đề này. Do đó, phần nào hạn chế hiệu quả việc áp dụng TTRG trong thực tiễn. 2.3 Những giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng thủ tục rút gọn trong thực tiễn tố tụng hình sự. Thủ tục rút gọn là một tiến bộ trong pháp luật tố tụng hình sự. Tuy nhiên, qua nghiên cứu các quy định cụ thể tại chương XXXIV cho thấy: quy định còn chung chung, chưa đầy đủ, rõ ràng; thời hạn giải quyết vụ án hình sự theo TTRG thì rút lại quá ngắn; thủ tục giản lược không đáng kể, không có văn bản hướng dẫn cụ thể về vấn đề này. Nghiên cứu thực tiễn thì cho thấy, thủ tục này được áp dụng rất ít, lượng án xét xử theo TTRG hàng năm trong cả nước không đạt đến 1%, tuy lượng án hàng năm vẫn có chiều hướng tăng (năm 2006 thụ lý 62.166 vụ, năm 2007 thụ lý 64.381 vụ, năm 2008 thụ lý 63.004 vụ, năm 2009 thụ lý 66.919) nhưng tỷ lệ giải quyết án theo TTRG lại có chiều hướng giảm dần. Việc đưa ra các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng TTRG trong thực tiễn là một yêu cầu cấp thiết, trong đó các giải pháp về sửa đổi, bổ sung nhằm hoàn thiện TTRG trong tố tụng hình sự, tăng cường công tác hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật, tăng cường trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, kỹ năng, kinh nghiệm của đội ngũ cán bộ làm công tác pháp luật, cơ sở vật chất, phương tiện làm việc của các cơ quan tiến hành tố tụng, ban hành quy chế đồng thời tăng cường mối quan hệ phối hợp giữa các cơ quan tiến hành tố tụng, giữa các bộ phận trong từng cơ quan …là những giải pháp cơ bản cần được thực hiện ngay trong thời gian tới. 2.3.1. Hoàn thiện quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 về thủ tục rút gọn. Một là, mở rộng phạm vi áp dụng thủ tục rút gọn Theo Điều 318 và khoản 5 Điều 324 BLTTHS thì TTRG chỉ áp dụng đối với việc điều tra, truy tố, xét xử sơ thẩm. Việc xét xử phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm đối với vụ án đã xét xử sơ thẩm theo TTRG được tiến hành theo thủ tục chung. Tác giả luận văn đồng tình với quan điểm cho rằng: nên quy định áp dụng TTRG trong việc xét xử phúc thẩm đối với các vụ án trước đó đã xét xử sơ thẩm theo TTRG, tuy nhiên cần xác định hợp lý các điều kiện cần có của các vụ án có thể áp dụng thủ tục này và chỉ áp dụng khi có đủ những điều kiện đó, hạn chế áp dụng đối với những vụ án phức tạp, không còn đủ điều kiện áp dụng TTRG [9;10;11;27]. Như đã phân tích ở mục 1.3.1.1, việc BLTTHS năm 2003 quy định không áp dụng TTRG trong xét xử phúc thẩm là bó hẹp phạm vi áp dụng của thủ tục này. Áp dụng TTRG trong xét xử phúc thẩm đối với những vụ án trước đó đã áp dụng TTRG để giải quyết là cần thiết. Bởi lẽ, vụ án đã áp dụng TTRG để giải quyết có tính chất đơn giản, rõ ràng cho phép việc xét xử phúc thẩm được nhanh chóng mà không cần phải mất nhiều thời gian xem xét, vì trong giai đoạn sơ thẩm nếu vụ án có những tình tiết làm cho vụ án trở nên phức tạp thì các cơ quan tiến hành tố tụng ở cấp sơ thẩm đã không áp dụng thủ tục này để giải quyết vụ án nữa. Hơn nữa, nếu ở cấp sơ thẩm có sai lầm thì việc làm rõ để sửa chữa những sai lầm đó cũng không mất nhiều thời gian do những điều kiện áp dụng TTRG cho phép nhanh chóng xác định các tình tiết thực tế của nó. Mặt khác, nếu có sự vi phạm nghiêm trọng quy định của BLTTHS, Hội đồng xét xử phúc thẩm có thể hủy bản án, quyết định sơ thẩm để điều tra, xét xử lại theo thủ tục thông thường [9]. Tuy nhiên nếu áp dụng TTRG trong việc xét xử phúc thẩm thì cũng cần phải xác định những điều kiện cần thiết để áp dụng thủ tục này vì: sau khi xét xử sơ thẩm do có kháng cáo, kháng nghị mà tính chất của vụ án có thể trở nên phức tạp hơn, ví dụ như: trường hợp VKS kháng nghị do việc điều tra, xét hỏi tại phiên tòa sơ thẩm phiến diện hoặc không đầy đủ, hoặc do kết luận của bản án quyết định hình sự sơ thẩm không phù hợp với các tình tiết khách quan của vụ án, hoặc do có vi phạm nghiêm trong việc áp dụng BLHS thể hiện sự bất đồng quan điểm giữa VKS với Toà án trong việc xem xét, đánh giá chứng cứ và giải quyết vụ án về nội dung thực chất của vụ án; trường hợp Viện kiểm sát kháng nghị do “ thành phần Hội đồng xét xử không đúng luật định hoặc có vi phạm nghiêm trọng khác về thủ tục tố tụng” cũng làm cho việc xét xử phúc thẩm trở nên phức tạp vì việc đánh giá hoạt động xét xử của toà án cấp dưới có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng hay không để huỷ án là việc cần tiến hành một cách thận trọng theo thủ tục chung; trường hợp kháng cáo mà đơn kháng cáo của người kháng cáo cũng dựa vào những căn cứ như Viện kiểm sát đã kháng nghị để thể hiện sự không đồng ý với phán quyết của toà thì cũng phải xét xử vụ án theo thủ tục chung; trường hợp bản án, quyết định bị kháng cáo, kháng nghị theo nhiều nội dung và hướng khác nhau thì cũng làm cho việc xét xử phúc thẩm phức tạp vì có nhiều quan điểm trái chiều nhau về cách giải quyết vụ án của toà án cấp sơ thẩm; trường hợp Viện kiểm sát, người kháng cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến kháng cáo, kháng nghị, người bào chữa, người bảo vệ quyền lợi của đương sự bổ sung chứng cứ mới tại phiên toà mà việc bổ sung chứng cứ mới này làm cho vụ án trở nên phức tạp thì cũng không áp dụng thủ tục phúc thẩm rút gọn để giải quyết. Hơn nữa, nếu tiến hành áp dụng TTRG đối với tất cả các vụ án trước đó đã áp dụng TTRG ở cấp sơ thẩm có kháng cáo, kháng nghị có thể dẫn đến tình trạng có nhiều trường hợp Toà án cấp phúc thẩm sẽ phải huỷ bản án, quyết định sơ thẩm đề điều tra hoặc xét xử lại theo thủ tục chung do tính chất phức tạp của vụ án, kéo dài và làm phức tạp thêm trình tự tố tụng [11]. Từ những phân tích trên, cần sửa đổi, bổ sung Điều 318, Điều 324 BLTTHS năm 2003 theo hướng mở rộng phạm vi áp dụng thủ tục này, quy định rõ về thủ tục xét xử phúc thẩm rút gọn với các nội dung: điều kiện áp dụng; thẩm quyền quyết định áp dụng; thời hạn phiên toà phúc thẩm; thủ tục phiên toà phúc thẩm như sau: Điều 318. Phạm vi áp dụng TTRG Thủ tục rút gọn đối với việc điều tra, truy tố, xét xử sơ thẩm, phúc thẩm được áp dụng theo quy định của chương này, đồng thời theo những quy định khác của Bộ luật không trái với những quy định của chương này. Điều 324. Xét xử ................... 5. Trong thời hạn bảy ngày, kể từ ngày nhận được hồ sơ vụ án, theo đề nghị của Thẩm phán được phân công xét xử phúc thẩm Chánh án ra quyết định xét xử vụ án theo thủ tục phúc thẩm rút gọn nếu vụ án có đầy đủ những điều kiện sau: - Vụ án trước đó đã được xét xử theo thủ tục rút gọn; - Bị cáo đã nhận tội tại phiên toà hình sự sơ thẩm; - Chỉ có kháng cáo của bị cáo hoặc người đại diện hợp pháp của bị cáo, kháng cáo của người bị hại theo hướng giảm nhẹ mức hình phạt cho bị cáo; - Viện kiểm sát không kháng nghị, những người tham gia tố tụng khác không kháng cáo; - Thẩm phán được phân công xét xử phúc thẩm qua việc nghiên cứu hồ sơ hoàn toàn nhất trí là bản án sơ thẩm đúng hoặc có thể giảm nhẹ mức hình phạt trong khung hình phạt mà toà án đã tuyên; - Bị cáo hoặc người đại diện hợp pháp của họ đồng ý xét xử phúc thẩm theo thủ tục rút gọn. 6. Quyết định xét xử theo thủ tục phúc thẩm rút gọn phải được gửi cho Viện kiểm sát, bị cáo hoặc người đại diện hợp pháp của bị cáo trong thời hạn 24h kể từ khi ra quyết định. 7. Trong thời hạn bảy ngày, kể từ ngày ra quyết định xét xử vụ án theo thủ tục phúc thẩm rút gọn, toà án phải mở phiên toà phúc thẩm để xét xử vụ án. 8. Việc xét xử phúc thẩm theo thủ tục rút gọn do một Thẩm phán và một Thư ký tiến hành, có sự tham gia của Kiểm sát viên Viện kiểm sát cùng cấp. 9. Phiên toà phúc thẩm rút gọn được tiến hành công khai, không cần sự có mặt của bị cáo và những người tham gia tố tụng khác, giản lược một số thủ tục tố tụng không cần thiết như: tóm tắt nội dung, quyết định của bản án sơ thẩm, thẩm vấn,… Hai là, mở rộng đối tượng áp dụng thủ tục rút gọn Điều 319 BLTTHS quy định TTRG chỉ được áp đối với những vụ án có đủ các điều kiện: người thực hiện hành vi phạm tội bị bắt quả tang; sự việc phạm tội đơn giản, chứng cứ rõ ràng; tội phạm đã thực hiện là tội phạm ít nghiêm trọng; người phạm tội có căn cước, lai lịch rõ ràng. Các điều kiện trên được xây dựng trên cơ sở kế thừa các quy định của pháp luật trước đây, về cơ bản là hợp lý và khả thi. Tuy nhiên, vẫn còn có những vấn đề cần sửa đổi, bổ sung cho hoàn thiện hơn. Thứ nhất, về mặt thuật ngữ sử dụng trong Điều 319 BLTTHS năm 2003. Tại khoản 1 và khoản 3 Điều 319 BLTTHS sử dụng thuật ngữ “ người thực hiện hành vi phạm tội”, “người phạm tội” là không phù hợp với nguyên tắc “ Không ai bị coi là có tội và phải chịu hình phạt khi chưa có bản án kết tội của Toà án đã có hiệu lực pháp luật” quy định tại Điều 10 BLTTHS. Hai thuật ngữ này nên được sửa bằng thuật ngữ “bị can” cho đúng với tư cách tố tụng của họ [12]. Tác giả luận văn hoàn toàn đồng ý với quan điểm này vì tại thời điểm VKS xem xét để áp dụng TTRG thì người mà VKS áp dụng TTRG đối với họ chưa phải là người có tội, sử dụng thuật ngữ “bị can” vừa chính xác, vừa đúng với tư cách tố tụng của họ, đồng thời đảm bảo nguyên tắc tố tụng, tránh những định kiến của cơ quan tiến hành tố tụng đối với bị can có thể dẫn đến những sai lầm trong việc xác định sự thật vụ án, đảm bảo quyền công dân… Việc sử dụng thuật ngữ “căn cước, lai lịch” tại khoản 4 Điều 319 BLTTHS cũng chưa hoàn toàn chính xác. Theo Từ điển Hán Việt “ căn cước” là “đặc điểm của mỗi người về họ, tên, ngày và nơi sinh, quê quán, cha mẹ, nhận dạng”, “ lai lịch” là “nguyên do và quá trình phát triển”[9]. Thuật ngữ “căn cước, lai lịch” hiện nay hầu như không còn được sử dụng, thay vào đó người ta dùng thuật ngữ “lý lịch”. Theo từ điển Hán Việt “ Lý lịch là bản ghi lai lịch và công việc đã làm của một ngươi từ khi mới lớn lên” [9]. Một trong những đòi hỏi của kỹ thuật lập pháp là ngôn ngữ sử dụng phải trong sáng, dễ hiểu nên việc sử dụng thuật ngôn ngữ “ căn cước, lai lịch” không còn phù hợp. Yếu tố mà nhà làm luật muốn làm rõ ở đây là các đặc điểm nhân thân của bị can, thuật ngữ “lý lịch” là đủ để cơ quan tố tụng hiểu các yếu tố phải đảm bảo rõ ràng khi xem xét áp dụng TTRG để giải quyết vụ án. Thứ hai, cần bổ sung thêm một số điều kiện để có thể mở rộng hơn nữa các trường hợp áp dụng TTRG. Về điều kiện “người thực hiện hành vi phạm tội bị bắt quả tang”. Như đã phân tích ở phần 1.3.1.3, việc quy định điều kiện người thực hiện hành vi phạm tội bị bắt quả tang là bó hẹp so với thực tiễn. Bởi thực tiễn cho thấy điều kiện nêu trên không phải là một tiêu chí quyết định cơ sở của việc áp dụng TTRG, điều kiện này còn là rào cản rất lớn làm hạn chế việc áp dụng TTRG. Vì người thực hiện hành vi phạm tội bị bắt quả tang chỉ là một yếu tố chứng minh hành vi phạm tội của người đó là rõ ràng. Tuy nhiên, trong thực tế đấu tranh phòng chống tội phạm hiện nay càng ngày càng ít hành vi bị bắt quả tang, nếu có thì chủ yếu là hành vi trộm cắp tài sản. Do đó, theo chúng tôi để TTRG phát huy trong thực tiễn cần sửa đổi điều kiện này theo hướng mở rộng cả ra các trường hợp người thực hiện hành vi phạm tội tự thú, đầu thú. Vấn đề cơ bản ở đây là trong các trường hợp người phạm tội tự thú, đầu thú khai nhận hành vi của mình phù hợp với những chứng cứ và tài liệu khác, từ đó có đầy đủ cơ sở để xác định sự kiện phạm tội, có nghĩa là sự kiện phạm tội được thể hiện đầy đủ và rõ ràng. Đây chính là điều kiện cơ bản để áp dụng thủ tục điều tra, truy tố, xét xử một cách nhanh chóng. Về điều kiện “ tội phạm đã thực hiện là tội phạm ít nghiêm trọng”. BLHS năm 2009 có 149/267 điều luật có quy định về tội phạm ít nghiêm trọng (chiếm khoang 55%). Tuy nhiên không phải tất cả các tội phạm ít nghiêm trọng đều có thể áp dụng TTRG vì còn phụ thuộc vào các điều kiện khác, đặc biệt là điều kiện “ sự việc phạm tội đơn giản, chứng cứ rõ ràng”. Thực tế có nhiều vụ án thuộc loại tội ít nghiêm trọng nhưng lại phức tạp trong việc thu thập, đánh giá chứng cứ như các tội gây rối trật tự công cộng, các tội xâm phạm hoạt động tư pháp…Do vậy, số lượng án ít nghiêm trọng được áp dụng TTRG để giải quyết là rất hạn chế. Trong khi đó tội phạm nghiêm trọng chiếm khoảng ¼ các điều luật trong BLHS năm 2009 và có rất nhiều tội danh có thể áp dụng được TTRG. Thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử có nhiều vụ án thuộc loại tội nghiêm trọng nhưng tính chất vụ án lại rất đơn giản, rõ ràng, đối tượng phạm tội khai báo thành khẩn có thể sớm kết thúc việc giải quyết vụ án nhưng không thể áp dụng TTRG vì pháp luật tố tụng hiện hành không cho phép. Mặt khác, hiện nay Tòa án nhân dân cấp huyện đã được tăng thẩm quyền, theo đó các cơ quan tiến hành tố tụng cấp huyện phải thụ lý giải quyết các tội phạm đến 15 năm tù (chiếm khoảng 80% tội phạm trong BLHS) trong đó số lượng lớn là các vụ án nghiêm trọng và ít nghiêm trọng. Do đó, nếu không tăng cường áp dụng TTRG để giải quyết các vụ án nghiêm trọng, ít nghiêm trọng khi đủ điều kiện sẽ không thúc đẩy nhanh được quá trình phát hiện và xử lý tội phạm ở cấp huyện. Về vấn đề này, nhiều nhà khoa học pháp lý cũng đã có những nghiên cứu và kiến nghị mở rộng đối tượng áp dụng đến các tội phạm nghiêm trọng [5;10;25] Những người làm công tác thực tiễn (ĐTV, KSV, Thẩm phán) cũng có kiến nghị mở rộng điều kiện áp dụng TTRG tạo điều kiện thuận lợi cho việc áp dụng thủ tục này trên thực tế. Bốn điều kiện nêu trên về cơ bản là hợp lý và khả thi. Tuy nhiên, theo quan điểm của nhiều nhà nghiên cứu pháp luật hiện nay thì cần bổ sung thêm điều kiện “ bị can đồng ý (hoặc không phản đối) việc áp dụng TTRG”. Khi đưa ra quan điểm này, những nhà nghiên cứu cho rằng: TTRG với việc rút ngắn thời gian và giản lược một số thủ tục tố tụng nên phần nào ảnh hưởng đến quyền của bị can, bị cáo, đặc biệt là quyền bào chữa và sẽ là không công bằng nếu một người thực hiện hành vi phạm tội ít nghiêm trọng, tính chất đơn giản, rõ ràng lại bị xử lý theo một thủ tục ít nhiều mang tính hạn chế hơn so với những trường hợp phạm tội nghiêm trọng, phức tạp [5]. Mặt khác, theo quy định tại khoản 3 Điều 320 BLTTHS, bị can hoặc người đại diện hợp pháp của họ có quyền khiếu nại quyết định áp dụng TTRG, thời hiệu khiếu nại là ba ngày, kể từ ngày nhận được quyết định. Khiếu nại được gửi đến VKS đã ra quyết định áp dụng TTRG và phải được giải quyết trong thời hạn ba ngày, kể từ ngày nhận được khiếu nại. Quy định này đã phần nào bảo đảm quyền lợi của bị can và người đại diện hợp pháp của họ có quyền của mình đối với việc áp dụng TTRG, tuy nhiên đó không phải là quyền chủ động lựa chọn của bị can và người đại diện hợp pháp của họ. Điều luật quy định quyền khiếu nại của bị can nhưng không quy định rõ VKS phải giải quyết như thế nào, do đó có thể hiểu nội dung khiếu nại của bị can có thể được chấp nhận hoặc không được chấp nhận. Trong trường hợp chấp nhận khiếu nại VKS huỷ quyết định áp dụng TTRG và vụ án được chuyển sang giải quyết theo thủ tục chung. Trong trường hợp không chấp nhận khiếu nại, vụ án vẫn được giải quyết theo TTRG thì khả năng bị cáo hoặc người đại diện hợp pháp của họ kháng cáo bản án sơ thẩm là rất cao vì khi bị cáo và đại diện hợp pháp của họ đã không chấp nhận TTRG thì thông thường họ cũng sẽ tận dụng quyền kháng cáo của mình để phản đối kết quả xét xử nói riêng cũng như kết quả của quá trình tố tụng theo TTRG nói chung. Hậu quả pháp lý của việc kháng cáo dẫn đến việc phải xét xử phúc thẩm vụ án theo thủ tục chung, nếu Toà án cấp phúc thẩm huỷ bản án sơ thẩm để điều tra, xét xử lại cũng được tiến hành theo thủ tục chung. Như vậy, trong cả hai trường hợp chấp nhận hoặc không chấp nhận khiếu nại về quyết định áp dụng TTRG cũng đều có thể dẫn đến hậu quả vụ án phải chuyển sang thủ tục chung, làm cho thủ tục giải quyết vụ án trở nên phức tạp và kéo dài hơn so với việc áp dụng thủ tục chung để giải quyết ngay từ đầu [12]. Pháp luật tố tụng hình sự của một số nước trên thế giới khi quy định về điều kiện áp dụng TTRG cũng coi việc bị can, bị cáo đồng ý lựa chọn thủ tục đặc biệt là điều kiện bắt buộc. Tại Điều 462 – 2 BLTTHS Nhật Bản quy định: Yêu cầu của công tố viên yêu cầu toà giản lược ra lệnh xử phạt theo thủ tục giản lược phải kèm theo văn bản đồng ý của người bị tình nghi [46]. Điều 314 BLTTHS Liên bang Nga quy định: bị can có quyền tuyên bố đồng ý với nội dung buộc tội họ và yêu cầu ra bản án mà không tiến hành xét xử và việc đưa ra yêu cầu là tự nguyện [47]. Với những lý giải nêu trên, tác giả luận văn hoàn toàn đồng ý với quan điểm: sẽ là hợp lý hơn nếu như thay vì quy định cho bị can và đại diện hợp pháp của họ có quyền khiếu nại quyết định áp dụng TTRG bằng quy định chỉ áp dụng TTRG khi bị can và đại diện hợp pháp của họ đồng ý lựa chọn giải quyết vụ án bằng TTRG. Trước khi quyết định áp dụng TTRG, CQĐT thông báo cho bị can và đại diện hợp pháp của họ việc trường hợp vụ án có thể áp dụng TTRG, giải thích cho họ về thủ tục này và quyền của họ trong việc lựa chọn việc áp dụng thủ tục chung hay TTRG để giải quyết vụ án mà trong đó mình là bị can [12]. Từ những sự phân tích trên, có thể sửa đổi, bổ sung Điều 319 như sau: 1. Bị can bị bắt quả tang hoặc ra tự thú, đầu thú; 2. Sự việc phạm tội đơn giản, chứng cứ rõ ràng; 3. Tội phạm đã thực hiện là tội phạm ít nghiêm trọng, nghiêm trọng; 4. Bị can có lý lịch rõ ràng; 5. Bị can và đại diện hợp pháp của họ đồng ý lựa chọn áp dụng thủ tục rút gọn. Ba là, mở rộng thẩm quyền quyết định áp dụng thủ tục rút gọn. Theo như quy định tại khoản 1 điều 320 BLTTHS, chỉ có VKS là có thẩm quyền ra quyết định áp dụng TTRG. Nghiên cứu về vấn đề này có quan điểm cho rằng quy định như vậy là hợp lý và “phù hợp với quy định về chức năng nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân” [5[. Tuy nhiên cũng có quan điểm cho rằng cần trao thẩm quyền quyết định áp dụng TTRG cho CQĐT, VKS có quyền yêu cầu hoặc tự mình ra quyết định áp dụng TTRG khi CQĐT không áp dụng [17; 25]. Tác giả luận văn hoàn toàn đồng tình với quan điểm cần mở rộng thẩm quyền quyết định áp dụng TTRG. Bởi lẽ: CQĐT là cơ quan trực tiếp tiến hành điều tra ngay từ đầu, có điều kiện nắm bắt nội dung vụ án nhanh chóng và đầy đủ hơn VKS, do đó sẽ thuận tiện hơn cho việc điều tra xác định các điều kiện áp dụng TTRG một cách kịp thời. Nếu CQĐT ra quyết định áp dụng TTRG thì chính ĐTV sẽ phải có trách nhiện hơn trong việc điều tra để đảm bảo thời hạn luật định. Hơn nữa việc quy định chỉ có VKS mới có quyền quyết định áp dụng TTRG, CQĐT chỉ có quyền đề nghị không những không giản lược được thủ tục tố tụng mà còn làm phức tạp thêm. Pháp luật của các nước quy định thẩm quyền quyết định áp dụng TTRG cũng có sự mở rộng chứ không bó hẹp như ở Việt Nam, ví dụ như: BLTTHS của Trung Quốc (Điều 174), BLTTHS của Liên bang Nga (Điều 314) quy định thẩm quyền áp dụng thủ tục rút gọn do Tòa án quyết định; BLTTHS Pháp, BLTTHS Hàn Quốc, BLTTHS Nhật Bản quy định thẩm quyền áp dụng thủ tục này do Công tố viên thuộc Viện công tố quyết định. BLTTHS Nhật Bản còn có quy định trong giai đoạn xét xử phúc thẩm, thẩm quyền áp dụng thủ tục phúc thẩm bút lục do Tòa án quyết định (Điều 408); Bộ luật tố tụng hình sự năm 1995 của Tây Úc quy định thẩm quyền quyết định áp dụng thủ tục rút gọn để giải quyết vụ án hình sự thuộc về Cảnh sát viên giữ quyền công tố nhà nước. Từ thực tiễn và kinh nghiệm của các nước cho thấy tố tụng hình sự Việt Nam cần mở rộng thẩm quyền áp dụng cho các cơ quan tiến hành tố tụng khác, không nên bó hẹp như quy định hiện nay. Về thời điểm ra quyết định áp dụng TTRG: “Sau khi khởi tố vụ án, theo đề nghị của Cơ quan điều tra hoặc xét thấy vụ án có đủ các điều kiện quy định tại điều 319 của Bộ luật này, Viện kiểm sát có thể ra quyết định áp dụng thủ tục rút gọn trong thời hạn 24 giờ kể từ khi nhận được văn bản đề nghị của Cơ quan điều tra” (khoản 1 điều 320 BLTTHS). Như vậy, thời điểm ra quyết định áp dụng TTRG là sau khi khởi tố vụ án, tức là ngay sau khi khởi tố vụ án, chưa có quyết định khởi tố bị can, CQĐT đề nghị và VKS có thể ra quyết định áp dụng TTRG ngay. Tuy nhiên, khoản 2 điều 320 BLTTHS lại quy định “quyết định áp dụng thủ tục rút gọn phải được gửi cho Cơ quan điều tra và bị can hoặc người đại diện hợp pháp của họ trong thời hạn 24 giờ, kể từ khi ra quyết định áp dụng thủ tục rút gọn”, theo quy định này chúng ta có thể hiểu trong thời hạn 24 giờ, kể từ khi ra quyết định áp dụng TTRG thì CQĐT ra quyết định khởi tố bị can và VKS hoàn thành việc phê chuẩn quyết định này [8], cũng có thể hiểu quyết định khởi tố bị can có trước quyết định áp dụng TTRG [14]. Như vậy, cùng một điều luật nhưng lại có nhiều cách hiểu khác nhau vì quy định tại khoản 1, khoản 2 Điều 320 là chưa rõ ràng và thiếu thống nhất. Trong trường hợp áp dụng TTRG để giải quyết vụ án, thường thì CQĐT ra quyết định khởi tố bị can ngay sau hoặc đồng thời với quyết định khởi tố vụ án vì vụ án phạm tội quả tang, ít nghiêm trọng, sự việc phạm tội đơn giản, chứng cứ rõ ràng. Để điều luật được hiểu thống nhất chúng tôi nhất trí với quan điểm nên quy định rõ ràng thời điểm ra quyết định áp dụng TTRG là sau khi khởi tố vụ án, khởi tố bị can [9]. Điều 320 có thể sửa như sau: “ Điều 320. Quyết định áp dụng thủ tục rút gọn 1. Sau khi khởi tố vụ án, khởi tố bị can, Cơ quan điều tra ra quyết định áp dụng thủ tục rút gọn để tiến hành điều tra khi có đủ các điều kiện quy định tại điều 319 của Bộ luật này, Viện kiểm sát có thể yêu cầu Cơ quan điều tra hoặc tự mình ra quyết định áp dụng thủ tục rút gọn. Trường hợp Viện kiểm sát ra quyết định áp dụng thủ tục rút gọn thì phải gửi quyết định đó cho Cơ quan điều tra trong thời hạn 24 giờ. 2. Quyết định áp dụng thủ tục rút gọn phải được gửi cho bị can hoặc người đại diện hợp pháp của họ trong thời hạn 24 giờ, kể từ khi ra quyết định áp dụng thủ tục rút gọn. Bốn là, tăng thời hạn giải quyết vụ án theo thủ tục rút gọn. Một trong những nguyên nhân khiến TTRG không đạt được hiệu quả như mong đợi là do áp lực về thời hạn tố tụng quá lớn, đặc biệt là trong giai đoạn điều tra. Khoản 1 Điều 321 BLTTHS quy định: thời hạn điều tra theo thủ tục rút gọn là 12 ngày, kể từ ngày ra quyết định khởi tố. Đây là một thời hạn rất ngắn, trong khi đó để có thể hoàn thành hồ sơ vụ án, đưa ra quyết định đề nghị truy tố gửi VKS, CQĐT phải tiến hành nhiều hoạt động điều tra như: xác minh lý lịch của bị can, trích lục và xác minh tiền án, tiền sự (nếu có), ra quyết định tạm giam, xin lệnh phê chuẩn của VKS, lấy lời khai của bị can, người bị hại, người làm chứng, định giá tài sản và giải quyết các vấn đề liên quan khác như xử lý vật chứng, yêu cầu bồi thường thiệt hại…Trước đó để áp dụng TTRG, CQĐT phải đề nghị VKS xem xét quyết định áp dụng TTRG. Như vậy, thời hạn điều tra theo TTRG thì rút ngắn rất nhiều so với thời hạn điều tra thông thường trong khi thủ tục tố tụng trong giai đoạn điều tra thì giản lược rất ít (chỉ có khi kết thúc điều tra, cơ quan điều tra không phải làm bản kết luận điều tra mà ra quyết định truy tố).. Thực tế, thời hạn theo quy định hiện nay là áp lực lớn đối với giai đoạn điều tra, tiếp đến là giai đoạn truy tố, ở giai đoạn xét xử sơ thẩm, vì thời hạn quy định cho giai đoạn này là mười bốn ngày, dài hơn so với giai đoạn điều tra và truy tố nên thực tiễn áp dụng cũng không có nhiều vướng mắc lớn. Do đó, quy định về thời hạn tố tụng này cần được nghiên cứu sửa đổi. Chúng tôi kiến nghị tăng thêm thời hạn điều tra và thời hạn truy tố, giữ nguyên thời hạn xét xử sơ thẩm vì thời hạn xét xử sơ thẩm theo quy định hiện hành là mười bốn ngày là hợp lý. Tổng số thời hạn điều tra, truy tố, xét xử là 45 ngày [25]. Mặt khác, về thời hạn tạm giam để điều tra truy tố, khoản 3 Điều 322 quy định: thời hạn tạm giam để điều tra, truy tố không được quá mười sáu ngày”, quy định như trên dẫn đến áp dụng không thống nhất, có nơi CQĐT ra lệnh tạm giam mười sáu ngày cho cả điều tra và truy tố, có nơi CQĐT ra lệnh tạm giam mười hai ngày, VKS ra lệnh tạm giam bốn ngày [43]. Do đó, theo ý kiến của chúng tôi, quy định về tạm giam để điều tra và truy tố cần được tách bạch rõ ràng và có hướng dẫn để thống nhất thực hiện. Khoản 1 Điều 321 có thể được sửa như sau: “1. Thời hạn điều tra theo thủ tục rút gọn không quá hai mươi lăm ngày, kể từ ngày ra quyết định khởi tố vụ án” Khoản 1 điều 323 có thể được sửa như sau: “1. Trong thời hạn sáu ngày, kể từ ngày nhận được hồ sơ vụ án, Viện kiểm sát phải ra một trong những quyết định sau đây:…” Khoản 3 điều 322 có thể được sửa như sau: “3. Thời hạn tạm giam để điều tra là không quá hai mươi lăm ngày, để truy tố là không quá sáu ngày”. Ngoài ra, theo quy định tại chương XXXIV thì một số loại thời hạn như: thời hạn VKS phải gửi hồ sơ và quyết định truy tố đến Tòa án, thời hạn giao quyết định truy tố, thời hạn giao quyết định đưa vụ án ra xét xử chưa được đề cập đến, gây khó khăn vướng mắc trong quá trình áp dụng. Nếu áp dụng thời hạn gửi hồ sơ và quyết định truy tố theo quy định chung thì không hợp lý. Vì theo quy định chung “ trong thời hạn ba ngày, kể từ ngày ra quyết định truy tố bằng Bản cáo trạng, Viện kiểm sát phải gửi hồ sơ và Bản cáo trạng đến Tòa án” (Khoản 3 Điều 166 BLTTHS). Trong khi đó, thời hạn để VKS ra quyết định truy tố theo TTRG là bốn ngày, nếu áp dụng khoản 3 Điều 166 BLTTHS là không hợp lý. Nếu áp dụng thời hạn giao quyết định truy tố theo thủ tục chung cũng không hợp lý. Vì theo quy định chung: “trong thời hạn ba ngày, kể từ ngày ra bản cáo trạng truy tố bị cáo trước Tòa án, Viện kiểm sát phải giao bản cáo trạng cho bị can (Khoản 1 Điều 166 BLTTHS). Cũng như trường hợp trên, thời hạn để VKS ra quyết định truy tố theo TTRG là bốn ngày, nếu áp dụng khoản 1 Điều 166 BLTTHS để giao bản truy tố cho bị can là vi phạm thời hạn tố tụng. Mặt khác, việc giao hồ sơ vụ án không có biên bản giao nhận quyết định truy tố cho bị can thì Tòa án không nhận hồ sơ, nếu Tòa án vẫn nhận hồ sơ vụ án trong khi chưa có biên bản giao nhận quyết định truy tố là vi phạm quy định của pháp luật. Áp dụng thời hạn giao quyết định đưa vụ án ra xét xử theo quy định chung cũng không hợp lý. Theo quy định chung thì “ Quyết định đưa vụ án ra xét xử phải được giao cho bị cáo, người đại diện hợp pháp của họ và người bào chữa chậm nhất là mười ngày trước khi mở phiên tòa” (khoản 1 Điều 182 BLTTHS). Theo quy định tại khoản 2 Điều 324 BLTTHS: Thời hạn Tòa án phải mở phiên tòa xét xử sơ thẩm là bảy ngày kể từ ngày ra quyết định đưa vụ án ra xét xử. BLTTHS hiện hành không có quy định về thời hạn Tòa án giao quyết định đưa vụ án ra xét xử cho bị cáo hoặc người đại diện hợp pháp của họ, người bào chữa khi áp dụng TTRG giải quyết vụ án, nếu áp dụng quy định chung về thời hại giao quyết định đưa vụ án ra xét xử thì vi phạm khoản 1 Điều 182 BLTTHS. Quyết định đưa vụ án ra xét xử của Tòa án là một quyết định pháp lý quan trọng, đặc biệt là đối với bị cáo, ngoài việc biết được ngày, giờ xét xử để tham gia họ còn biết được Hội đồng xét xử gồm những ai để xem xét những người này có thật sự khách quan trong quá trình xét xử hay không, có thuộc trường hợp phải thay đổi theo quy định của pháp luật hay không, nếu họ nhận được quyết định đưa vụ án ra xét xử quá gần ngày mở phiên tòa thì rất bất lợi cho họ, và quan trọng là không đảm bảo được quyền bào chữa của bị can bị cáo [50]. Để đảm bảo phù hợp với thời hạn tố tụng đã được rút ngắn trong TTRG theo những quy định tại chương XXXIV, đồng thời bảo đảm quyền bào chữa của bị can, bị cáo. Chúng tôi kiến nghị cần phải bổ sung quy định về thời hạn này vào Điều 323, Điều 324 như sau: Điều 323. Quyết định việc truy tố. 1. Giữ nguyên 2. Giữ nguyên. 3. Trường hợp truy tố, Viện kiểm sát phải giao quyết định truy tố cho bị can, người đại diện hợp pháp của họ và người bào chữa chậm nhất là 24 giờ, kể từ thời điểm ra quyết định truy tố . 4. Trong thời hạn hai ngày, kể từ ngày ra quyết định truy tố, Viện kiểm sát phải gửi hồ sơ và Quyết định truy tố đến Tòa án”. Điều 324. Xét xử 1. Giữ nguyên. 2. Trong trường hợp ra quyết định đưa vụ án ra xét xử quy định tại điểm a khoản 1 điều này thì trong thời hạn bảy ngày, kể từ ngày ra quyết định, Tòa án phải mở phiên tòa xét xử. Quyết định đưa vụ án ra xét xử phải được giao cho bị cáo, người đại diện hợp pháp của họ và người bào chữa chậm nhất là 24 giờ, kể từ thời điểm ra quyết định.. Năm là, quy định thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm theo thủ tục rút gọn theo hướng không cần có sự tham gia của Hội thẩm. Theo quy định tại chương XXXIV của BLTTHS năm 2003, thời hạn để giải quyết vụ án theo TTRG tổng cộng là ba mươi ngày, tuy nhiên lại chỉ giản lược một số thủ tục mang tính hình thức tố tụng: Quyết định đề nghị truy tố thay cho bản kết luận điều tra, quyết định truy tố thay cho bản cáo trạng, thủ tục phiên toà về cơ bản là theo trình tự chung nhưng vì không có bản cáo trạng nên trước khi tranh luận đại diện VKS thay vì đọc bản cáo trạng sẽ đọc quyết định truy tố bị can. Các thủ tục tố tụng nội dung trong giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử chưa được giản lược gây nên áp lực về thời gian đối với ĐTV, KSV, Thẩm phán. Do vậy, hiện nay có nhiều ý kiến cho rằng cần rút gọn hơn nữa về mặt thủ tục tố tụng cho phù hợp với sự rút ngắn về mặt thời gian tố tụng [17]. Chúng tôi đồng tình với quan điểm cho rằng: việc xét xử sơ thẩm theo TTRG không cần phải có Hội thẩm tham gia [12;25]. Theo quy định của BLTTHS hiện hành, thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm theo TTRG thực hiện theo quy định chung tại Điều 185 BLTTHS: “ Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm một Thẩm phán và hai Hội thẩm. Trong trường hợp vụ án có tính chất nghiêm trọng, phức tạp, thì Hội đồng xét xử có thể gồm hai Thẩm phán và ba Hội thẩm”. Như vậy, vụ án giải quyết theo TTRG là vụ án ít nghiêm trọng nên thành phần xét xử gồm một Thẩm phán và hai Hội thẩm. Hội thẩm là người được bầu hoặc cử theo quy định của pháp luật để tham gia vào hoạt động xét xử. Hoạt động của Hội thẩm không phải là một nghề chuyên nghiệp. Vai trò chính của Hội thẩm là nhằm bảo đảm cho bản án được hợp tình, hợp lý, vì thế trong những vụ án liên quan đến tôn giáo, cán bộ Nhà nước, các đối tượng đặc biệt của xã hội, hay các vụ án nhận được sự quan tâm lớn của dư luận, sự tham gia xử án của Hội thẩm có ý nghĩa đặc biệt. Nhưng đối với những vụ án xét xử theo thủ tục rút gọn, tính chất vụ án ít nghiêm trọng, đơn giản, chứng cứ rõ ràng, việc áp dụng pháp luật không có nhiều khó khăn vướng mắc, sự tham gia xét xử của Hội thẩm là không cần thiết. Do thời hạn giải quyết các vụ án theo TTRG được rút ngắn, việc không có Hội thẩm tham gia xét xử sẽ giảm bớt được một số thủ tục liên quan cho Thẩm phán được phân công phụ trách vụ án, như: mời Hội thẩm tham gia, sắp xếp thời gian mở phiên tòa, sắp xếp thời gian để Hội thẩm nghiên cứu hồ sơ….tạo điều kiện cho Thẩm phán chủ động về thời gian và công việc, do đó góp phần bảo đảm về thời hạn tố tụng. Mặt khác, Thẩm phán là những người chuyên trách về xét xử, lương tâm và trách nhiệm nghề nghiệp buộc Thẩm phán phải làm việc công tâm, Thẩm phán phải hoàn toàn chịu trách nhiệm về chất lượng bản án nên không vì không có Hội thẩm trong Hội đồng xét xử mà việc xét xử bị giảm chất lượng. Trước đây, pháp luật Việt Nam cũng có các quy định về việc tham gia xét xử của Hội thẩm nhân dân. Luật tổ chức Tòa án năm 1960, 1981, 1992 đều quy định: Tòa án xét xử tập thể và quyết định theo đa số. Việc xét xử của Tòa án có Hội thẩm nhân dân tham gia, Hội thẩm ngang quyền với Thẩm phán [22;23;24] Tuy nhiên, quy định này không phải không có ngoại lệ, chẳng hạn, Điều 12 Luật tổ chức Tòa án năm 1960 quy định: Tòa án nhân dân thực hiện chế độ xét xử tập thể và quyết định theo đa số. Khi sơ thẩm Tòa án nhân dân gồm một Thẩm phán và hai Hội thẩm nhân dân; trường hợp xử những vụ án nhỏ, giản đơn và không quan trọng thì Tòa án nhân dân có thể xử không có Hội thẩm nhân dân” [22]. Pháp luật một số nước trên thế giới khi quy định áp dụng TTRG để giải quyết cũng có quy định một Thẩm phán xét xử. Điều 174 BLTTHS CHND Trung Hoa quy định: Tòa án nhân dân có thể áp dụng TTRG do một Thẩm phán xét xử. BLTTHS Pháp quy định: Mọi hành vi phạm tội vi cảnh, dù là hành vi tái phạm đều có thể được xét xử TTRG. Thẩm quyền xét xử các tội vi cảnh thuộc Tòa vi cảnh do một Thẩm phán thực hiện. BLTTHS Cộng hòa Liên bang Nga năm 2001 cũng quy định việc xét xử theo TTRG do một Thẩm phán tiến hành. Tuy nhiên việc sửa đổi quy định xét xử sơ thẩm theo TTRG do một Thẩm phán tiến hành sẽ liên quan đến nhiều quy định khác mang tính nguyên tắc như: Tòa án xét xử tập thể và quyết định theo đa số (Điều 131 Hiến pháp năm 1992 được sửa đổi bổ sung năm 2001); việc xét xử của Tòa án nhân dân có Hội thẩm nhân dân ( Điều 129 Hiến pháp 1992); nguyên tắc thực hiện chế độ xét xử có Hội thẩm nhân dân tham gia (Điều 15 BLTTHS năm 2003); nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật ( Điều 16 BLTTHS năm 2003); nguyên tắc Tòa án xét xử tập thể ( Điều 17 BLTTHS năm 2003). Do đó cũng cần nghiên cứu để sửa đổi các quy định trong Hiến pháp và sửa đổi các quy định trong chương các nguyên tắc của BLTTHS năm 2003. Điều 185 BLTTHS năm 2003 được sửa là: “Điều 185. Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm. Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm một Thẩm phán và hai Hội thẩm. Trong trường hợp xét xử sơ thẩm theo thủ tục rút gọn thì Hội đồng xét xử chỉ gồm một Thẩm phán” Sáu là, bổ sung quy định về sự tham gia bắt buộc của người bào chữa khi giải quyết vụ án theo thủ tục rút gọn. Việc áp dụng TTRG với những quy định rút ngắn về thời gian, đơn giản về thủ tục tố tụng nhằm giải quyết nhanh chóng, kịp thời một số vụ án thuộc phạm vi điều chỉnh của chế định này. Mặt khác, việc giải quyết vụ án theo TTRG vẫn phải đảm bảo tuân thủ triệt để các nguyên tắc chung của tố tụng hình sự, trong đó có nguyên tắc về đảm bảo quyền bào chữa của bị can, bị cáo. So với thủ tục thông thường, việc thực hiện quyền bào chữa của bị can, bị cáo trong các vụ án được giải quyết theo TTRG có những hạn chế nhất định do thời gian tiến hành tố tụng ngắn hơn và một số thủ tục được giản lược. Do đó để đảm bảo quyền bào chữa của bị can, bị cáo cần nghiên cứu, bổ sung một số vấn đề sau: Thứ nhất, cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng phải có trách nhiệm giải thích cho bị can hiểu rõ về TTRG để họ quyết định đồng ý hay phản đối việc áp dụng thủ tục này trong thời hạn đã quy định. Thứ hai, các quyết định tố tụng do cơ quan tiến hành tố tụng ban hành như: quyết định khởi tố bị can, quyết định đề nghị áp dụng TTRG, quyết định đề nghị truy tố của CQĐT; quyết định áp dụng TTRG, quyết định truy tố của VKS; quyết định đưa vụ án ra xét xử, bản án, quyết định của Tòa án.. cần được giao cho bị can, bị cáo trong thời gian sớm nhất có thể. Việc bị can, bị cáo nhận được những quyết định này sớm sẽ có điều kiện chuẩn bị bào chữa cho mình hoặc nhờ người khác bào chữa.. Bổ sung quy định về thời hạn giao quyết định truy tố bị can, quyết định đưa vụ án ra xét xử như đã kiến nghị ở phần trên. Thứ ba, chúng tôi nhất trí với quan điểm cho đây là một trường hợp bắt buộc phải có người bào chữa tham gia tố tụng [5;11] vì ở trường hợp này điều kiện khách quan về thời gian tố tụng không bảo đảm cho bị can, bị cáo thực hiện triệt để quyền bào chữa của mình. Do vậy, cần bổ sung quy định về vấn đề nay ở chương XXXIV và bổ sung quy định tại Điều 57 BLTTHS năm 2003 Điều 320b. Bào chữa Người bào chữa do bị can, bị cáo lựa chọn. Trong trường hợp bị can, bị cáo không lựa chọn được người bào chữa thì Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án phải yêu cầu Đoàn luật sư cử người bào chữa cho họ hoặc đề nghị Ủy ban Mặt trận tổ quốc Việt Nam, tổ chức thành viên của mặt trận tổ quốc cử người bào chữa cho thành viên của tổ chức mình. Điều 57. Lựa chọn và thay đổi người bào chữa 1.Giữ nguyên 2. Giữ nguyên a. b. c. Bị can, bị cáo trong vụ án giải quyết theo thủ tục rút gọn quy định tại Bộ luật này. 2.3.2. Một số giải pháp khác nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng thủ tục rút gọn trong thực tiễn giải quyết án hình sự. Tăng cường công tác giải thích và áp dụng thống nhất pháp luật. Cho đến nay, sau gần bảy năm thực hiện BLTTHS năm 2003, vẫn chưa có bất cứ một văn bản chính thức nào hướng dẫn cụ thể về vấn đề áp dụng TTRG, điều này gây ra nhiều khó khăn vướng mắc đối với các cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng. Yêu cầu cấp thiết đặt ra hiện nay là phải có văn bản hướng dẫn cụ thể những vấn đề còn chưa được hiểu và áp dụng thống nhất, như: thế nào là “sự việc phạm tội đơn giản, chứng cứ rõ ràng”, thế nào là “ căn cước, lai lịch” rõ ràng. Một yêu cầu nữa đặt ra là cần phải quy định rõ ràng hơn vấn đề giải quyết khiếu nại quyết định áp dụng TTRG của bị can hoặc đại diện hợp pháp của họ, căn cứ giải quyết khiếu nại, hậu quả giải quyết khiếu nại… Mặt khác, việc xây dựng các mẫu quyết định tố tụng áp dụng đối với trường hợp áp dụng TTRG để giải quyết vụ án như: mẫu quyết định đề nghị truy tố, mẫu quyết định đề nghị huỷ bỏ TTRG, mẫu lệnh tạm giữ, tạm giam, mẫu quyết định đề nghị truy tố, mẫu quyết định áp dụng TTRG, mẫu quyết định huỷ bỏ việc áp dụng TTRG, mẫu quyết định truy tố, mẫu quyết định đưa vụ án ra xét xử, mẫu bản án theo TTRG… cũng cần được các cơ quan có thẩm quyền nghiên cứu ban hành, tạo điều kiện thuận lợi cho các cơ quan tiến hành tố tụng trong việc áp dụng. Nâng cao nhận thức, trách nhiệm của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng trong việc giải quyết án rút gọn. Nâng cao trình độ chuyên môn, kỹ năng nghiệp vụ và kinh nghiệm của đội ngũ làm công tác pháp luật. Giải quyết án hình sự theo TTRG đòi hỏi phải có tinh thần trách nhiệm cao của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Vì vậy, cần nâng cao nhận thức của các cơ quan tiến hành tố tụng và của các ĐTV, KSV, Thẩm phán về mục đích, ý nghĩa của TTRG, nhất là đối với ĐTV và CQĐT – cơ quan đề nghị áp dụng TTRG, KSV và VKS – cơ quan ra quyết định áp dụng TTRG. Phải xác định việc áp dụng TTRG đối với những vụ án đủ điều kiện không chỉ là thẩm quyền mà là trách nhiệm của VKS và CQĐT. Việc áp dụng TTRG hiện nay còn gặp phải nhiều vướng mắc, yêu cầu đặt ra là cần có một đội ngũ ĐTV, KSV, Thẩm phán có trình độ, kinh nghiệm, có kỹ năng trong việc giải quyết loại án này, với điều kiện hiện tại thì yêu cầu đó chưa thể đáp ứng được. Các cơ quan tiến hành tố tụng trong công tác xây dựng ngành mặc dù nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề này, tuy nhiên do nhiều nguyên nhân khác nhau mà việc nâng cao trình độ chuyên môn, kinh nghiệm, kỹ năng nghiệp vụ cho ĐTV, KSV, Thẩm phán hiện nay vẫn còn hạn chế. Theo báo cáo tổng kết công tác hàng năm của VKSND Tối cao, TANDTC cho thấy công tác cán bộ luôn được quan tâm, tuy nhiên cho đến nay, tình trạng thiếu cán bộ nói chung của các cơ quan tiến hành tố tụng mới cơ bản được khắc phục. Như vậy, có thể thấy rằng, công tác cán bộ trong các cơ quan tư pháp mới cơ bản đảm bảo về mặt số lượng, còn về chất lượng thì chưa thực sự đảm bảo đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp hiện nay. Việc đẩy mạnh đào tạo trình độ chuyên môn, tích luỹ kinh nghiệm, nâng cao kỹ năng nghiệp vụ cho đội ngũ ĐTV, KSV, Thẩm phán là đòi hỏi cấp thiết, cần được quan tâm đúng mức, có như vậy mới đảm bảo cho các cơ quan tiến hành tố tụng hoàn thành tốt nhiệm vụ chính trị của mình, trong đó có việc áp dụng TTRG có hiệu quả trong hoạt động thực tiễn. Việc áp dụng TTRG để giải quyết các vụ án theo quy định của pháp luật cần phải có những cán bộ nhạy bén pháp luật, có kinh nghiêm xét xử, có trình độ tổng hợp và hiểu biết phong phú về nhiều mặt trong xã hội. Bên cạnh đó những người này cũng cần phải được rèn luyện kỹ năng giải quyết án theo TTRG. Đối với Điều tra viên: ngay từ khi được phân công thụ lý vụ án, nếu thấy có cơ sở, ĐTV phải quan tâm ngay đến các điều kiện để áp dụng TTRG, để chậm nhất trong ba ngày tạm giữ có thể điều tra xác định được vụ án có đủ điều kiện áp dụng TTRG và chủ động đề nghị Thủ trưởng CQĐT ra quyết định đề nghị VKS ra quyết định áp dụng TTRG. Ngay từ khi bị can bị tạm giữ, ĐTV phải tiến hành ngay việc lập danh chỉ bản gửi Phòng tàng thư, căn cước can phạm của tỉnh, thành phố hoặc của Bộ công an để xác định nhân thân của bị can là cơ sở xem xét áp dụng TTRG và bảo đảm thời hạn điều tra. Đối với các hoạt động điều tra khác như: định giá tài sản, lấy lời khai người bị hại, người làm chứng sau khi khởi tố cũng phải được thực hiện ngay tránh tình trạng trong quá trình điều tra người bị hại, người làm chứng vắng mặt tại địa phương. Điều tra viên phải thường xuyên trao đổi với KSV, thực hiện những yêu cầu của KSV để thống nhất về nội dung và quan điểm xử lý, tránh tình trạng không đảm bảo thời hạn điều tra vì không điều tra đầy đủ và toàn diện để hồ sơ chuyển VKS phải trả lại để điều tra bổ sung. Đối với Kiểm sát viên: Ngoài việc nắm vững và hiểu đầy đủ các điều kiện áp dụng TTRG để có thể đề xuất áp dụng TTRG một cách chính xác, KSV phải nắm rõ sự việc trước khi truy tố thông qua các hoạt động nghiệp vụ như: kiểm sát tin báo tội phạm, phối hợp với CQĐT phân loại, xử lý, kiểm sát tạm giữ để phân loại đánh giá và xác định ngay các điều kiện áp dụng TTRG. Bởi nếu chỉ phụ thuộc vào đề nghị của CQĐT hoặc đợi đến khi nhận được quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can thì nhiều vụ án sẽ không kịp thời gian để ra quyết định áp dụng TTRG (ví dụ: vào ngày tạm giữ thứ ba hoặc sau khi gia hạn tạm giữ CQĐT mới khởi tố vụ án, đề nghị phê chuẩn). Đối với những vụ án CQĐT không đề nghị áp dụng, KSV cần chủ động trao đổi với CQĐT và ĐTV để CQĐT đề nghị VKS ra quyết định, như vậy sẽ nâng cao trách nhiệm của ĐTV trong khi giải quyết vụ án. Luôn bám sát tiến độ điều tra để đưa ra các yêu cầu điều tra cụ thể trong đó tập trung vào các yếu tố xác định đặc điểm nhân thân, củng cố chứng cứ định tội, định khung hình phạt, xác định bồi thường thiệt hại, xử lý vật chứng… nhằm bảo đảm thời hạn điều tra. Kiểm sát viên phải tiến hành đồng thời các hoạt động kiểm sát việc lập hồ sơ của CQĐT với việc lập hồ sơ kiểm sát để có thể trong thời hạn truy tố 4 ngày, KSV hoàn thành hồ sơ truy tố chuyển Toà án. Đối với những bị can được tại ngoại, KSV cần dự kiến trước thời gian giao quyết định truy tố để triệu tập bị can nhằm bảo đảm việc giải quyết đúng thời hạn. Đối với Thẩm phán: ngay sau khi nhận được hồ sơ vụ án do Viện kiểm sát chuyển đến, phải nghiên cứu ngay hồ sơ một cách toàn diện và đầy đủ, đặc biệt lưu ý đến các điều kiện áp dụng TTRG để ra một trong các quyết định quy định tại khoản 1 Điều 324 BLTTHS. Nếu có những vấn đề còn chưa rõ cần trao đổi với KSV. Vì thời hạn chuẩn bị xét xử và thời hạn xét xử ngắn nên Thẩm phán phải dự kiến trước các tình huống có thể xảy ra khi mở phiên tòa như: bị cáo vắng mặt tại phiên tòa…và tốt nhất không nên mở phiên tòa vào những ngày cuối cùng của thời hạn xét xử. Bởi nếu xảy ra các tình huống nêu trên sẽ khó khăn cho việc giải quyết, vì có những trường hợp không có căn cứ trả hồ sơ cho VKS, không có căn cứ tạm đình chỉ và cũng không có quy định gia hạn tạm giam hoặc kéo dài thời hạn xét xử. Xây dựng mối quan hệ phối hợp, tăng cường sự phối hợp giữa các cơ quan tiến hành tố tụng, giữa các bộ phận trong mỗi cơ quan tố tụng. Giải quyết án hình sự theo TTRG cần có sự phối hợp giữa các cơ quan tiến hành tố tụng, vì vậy cần xây dựng mối quan hệ phối hợp chặt chẽ giữa CQĐT – VKS – Tòa án trong việc giải quyết án rút gọn: Lãnh đạo ba ngành phải có sự thống nhất với nhau về trách nhiệm và phương pháp thực hiện. Đối với CQĐT và VKS sự phối hợp phải được thực hiện tốt ngay từ khi phân loại xử lý, CQĐT tạo điều kiện để VKS sớm nắm bắt các thông tin về các sự kiện phạm tội để có định hướng cho việc giải quyết án theo TTRG, nếu thấy có các điều kiện quy định tại điều 319 BLTTHS (ví dụ như khi phát hiện vụ án có đủ căn cứ khởi tố, ngay từ đầu có hai điều kiện: bắt quả tang và tội ít nghiêm trọng thì cần trao đổi ngay với VKS để ĐTV và KSV phối hợp xem xét kịp thời hai điều kiện còn lại). Trong giai đoạn điều tra và truy tố, ĐTV, KSV cũng luôn phải có sự phối hợp tốt nhằm bảo đảm cho việc điều tra toàn diện, đầy đủ và đúng thời hạn. Do thời hạn xét xử rút ngắn nên công tác phối hợp với Tòa án là hết sức cần thiết. Khi chuyển hồ sơ sang Tòa án, VKS nên trao đổi trước với Tòa án để Tòa án chủ động phân công Thẩm phán giải quyết, KSV chủ động trao đổi với Thẩm phán để giải quyết những vấn đề phát sinh. Trong các cuộc giao ban định kỳ CQĐT – VKS - Tòa án cần đưa nội dung giải quyết án theo TTRG để bàn bạc, trao đổi, rút kinh nghiệm. Hiệu quả nhất là cần xây dựng quy chế phối hợp giữa ba cơ quan này trong việc giải quyết án rút gọn. Ngay trong mỗi cơ quan tố tụng cũng cần có sự phối hợp tốt giữa các bộ phận, nhất là ở Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát. Ở Cơ quan điều tra, phải có mối quan hệ phối hợp tốt giữa đội văn phòng tổng hợp và đội điều tra. Tại một số CQĐT cấp huyện, sau khi vụ án xảy ra, đội văn phòng tổng hợp là nơi nhận báo cáo từ Công an phường, xã, sau đó nghiên cứu, phân loại xử lý và phân loại tội phạm mới chuyển về các đội điều tra để điều tra tiếp. Vì vậy, ngay từ ban đầu đội văn phòng điều tra đã nắm bắt được thông tin về vụ án và có thể trao đổi ngay với đội điều tra và VKS để có thể kịp thời định hướng giải quyết vụ án theo TTRG nếu thấy có cơ sở. Ở Viện kiểm sát, phải có sự phối hợp tốt giữa kiểm sát tạm giữ, phân loại xử lý và kiểm sát điều tra. Qua công tác kiểm sát tạm giữ, VKS đã nắm bắt được thông tin về người bị tạm giữ và nội dung cơ bản của vụ việc, nếu thấy có cơ sở giải quyết theo TTRG cần chủ động trao đổi với CQĐT đồng thời báo cáo lãnh đạo VKS để phân công KSV thụ lý và định hướng áp dụng TTRG một cách kịp thời. Tăng cường cơ sở vật chất, phương tiện làm việc cho các cơ quan tiến hành tố tụng. Nhà nước cần phải đảm bảo điều kiện vật chất cho hoạt động tư pháp phù hợp với đặc thù của từng cơ quan tư pháp. Việc xây dựng trụ sở làm việc cho các cơ quan tư pháp cần phải được tiến hành ngay, đặc biệt là ở cấp huyện, trụ sở làm việc của các cơ quan nay phải đảm bảo hiện đại, đầy đủ tiện nghi. Hệ thống nhà tạm giữ , tạm giam cần phải được nâng cấp kịp thời. Ưu tiên trang bị phương tiện phục vụ công tác điều tra, đấu tranh phòng chống tội phạm, công tác xét xử, công tác giám định tư pháp…Tăng cường áp dụng công nghệ thông tin vào hoạt động của các cơ quan tư pháp… Kết luận chương 2 Thủ tục rút gọn đã được áp dụng để giải quyết một số vụ án có đủ điều kiện theo quy định của pháp luật và đã đạt được những kết quả nhất định. Tuy nhiên hiệu quả mà nó mang lại thì chưa được như mong đợi, số vụ án áp dụng thủ tục rút gọn để giải quyết rất ít, chiếm một tỷ lệ rất khiêm tốn so với tổng số vụ án hình sự đã được xét xử, việc áp dụng thủ tục rút gọn để giải quyết các vụ án hình sự có đủ điều kiện ở các địa phương chưa thực sự được quan tâm, ở những địa phương có lượng án hình sự giải quyết hàng năm lớn số lượng án áp dụng thủ tục rút gọn còn ít, ở những địa phương có lượng án ít thì thủ tục này hầu như không được áp dụng. Có nhiều nguyên nhân làm giảm hiệu quả áp dụng của thủ tục rút gọn trong thực tiễn, trong đó phải kể đến những nguyên nhân cơ bản sau: Quy định về thủ tục rút gọn tại chương XXXIV của Bộ luật tố tụng hình sự chưa phù hợp với thực tiễn nên còn nhiều vướng mắc trong quá trình áp dụng; còn tồn tại tâm lý ngại việc, sợ oan sai của một số Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán; trong các cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng vẫn có nhận thức chưa đúng về mục đích ý nghĩa của thủ tục rút gọn, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ của một bộ phận những người làm công tác tư pháp còn hạn chế… Việc tiếp tục nghiên cứu sửa đổi, bổ sung các quy định của BLTTHS năm 2003 về thủ tục rút gon để nâng cao hiệu quả áp dụng quy định này là hết sức cần thiết. Bên cạnh đó, để đưa thủ tục rút gọn vào đời sống của tố tụng hình sự cần có các giải pháp đồng bộ về hướng dẫn, giải thích và áp dụng thống nhất pháp luật; các biện pháp tổ chức triển khai áp dụng; các điều kiện về nhân lực, vật lực cho các cơ quan tiến hành tố tụng… KẾT LUẬN 1. Thủ tục rút gọn là một chế định tiến bộ trong pháp luật tố tụng hình sự. Quy định về thủ tục rút gọn có trong pháp luật tố tụng hình sự của nhiều nước trên thế giới, ở Việt Nam hình thức tố tụng này cũng được quy định từ khá sớm và hiện nay vẫn tiếp tục được nghiên cứu để hoàn thiện. 2. Đặc điểm cơ bản của thủ tục rút gọn là rút ngắn về thời hạn, giản lược về thủ tục tố tụng. Với đặc điểm đó thủ tục rút gọn có ý nghĩa quan trọng, góp phần giải quyết nhanh chóng, kịp thời một số vụ án hình sự nhất định, đáp ứng yêu cầu của cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm. 3. Quy định về TTRG trong BLTTHS năm 2003 về cơ bản đã tương đối toàn diện nhưng chưa đầy đủ và cụ thể. Nghiên cứu các quy định của BLTTHS năm 2003 về thủ tục này cho thấy vẫn còn có nhiều điểm chưa hợp lý: thời hạn tố tụng được rút ngắn rất nhiều so với thủ tục chung, tuy nhiên thủ tục tố tụng lại giản lược rất ít. Các quy định về thủ tục này còn chưa đầy đủ, mang tính hình thức, chưa có sự đồng bộ giữa thủ tục rút gọn và các thủ tục tố tụng có liên quan, thực tiễn áp dụng bộc lộ nhiều khó khăn, vướng mắc. 4. Thủ tục rút gọn đã được áp dụng để giải quyết một số vụ án có đủ điều kiện theo quy định của pháp luật và đã đạt được những kết quả nhất định. Tuy nhiên hiệu quả mà nó mang lại thì chưa được như mong đợi. Có nhiều nguyên nhân, trong đó nguyên nhân cơ bản là do quy định về thủ tục rút gọn tại chương XXXIV của Bộ luật tố tụng hình sự chưa phù hợp với thực tiễn nên còn nhiều vướng mắc trong quá trình áp dụng. 5. Việc tiếp tục nghiên cứu sửa đổi, bổ sung các quy định của BLTTHS năm 2003 về thủ tục rút gon để nâng cao hiệu quả áp dụng quy định này là rất cần thiết, để thủ tục rút gọn không chỉ là quy định tiến bộ trên lý thuyết mà thực sự trở thành biện pháp hữu hiệu nâng cao hiệu quả giải quyết án hình sự của các cơ quan tiến hành tố tụng. Bên cạnh đó, để đưa thủ tục rút gọn vào đời sống của tố tụng hình sự cần có các giải pháp đồng bộ về hướng dẫn, giải thích và áp dụng thống nhất pháp luật; cần có các biện pháp tổ chức triển khai áp dụng thủ tục này vào hoạt động điều tra, truy tố, xét xử; phải chuẩn bị tốt các điều kiện về nhân lực, vật lực cho các cơ quan tiến hành tố tụng…

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docThủ tục rút gọn trong tố tụng hình sự Việt Nam.doc
Luận văn liên quan