Thực trạng của nghiệp vụ uỷ thác tại Công ty Tài chính Dầu khí

Hai là: Công ty Tài chính Dầu khí cần phát triển, tìm kiếm thêm các dịch vụ mới như dịch vụ quản lý tài sản bằng tiền, bằng hiện vật, các dịch vụ về xử lý công nợ,.trong đó dịch vụ về xử lý công nợ có tính hiệu khả thi cao khi công ty có lợi thế khi có nhiều thông tin về các công ty thành viên nên dễ dàng hơn trong việc đáp ứng dịch vụ này từ phía các công ty ngoài ngành và do đặc thù là m ột trung gian tài chính có mối quan hệ rộng rãi và có chuyên môn trong lĩnh vực tài chính nên dễ thực hiện công việc này hơn là các công ty kinh doanh tự làm nhưng bản thân dị ch vụ này của công ty sẽ phải chịu sự cạnh tranh lớn từ phía nghiệp vụ chiết khấu thương phiếu của các ngân hàng thương mại.

pdf92 trang | Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2316 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Thực trạng của nghiệp vụ uỷ thác tại Công ty Tài chính Dầu khí, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
thể hiện rõ ràng vai trò trung gian của công ty tài chính, công ty chỉ thay mặt người ủy thác để quản lý chứ đó không phải là vốn của công ty và đáp ứng được vai trò là dẫn vốn từ người thừa vốn tới người thiếu vốn. *Hai là: Việc sử dụng vốn ủy thác để cho vay giúp công ty Tài chính Dầu khí vượt qua được những hạn chế trong lĩnh vực đầu tư vốn. Theo qui định của Ngân hàng nhà nước thì các tổ chức tín dụng chỉ được phép cho vay đối với mỗi khách hàng không quá 15% vốn tự có của tổ chức đó. Theo qui định này thì công ty Tài chính Dầu khí, mặc dù có vốn tự có lớn nhất trong số các công ty tài chính trên cả nước, chỉ có thể cho mỗi khách hàng vay tối đa là 15 tỷ VND cho tất cả các dự án của khách hàng đó. Mức này quả thực là quá nhỏ đối với các công ty hoạt động trong ngành dầu khí khi mà các dự án của các công ty trong ngành thường xuyên ở mức hàng chục triệu USD. Tuy công ty tài chính có thể thu xếp vốn cho các dự án này nhưng không thể tham gia vào thực hiện dự án đó nên đã mất đi những khoản thu nhập đáng kể. 71 Việc này có thể có nhiều cách giải quyết như tăng vốn điều lệ nhưng trong số các giải pháp đó thì ủy thác được xem là một giải pháp dễ thực hiệnvề mặt kỹ thuật cũng như về mặt tài chính. Khi công ty Tài chính Dầu khí thực hiện nghiệp vụ ủy thác thì không phải chịu bất cứ một hạn chế về mức cho vay do vốn ủy thác là nguồn vốn của người khác ủy thác cho công ty tài chính quản lý trong đó có việc cho người khác vay nên nó không nằm trong bảng cân đối của công ty tài chính, đó chỉ được coi là việc công ty tài chính làm hộ người khác. Mọi rủi ro liên quan đến khoản vốn ủy thác cho vay đều có trách nhiệm của người ủy thác nên vốn ủy thác không chịu sự quản lý của Ngân hàng nhà nước như đối với các khoản huy động khác như các khoản vay từ dân cư và các tổ chức tín dụng, những người gửi tiền tại các tổ chức tín dụng sẽ không phải đối mặt với các rủi ro khi mà các khoản vốn ủy thác gặp phải rủi ro. Công ty tài chính chỉ phải chú ý tới việc nếu nhận vốn ủy thác từ các tổ chức tín dụng khác thì khoản vốn này cũng không được quá 15% vốn tự có của tổ chức tín dụng đó. *Ba là: Việc thực hiện nghiệp vụ ủy thác giúp công ty tài chính có thể thực hiện được việc kiểm tra ở mức khác nhau đối với công ty và vốn của công ty vay vốn ủy thác. Đây được coi như một trong những lợi thế lớn nhất của nghiệp vụ ủy thác bên cạnh việc tránh hạn mức tín dụng. Trong nền kinh tế thị trường thì việc có được thông tin tài chính về các công ty là một lợi thế rất lớn và thông thường là phải có mối quan hệ tốt và mất nhiều chi phí. Khi thực hiện nghiệp vụ ủy thác công ty Tài chính Dầu khí có cơ hội biết được một phần tình hình tài chính của các công ty vay vốn ủy thác do khi đó công ty tài chính là người quản lý khoản vốn này, thực hiện giải ngân cho công ty vay nên có quyền yêu cầu công ty vay vốn đáp ứng việc cung cấp một số thông tin cần thiết mà bình thường công ty tài chính muốn biết thì phải lấy vốn của mình cho công ty kia vay. Trong khi đó nếu công ty tài chính dùng vốn ủy thác đầu tư thì vẫn có được thông tin, kiểm soát được tình hình tài chính của nhiều công ty mà không phải bỏ vốn của công ty và có cơ hội có được thông tin của một lượng lớn hơn các công ty so với việc chỉ dùng vốn của công ty tài chính. *Bốn là: Việc thực hiện nghiệp vụ ủy thác giúp công ty tài chính củng cố và duy trì tốt mối quan hệ với khách hàng. 72 Nghiệp vụ ủy thác là một nghiệp vụ nếu thực hiện tốt sẽ có được ấn tượng rất tốt đối với khách hàng. Do đặc thù là một nghiệp vụ dựa vào lòng tin của khách hàng nên khi thực hiện tốt khách hàng sẽ có sự tin cậy rất lón vào công ty dẫn đến hoạt động của các nghiệp vụ khác gặp nhiều thuận lợi. Trong việc thực hiện nghiệp vụ ủy thác cần tránh để mắc vào vấn đề đạo đức của người đại lý ủy thác, muốn vậy thì các nhân viên của nghiệp vụ phải được chọn lựa và đào tạo cẩn thận về trách nhiệm. Khi khách hàng đã có lòng tin thì hoạt động ủy thác sẽ rất thuận lợi để phát triển. *Năm là: Công ty có được sự xét duyệt tập thể bởi các chuyên gia trong lĩnh vực tài chính và dầu khí. Một lợi thế quan trọng mà các công ty tài chính trong Tổng công ty có được là sự xét duyệt tập thể được tiến hành bởi một số kỹ thuật viên-các chuyên viên trong các lĩnh vực- trong lĩnh vực tài chính nhất là trong lĩnh vực dầu khí khi công ty tài chính thực hiện đầu tư vào các dự án của ngành. Các công ty tài chính có khả năng hoạt động vô tư hơn các cá nhân trong việc thực hiện nghiệp vụ ủy thác và cũng có ít rủi ro đạo đức của vấn đề người đại lý ủy thác. *Sáu là: Công ty có hệ thống các dịch vụ bổ trợ để hoàn thành các nhiệm vụ ủy thác một cách hiệu quả. Nghiệp vụ ủy thác của công ty Tài chính Dầu khí có được sự hỗ trợ lớn của một hệ thống các nghiệp vụ bổ trợ của các phòng kinh doanh trong công ty. Có thể nói hoạt động ủy thác được sự hỗ trợ của cả công ty khi có nghiệp vụ xảy ra. Trong nghiệp vụ ủy thác vốn cho vay từ các tổ chức tín dụng thì hoạt động ủy thác rất cần đến sự trợ giúp của phòng kinh doanh tiền tệ, phòng dịch vụ tài chính tiền tệ và được sự trợ giúp hiệu quả trong những công việc như phương án đầu tư cho vay, quản lý khoản vay, thẩm địng tài chính dự án... Đặc biệt là đối với nghiệp vụ ủy thác quản lý vốn đã nhận được sự hỗ trợ của một hệ thống các nghiệp vụ khác của công ty mà thiếu nó thì nghiệp vụ này khó có thể hoàn thành tốt được, như nghiệp vụ đầu tư dự án của phòng dự án và phát triển, kinh doanh chứng khoán, đầu tư cổ phần vào các doanh nghiệp nhà nước trong ngành dầu khí, đầu tư tài chính,... *Bảy là: Công ty có nhu cầu lớn đối với nguồn vốn ủy thác Hoạt động tài chính trong ngành dầu khí là một ngành có vốn đầu tư cao, nhiều dự án khả thi công ty Tài chính Dầu khí đứng trước một thử thách lớn để có 73 thể thực hiện được việc là đầu mối đáp ứng được nhu cầu vốn cho các dự án của ngành nhưng đồng thời nó cũng có thuận lợi là có nhiều cơ hội để đầu tư và nếu tìm được cách khắc phục những khó khăn gặp phải trong vấn đề vốn ít mà phải đầu tư vào các dự án lớn. Đây cũng có thể coi là một lợi thế của công ty trong việc thực hiện nghiệp vụ ủy thác do trong điều kiện công ty còn eo hẹp về vốn thì nghiệp vụ ủy thác nổi lên như là một giải pháp khả thi để công ty có thể đầu tư vào các dự án của ngành và cả ngoài ngành. Công ty tài chính đánh giá được lợi thế của nghiệp vụ ủy thác, hiểu được phải tập trung phát triển nghiệp vụ ủy thác thì mới có thể đáp ứng được nhu cầu vốn lớn trong ngành trong bối cảnh hiện nay. B. Những khó khăn: Tuy có những thuận lợi nhất định trong việc thực hiện nghiệp vụ ủy thác và cũng nhận được nhiều lợi thế từ việc thực hiện nghiệp vụ này nhưng nhìn chung công ty Tài chính Dầu khí còn gặp nhiều khó khăn trong với việc thực hiện nghiệp vụ ủy thác có hiệu quả. Thực trạng hiện nay là các thuận lợi thì hầu hết là những thuận lợi tiềm năng nhưng các khó khăn đều là các khó khăn hiện tại ngay trước mắt. *Một là: theo quyết định 296/1999/QĐ-NHNN5 ngày 25/8/1999 của thống đốc ngân hàng nhà nước về giới hạn cho vay đối với một khách hàng của tổ chức tín dụng thì tổng dư nợ cho vay của Tổng công ty nhà nước tại tổ chức tín dụng gồm dư nợ tiền vay do Tổng công ty trực tiếp vay và tổng dư nợ tiền vay do đơn vị thành viên hạch toán phụ thuộc được Tổng công ty ủy quyền đi vay tại tổ chức tín dụng đó. Quy định này khiến công ty Tài chính Dầu khí gặp nhiều khó khăn trong việc cho vay các công ty thành viên hạch toán phụ thuộc này vì chỉ được cho vay 15% vốn tự có tức 15 tỷ VND cho một loạt các công ty phụ thuộc của Tổng công ty, mức cho vay này là quá nhỏ đối với các dự án thuộc ngành dầu khí. Đối với các khoản vay này công ty tài chính có một cách là sử dụng vốn ủy thác để cho vay nhưng nguồn quan trọng nhất để ủy thác cho các công ty thành viên vay là từ Tổng công ty thì do nhiều lý do vẫn chưa được Tổng công ty triển khai dù đã đồng ý còn các tổ chức tín dụng thì thực tế không nhiệt tình trong việc ủy thác vốn cho công ty tài chính và họ cũng đòi hỏi lãi suất cao. Đối với các khách hàng là các công ty hạch toán độc lập thì từ lâu họ đã được giao dịch trực tiếp với các ngân hàng thương mại và họ tự chịu trách nhiệm về công việc kinh doanh của công ty, nên họ thường tiếp tục quan hệ với các ngân hàng thương mại, công ty tài chính 74 cần phải nỗ lực rất lớn để tạo lập uy tín và sự ảnh hưởng thì mới có thể thu hút được khách hàng trong điều kiện công ty mới thành lập. Thực tế, tuy công ty tài chính có ưu thế là một doanh nghiệp trong ngành nhưng không vì thế mà nó không phải cạnh tranh gay gắt với các ngân hàng ngay trong các công ty thành viên của Tổng công ty vì cơ chế điều hoà vốn của công ty tài chính không chỉ là sự chuyển vốn một cách hành chính đơn thuần từ nơi thừa vốn đến nơi thiếu vốn mà bao gồm hệ thống quan hệ tài chính dựa trên hoạt động tín dụng thực sự. Nghĩa là, đơn vị cho vay vốn phải có lợi tức qua việc cho vay vốn nhàn rỗi và đơn vị cần vay phải có lợi hơn so với việc đi vay tổ chức tín dụng khác. Nếu không có cơ chế lãi suất làm cơ sở thì việc điều hòa vốn sẽ không có cơ sở kinh tế để duy trì một cách bền vững lâu dài. Việc phải cạnh tranh này làm cho công ty tài chính gặp nhiều khó khăn trong việc huy động vốn ủy thác từ các tổ chức tín dụng để cho các công ty này vay và cũng gặp khó khăn trong việc giải ngân số vốn ủy thác vào các dự án hợp lý và có khả năng mang lại lợi nhuận cao hơn nếu so sánh với nghiệp vụ ủy thác tại các tổ chức tín dụng thông thường. *Hai là: việc có một số các công ty thành viên là doanh nghiệp hạch toán phụ thuộc làm cho việc thẩm định dự án đầu tư có dính đến các công ty này gặp khó khăn vì hoạt động kinh doanh như thế nào thì các công ty này cứ hạch toán về Tổng công ty rồi sau đó Tổng mới chia ngược lại. Các đơn vị có doanh thu thấp sẽ được nhận bù lỗ từ các đơn vị có doanh thu cao, các con số kế toán tại công ty chỉ là con số tương đối. Do vậy rất khó có thể nắm bắt được tình hình tài chính thực của các công ty này dẫn đến vốn ủy thác vào các công ty này khó được kiểm soát chặt chẽ như yêu cầu làm ảnh hưởng đến lợi ích của người ủy thác. *Ba là: nghiệp vụ ủy thác đã được công nhận là một hoạt động hợp pháp của các tổ chức tín dụng tuy nhiên việc các tổ chức tín dụng thực hiện nghiệp vụ này cụ thể như thế nào thì cũng chưa có một nghị định, quyết định dưới luật nào nói đến. Ngay cả trong luật các tổ chức tín dụng thì nghiệp vụ này cũng chỉ được nhắc tới chung chung là các tổ chức tín dụng được phép thực hiện nghiệp vụ ủy thác và nghiệp vụ ủy thác là bao gồm cả việc nhận ủy thác và ủy thác chứ chưa nêu cụ thể những công việc hay các qui định cần tuân thủ trong quá trình thực hiện trong khi đây là một nghiệp vụ rất cần sự qui định chặt chẽ của pháp luật. Do vậy việc triển khai, thực hiện nghiệp vụ này tại công ty Tài chính Dầu khí là rất khó khăn. 75 *Bốn là: Hiện nay đầu ra của vốn ủy thác của công ty Tài chính Dầu khí chưa ổn định và còn nhiều hạn chế. Trong hoạt động quản lý vốn ủy thác thì công ty mới chỉ có một cách quản lý là gửi tiền vào các ngân hàng hưởng chênh lệch do số vốn ủy thác quản lý chỉ của một vài công ty trong ngành và đều là ngắn hạn và thị trường tài chính của Việt Nam vẫn còn nhiều bất ổn cùng với việc bộ phận kinh doanh chứng khoán của công ty đang trong quá trình thành lập. Với hoạt động nhận ủy thác cho vay thì hầu hết là để cho vay vốn lưu động nhưng có một thực tế là số lượng các đơn vị thành viên của Tổng công ty không nhiều và các đơn vị cũng hầu như không thiếu vốn lưu động (do có thể được thấu chi từ tài khoản trung tâm) và các ngân hàng cũng không nhiệt tình trong việc cho công ty tài chính vay vốn ủy thác cho vay. *Năm là: Công ty Tài chính Dầu khí là một công ty mới hoạt động được một năm và đội ngũ nhân viên trẻ chưa có nhiều kinh nghiệm, quan hệ và cũng không được đào tạo một cách cơ bản về nghiệp vụ ủy thác nên trong hoạt động gặp không ít khó khăn.Do mới hoạt động nên công ty chưa thể có nhiều tiếng tăm, chưa tạo được danh tiếng của mình một cách vững chắc đủ để trở thành một yếu tố cạnh tranh nên gặp rất nhiều khó khăn trong việc thu hút khách hàng do họ chưa có hiểu biết về công ty hay chưa đủ tin tưởng vào công ty trong khi nghiệp vụ ủy thác là nghiệp vụ rất cần sự tin tưởng của khách hàng và tiếng tăm của công ty. Ngay cả đối với các công ty trong Tổng công ty Dầu khí phần nhiều cũng chưa thấy được tiềm năng, sức mạnh của công ty Tài chính Dầu khí và vẫn tiếp tục sử dụng các dịch vụ của các ngân hàng thương mại quen thuộc. *Sáu là: Công ty tài chính cũng gặp rất nhiều khó khăn trong việc thu hút vốn ủy thác cũng như sử dụng có hiệu quả cao các nguồn vốn ủy thác do gặp phải sự cạnh tranh không cân sức của các ngân hàng thương mại do họ có ưu thế hơn hẳn về kinh nghiệm, vốn, dịch vụ kèm theo... C. Triển vọng của nghiệp vụ ủy thác tại công ty Tài chính Dầu khí: Trong giai đoạn đầu của công ty vốn ủy thác được coi là một trong những nguồn vốn quan trọng nhất của công ty, chiếm tỷ trọng lớn trong tổng vốn huy động của công ty. Nghiệp vụ ủy thác bên cạnh những khó khăn vẫn có những lợi nhất định trong việc thực hiện nhiệm vụ điều hoà vốn trong Tổng công ty. Trên thế giới người ta đã coi nghiệp vụ ủy thác là nghiệp vụ mở ra những hướng phát triển mới 76 trong hoạt động ngân hàng tài chính. Điều này chứng tỏ nghiệp vụ ủy thác có nhiều thế mạnh và có tương lai phát triển tốt. Công ty Tài chính Dầu khí xác định trong giai đoạn đầu nghiệp vụ ủy thác nhận và cho vay vốn ủy thác là một trong những nghiệp vụ đem lại doanh thu lớn cho công ty và góp phần quan trọng trong việc đáp ứng nhu cầu vốn của các đơn vị thành viên. Hướng phát triển lâu dài của công ty là phát triển trở thành công ty có thế mạnh trong các hoạt động dịch vụ tài chính tiền tệ trong đó tập trung phát triển dịch vụ quản lý vốn và tài sản, nhằm đưa loại hình này thành thế mạnh của công ty. Như vậy về lâu dài công ty chú trọng vào việc phát triển dịch vụ tư vấn và ủy thác quản lý vốn đều là các nghiệp vụ không dùng vốn công ty, thể hiện rõ bản chất trung gian tài chính của công ty. Đội ngũ nhân viên sẽ được đào tạo để có thể hoạt động tốt trong việc thu hút các nguồn vốn rỗi trong nền kinh tế nói chung và của ngành dầu khí nói riêng để quản lý có hiệu quả nhất góp phần tăng nhanh tốc độ lưu thông vốn trong nền kinh tế. Sắp tới khi Tổng công ty tiến hành ủy thác vốn đầu tư cho các công ty thành viên cho công ty tài chính và giao cho công ty quản lý hệ thống tiền tệ tập trung thì nghiệp vụ ủy thác của công ty sẽ có thuận lợi lớn để mở rộng hoạt động và triển khai hoạt động của mình. Trong hoạt động đầu tư với việc thành lập bộ phận kinh doanh chứng khoán nghiệp vụ ủy thác có khả năng mở rộng phạm vi, hình thức đầu tư linh động vừa có khả năng thu lợi vừa đảm bảo được tính thanh khoản của đồng vốn. Với triển vọng được quản lý hệ thống tiền tệ tập trung của Tổng công ty giúp cho công ty tài chính có thêm nhiều thuận lợi trong việc chuyển dần cơ cấu cho vay ủy thác từ cho vay ngắn hạn là chủ yếu sang cho vay trung và dài hạn nhằm đáp ứng tốt nhu cầu phát triển của các công ty thành viên trong ngành. Thêm vào đó là công ty sẽ đẩy nhanh việc thực hiện làm đại lý bảo lãnh phát hành cổ phiếu, trái phiếu cho các đơn vị trong ngành cũng như tham gia tích cực trong các hoạt động tư vấn, nhận ủy thác thực hiện việc cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước. 77 78 Chương ba Một số kiến nghị và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động ủy thác tại công ty Tài chính Dầu khí 3.1. Kiến nghị với ngân hàng nhà nước Việt Nam 3.1.1. Nhanh chóng ban hành và hoàn thiện các văn bản pháp luật có liên quan Như đã nói ở trên, nghiệp vụ ủy thác là một nghiệp vụ rất quan trọng tại các nước có nền kinh tế thị trường phát triển ngay từ khi nó mới ra đời cho tới nay. Nghiệp vụ ủy thác bao gồm các loại hình rộng lớn và đa dạng, bao trùm hầu hết các hoạt động trong nền kinh tế, gần như hoạt động kinh tế nào cũng đưa được về nghiệp vụ ủy thác. Đây là một loại hình hoạt động có mức độ tín nhiệm cao của các tổ chức thực hiện và tại các nước phát triển đã hình thành những hành lang pháp lý đầy đủ, chi tiết nhằm qui định chặt chẽ về hoạt động này do đây là hoạt động nhạy cảm, dễ gặp phải rủi ro đạo đức của vấn đề người đại lý ủy thác. Luật về ủy thác rất chặt chẽ, qui định rõ ràng những đối tượng nào được phép tham gia ủy thác và nhận ủy thác cũng như nêu rõ quyền hạn, nghĩa vụ của các bên và các điều khoản mẫu phải ghi rõ trong trường hợp đồng ủy thác. Ngân hàng nhà nước Việt Nam cần tạo ra hành lang pháp lý cụ thể cho hoạt động này, hướng dẫn các tổ chức tài chính nói chung và các công ty tài chính trong tổng công ty nói riêng hoạt động đúng trong lĩnh vực này và có cơ hội cạnh tranh bình đẳng với nhau. Hiện nay, các căn cứ pháp luật về ủy thác mới chỉ xuất hiện chung chung trong một văn bản pháp luật được quốc hội thông qua ngày 12/12/1997 , Trong điều 71 nghiệp vụ ủy thác và đại lý của văn bản này có ghi: “Tổ chức tín dụng được quyền ủy thác, nhận ủy thác, làm đại lý trong các lĩnh vực có liên quan tới các hoạt động ngân hàng, kể cả việc quản lý tài sản, vốn đầu tư của các tổ chức cá nhân theo hợp đồng”. Như vậy nghiệp vụ ủy thác đã được công nhận là một hoạt động hợp pháp của các tổ chức tín dụng tại nước ta nhưng việc thực hiện nghiệp vụ này như thế nào thì chưa có một văn bản pháp luật nào đề cập tới. Mọi việc vẫn dừng lại ở mức độ chung chung, như vậy sẽ rất khó cho các tổ chức tín dụng muốn thực hiện nghiệp vụ này mà ở đây cụ thể là công ty Tài chính Dầu khí. 3.1.2. Cho phép công ty Tài chính Dầu khí thực hiện các nghiệp vụ mới 79 Ngân hàng Nhà nước cũng cần xem xét lại việc mở rộng, phát triển những nghiệp vụ mới, từng bước đa dạng hoá nội dung hoạt động của các công ty tài chính trong tổng công ty. Các tổng công ty Nhà nước là những doanh nghiệp lớn, qui mô hoạt động rộng khắp cả nước, thậm chí cả ở nước ngoài nên có nhu cầu thanh toán, điều hoà vốn giữa các doanh nghiệp thành viên là rất cần thiết. Vì vậy đề nghị Ngân hàng Nhà nước cho phép các công ty tài chính trong Tổng công ty được thực hiện chức năng thanh toán giữa các công ty thành viên trong Tổng công ty. Khi được thực hiện chức năng thanh toán, công ty tài chính sẽ khai thác được vốn nhàn rỗi trong Tổng công ty thông qua các nghiệp vụ tài chính. Ngoài ra để hỗ trợ cho các doanh nghiệp thành viên trong Tổng công ty đổi mới máy móc thiết bị, nên chăng Ngân hàng Nhà nước cho phép các công ty tài chính trong Tổng công ty thực hiện các nghiệp vụ về ngoại hối, vì nếu công ty Tài chính Dầu khí muốn nhận vốn ủy thác từ các tổ chức nước ngoài sẽ gặp rất nhiều khó khăn. Thêm vào đó do đặc thù của ngành dầu khí là vốn đầu tư của nước ngoài nhiều, vốn cho mỗi dự án là rất lớn và hầu hết là các nguồn ngoại tệ nên việc tiếp nhận vốn và quản lý các luồng tiền phát sinh trong quá trình thực hiện các dự án nếu lại phải qua một trung gian tài chính thứ ba là các ngân hàng thương mại thì sẽ rất bất tiện. Đồng thời nếu được phép thực hiện nghiệp vụ ngoại hối, sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho công ty Tài chính Dầu khí trong việc giúp đỡ đổi mới thiết bị, công nghệ, nâng cao năng lực cạnh tranh trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của các doanh nghiệp trong Tổng công ty. 80 3.2. Kiến nghị với Tổng công ty Dầu khí Việt Nam 3.2.1. Tổng công ty xem xét nhanh chóng thực hiện ủy thác vốn của Tổng công ty cho công ty tài chính Tổng công ty Dầu khí là một trong những tập đoàn kinh tế có kết quả kinh doanh tốt nhất của Việt Nam trong những năm qua. Đây là một Tổng công ty hoạt động đa ngành có mũi nhọn là dầu khí, một ngành kinh tế kỹ thuật rõ ràng về mặt kỹ thuật, khai thác, chế biến, phân phối đều phụ thuộc lẫn nhau. Do vậy, các công ty thành viên của Tổng công ty đều có mối liên hệ với nhau rất lớn trong việc khai thác và tiêu thụ sản phẩm. Các dự án của ngành dầu khí do vậy thường có vốn đầu tư rất lớn, vì đặc tính là ngành kỹ thuật cao và thường phải đầu tư mang tính đồng bộ liên quan tới nhiều khâu. Các công ty thành viên của Tổng công ty đều luôn rất cần nguồn vốn đầu tư nhất là nguồn vốn từ Tổng công ty để phát triển. Trong bối cảnh Tổng công ty đang phát triển theo hướng tập đoàn kinh tế mạnh có khả năng cạnh tranh trên thế giới thì việc hoàn thiện cơ chế phân phối vốn tới các công ty thành viên trong Tổng công ty là rất quan trọng. Trong giai đoạn đầu khi mô hình công ty mẹ-công ty con chưa phát triển thì việc đầu tư cho các công ty thành viên có thể thông qua hoạt động ủy thác của công ty tài chính trong Tổng công ty. Về lâu dài có thể phát triển công ty mẹ của tập đoàn chính là công ty tài chính thì cơ chế đầu tư sẽ đỡ phức tạp hơn nhưng hiện nay tốt nhất là sử dụng nghiệp vụ ủy thác qua công ty tài chính để lợi dụng lợi thế của công ty tài chính trong việc thẩm định dự án, đầu tư tài chính,... Nghiệp vụ ủy thác là một nghiệp vụ đa dạng gồm nhiều hoạt động. Đây là một loại hình dịch vụ có chất lượng cao, đảm bảo sự thoả mãn cho bên ủy thác là bên nhận ủy thác, nó đảm bảo sự chia sẻ rủi ro và đem lại khả năng có lợi cao. Thực tế là các tập đoàn trên thế giới cũng rất ưa chuộng hình thức này vì đối với các tập đoàn lớn đa ngành thì việc chuyên môn hóa trong từng lĩnh vực kinh doanh là điều quan trọng do vậy công ty mẹ muốn phát triển đa ngành nhằm hướng đên tận dụng lợi thế qui mô hoạt động thì họ cần những nhà chuyên môn trong quản lý nguồn vốn của mình đầu tư vào các công ty con chứ một mình công ty mẹ sẽ không thể bao quát được toàn bộ hoạt động của các ngành. Nhất là đối với các tập đoàn mà công ty tài chính cũng chỉ là một công ty con thì nó không thể giao vốn đầu tư vào các công ty khác trực tiếp cho công ty tài chính được do vậy nó có thể sử dụng hình thức ủy thác vốn cho công ty tài chính mà từ đó vốn có thể luân 81 chuyển tới các công ty con nhanh và hiệu quả. Hình thức này là rất phù hợp với các Tổng công ty Nhà nước có xu hướng phát triển trở thành các tập đoàn kinh tế và đã thành lập các công ty tài chính thuộc Tổng công ty. Công ty Tài chính Dầu khí có vai trò rất quan trọng trong quá trình phát triển thành tập đoàn của Tổng công ty Dầu khí Việt Nam đồng thời luật pháp Việt Nam cũng không ngăn cản việc Tổng công ty ủy thác vốn đầu tư cho các công ty con của mình. Trong phương hướng hoạt động, điều lệ của công ty cũng rất chú trọng đến nguồn ủy thác từ Tổng công ty nhưng trên thực tế thì công ty Tài chính Dầu khí vẫn chưa nhận được vốn ủy thác từ Tổng công ty qua một năm hoạt động. Vậy nên chăng Tổng công ty Dầu khí xem xét nhanh chóng thực hiện việc ủy thác vốn cùng các loại tài sản, đặc biệt là các tài sản tài chính, cho công ty tài chính quản lý vừa để tăng lượng vốn kinh doanh cho công ty vừa để các nguồn vốn, tài sản này của Tổng công ty được đầu tư, quản lý hiệu quả, an toàn nhất và thể hiện được tính chuyên môn hóa, tính hiệu quả trong hoạt động của Tổng công ty tronglĩnh vực tài chính, một yếu tố quan trọng để phát triển thành tập đoàn kinh tế mạnh trên thế giới. 3.2.2. Tổng công ty xem xét giao cho công ty tài chính quản lý tài khoản trung tâm của Tổng công ty Các công ty thành viên của Tổng công ty Dầu khí gồm nhiều loại hình liên doanh, công ty hạch toán phụ thuộc, công ty hạch toán độc lập nhưng đa số đều có đặc điểm là luôn có những luồng tiền lớn phát sinh trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh do đặc thù của ngành nên doanh thu và chi phí thường lớn. Những luồng tiền này được tập trung tại tài khoản của Tổng công ty mở tại ngân hàng ngoại thương gọi là tài khoản trung tâm. Với một Tổng công ty lớn như Tổng công ty Dầu khí và đặc điểm sản phẩm chính là các sản phẩm từ dầu nên doanh thu là rất lớn nếu so với nền kinh tế Việt Nam nên lượng tiền trong tài khoản trung tâm này là rất lớn. Theo qui định của Tổng công ty Dầu khí, các đơn vị thành viên hạch toán phụ thuộc chỉ lập các báo cáo tài chính còn các luồng tiền phát sinh sẽ được đưa về Tài khoản trung tâm để Tổng công ty quản lý; các đơn vị hạch toán độc lập thì hạch toán doanh thu, chi phí phát sinh của đơn vị rồi nộp lại Tổng công ty theo một tỷ lệ nhất định theo từng quí. 82 Hiện nay, tài khoản trung tâm này đơn thuần là một loại tài khoản tiền gửi tại ngân hàng ngoại thương và do phòng Tài chính của Tổng công ty quản lý. Như vậy xét trên bình diện của ngành dầu khí thì đó là một sự lãng phí trong khi các công ty thành viên thiếu vốn lưu động vẫn phải đi vay ngân hàng với lãi suất thương mại vừa cao vừa chịu những sức ép hoặc phải đi vay vốn ủy thác từ các tổ chức tín dụng của công ty Tài chính Dầu khí nên gây lãng phí cho ngành dầu khí. Ngoài ra với việc đã thành lập công ty Tài chính thì việc quản lý tài khoản này nên giao về cho công ty Tài chính sẽ phù hợp hơn vì đây vừa là một đơn vị kinh doanh vừa có nhiệm vụ quan trọng là quản lý tài chính của ngành, đảm bảo nhu cầu vốn đầu tư của ngành và sử dụng vốn của ngành có hiệu quả nhất. Trong khi đó nếu giao cho công ty tài chính quản lý tài khoản trung tâm của Tổng công ty thì do công ty tài chính, một đơn vị có chức năng kinh doanh, nên sẽ biết cách và có thể làm số tiền trong tài khoản trung tâm đem lại lợi nhuận cao nhất cho Tổng công ty mà vẫn giữ được sự an toàn cần thiết chứ không như ban tài chính của Tổng công ty không thể làm các công việc như đầu tư vốn và nhiều hoạt động liên quan tới việc kinh doanh trên thị trường tiền tệ, thị trường vốn một cách hiệu quả. Khi được giao tài khoản trung tâm thì công ty Tài chính Dầu khí có nhiều cơ hội hơn để tiếp xúc với các dự án lớn trong ngành dầu khí và cả ngoài ngành dầu khí, công ty cũng có thuận lợi hơn trong việc thực hiện chức năng đảm bảo toàn bộ các nguồn vốn tín dụng cho tất cả các dự án của Tổng công ty và các công ty thành viên, vốn là việc rất khó khăn vì hầu hết các dự án của ngành dầu khí đều có mức đầu tư lớn so với mức vốn tự có của công ty tài chính là 100 tỷ VND và do các dự án của ngành dầu khí thường triển khai chậm so với dự án. Với việc được quản lý tài khoản trung tâm, công ty tài chính có khả năng đầu tư vào nhiều dự án ở trong cũng như ngoài ngành hơn do số lượng vốn trong tài khoản trung tâm là rất lớn so với mặt bằng các dự án ở Việt Nam do vậy có thể đem lại lợi nhuận cao cho Tổng công ty. Tất nhiên do đây là tài khoản trung tâm của một Tổng công ty mạnh của nền kinh tế đất nước nên việc đảm bảo tính an toàn của nó là rất quan trọng nhưng một lượng vốn lớn nếu được một đội ngũ những người có chuyên môn cao, giàu kinh nghiệm quản lý sẽ tạo được rất nhiều lợi thế với việc đa dạng hóa danh mục đầu tư với tỷ lệ thích hợp giữa tính thanh khoản và tính sinh lời. 83 Với một công ty tài chính hoạt động trong lĩnh vực tài chính tiền tệ mà chỉ có số vốn tự có là 100 tỷ VND như công ty dầu khí thì việc được quản lý tài khoản trung tâm của Tổng công ty với số tiền gấp rất nhiều lần số vốn tự có sẽ đem lại cho công ty những lợi thế nhất định trong việc cạnh tranh với các tổ chức tín dụng khác. Khi công ty tài chính đã có đủ kinh nghiệm hoạt động trong lĩnh vực tài chính thì việc giao cho công ty tài khoản trung tâm là có đủ độ tin cậy, khi đây là một công ty thành viên của Tổng công ty, và là một điều hợp lý do chỉ có công ty tài chính mới có đủ điều kiện để quản lý tất nhất tài khoản trung tâm này, có kinh nghiệm và công cụ cùng đội ngũ nhân viên đảm bảo quản lý có hiệu quả nhất nguồn vốn này. Thêm vào đó, do công ty tài chính có chức năng là hoạt động đáp ứng nhu cầu vốn của các dự án của Tổng công ty và các công ty thành viên nên việc quản lý tài khoản trung tâm sẽ cho phép công ty có thể nắm bắt, đánh giá tình hình tài chính của các công ty thành viên và các dự án để từ đó có thể đánh giá chính xác tính hiệu quả của các dự án, tốn ít chi phí cho việc thẩm định dự án, nhất là với các công ty thành viên hạch toán phụ thuộc khi mà các khoản lãi lỗ đều được hạch toán về Tổng công ty sau đó Tổng công ty phân bổ sau thì rất khó thẩm định tình hình tài chính của công ty đó. Việc giao tài khoản trung tâm cho công ty tài chính quản lý dưới hình thức ủy thác quản lý vốn cho phép công ty tài chính có thể đầu tư các dự án từ nguồn vốn này mà không cần e ngại hạn mức tín dụng 15% vốn tự có với mỗi khách hàng. Tóm lại, việc Tổng công ty giao cho công ty tài chính quản lý tài khoản trung tâm dưới hình thức ủy thác quản lý vốn khi công ty tài chính có đủ kinh nghiệm và chuyên mô cần thiết là hợp lý về mặt kinh tế cho Tổng công ty và do vậy Tổng công ty nên nghiên cứu, đánh giá tình hình để giao cho công ty Tài chính Dầu khí được quản lý tài khoản trung tâm sớm nhất có thể. 3.2.3. Hỗ trợ công ty một cách tối đa trong công tác đào tạo đội ngũ chuyên gia cả trong lĩnh vực chuyên môn và quản lý Là một công ty còn non trẻ, công ty Tài chính Dầu khí đang rất cần những chuyên gia trong lĩnh vực tài chính và cả dầu khí để có thể thực hiện tốt các nhiệm vụ của Tổng công ty giao và có thể tự mình hoạt động một cách hiệu quả. Hiện nay nhu cầu về vốn trong ngành Dầu khí là rất lớn, công ty Tài chính Dầu khí được thành lập cũng nhằm mục đích thu xếp, kinh doanh có hiệu quả nguồn vốn trong ngành Dầu khí. Điều này đòi hỏi công ty phải có một đội ngũ 84 chuyên gia có trình độ cao và năng động và phải có kinh nghiệm hoạt động trong lĩnh vực tài chính, điều này là một điều rất cần thiết để có thể hoạt động hiệu quả trong lĩnh vực tài chính. Mới thành lập nên công ty Tài chính Dầu khí không thể có đầy đủ đội ngũ chuyên viên đủ trình độ hoạt động hiệu quả và cũng cần xét trong bối cảnh công ty mới hoạt động không có nhiều điều kiện về tài chính cũng như kinh nghiệm để tự đào tạo cán bộ của mình. Do vậy Tổng công ty Dầu khí nên hỗ trợ công ty Tài chính trong vấn đề này bằng nhiều cách khác nhau như điều chuyển một số cán bộ có kinh nghiệm hoạt động trong các lĩnh vực mà công ty Tài chính đang cần sang công ty hoạt động một thời gian, liên hệ tổ chức các khoá đào tạo cho cán bộ công ty dựa theo những mối quan hệ về giáo dục đào tạo mà Tổng công ty sẵn có, cung cấp hay hỗ trợ một phần chi phí cho những khóa đào tạo do công ty Tài chính tự liên hệ tổ chức. Công ty Tài chính Dầu khí có đặc thù là một doanh nghiệp hoạt động trong ngành Dầu khí, những bạn hàng lớn nhất và quan trọng nhất của công ty đều là các đơn vị trong ngành nên công ty rất cần những chuyên gia trong lĩnh vực Dầu khí. Trong những công việc có liên quan đến chuyên môn thuộc ngành dầu khí công ty có thể thuê chuyên gia trong ngành tư vấn nhưng để thực hiện nhiệm vụ của công ty là cầu nối giữa Tổng công ty và thị trường tài chính và luân chuyển vốn trong nội bộ ngành có hiệu quả thì công ty cần có cho riêng mình một đội ngũ chuyên gia vừa có kiến thức về tài chính vừa có kiến thức chuyên môn của ngành Dầu khí. Những chuyên gia này sẽ đóng vai trò quan trọng trong việc theo dõi tình hình thực hiện các dự án của ngành Dầu khí, việc thẩm định hiệu quả dự án Dầu khí làm tăng độ tin cậy của các khách hàng với năng lực của công ty và đây là một nhân tố quan trọng để có thể phát triển nghiệp vụ ủy thác của công ty, một nghiệp vụ dựa rất nhiều vào lòng tin của khách hàng. Tổng công ty đóng vai trò quan trọng trong việc tạo ra đội ngũ chuyên gia này cho công ty Tài chính vì Tổng công ty là đơn vị chủ quản của công ty và có trách nhiệm về việc đào tạo cán bộ cho công ty tài chính. Điều này cũng phù hợp với mô hình tập đoàn kinh tế trên thế giới khi tập đoàn tiến hành hoạt động và quản lý tập trung một số mặt như nghiên cứu triển khai, đào tạo, xây dựng chiến lược phát triển,... 3.2.4. Xem xét việc tăng vốn pháp định cho công ty 85 Việc tăng vốn pháp định cho công ty Tài chính chủ yếu nhằm mục đích đảm bảo khả năng đáp ứng đầy đủ hơn mức cấp tín dụng và đầu tư của công ty cho các dự án và các đơn vị của Tổng công ty. Thoạt đầu điều này làm cho ta có cảm giác làm cho công ty bớt phụ thuộc vào nguồn ủy thác và có thể dẫn đến công ty không quan tâm nhiều đến nghiệp vụ ủy thác nhưng xét về lâu dài thì những kết quả khả quan trong các nghiệp vụ tín dụng và đầu tư mà công ty có được do việc sử dụng nguồn vốn tăng thêm này làm cho mức tín nhiệm của khách hàng với công ty tăng thêm và nghiệp vụ ủy thác có nhiều cơ hội hơn để phát triển. Nguồn vốn pháp định tăng lên cũng đồng nghĩa với trách nhiệm tài chính của công ty với những khách hàng ủy thác vốn cho công ty tăng giúp công ty có thể thu hút nhiều hơn nguồn vốn ủy thác và thu hút được các khách hàng ủy thác với mức lớn hơn trước. 3.3. Giải pháp đối với công ty Tài chính Dầu khí So với những kiến nghị với các cơ quan quản lý công ty Tài chính Dầu khí thì những giải pháp ở đây mang tính chủ động hơn nhiều do với các cơ quan kia thì họ không có trách nhiệm trực tiếp kinh doanh và cũng còn mất nhiều thời gian để đưa ra các quyết định thì với một công ty kinh doanh như công ty Tài chính Dầu khí việc đưa ra các quyết định phải nhanh nhậy và quyết đoán nếu thấy đúng là phải thực hiện ngay và họ cũng có quyền làm việc đó, nó hoàn toàn phụ thuộc vào ý muốn của họ. Là một công ty kinh doanh nên thu hút khách hàng và hoạt động thỏa mãn nhu cầu khách hàng là mục tiêu sống còn của công ty và tất cả các hoạt động của công ty như marketing, đa dạng hoá dịch vụ, nâng cao trình độ nhân viên,... cũng là để phục vụ mục tiêu này. 3.3.1. Đẩy mạnh hoạt động marketing Công tác marketing luôn được coi là khâu quan trọng nhất đối với mọi công ty, tập đoàn trên thế giới. Các công ty, tập đoàn này chi phí cho hoạt động marketing tại các cơ sở này thường chiếm tới 30% tổng chi phí, có những doanh nghiệp đã chi đến 50% tổng chi phí cho hoạt động marketing. Marketinh không chỉ bao gồm công việc quảng cáo, khuyếch trương, tiếp thị mà đó còn xuất phát từ các chính sách của công ty, năng lực quản lý và năng lực, trình độ của nhân viên... Công tác marketing là công tác chứng tỏ khả năng đáp ứng nhu cầu của công ty cùng với việc thể hiện là làm tăng thêm uy tín và danh tiếng của công ty. 86 Tại Việt Nam trong xu thế phát triển của kinh tế thị trường, các doanh nghiệp ngày càng thấy rõ tác dụng của marketing đối với công việc kinh doanh của doanh nghiệp mình. Các doanh nghiệp đã luôn luôn phải đổi mới sản phẩm, truyền bá và quảng cáo cho các sản phẩm của mình đồng thời nâng cao không ngừng năng lực của đội ngũ nhân viên và cán bộ quản lý. Công ty Tài chính Dầu khí mới ra đời được một năm nên về mặt danh tiếng còn rất hạn chế thêm vào đó khả năng tài chính so với các đối thủ cạnh tranh chủ yếu còn rất hạn chế nhưng đây lại là hai mặt quan trọng nhất của sự phát triển của mỗi công ty trong nền kinh tế. Thực tế công ty còn rất nhiều khó khăn trong việc khẳng định mình khi mà ngay cả các công ty thành viên trong Tổng công ty cũng chưa biết nhiều đến công ty và còn một số công ty thành viên quen quan hệ với các ngân hàng thương mại vốn là một đối tượng bạn hàng quen thuộc và trong các dự án lớn của ngành dầu khí khi có sự tham gia đầu tư của nước ngoài thì công ty tài chính hầu như chưa thể tìm được vị thế của mình và thường bỏ lỡ cơ hội do vốn quá nhỏ, kinh nghiệm còn thiếu và chưa gây dựng được tiếng tăm lớn. So với các ngân hàng thương mại thì rõ ràng các công ty tài chính kém lợi thế hơn rất nhiều do các ngân hàng còn có các dịch vụ bổ trợ kèm theo khi mà họ được phép thực hiện nhiều nghiệp vụ ngân hàng hơn. Tuy vậy các công ty tài chính và công ty Tài chính Dầu khí vẫn có những lợi thế riêng. Họ có thế mạnh khi thị trường khách hàng tập trung hơn, họ chuyên môn hơn trong lĩnh vực kinh doanh của họ, có lợi thế hơn khi cung cấp các dịch vụ tới các khách hàng kinh doanh nhỏ, họ không chịu những ràng buộc chặt chẽ của ngân hàng nhà nước, họ có thể chấp nhận những rủi ro ở mức cao hơn các ngân hàng khi cung cấp các dịch vụ vì họ chuyên sâu hơn các ngân hàng và họ cũng có chi phí quản lý thấp hơn các ngân hàng. Tuy thế để có thể duy trì được lượng khách hàng tiềm năng, liên tục phát triển thì các công ty tài chính nói chung và công ty Tài chính Dầu khí nói riêng rất cần những người quản lý vốn và tài sản cũng như sự tiếp xúc với các đơn vị cùng lĩnh vực để dễ dàng tiếp thu được kinh nghiệm mới. Do đó công ty Tài chính Dầu khí cần có những chính sách tiếp thị, quảng cáo, khuyếch trương danh tiếng của mình để các khách hàng trong và ngoài ngành dầu khí biết tới những lợi thế của mình khi trở thành khách hàng của công ty Tài chính Dầu khí và thu hút được những người giỏi từ khắp nơi về làm việc cho công ty. 87 Công tác marketing ủy thác ở công ty Tài chính Dầu khí cần lưu ý hai chiến lược về thị trường và tăng lượng vốn ủy thác. + Chiến lược về thị trường mục tiêu: Trong thời điểm hiện nay, dù được phép hoạt động với thị trường rộng lớn gồm các cá nhân và tổ chức trong và ngoài ngành dầu khí nhưng với khả năng còn hạn chế về vốn và khả năng nghiệp vụ cùng kinh nghiệm thì ban đầu công ty Tài chính Dầu khí nên tập trung vào các khách hàng trong ngành mà chủ yếu là các doanh nghiệp thành viên với nghiệp vụ ủy thác quản lý vốn và tài sản, bên cạnh đó công ty cũng nên tập trung vào các khách hàng là công nhân viên trong ngành, nhất là những người có thu nhập cao. Hiện nay lãi suất gửi tiền tiết kiệm của các ngân hàng là thấp thì cơ hội để công ty thu hút nguồn vốn ủy thác từ các đối tượng này là không quá khó khăn. Công ty nên có biện pháp tuyên truyền, quảng cáo với các khách hàng này, nhấn mạnh đến những lợi ích của họ trong việc sử dụng dịch vụ này của công ty. Sau thời gian tích lũy thêm kinh nghiệm, nâng cao khả năng của nhân viên cũng như của cán bộ quản lý thì có thể mở rộng nghiệp vụ ủy thác quản lý vốn này ra cho toàn bộ nền dân cư và nhất là các doanh nghiệp trong nền kinh tế. Nếu công ty có thể thực hiên tốt việc nhận ủy thác từ các doanh nghiệp trong nền kinh tế thì sẽ rất có lợi cho công ty khi từ đó có thể mở rộng được khách hàng với các dịch vụ khác của công ty và giúp cho công ty có thể đánh giá được phần nào tình hình tài chính của các doanh nghiệp đó để từ đó có được lợi thế trong việc thẩm định khách hàng và có thêm thông tin toàn diện cho các nghiệp vụ khác của công ty. Công ty Tài chính Dầu khí cũng có thể tiến hành thực hiện việc tăng vốn ủy thác và marketing cho nghiệp vụ ủy thác của công ty mình bằng việc mở ra hình thức nhận ủy thác từ dân cư và các công ty để đầu tư vào thị trường chứng khoán, đã hoạt động được một thời gian tại Việt Nam, như các quỹ đầu tư tín thác. Đây là một loại hình ủy thác đầu tư rất phổ biến tại nước ngoài nhưng ở Việt Nam còn rất mới mẻ do thị trường chứng khoán còn mới phát triển và cũng chưa có đủ khung pháp lý để các quỹ tín thác hoạt động do khả năng nảy sinh rủi ro đạo đức của người đại lý-ủy thác là rất lớn nên cần sự điều chỉnh chặt chẽ của luật pháp để bảo về quyền lợi của người ủy thác vốn. Do các quỹ chưa có tại Việt Nam nên sự cạnh tranh với loại hình này tại Việt Nam là không quá lớn nên công ty cũng nên phát triển hoạt động này, triển khai các biện pháp marketing thông qua các điều tra về 88 thu nhập, tìm hiểu mong muốn tiết kiệm của dân cư, đẩy mạnh hình thành công ty đầu tư chứng khoán dầu khí góp phần tuyên truyền về sản phẩm trên của công ty. 3.3.2. Phát triển thêm các nguồn ủy thác mới: Hiện nay, công ty Tài chính Dầu khí mới chỉ thực hiện hoạt động ủy thác với bên ủy thác đa số là các tổ chức tín dụng, cụ thể là các ngân hàng thương mại, và được một vài công ty thành viên trong Tổng công ty. Trong khi đó thì nguồn vốn trong nước tuy là cơ sở cho sự phát triển của các công ty, doanh nghiệp tại Việt Nam nhưng để thực sự có bước nhảy vọt trong việc tăng tốc phát triển đi lên tầm cao mới thì các công ty, doanh nghiệp này cần có được sự hỗ trợ vốn từ nước ngoài nhất là đối với các công ty trong ngành dầu khí, là ngành mà luôn cần những khoản vốn rất lớn để đầu tư vào các thiết bị kỹ thuật hiện đại nhằm đạt được hiệu quả kinh tế cao.Tổng công ty Dầu khí, với tư cách là doanh nghiệp có tạo ra lợi nhuận cao, có tích luỹ nội bộ và được coi là mũi nhọn của đất nước, rất coi trọng đa dạng hóa các phương thức huy động vốn trung và dài hạn tại công ty tài chính của Tổng công ty. Việc nhận ủy thác vốn từ nước ngoài của công ty Tài chính Dầu khí là khá thuận lợi do đặc điểm của ngành dầu khí luôn cần vốn lớn và Tổng công ty cũng có được danh tiếng trên quốc tế và ngành dầu khí là một trong những ngành thu hút được sự quan tâm của các nhà đầu tư nước ngoài nhiều nhất. Do vậy, công ty nên chủ động đẩy nhanh các hoạt động chuẩn bị, sẵn sàng các nghiệp vụ để thu hút các nhà đầu tư nước ngoài ủy thác vốn đầu tư vào ngành dầu khí rồi từ đó tạo được danh tiếng và sự tin tưởng để họ ủy thác vốn vào các ngành kinh tế khác của đất nước. Ngoài ra công ty còn nên mở rộng thêm việc tiếp nhận các nguồn vốn ủy thác của Chính phủ để tham gia vào các doanh nghiệp nhà nước thuộc diện cổ phần hóa. 3.3.3. Nhanh chóng thực hiện vai trò người ủy thác Luật các tổ chức tín dụng Việt Nam cho phép các tổ chức tín dụng được thực hiện cả việc nhận ủy thác lẫn việc ủy thác. Các công ty tài chính cổ phần tại Việt Nam là những đơn vị tích cực thực hiện cả hai vai trò ủy thác và nhận ủy thác vì nghiệp vụ này không chỉ mang lại hiệu quả tránh hạn mức tín dụng mà còn thể hiện rõ vai trò trung gian của công ty tài chính trên thị trường tài chính. Còn tại các ngân hàng quốc doanh, hoạt động ủy thác rất ít phát triển ngoại trừ ngân hàng đầu tư phát triển và ngân hàng nông nghiệp do nhận vốn ủy thác từ các tổ chức quốc tế cho các dự án phát xoá đói giảm nghèo và đầu tư cơ bản. 89 Đối với công ty Tài chính Dầu khí, trong giai đoạn tới có thể có một số vốn lớn khi phát hành thành công trái phiếu hay khi nhận tiền gửi trên 12 tháng hoặc quản lý tài khoản trung tâm thì ngoài việc quan tâm đầu tư cho các dự án trong ngành công ty nên lợi dụng thế mạnh đầu tư cho các ngành khác khi có cơ hội đem lại lợi nhuận hợp lý và cũng là để tăng tính linh hoạt trong hoạt động kinh doanh của công ty. Nhưng do công ty mới hình thành nên không thể đầu tư cho tất cả các hướng có hiệu quả nên khi có thông tin về các dự án không phù hợp hoàn toàn với chuyên môn để có thể thực hiện thì công ty nên có được mối liên hệ với các tổ chức tài chính khác có chuyên môn hơn trong lĩnh vực đó để tiến hành ủy thác hoặc ủy thác lại cho tổ chức đó thực hiện dự án đó, khi đó công ty Tài chính Dầu khí trở thành người ủy thác. Điều này là cần thiết trong nền kinh tế thị trường và công ty Tài chính Dầu khí nên chuẩn bị để có thể thực hiện được nghiệp vụ này một cách tốt nhất, tránh bị bất ngờ trước các diễn biến của hoạt động kinh tế. 3.3.4. Đa dạng hóa các dịch vụ ủy thác Trên thế giới, hoạt động ủy thác của các tổ chức tín dụng là rất đa dạng, phát triển phong phú đến mức gần như bất cứ hoạt động nào mà tự mình không làm được là có thể ủy thác cho người khác làm; không chỉ thực hiện nghiệp vụ nhận ủy thác và ủy thác vốn mà cả các công việc như quản lý tài sản, các loại giấy tờ có giá, phân chia lãi cổ phần, làm đại lý phát hành chứng khoán và đại lý thanh toán cho các công ty cổ phần... Điều này là do các nước này có nền kinh tế thị trường phát triển ở bậc cao và mọi công việc đều được chuyên môn hóa, xã hội hóa ở mức cao. Với các nghiệp vụ mới như trên, các tổ chức tín dụng không đơn thuần sử lý vốn ủy thác ở hoạt động tín dụng mà ngày càng đi sâu vào các hoạt động khác trong nền kinh tế như quản lý và kinh doanh trên thị trường chứng khoán. Một là: Công ty Tài chính Dầu khí cần nắm bắt các cơ hội khi mà thị trường chứng khoán của Việt Nam đang ngày càng phát triển và đi vào hoạt động ổn định để có thể thu hút vốn ủy thác của các nhà đầu tư muốn tham gia vào thị trường chứng khoán. Công ty có thể có nghiệp vụ mới hoạt động như hình thức một quỹ tương hỗ khi tập trung huy động từ những khoản vốn ủy thác nhỏ bé của các tầng lớp dân cư để tập trung lại và mang đầu tư vào chứng khoán hay mang đi đầu tư. Thông thường thì chỉ cho mục đích đầu tư vào chứng khoán trên thị trường chứng khoán để cho những người có vốn ít nhưng vẫn có cơ hội tham gia đầu tư vào thị trường chứng khoán hay có cơ hội tìm kiếm khoản lãi dù là rất ít ỏi từ khoản tiền 90 để dành nhỏ bé của họ. Thực tế là nghiệp vụ này có rất nhiều triển vọng. Trong điều kiện hiện nay, nền kinh tế đang rất cần vốn nhưng hầu hết người dân thu nhập còn thấp, việc mở ra thị trường chứng khoán thực chất cũng chưa thu hút được nhiều người dân tham gia vì đa số người dân không có điều kiện tham gia trực tiếp vào thị trường và với số vốn nhỏ thì rủi ro xảy đến với họ là rất lớn nên việc một tổ chức tài chính có chuyên môn đứng ra thu hút vốn- dù là những khoản nhỏ- để đầu tư vào thị trường chứng khoán sẽ được đông đảo ngưòi có thu nhập thấp quan tâm. Công ty Tài chính đang có sẵn hệ thống các quỹ tiết kiệm của nghiệp vụ Tiết kiệm Dầu khí và có thể sử dụng hệ thống các quỹ này cho việc huy động trên. Vấn đề là công ty Tài chính mới đang triển khai hoạt động kinh doanh chứng khoán nên cũng phải một thời gian nữa khi hoạt động có kinh nghiệm và uy tín trên thị trường chứng khoán thì nghiệp vụ này mới có cơ sở hoàn chỉnh để triển khai thành công. Hai là: Công ty Tài chính Dầu khí cần phát triển, tìm kiếm thêm các dịch vụ mới như dịch vụ quản lý tài sản bằng tiền, bằng hiện vật, các dịch vụ về xử lý công nợ,...trong đó dịch vụ về xử lý công nợ có tính hiệu khả thi cao khi công ty có lợi thế khi có nhiều thông tin về các công ty thành viên nên dễ dàng hơn trong việc đáp ứng dịch vụ này từ phía các công ty ngoài ngành và do đặc thù là một trung gian tài chính có mối quan hệ rộng rãi và có chuyên môn trong lĩnh vực tài chính nên dễ thực hiện công việc này hơn là các công ty kinh doanh tự làm nhưng bản thân dịch vụ này của công ty sẽ phải chịu sự cạnh tranh lớn từ phía nghiệp vụ chiết khấu thương phiếu của các ngân hàng thương mại. Ba là: Trong bối cảnh các công ty nhà nước đang được cổ phần hóa mạnh mẽ thì công ty Tài chính Dầu khí cần đẩy nhanh dịch vụ nhận tư vấn về cổ phần hóa các doanh nghiệp trong và ngoài ngành đồng thời nhận làm đại lý phát hành cổ phiếu của các doanh nghiệp này. Công ty cần xây dựng được các bước công việc cụ thể, khả thi để tạo sự tin tưởng cho các công ty thành viên và cả các công ty ngoài ngành. Hoạt động này có nhiều triển vọng trong bối cảnh cổ phần hóa các doanh nghiệp Nhà nước tuy là một công việc cấp bách nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp Nhà nước nhưng tốc độ triển khai còn chậm và gặp nhiều khó khăn. Công ty Tài chính Dầu khí cần nắm bắt cơ hội, dựa vào nhiều mối quan hệ có những bước tiếp cận các doanh nghiệp đang cần cổ phần hóa tham gia tư vấn phương án cổ phần hóa cho các công ty này tiến tới nhận được sự ủy thác toàn diện từ phía các doanh nghiệp đang tiến hành cổ phần hóa từ việc quyết định phương án cổ phần hóa đến làm đại lý ủy thác của doanh nghiệp trong việc tiêu thụ cổ phần. 91 Bốn là: Công ty Tài chính Dầu khí cũng cần nghiên cứu, phát triển dịch vụ ủy thác cho các doanh nghiệp trong cũng như ngoài ngành nhằm mục đích trợ cấp hưu trí, phân chia lợi nhuận, chia tiền thưởng cổ phần cho phát hành trái phiếu, cho mua lại các quỹ và trả lại các quỹ để thanh toán cho việc phát hành trái phiếu ủy thác thế chấp hoặc các giấy chứng nhận. Công ty cũng cần cung ứng các dịch vụ ủy thác liên quan tới việc phát hành chứng khoán như chuyển nhượng quyền sở hữu cổ phiếu chi trả lãi cổ phần cho các cổ đông của công ty, chuyển nhượng trái phiếu, chi trả lãi cổ phần và vốn gốc bảo quản sổ sách. Năm là: Một dịch vụ ủy thác rất phù hợp với vai trò và nhiệm vụ hoạt động tài chính trong Tổng công ty của công ty Tài chính Dầu khí là thực hiện dịch vụ ủy thác quản lý quĩ hưu trí của các công ty trong các công ty thành viên. Thực hiện việc kiểm soát tính toán đầu tư vào chứng khoán và thu nhập từ đầu tư vào chứng khoán. Thông thường các ngân hàng đầu tư khoảng 60% vốn của quĩ hưu trí vào cổ phiếu hoặc trái phiếu của các công ty, phần còn lại đầu tư vào tín phiếu Chính phủ, có lãi suất thấp hơn nhưng có khả năng chuyển đổi thành tiền mặt nhanh hơn. Việc thực hiện các nghiệp vụ mới như trên sẽ gây ra nhiều khó khăn cho công ty do với một số lượng công việc lớn như vậy thì ngay cả những bộ phận ủy thác rất lớn cũng gặp khó khăn để hoạt động có lợi nhuận cao và thỏa mãn nhu cầu của khách hàng vì khó có thể hệ thống hóa cách điều hành ủy thác do mỗi tài khoản đều có những đặc điểm riêng và yêu cầu của mỗi khách hàng với bộ phận ủy thác là rất khác nhau. Tuy nhiên không phải vì như vậy mà chúng ta không thực hiện việc mở rộng các hoạt động ủy thác. Ngay cả khi lợi nhuận đem lại cho công ty rất ít khi nhận những ủy thác mang tính cá nhân, không hợp nhất được với các tài khoản ủy thác khác- do vậy khiến chi phí tăng thêm- thì công ty cũng nên chấp nhận và phục vụ tốt vì đây có thể coi là một hoạt động marketing cho công ty. 92 Danh mục tài liệu tham khảo 1. Sách “ Ngân hàng, thị trường tài chính và tiền tệ”, F.Minskin. 2. Sách “Nghiệp vụ ngân hàng thương mại”, Eward W. Reed và Eward K. Gill. 3. Từ điển Kinh tế học hiện đại, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, 1999. 4. Báo “Tài chính doanh nghiệp” 5. Tạp chí “Ngân hàng”. 6. Tạp chí “ Thị trường tài chính”. 7. Tạp chí “Thông tin tài chính”. 8. Tạp chí “Nghiên cứu kinh tế”. 9. Tạp chí “Chứng khoán Việt Nam”. 10. Sách “ Quản trị ngân hàng thương mại”, Peter Rose. 11. Báo “Thời báo Kinh tế”.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfBáo cáo tốt nghiệp- Thực trạng của nghiệp vụ uỷ thác tại Công ty Tài chính Dầu khí.pdf
Luận văn liên quan