Thực trạng và giải pháp đầu tư trực tiếp nước ngoài vào khu công nghiệp, khu chế xuất

ĐỀ ÁN KINH TẾ THƯƠNG MẠI LỜI NÓI ĐẦU Ở Việt Nam, sau khi Nhà nước ban hành Luật Đầu tư nước ngoài, hoạt dộng đầu tư trực tiếp nước ngoài đã thu được những kết quả quan trọng trong việc thu hút vốn đầu tư, tạo công ăn việc làm, gia tăng nguồn hàng xuất khẩu góp phần tích cực thực hiện chiến lược kinh tế-xã hội của đất nước. Là một bộ phận của hoạt động đàu tư trực tiếp, các khu công nghiệp, khu chế xuất được thành lập ở nước ta đang trở thành mô hình tổ chức kinh tế linh dộng gắn kinh tế nghành với kinh tế lãnh thổ, là nhân tố quan trọng góp phần thúc đẩy hoạt động kinh tế đối ngoại, tạo ra bước chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Đầu tư trực tiếp nước ngoài vào khu công nghiệp, khu chế xuất là nội dung hoạt động quan trọng nhất, quyết định sự thành công hay thất bại của các khu trong hoàn cảnh đầu tư trong nước còn hạn hẹp, trở nên rất phức tạp. Đồng thời, đặt ra một câu hỏi cần được quan tâm và giải đáp: “Làm thế nào thu hút ngày càng mạnh mẽ đầu tư trực tiếp nước ngoài vào các khu công nghiệp, khu chế xuất đã được thành lập? ” Để góp một phần nhỏ bé vào nghiên cứu các vấn đề liên quan đến hoạt đồng đầu tư trực tiếp nước ngoài vào khu công nghiệp, khu chế xuất, sau một thời gian nghiên cứu, em xin chọn đề tài: “Thực trạng và giải pháp đầu tư trực tiếp nước ngoài vào khu công nghiệp, khu chế xuất.” Khóa luận không đề cập đến hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài trong một hay vài khu cụ thể, mà xem xét, đánh giá hoạt động này một cách tổng thể trên toàn bộ các khu tổng thể trong khoảng thời gian 16 năm, kể từ khi khu chế xuất đầu tiên được thành lập cho đến thời điểm hiện tại. Bài viết được trình bày với kết cấu gồm 3 chương: Chương I: Tổng quan về khu công nghiệp, khu chế xuất - Đầu tư trực tiếp nước ngoài vào khu công nghiệp, khu chế xuất. Chương II: Thực trạng đầu tư trực tiếp nước ngoài vào khu công nghiệp, khu chế xuất ở Việt Nam trong thời gian qua. Chương III: Giải pháp tăng cường thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào khu công nghiệp, khu chế xuất ở Việt Nam

doc35 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 2365 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Thực trạng và giải pháp đầu tư trực tiếp nước ngoài vào khu công nghiệp, khu chế xuất, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
công nghiệp Việt Nam có diện tích tương đối lớn. Tại khu vực kinh tế Bắc Bộ tập trung các khu công nghiệp lớn tầm cỡ, thu hút nhiều dự án lớn như: khu công nghiệp Thăng Long, khu công nghiệp Sài Đồng, khu công nghiệp Quế Võ, khu công nghiệp Nomura, khu công nghiệp Đình Vũ... Các ngành công nghiệp chủ chốt: sản xuất xi măng, đóng tàu (Hải Phòng và Quảng Ninh), ô tô, xe máy (Vĩnh Phúc, Hải Dương), luyện cán thép (Thái Nguyên).Trong đó nổi lên như khu công nghiệp Nomura được đánh giá là đồng bộ, hiện đại nhất Việt Nam có tỷ suất đầu tư cao ( xấp xỉ 7 triệu/ha ) thu hút, tạo việc làm cho trên 15.000 lao động địa phương (tính đến năm 2007) và đến năm 2010, con số này sẽ lên đến 30.000 lao động...Khu công nghiệp - đô thị Quế Võ rộng hơn 600 ha. Theo chủ trương, mô hình khu công nghiệp Quế Võ được thiết kế hiện đại, bao gồm một diện tích rộng 311,6 ha dành cho xây dựng các nhà máy, xí nghiệp. Tổng vốn đầu tư để xây dựng cơ sở hạ tầng lên tới 531 tỷ đồng, và 200 tỷ đồng dành cho xây dựng nhà xưởng; một khu dân cư đô thị Kinh Bắc hiện đại rộng 300 ha, với tổng vốn đầu tư 1.000 tỷ đồng; khu vui chơi giải trí có diện tích 100 ha, với tổng vốn đầu tư 300 tỷ đồng. Khu công nghiệp lớn nhất miền Bắc là khu Đình Vũ với diện tích 982 ha ở thành phố Hải Phòng với nhiều dự án đầu tư có vốn đăng ký 79.930.000USD…Vùng sông hồng 30 khu công nghiệp, trung du miền núi 5 khu . Tại miền Trung có nhiều khu công nghiệp có diện tích lớn như KKT VŨNG ÁNG diện tích tự nhiên 22.781 ha bao gồm toàn bộ các xã: Kỳ Nam, Kỳ Phương, Kỳ Lợi, Kỳ Long, Kỳ Liên, Kỳ Thịnh, Kỳ Trinh, Kỳ Hà và Kỳ Ninh thuộc huyện Kỳ Anh, tỉnh Hà Tĩnh. KKT Dung Quất là khu liên hợp lọc hoá dầu đầu tiên của Việt Nam, diện tích : 10.300 ha, có năng lực hàng hoá qua cảng lớn nhất Việt Nam-đến năm 2020 là 30 triệu tấn/năm. Bên cạnh đó còn các khu chế xuất Thuận Yên diện tích trên 200 ha, khu Liên Chiểu diện tích 373,5 ha, khu Hoà Hiệp 705.4 ha…Miền Bắc và Miền Trung chiếm trên 80% diện tích khu công nghiệp cả nước Tại miền Nam và đồng bằng sông Cửu Long có các khu vực tập trung các khu công nghiệp như : Trong năm 2007, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu đã bổ sung quy hoạch phát triển 4 KCN trên địa bàn tỉnh đến năm 2015 với quy mô 3.250 ha gồm: KCN Châu Đức (1.550 ha), KCN Đất Đỏ I (500 ha), KCN Phú Mỹ III (800 ha) và mở rộng KCN Phú Mỹ II (400 ha). Năm 2007, KCN Bình Dương đã thu hút được trên 1 tỷ đô la Mỹ vốn đầu tư nước ngoài, tăng gấp 2 lần so cùng kỳ và bằng 125% kế hoạch năm. Các khu CN Đồng Nai, Long An có diện tích trung bình 200-300 ha. Mỗi khu có khoảng vài đến hàng chục khu công nghệ lớn nhỏ. Diện tích chiếm khoảng 60%.Với 65 KCN (chiếm tổng diện tích trên 20 ngàn ha, trong đó có 42 khu công nghiệp đã và đang hoạt động), vùng cũng được xem là nơi tập trung KCN lớn nhất cả nước. Giá trị sản xuất công nghiệp của Vùng đóng góp ngày càng cao vào thành quả chung của đất nước. Sau gần 10 năm thành lập, vùng đã thu hút hơn 3.000 dự án đầu tư vào các khu công nghiệp, trong đó có hơn 1.800 dự án đầu tư nước ngoài với tổng vốn 15 tỷ USD. b.Qui hoạch các khu công nghiệp, khu chế xuất. Vùng Số khu công nghiệp, khu chế xuất Vùng núi Bắc Bộ Vùng Tây Nguyên Vùng đồng bằng sông Cửu Long Vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ Vùng kinh tế trọng điểm Trung Bộ Vùng kinh tế trọng điểm Nam Bộ Các vùng khác 3 3 21 37 21 54 29 Thủ tướng Chính phủ vừa phê duyệt Quy hoạch phát triển các khu công nghiệp đến năm 2015 và định hướng đến năm 2020 nhằm mục tiêu hình thành hệ thống các khu công nghiệp chủ đạo có vai trò dẫn dắt sự phát triển công nghiệp quốc gia, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế tại những địa phương có tỷ trọng công nghiệp trong GDP thấp. Theo Quy hoạch này, tỷ lệ đóng góp của các khu công nghiệp vào tổng giá trị sản xuất công nghiệp cả nước sẽ tăng từ 24% hiện nay lên 40% vào năm 2010 và trên 60% trong giai đoạn tiếp theo. Tương tự, tỷ lệ hàng xuất khẩu của các KCN đóng góp vào tổng giá trị hàng công nghiệp xuất khẩu cả nước sẽ tăng tương ứng từ 19,2% lên 40%. Về diện tích, quy hoạch chỉ rõ, từ nay đến năm 2010 phấn đấu lấp đầy các KCN đã được thành lập; chỉ thành lập mới một số KCN trên cơ sở có chọn lọc, với diện tích tăng thêm khoảng 15.000-20.000ha. Như vậy, tổng diện tích các KCN đến năm 2010 sẽ đạt mức 45.000-50.000ha. Đến năm 2015 ( dự kiến có 113 khu công nghiệp được thành lập mới với diện tích quy hoạch là 29.200 ha) diện tích này đạt khoảng 65.000-70.000ha, năm 2020 đạt khoảng 80.000ha. Bản Quy hoạch cũng nêu rõ, việc mở rộng các KCN hiện có chỉ được thực hiện khi tổng diện tích đất công nghiệp đã được cho thuê ít nhất là 60% và đã xây dựng xong công trình xử lý nước thải tập trung. Kết cấu hạ tầng các KCN, đặc biệt là các công trình xử lý nước thải và diện tích cây xanh, được chú trọng đầu tư đồng bộ nhằm bảo vệ môi trường và phát triển bền vững. Cùng với Quyết định phê duyệt Quy hoạch này, Thủ tướng Chính phủ cũng ban hành kèm theo danh mục 117 KCN dự kiến ưu tiên thành lập mới đến năm 2015 và danh mục 27 KCN dự kiến mở rộng, trong đó khu vực đồng bằng sông Hồng chiếm ố lượng nhiều nhất với 31 KCN dự kiến thànhs lập mới. 2.Đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng trong khu công nghiệp, khu chế xuất: Số lượng các KCN được thành lập tăng qua các năm thể hiện sự quan tâm của các nhà đầu tư về một lĩnh vực đầu tư hiệu quả. Trong 3 năm đầu, từ 1991-1993, cả nước chỉ có 2 KCN được thành lập là KCX Tân Thuận và KCX Linh Trung 1 (thành phố Hồ Chí Minh), 2 năm 1994-1995 có thêm 5 KCN được thành lập. Sau khi Luật Đầu tư nước ngoài (sửa đổi) năm 1992 có quy định về việc khuyến khích thu hút đầu tư nước ngoài vào các KCN, KCX, việc “thí điểm” thành lập các KCN từ 1992-1995 có thể nói là đã kết thúc, từ năm 1996 số lượng các KCN được tăng lên đáng kể, riêng năm 1996 đã có 13 KCN được thành lập, cao gấp đôi so với giai đoạn trước. Đặc biệt là năm 1997, Quy chế quản lý KCN, KCX và KCNC ban hành kèm theo Nghị định số 36/CP ngày 24/4/1997 của Chính phủ ra đời và hướng dẫn hoạt động của các KCN, KCX, tạo khung pháp lý thống nhất cho việc thành lập và hoạt động của các KCN, vì thế các KCN đến năm 1997 đã là: 45 KCN, gấp 3,5 lần so với năm 1996. Những năm sau đó, quy mô các KCN tăng tương đối đều đặn hàng năm với tốc độ khoảng 20%/năm Hiện tại Việt Nam có hơn 150 khu công nghiệp, khu chế xuất với khoảng 320.000 ha tại 55 tỉnh thành trên cả nước, trong đó đã có 21.700 ha đã được lấp kín. Cả nước đang có 2.600 dự án có vốn đầu tư nước ngoài trị giá 25,3 tỷ USD, chiếm 72% quỹ đất của khu công nghiệp, khu chế xuất, chiếm 60% nguồn vốn FDI và 2.800 dự án của doanh nghiệp trong nước đầu tư đạt tổng giá trị hơn 437 tỷ USD. Theo kế hoạch Chính phủ đã phê duyệt phát triển khu công nghiệp của cả nước, đến năm 2010 diện tích đất công nghiệp sẽ đạt 40.000 - 45.000 ha. Đến năm 2020, diện tích đất công nghiệp sẽ tăng lên khoảng 70.000-80.000 ha. Theo kế hoạch trong giai đoạn từ 2006-2010, Việt Nam sẽ lập thêm 100 khu công nghiệp, khu chế xuất nâng đất công nghiệp lên khoảng trên 40.000 ha, đến năm 2020, con số này vào khoảng 70-80 ngàn ha. 3.Thu hút đầu tư vào khu công nghiệp, khu chế xuất đến cuối năm 2007 Tính đến thời điểm 31/12/2007, các khu công nghiệp trong cả nước đã thu hút trên 1 triệu lao động trực tiếp. Bình quân 1 ha đất công nghiệp đã cho thuê thu hút được 72 lao động, và tạo ra được giá trị sản xuất kinh doanh trên 1,5 triệu USD. Cũng trong năm 2007, các doanh nghiệp khu công nghiệp nộp ngân sách được khoảng 1,1 tỷ USD. Theo ghi nhận chính thức từ Vụ Quản lý khu công nghiệp và khu chế xuất (Bộ Kế hoạch và Đầu tư): năm 2007, các khu công nghiệp trong cả nước đã tiếp tục đà tăng trưởng của các năm trước, đồng thời có những phát triển mới mang tính đột phá... Đây cũng là năm có số lượng khu công nghiệp được thành lập mới và mở rộng nhiều nhất trong 16 năm xây dựng và phát triển các khu công nghiệp Việt Nam, gồm: 33 khu công nghiệp mới được thành lập, có tổng diện tích tự nhiên 9.024 ha; và 12 khu công nghiệp mở rộng diện tích thêm 1.992 ha. Như vậy, tính đến cuối năm 2007 trong cả nước đã có 183 khu công nghiệp được thành lập, với tổng diện tích đất tự nhiên là 43.687 ha, phân bố khắp 54 tỉnh, thành phố trong cả nước, trong đó diện tích đất công nghiệp có thể cho thuê đạt 29.179 ha, bằng 66,8%. Trong số này có 111 khu công nghiệp đã đi vào hoạt động và đã cho thuê được 13.120 ha, đạt tỷ lệ lấp đầy diện tích đất công nghiệp 73,7%... TS. Trần Ngọc Hưng, Vụ phó Vụ Quản lý khu công nghiệp và khu chế xuất, xác nhận, năm 2007 cả đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài vào các khu công nghiệp đã có sự tăng đột biến, và đạt được ở mức cao nhất từ trước đến nay.Cụ thể là, ngoài 14 dự án đầu tư nước ngoài và 31 dự án đầu tư trong nước vào phát triển kết cấu hạ tầng khu công nghiệp với tổng vốn trên 870 triệu USD và 20.200 tỷ đồng. Các khu công nghiệp trong cả nước còn thu hút được 7.270 triệu USD vốn đầu tư nước ngoài. Trong đó vốn đầu tư mới của 605 dự án là 4.805 triệu USD, và vốn tăng thêm của 459 lượt điều chỉnh dự án là 2.465 triệu USD. Đồng thời, các khu công nghiệp đã thu hút được thêm 41.629 tỷ đồng vốn đăng ký đầu tư của các dự án trong nước; gồm: 468 dự án mới và 128 lượt bổ sung điều chỉnh. Đồng Nai, Bình Dương, Bà Rịa - Vũng Tàu, Tp.HCM là những địa phương thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào các khu công nghiệp nhiều nhất, với 4.519,3 triệu USD, chiếm 62% vốn đầu tư tăng thêm vào các khu công nghiệp cả nước. Riêng Đồng Nai, dẫn đầu về đầu tư nước ngoài vào các khu công nghiệp với 1.745 triệu USD. Về đầu tư trong nước vào các khu công nghiệp, Bà Rịa - Vũng Tàu cao nhất với trên 5.000 tỷ đồng, tiếp theo là Tp.HCM, Hải Phòng (trên 3.000 tỷ), Hải Dương (2.800 tỷ), Long An (2.100 tỷ)... Tính chung, đến cuối năm 2007 các khu công nghiệp trong cả nước đã thu hút được 3.020 dự án có vốn đầu tư nước ngoài với tổng vốn 29.872 triệu USD, và 3.070 dự án đầu tư trong nước với tổng vốn đăng ký 197.382 tỷ đồng; và 31 dự án đầu tư nước ngoài và 152 dự án trong nước có tổng vốn 1.872 triệu USD và 57.600 tỷ đồng để phát triển hạ tầng các khu công nghiệp. Trong số này đã có 2.012 dự án đầu tư nước ngoài và 1.930 dự án đầu tư trong nước đi vào hoạt động với tổng vốn đầu tư thực hiện đạt 14.046 triệu USD và 104. 261 tỷ đồng, tương ứng với 47% và 53% tổng vốn đầu tư đăng ký. Các doanh nghiệp khu công nghiệp trong năm qua cũng đạt mức tăng trưởng cao so với năm 2006: tổng doanh thu đạt 22,4 tỷ USD, tăng 24%; kim ngạch xuất khẩu đạt 10,8 tỷ USD, tăng 31,7%, và chiếm 22% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước... II.ĐÁNH GIÁ HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI VÀO KHU CÔNG NGHIỆP, KHU CHẾ XUẤT. 1.Cơ cấu đầu tư trực tiếp nước ngoài theo quốc gia Việt Nam đã và đang thành công trong thu hút và sử dụng có hiệu quả vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (ĐTNN) mà làn sóng đầu tư nước ngoài mới lần thứ 2 có dấu hiệu từ năm 2005 đã hình thành đưa tới với kết quả cao vào năm 2007 vốn đầu tư cấp mới đạt hơn 20 tỷ USD, tăng 69,3% so với năm trước, vượt 53,2% kế hoạch dự kiến cả năm (13 tỷ USD) Trong năm 2007 có 57 quốc gia và vùng lãnh thổ đầu tư tại Việt Nam, trong đó Hàn Quốc tiếp tục giữ vị trí đứng đầu với số vốn đăng ký trên 4,4 tỷ USD, chiếm 24,9% về tổng vốn đăng ký, British Virgin Islands đứng thứ 2 với 4,2 tỷ USD (chiếm 23,8%). Singapore đứng thứ 3 với 2,6 tỷ USD (chiếm 14,6%), Đài Loan đứng thứ 4 với 1,7 tỷ USD (chiếm 9,7%), Malaysia đứng thứ 5 với 1,09 tỷ USD (chiếm 6,1%), Nhật Bản đứng thứ 6 với 965 triệu USD (chiếm 5,4%), Hoa Kỳ (không tính các dự án đầu tư thông qua nước thứ 3) đứng thứ 8 với 354 triệu USD (chiếm 2%).  Song song với việc đầu tư vào thành lập các dự án mới nói trên, đã có 32 quốc gia và vùng lãnh thổ có dự án đang hoạt động sản xuất kinh doanhh, tăng vốn, mở rộng sản xuất, trong đó, 4 nền kinh tế đứng đầu đã chiếm khoảng 72,1% tổng số vốn đầu tư bổ sung : đứng đầu là Đài Loan có số vốn tăng thêm 688,7 triệu USD, chiếm 27,8% tổng số vốn bổ sung ; Hàn Quốc đứng thứ 2 với 533,6 triệu USD (chiếm 21,6%); Nhật Bản đứng thứ 3 với 338,9 triệu USD (chiếm 13,7%); Hồng Kông đứng thứ 4 với 219,7 triệu USD (chiếm 8,9%); Samoa đứng thứ 5 với 173,4 triệu USD (chiếm 7%). Tính gộp cả vốn cấp mới lẫn vốn tăng nói trên có 6 nền kinh tế lọt vào tốp đầu tư hơn 1 tỷ USD tại Việt Nam riêng trong năm 2007, như sau: (1) Hàn Quốc đầu tư 4,99 tỷ USD, (2) B.V.Island đầu tư 4,32 tỷ USD, (3) Singapore đầu tư 2,67 tỷ USD, (4) Đài Loan đầu tư 2,42 tỷ USD, (5) Nhật Bản đầu tư 1,3 tỷ USD và (6) Malaysia đầu tư 1,17 tỷ USD. Như vậy riêng các nước châu á trong năm 2007 đã đăng ký đầu tư 12,5 tỷ USD tại Việt Nam, chiếm 62,5% tổng vốn đầu tư. 2.Cơ cấu đầu tư trực tiếp nước ngoài trong một số nghành, lĩnh vực công nghệ trong các khu công nghiệp, khu chế xuất. Trong vốn đăng ký là 17,85 tỷ USD của 1.445 dự án mới, tăng 73,5% về số dự án và 96,3% về vốn đăng ký so với năm trước, đồng thời có 379 dự án bổ sung với tổng vốn đầu tư đăng ký tăng thêm là 2,4 triệu USD, bằng 78% về số dự án và 84,9% về vốn bổ sung so với năm 2006, vốn đầu tư đăng ký tiếp tục tập trung trong lĩnh vực công nghiệp, chiếm 62,9% về số dự án và 50,6% tổng vốn đầu tư đăng ký, tiếp theo là lĩnh vực dịch vụ, chiếm 31,5% về số dự án và 47,7% tổng vốn đầu tư đăng ký, số còn lại đầu tư trong lĩnh vực nông, lâm, ngư nghiệp. Theo thống kê của Cục Đầu tư nước ngoài (Bộ Kế hoạch và Đầu tư) tính đến tháng 6/2007 có 7.490 dự án FDI còn hiệu lực, với tổng vốn đăng ký 67,3 tỷ USD, vốn thực hiện gần 30 tỷ USD. Trong đó, các dự án thuộc lĩnh vực nông, lâm nghiệp là 758 dự án vốn đăng ký 3,78 tỷ USD, vốn thực hiện gần 1,9 tỷ USD. Theo đánh giá, lĩnh vực nông nghiệp chưa thu hút sự quan tâm của các nhà đầu tư. Điều này thể hiện qua tỷ trọng FDI trong ngành nông nghiệp chiếm 10,6% số dự án ( qua cơ cấu đầu tư giữa các ngành) và chỉ chiếm 7,6% tổng số vốn đầu tư trong đó ngành công nghiệp nặng chiếm tới 45,5% vốn đầu tư, công nghiệp nhẹ chiếm 32,7%. Chỉ tính riêng 6 tháng đầu năm 2007, FDI vào lĩnh vực nông nghiệp chỉ chiếm 2,46% tương đương với 107 triệu USD trên tổng số 4,3 tỷ USD vốn FDI của cả nước. Thực hiện mục tiêu cuả ngành nông nghiệp đề ra đến 2010 thu hút được 1,5 tỷ USD vốn FDI, tháng 8-2007 Bộ NN & PTNT đã ban hành Chiến lược và quy hoạch sử dụng FDI đến năm 2010. Trong quý IV năm 2007, Bộ sẽ trình Chính Phủ xem xét phê duyệt, ban hành chính sách ưu đãi mới để thu hút FDI cho ngành nông nghiệp Việt Nam. Những năm gần đây, đầu tư nước ngoài vào Việt Nam đang tăng trưởng với nhịp độ cao và chất lượng mới. Chính phủ đang nắm bắt cơ hội, khẩn trương rà soát, loại bỏ các thủ tục hành chính bất hợp lý, tạo môi trường pháp lý thuận lợi, mở rộng phân cấp quản lý đầu tư để khuyến khích, đẩy mạnh thu hút vốn FDI đặc biệt vào lĩnh vực nông nghiệp và phát triển nông thôn vì nước ta là một nước nông nghiệp. Theo Bộ NN& PTNT, mặc dù nguồn vốn đầu tư cho ngành còn hạn chế, các dự án FDI đã góp phần không nhỏ thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp nông thôn, phát triển sản xuất hàng hoá, nâng cao giá trị nông sản, đẩy mạnh xuất khẩu. Hiện nay, tại Việt Nam có 758 dự án FDI đã và đang được triển khai trong lĩnh vực nông nghiệp đem lại doanh thu khoảng 312 triệu USD, xuất khẩu trên 100 triệu USD. Tuy nhiên, vốn FDI cho nông nghiệp ở nước ta vẫn còn khá khiêm tốn. Tại các quốc gia và vùng lãnh thổ có nền nông nghiệp tiến bộ Châu Á như Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan…tỷ trọng vốn FDI nông nghiệp thường ổn định từ 13% đến 21%. Tính đến hết tháng 6-2007, số vốn FDI đăng ký trong lĩnh vực nông nghiệp ở Việt Nam mới đạt khoảng 5,6%. Còn nếu tính riêng trong 6 tháng đầu năm 2007, vốn FDI trong nông nghiệp chỉ chiếm 2,46% trong tổng vốn FDI cả nước. 3.Cơ cấu đầu tư nước ngoài vào khu công nghiệp, khu chế xuất theo địa phương Trong năm 2007, ngoài một số địa phương tiếp tục phát huy tiềm năng về điều kiện thuận lợi trong thu hút vốn ĐTNN (TP Hồ Chí Minh, Hà Nội, Bà Rịa-Vũng Tàu, Bình Dương, Đồng Nai), một số địa phương khác (Phú Yên, Vĩnh Phúc, Hậu Giang, Thừa Thiên-Huế, Long An, Đà Nẵng, Ninh Bình .v.v.) đã có nhiều chuyển biến tích cực trong thu hút ĐTNN, dường như có một không khí thi đua thu hút vốn ĐTNN giữa các địa phương trong toàn quốc. Trừ lĩnh vực dầu khí, cả nước có 56 địa phương thu hút được dự án ĐTNN, trong đó, TP Hồ Chí Minh đứng đầu với số vốn đăng ký 2,28 tỷ USD, chiếm 12,7% tổng vốn đầu tư đăng ký; Hà Nội đứng thứ 2 với 1,9 tỷ USD (chiếm 11,1%); Đồng Nai đứng thứ 3 với 1,786 tỷ USD (chiếm 10%), Bình Dương đứng thứ 4 với 1,751 tỷ USD, (chiếm 9,8%), Phú Yên đứng thứ 5, với 1,703 tỷ USD (chiếm 9,5%). Nếu tính cả số vốn đầu tư cấp mới và tăng thêm thì có 6 địa phương lọt vào tốp thu hút vốn ĐTNN trên 1 tỷ USD riêng trong năm 2007, đó là : (1) Thành phố Hồ Chí Minh với 2,8 tỷ USD, (2) Đồng Nai với tổng vốn 2,7 tỷ USD, (3) Hà Nội với 2,16 tỷ USD, (4) Bình Dương với 2,15 tỷ USD, (5) Phú Yên với 1,7 tỷ USD, (6) Bà Rịa-Vũng Tàu với 1,1 tỷ USD.  III.QUẢN LÝ DOANH NGHIỆP CÓ VỐN ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI HOẠT ĐỘNG TRONG KHU CÔNG NGHIỆP, KHU CHẾ XUẤT. 1.Cơ sở pháp lý cho doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài hoạt động trong khu công nghiệp, khu chế xuất. Ngày 14/3/2008, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 29/2008/NĐ-CP quy định về khu công nghiệp, khu chế xuất và khu kinh tế. Nghị định quy định về trình tự và thủ tục thành lập, cơ chế chính sách, quản lý nhà nước đối với khu công nghiệp và khu kinh tế, chức năng nhiệm vụ quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Ban Quản lý khu công nghiệp và khu kinh tế.  Khu công nghiệp, khu chế xuất là địa bàn ưu đãi đầu tư, được hưởng chính sách ưu đãi áp dụng đối với địa bàn thuộc Danh mục địa bàn có điều kiện kinh tế-xã hội khó khăn. Nhà đầu tư có dự án đầu tư vào các khu này được hưởng các ưu đãi như giảm 50% thuế thu nhập đối với người có thu nhập thuộc diện chịu thuế, kể cả người Việt Nam và người nước ngoài làm việc tại khu kinh tế; chi phí đầu tư xây dựng, vận hành hoặc thuê nhà chung cư và các công trình kết cấu hạ tầng phục vụ công nhân làm việc tại khu công nghiệp, khu chế xuất, khu kinh tế được khấu trừ để tính thu nhập chịu thuế của doanh nghiệp; các ưu đãi hiện hành đối với dự án đầu tư vào các lĩnh vực thuộc Danh mục lĩnh vực đặc biệt ưu đãi đầu tư v.v…Người nước ngoài, người Việt Nam định cư ở nước ngoài làm việc, hoạt động đầu tư, kinh doanh tại khu kinh tế và thành viên gia đình được cấp thị thực xuất nhập cảnh có giá trị nhiều lần và phù hợp với thời gian làm việc tại khu kinh tế, được cư trú, tạm trú có thời hạn trong khu kinh tế và ở Việt Nam. Nghị định được đăng Công báo ngày 26/3/2008 và có hiệu lực thi hành sau 15 ngày, kể từ ngày đăng Công báo. Bãi bỏ các Quyết định số 53/2001/QĐ-TTg ngày 19/4/2001 về chính sách đối với khu kinh tế cửa khẩu biên giới và Quyết định số 273/2005/QĐ-TTg ngày 31/10/2005 về việ sửa đổi, bổ sung một số điều của Quyết định số 53/2001/QĐ-TTg. 2.Những nội dung chính trong quản lý Nhà nước đối với hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài vào khu công nghiệp, khu chế xuất. Với hoạt động nước ngoài nói chung, quản lý Nhà nước bao gồm những nội dung cơ bản sau: -Xây dựng chiến lược, qui hoạch, kế hoạch thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài. Đây là quản lý vĩ mô làm định hướng và tạo tiền đề cho hợp tác đầu tư khâu hình thành dự án. -Xây dựng môi trường đầu tư bao gồm hệ thống các điều kiện tự nhiên, kinh tế và xã hội, trong đó quan trọng nhất là xây dựng môi trường chính trị - xã hội ổn định, chính sách kinh tế vĩ mô, hệ thống pháp luật, cơ chế quản lý, hệ thống hạ tầng kỹ thuật và dịch vụ bảo đảm cho sự hình thành và hoạt dộng của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. - Tổ chức bộ máy quản lý Nhà nước đầu tư trực tiếp nước ngoài. - Tổng kết, đánh giá hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài. Quá trình hình thành và hoạt động của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài xét dưới giác độ quản lý Nhà nước được chia làm 3 giai đoạn chính: -Vân động đầu tư, hình thành dự án. -Thẩm định, cấp giấy phép đầu tư. -Quản lý doanh nghiếp sau khi được thành lập (cấp giấy phép đầu tư). Những nội dung cơ bản quản lý Nhà nước đầu tư trực tiếp nước ngoài trên đây được thể hiện cụ thể trong Luật đầu tư nước ngoài và các văn bản hướng dẫn thi hanh luật, trong đó vừa thể hiện những nội dung quản lý vĩ mô, vừa đi sâu vào quản lý vi mô, xác định cơ chế quản lý, quyền hạn và trách nhiệm của các cơ quan quản lý Nhà nước, của các doanh nghiệp. Hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài vào khu công nghiệp, khu chế xuất không nằm ngoài hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài nói chung và trên cả nước, nên cũng chịu sự quản lý của Nhà nước với những nội dung đã nói. Sau đây là những nội dung chính: a.Thành lập Ban quản lý khu công nghiệp, khu chế xuất - cơ quan thực hiện cơ chế “một cửa” để thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài. Trong quản lý ,điều hành khu công nghiệp, khu chế xuất, cần hạn chế đến mức tối đã tệ quan liêu, hành chính, giấy tờ vốn là di chứng nặng nề trong quản lý Nhà nước ở các nước đang phát triển. Trong hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài, quản lý Nhà nước theo chế độ “ một cửa” là tạo ra một cơ quan làm đầu mối giải quyết mọi công việc do nhà đầu tư yêu cầu, tránh cho họ phải tiếp xúc với nhiều cơ quan quản lý Nhà nước. Dể thực hiện chế độ quản lý “một cửa” ,cơ quan đầu mối ngoài chức năng nhiệm vụ chính của mình theo luật định. được các Bộ, cơ quan chức năng uỷ quyền giải quyết một số vấn đề trong phạm vi nhất định thuộc ngành, đồng thời là cơ quan phối hợp giải quyết những vấn đề về chuyên môn, nghiệp vụ ngoài phạm vi được uỷ quyền vốn thuộc trách nhiệm, quyền hạn của các cơ quan quản lý Nhà nước các cấp. Ban quản lý khu công nghiệp, khu chế xuất là cơ quan đầu mối trực tiếp làm việc với các nhà đầu tư trong khu, việc gì thuộc thẩm quyền của mình thì Ban quản lý quyết định, không thuộc thẩm quyền thì Ban quản lý phối hợp với các cơ quan quản lý Nhà nước hữu quan để xử lý, tránh cho các nhà đầu tư phải tíêp xúc, giao dịch với nhiều cơ quan Nhà nước, gây phức tạp phiền hà trong việc giải quyết các thủ tục quản lý. Không nên ngộ nhận rằng “một cửa “ có nghĩa là một mình toàn quyền quyết định mọi vấn đề, bất chấp các cơ quan Nhà nước khác b.Định hướng cơ cấu ngành trong khu công nghiệp, khu chế xuất. Ở các nước đang phát triển Châu Á, các khu công nghiệp, khu chế xuất thường ưu tiên thu hút đầu tư vào 3 ngành công nghiệp chính: +Một là ngành công nghiệp lắp ráp điện tử và máy móc hạng nhẹ, do các công ty xuyên quốc gia sản xuất kiện, phụ tùng và cấu kiện chính ở chính quốc sau đó chuyển đến gia công, lắp ráp ở các khu này. + Hai là ngành công nghiệp dệt và may mặc, sản xuất giày dép và hàng tiều dùng thông dụng, là những ngành cần nhiều lao động, vốn đầu tư ít nhưng nhanh thu hồi vốn. + Ba là ngành công nghiệp sử dụng tài nguyên và nguyên liệu sẵn có của các nước đang phát triển như chế biến nguyên liệu, nông, lâm, hải sản, sản xuất công cụ… Thông qua hệ thống văn bản pháp lý ( chẳng hạn như Luật đầu tư nước ngoà). Nhà nước đã hướng các nhà đầu tư vào những nghành nghề theo qui định, nhằm thực hiện định hướng cơ cấu ngành trong khu công nghiệp, khu chế xuất. Bao gồm: + Những ngành nghề được đầu tư trong khu công nghiệp, khu chế xuất, những ngành nghề khuyến khích đầu tư và đặc biệt khuyến khích đầu tư. + Qui định tiêu chuẩn doanh nghiệp đầu tư vào khu công nghiệp,khu chế xuất thông qua các điều kiện thành lập như giá trị xuất khẩu, qui mô vốn đầu tư, bảo vệ môi sinh, môi trường… +Ưu đãi thuế và miễn thuế theo ngành nghề, kim ngạch xuất khẩu, lao động, chuyển gia kỹ thuật, công nghệ… c. Phương thức xây dựng cơ sở hạ tầng khu công nghiệp, khu chế xuất bằng nguồn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Một trong những yếu tố cơ bản bảo đảm cho các khu công nghiệp, khu chế xuất thành công là tạo ra cơ sở hạ tầng có chất lượng cao, đạt tiêu chuẩn quốc tế để thu hút đầu tư trong và ngoài nước.Song hầu hết các nước đang phát triển đã thiết lập khu công nghiệp, khu chế xuất đều vấp phải khó khăn lớn về nguồn tài chính để tài trợ cho chương trình xây dựng hạ tầng các khu. Một là bản thân các nước chủ nhà thiếu vốn. Hai là việc vay vốn của các ngân hàng thế giới với lãi suất cao để xây dựng đòi hỏi phải quản lý tốt, phát huy nhanh hiệu quả đầu tư để thu hồi vốn trả nợ vay, điều mà không phải nước đang phát triển nào cũng có thể thực hiện được. IV.ĐÁNH GIÁ CHUNG HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NUỚC NGOÀI VÀO CÁC KHU CÔNG NGHIẸP, KHU CHẾ XUẤT. 1.Thành tựu Đầu tư trực tiếp nước ngoài trong các khu công nghiệp, khu chế xuất luôn có chiều hướng tăng cả về số dự án và vốn đầu tư, mặc dù không đều theo các năm. Do đó, đã bổ sung nguồn vốn quan trọng cho đầu tư phát triển, góp phần khai thác và nâng cao hiệu quả sự dụng các nguồn lực trong nước, tạo ra thế và lực mới cho nền kinh tế a.Về thu hút đầu tư. Năm 2003 vốn đăng ký tăng 6% so với năm 2002; năm 2004 tăng 42,9% so với năm trước; năm 2005 tăng 58% so với năm 2004; năm 2006 tăng 75,4% so với năm 2005 và năm 2007 tăng 69% so năm 2006. Nhờ vậy, đã góp phần nâng tổng vốn cấp mới (kể cả tăng vốn) trong giai đoạn 2001-2005 lên 20,8 tỷ USD, vượt 73% so với mục tiêu tại Nghị quyết 09/2001/NQ-CP là 12 tỷ USD, trong đó vốn thực hiện đạt 14,3 tỷ USD, tăng 30% so với mục tiêu 11 tỷ USD. Tiếp theo đà tăng trưởng của năm 2007, trong quý I năm 2008 một số doanh nghiệp ĐTNN đã triển khai tích cực ngay trong tháng đầu tiên của năm 2008, bằng việc góp trên 1,68 tỷ USD vốn đầu tư thực hiện, tăng 24% so với vốn thực hiện của cùng kỳ năm trước. Doanh thu của các doanh nghiệp ĐTNN trong qúy I năm 2008 ước tính đạt 7.600 triệu USD, tăng 27% so với cùng kỳ năm trước; trong đó giá trị xuất khẩu ước đạt 5.398 triệu USD, tăng 20% so với cùng kỳ; nhập khẩu đạt 6100 triệu USD, tăng 39% so với cùng kỳ năm trước, nộp ngân sách 355 triệu USD, tăng 19% so với cùng kỳ. Trong tháng 3 năm 2008, khối doanh nghiệp ĐTNN đã thu hút thêm được 12.000 lao động, đưa tổng số lao động trong khu vực có vốn ĐTNN tính đến thời điểm này lên 1.172 nghìn lao động, tăng 13% so với cùng kỳ năm trước. b. Về góp phần tăng trưởng kinh tế Các khu công nghiệp đã tạo thêm năng lực sản xuất mới, tạo nguồn hàng đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong nước và xuất khẩu, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế và đẩy nhanh tốc độ công nghiệp hoá, hiện đại hoá; tạo điều kiện phát triển công nghiệp theo quy hoạch, tránh tự phát, phân tán; tiết kiệm đất đai; sử dụng có hiệu quả vốn đầu tư, tiết kiệm chi phí sản xuất. c. Vấn đề tạo việc làm Các khu công nghiệp đã tạo thêm việc làm và thu nhập cho người lao động và góp phần chuyển đổi cơ cấu lao động. Ngoài số lao động trực tiếp trong các doanh nghiệp khu công nghiệp, các khu công nghiệp cũng tạo thêm việc làm gián tiếp, đặc biệt trong lĩnh vực xây dựng, cung ứng vật liệu và dịch vụ. d. Là hạt nhân thúc đẩy phát triển kinh tế vùng, lãnh thổ, đẩy nhanh tốc độ đô thị hoá Các khu công nghiệp đóng vai trò quan trọng, là hạt nhân thúc đẩy phát triển kinh tế vùng, lãnh thổ, đẩy nhanh tốc độ đô thị hoá. Điều này có thể dễ dàng nhận thấy ở những vùng có khu công nghiệp phát triển mạnh như Biên Hoà, Nhơn Trạch (Đồng Nai), Thuận An (Bình Dương)… Cùng với quá trình phát triển khu công nghiệp, các điều kiện về kết cấu hạ tầng kỹ thuật trong khu vực đã được cải thiện đáng kể, nhu cầu về các dịch vụ gia tăng nên các khu công nghiệp đã góp phần thúc đẩy hoạt động kinh doanh dịch vụ và tạo doanh thu cho các cơ sở dịch vụ trong vùng. Các khu công nghiệp được thành lập trong thời gian qua, ngoài việc đẩy nhanh tốc độ đô thị hoá tại các trung tâm công nghiệp lớn, đã bắt đầu có tác động lan toả tích cực trong việc công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn của các vùng phụ cận. e. Tập trung xử lý chất thải, bảo vệ môi trường Do tập trung các cơ sở sản xuất nên các khu công nghiệp có điều kiện thuận lợi trong việc kiểm soát, xử lý chất thải và bảo vệ môi trường. Các khu công nghiệp còn là địa chỉ tốt để di dời các cơ sở sản xuất gây ô nhiễm từ nội thành, phục vụ mục tiêu phát triển bền vững. Đây là một trong số các mục tiêu quan trọng hàng đầu đặt ra đối với việc thành lập khu công nghiệp. f. Về cơ chế quản lý Cơ chế quản lý một cửa, tại chỗ đã được các ban quản lý khu công nghiệp cấp tỉnh thực hiện một cách có hiệu quả và được đánh giá cao. Bằng cơ chế uỷ quyền, các ban quản lý khu công nghiệp cấp tỉnh có thể giải quyết các vướng mắc của doanh nghiệp trong thời gian ngắn nhất, tiết kiệm chi phí cho nhà đầu tư. 2.Hạn chế KCN là đầu mối quan trọng trong việc thu hút vốn đầu tư trong nước và FDI, nếu như vốn đầu tư nước ngoài tăng nhanh trong giai đoạn 1994-1997 thì vài năm gần đây việc thu hút đầu tư vào các KCN có chiều hướng giảm dần. Tình hình thu hút đầu tư, đặc biệt đầu tư nước ngoài vào các KCN, KCX năm 2003 giảm hơn cùng kỳ năm trước xuất phát từ các nguyên nhân và một số tồn tại:  - Việc đầu tư phát triển các khu công nghiệp không theo một quy hoạch thống nhất, hầu như địa phương nào cũng có các khu công nghiệp với chức năng tương tự nhau nên không tận dụng được những lợi thế so sánh, dẫn tới tình trạng cạnh tranh nhau gay gắt, thậm chí có tình trạng chèn lấn để thu hút đầu tư. - Thiếu sự phối hợp giữa các KCN, giữa các địa phương trong các vùng. Các KCN thường phát triển riêng rẽ, đầu tư tất cả các hạng mục công trình, kể cả xây dựng các cụm dân cư, đầu tư tốn kém, giảm hiệu quả hoạt động của các KCN. - Việc chọn địa điểm xây dựng các khu công nghiệp là việc làm nghiêm túc song chưa tuân theo các nguyên tắc. Ở nhiều nơi có quá nhiều khu công nghiệp dẫn tới sự cạnh tranh khốc liệt của những nhà đầu tư về lựa chọn địa điểm, dẫn tới tốn kém xây dựng kết cấu hạ tầng và chôn vốn vào kết cấu hạ tầng lâu và lớn, hiệu quả khu công nghiệp bị giảm sút. - Các khu công nghiệp còn bất cập về cơ cấu ngành nghề, về đầu tư chiều sâu. Chất lượng các dự án đầu tư thu hút chưa cao, chất lượng KCN không ngang tầm khu vực. - Sự phát triển các KCX, KCN đang là cấp thiết, bức xúc, song sự phát triển đang gặp nhiều khó khăn trở ngại, khó khăn chủ yếu vẫn nằm trong khâu đất đai, đền bù. Theo ban quản lý các KCN, KCX, đầu tư vào các KCN giảm nguyên nhân chính là do các KCN không có sẵn đất để đáp ứng nhu cầu của nhà đầu tư do thiếu quỹ đất, mặc dù khách hàng không nhiều, trong khi quỹ đất còn nhiều nhưng lại không khai thác được do giá đền bù giải tỏa tăng mạnh, giá san lấp mặt bằng lớn. Mặt khác giá thuê đất lrong KCN, KCX khá cao, giá cả đất đai của các thành phố ở Việt Nam cao hơn so với các nước trong khu vực, giá thuê đất ở TP. HCM cao gấp 4-6 lần ở Trung Quốc, gấp 6 lần Thái Lan. - Ở Việt Nam nguyên nhân chính sụt giảm nguồn vốn đầu tư, kể cả FDI vào các KCN còn là do chưa đáp ứng tốt các nhu cầu về dịch vụ cơ sở hạ tầng. Tiến độ thi công cơ sở hạ tầng chưa bảo đảm, dịch vụ cơ sở hạ tầng chưa đáp ứng được, điện, nước, điện thoại không ổn định ảnh hưởng đến môi trường đầu tư trong các KCN. - Các KCN được lập quá nhiều, chiếm diện tích đất khá lớn trong quỹ đất hạn hẹp của nước ta, tổng 1 số đất cho thuê chỉ bằng 45% diện tích có thể sử dụng. Nhiều KCN thành lập cách nay 2-3 năm, thậm chí 4-5 năm mà chưa có khách đến thuê: KCX Hải Phòng, KCN Sài Đồng A Hà Nội, KCN Kim Hoa Vĩnh Phúc là những thí dụ. Diện tích đất nông nghiệp bị giảm khá nhiều như ở Bình Dương trong 2 năm (2000-2002) giảm mất 3.642 ha. - Chất lượng nguồn nhân lực chưa đáp ứng yêu cầu phát triển các KCN, KCX. Các dự án đầu tư thu hút vào các KCN ở các địa phương có nhu cầu lớn về cán bộ quản lý người Việt Nam giỏi, công nhân tay nghề cao, kỷ luật lao động tết, song đa số các nơi không đáp ứng được. - Cơ chế quản lý các KCN còn nhiều bất cập, chưa làm rõ cơ chế quản lý, mối quan hệ giữa các cơ quan liên quan vẫn chưa có sự phối hợp đồng bộ, chậm ban hành sửa đổi bổ sung quy chế KCN, KCX. - Chính sách thuế tài chính còn nhiều tồn tại, chẳng hạn chính sách KCX của Việt Nam ra đời cách đây 10 năm ảnh hưởng không tốt đến môi trường đầu tư. ở các nước doanh nghiệp đầu tư vào KCX được bán hàng sản xuất vào nội địa thì Việt Nam lại buộc doanh nghiệp trong KCX phải xuất khẩu 100%. Doanh nghiệp nội địa đưa hàng vào KCX gia công khi nhận hàng ra phải đóng thuế như hàng nhập khẩu, kết quả là doanh nghiệp trong KCX ít nhận được hàng gia công từ nội địa, còn doanh nghiệp nội địa thích nhập khẩu. Chương III GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG THU HÚT ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI VÀO KHU CÔNG NGHIỆP, KHU CHẾ XUẤT Ở VIỆT NAM. I.PHƯƠNG HƯỚNG HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC KHU CÔNG NGHIỆP KHU CHẾ XUẤT TRONG THỜI GIAN TỚI. Nhà nước tiếp tục hoàn chỉnh hệ thống pháp luật, bảo đảm tính thống nhất, minh bạch và sự ổn định của chính sách, phù hợp với lợi ích quốc gia và các thông lệ quốc tế, những cam kết song phương, đa phương theo quy chế WTO.Để thực hiện nhiệm vụ chung đó, trong tiến trình tham gia WTO, các chủ thể hoạt động KCN cần làm tiếp những công việc chủ yếu dưới đây. Một là: Nâng cao hiểu biết về việc tham gia WTO, về nội dung cam kết quốc tế trong các quan hệ thương mại, đầu tư. Một số luật và quy định hướng dẫn thi hành luật (ví dụ về thuế và quản lý thuế; đất đai; kinh doanh bất động sảnnnn) sẽ được hoàn chỉnh và hoàn thiện theo lộ trình nhất định. Vừa qua, Nhà nước ta đã ban hành hệ thống pháp luật mới phù hợp với tiến trình hội nhập. Chẳng hạn Luật Đầu tư, Luật DNNNNkể cả văn bản hướng dẫn luật vừa ban hành cũng đã được soạn thảo theo tinh thần cam kết quốc tế. Từ đó, khâu quan trọng là đòi hỏi cấp cơ sở thi hành đúng những quy định hiện hành. Cần sớm công bố những quy định mới này và hướng dẫn, phổ biến sâu rộng cho các đối tượng có liên quan thực hiện, kể cả những nhà đầu tư tiềm năng đang tìm hiểu cơ hội đầu tư vào KCN. Cần triển khai thực hiện các hình thức hỗ trợ đầu tư theo luật định (hỗ trợ đầu tư xây dựng hạ tầng, giảm cước phí, lệ phí đào tạo nghề cho lao động) nhằm thay cho những ưu đãi đã bị xoá bỏ theo quy định mới. Tại các KCN đang hoạt động, đang xây dựng dở dang hạ tầng, trước hết DN xây dựng và phát triển hạ tầng cần đẩy nhanh tiến độ xây dựng, đảm bảo xây dựng đồng bộ các công trình; sớm triển khai xây dựng các công trình xử lý chất thải tập trung trước khi đưa các dự án sản xuất đi vào hoạt động; kết hợp với địa phương khuyến khích các nhà đầu tư, hộ kinh doanh dịch vụ tổ chức tốt các hoạt động ăn, ở, học tập cho người lao động làm việc trong KCN. Tổ chức đào tạo nghề và hỗ trợ cho người dân bị thu hồi đất có nghề, có việc làm (kể cả công việc dịch vụ ngoài KCN), có thu nhập hợp lý là vấn đề bức xúc mà cơ quan quản lý nhà nước địa phương có trách nhiệm chăm lo, giải quyết chu đáo. áp dụng chính sách đào tạo và đào tạo lại lao động, công chức; chính sách sử dụng nhân tài và đảm bảo quyền lợi chính đáng, chế độ bảo hiểm xã hội cho người lao động trong DN. Thực hiện những quy định hướng dẫn thi hành Luật Đầu tư, Luật DN Ban quản lý các KCN tiếp tục hoàn chỉnh thủ tục giao dịch hành chính theo cơ chế một cửa, tại chỗỗỗỗ, nhanh gọn đúng thời gian quy định; định kỳ đối thoại và tạo quan hệ thân thiện, giải quyết kịp thời những vướng mắc thuộc thẩm quyền cho DN, cho nhà đầu tư, góp phần hỗ trợ cho DN kinh doanh có hiệu quả, thúc đẩy các nhà đầu tư và nhanh chóng thực hiện dự án, nâng cao hiệu quả sử dụng đất trong KCN. Hai là: Tăng năng lực cạnh tranh của hàng hoá và dịch vụ, của DN thuộc mọi thành phần kinh tế là vấn đề quan trọng hàng đầu, quyết định tốc độ tăng trưởng nhanh và bền vững của nền kinh tế. Theo những cam kết quốc tế về quan hệ thương mại, về lộ trình hạ thấp và xoá bỏ thuế quan, xoá bỏ hạn ngạch thì hàng hoá và dịch vụ trong nước, trong KCN, kể cả những sản phẩm hàng hoá ngành hàng đang có lợi thế về thị trường và sức cạnh tranh của DN có vốn đầu tư nước ngoài đều phải áp dụng mọi biện pháp để nâng cao chất lượng, tăng năng suất lao động, hạ giá thành, tăng hàm lượng khoa học, công nghệ và giá trị tăng thêm, giá trị nội địa trong các sản phẩm. Đối với DN sức cạnh tranh yếu, nhất là những DN vừa và nhỏ, DN chế biến nông sản, thuỷ sản cần khẩn trương chuẩn bị các điều kiện và biện pháp cần thiết, phát huy tính năng động nhằm chuyển đổi sản xuất theo hướng áp dụng công nghệ mới, sản xuất mặt hàng đa dạng có thị trường xuất khẩu và tiêu dùng nội địa. Sản phẩm hàng hóa do các DN trong KCN sản xuất ra phải hướng tới chủ động áp dụng các hệ thống quản lý chất lượng tiên tiến theo tiêu chuẩn quốc tế (ISO 9001) về quản lý môi trường (ISO 14000); trách nhiệm xã hội (SA 8000) và OHSAS 18000, tiêu chuẩn về sức khỏe và an toàn nghề nghiệp... Từ đó, không ngừng tăng nhanh giá trị xuất khẩu hàng hóa và tỷ trọng hàng hóa xuất khẩu trong tổng giá trị sản xuất của các DN trong KCN. II.NHỮNG THUẬN LỢI VÀ KHÓ KHĂN CHO HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI VÀO KHU CÔNG NGHIẸP, KHU CHẾ XUẤT Ở NƯỚC TA HIỆN NAY. 1.Thuận lợi Từ những năm đầu của thời kỳ đổi mới, Đảng và Nhà nước ta đã triển khai nhiều chủ trương, giải pháp mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, từng bước tiến hành đàm phán để gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) theo một lộ trình hợp lý, phù hợp với hoàn cảnh nước ta. Sau hơn 11 năm vừa hợp tác, vừa đấu tranh và cạnh tranh, ngày 7/11/2006, Đại hội đồng WTO nhóm họp phiên đặc biệt đã thông qua và chấp nhận Việt Nam là thành viên thứ 150 của Tổ chức này. Đây là sự kiện đánh dấu những bước chuyển biến cơ bản và toàn diện nền kinh tế Việt Nam, được quốc tế công nhận sau hơn 20 năm đổi mới; thể hiện bước ngoặt quan trọng của quá trình nỗ lực và quyết tâm của các ngành, địa phương và DN chủ động hội nhập sâu hơn vào nền kinh tế thế giới. Gắn liền với quá trình đổi mới kinh tế, ngay sau khi Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam (1987) được ban hành, khu chế xuất Tân Thuận (TP. Hồ Chí Minh) được thành lập đã mở ra một hình thức mới tổ chức sản xuất công nghiệp theo lãnh thổ, một mô hình sản xuất phù hợp với yêu cầu mở rộng quan hệ đầu tư và thương mại toàn cầu. Tiếp tục phát triển, đa dạng hoá mô hình mới đó, trong 15 năm qua, cả nước đã hình thành gần 140 khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao ( dưới đây gọi chung là KCN) phân bố rộng trên cả nước. Trong đó, nhiều KCN có cơ sở hạ tầng hoàn chỉnh, đạt tiêu chuẩn quốc tế, hiệu quả sử dụng diện tích đất công nghiệp đạt khá cao, thu hút nhiều dự án có vốn đầu tư nước ngoài. Hầu hết các DN trong KCN hoạt động sản xuất kinh doanh có hiệu quả khá cao, sản phẩm có sức cạnh tranh cả trên thị trường xuất khẩu và trong tiêu dùng nội địa. Tính đến cuối năm 2005, cả nước có trên 4.500 dự án đầu tư còn hiệu lực trong các KCN, trong đó có hơn 2.200 dự án có vốn đầu tư nước ngoài, với tổng vốn đầu tư đăng ký đạt gần 18 tỷ USD. Năm 2005, DN KCN đã tạo ra 14 tỷ USD giá trị sản xuất công nghiệp, chiếm tỷ trọng gần 30% giá trị sản lượng công nghiệp cả nước; trong đó, giá trị xuất khẩu đạt hơn 6 tỷ USD, chiếm gần 29% giá trị hàng công nghiệp xuất khẩu; thu hút gần 1 triệu lao động trực tiếp Những thành quả phát triển KCN trên đây là một minh chứng về sự thành công của đường lối kinh tế đối ngoại rộng mở của Đảng và Nhà nước trong chặng đầu chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. Đến nay, quy chế thành viên WTO bắt đầu có hiệu lực, nhiều cơ hội được tạo ra, thị trường Việt Nam, trong đó quan hệ đầu tư, thương mại được mở rộng, lĩnh vực công nghiệp cùng với các KCN sẽ trở nên hấp dẫn hơn, làn sóng đầu tư nước ngoài sẽ gia tăng mạnh cả về nguồn vốn, công nghệ, kinh nghiệm quản lý. Các DN cả trong và ngoài nước có điều kiện tham gia những thị trường cạnh tranh khu vực và quốc tế. Nhờ tuân theo luật chơi chung, tiến tới xoá bỏ hàng rào thuế quan mà nước ta có thể dễ dàng tiếp thu những kỹ thuật mới, công nghệ tiên tiến nhằm tận dụng lợi thế của nước đi sau, rút ngắn thời gian thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá nước nhà. Thực hiện những cam kết song phương, đa phương theo quy chế WTO. Nhà nước ta đã và sẽ có những điều chỉnh nhất định trong khung khổ pháp luật, chính sách về đầu tư, thương mại. Từ đó, tạo môi trường thuận lợi cho các DN, doanh nhân sử dụng khung pháp lý mới bước vào những thị trường cạnh tranh. 2.Khó khăn Bên cạnh những thuận lợi, vẫn còn nhiều khó khăn, thách thức đan xen, nhiều rủi ro dễ gây ra bất lợi trong điều kiện kinh doanh mới. Trước hết, nền kinh tế nước ta chưa thoát khỏi tình trạng chậm phát triển, sức cạnh tranh yếu, tốc độ tăng trưởng cao nhưng chưa bền vững. Quy mô nền kinh tế còn nhỏ, kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển Do đó, môi trường đầu tư kinh doanh trong công nghiệp, KCN vẫn còn nhiều yếu tố bất cập, chưa đáp ứng đầy đủ những yêu cầu của làn sóng đầu tư mới. Một khi hạ thấp hoặc xoá bỏ hàng rào thuế quan, xoá bỏ hạn ngạch theo quy chế mậu dịch tự do, thì cạnh tranh trong thương mại sẽ trở nên quyết liệt. Hàng hoá của DN (DN) không có sức cạnh tranh thì không những không xuất khẩu được mà ngay tại thị trường trong nước, hàng ngoại cũng sẽ tràn vào. DN trong KCN nếu không kịp điều chỉnh thích ứng với điều kiện cạnh tranh mới thì hoạt động sản xuất, kinh doanh của mình chắc chắn bị thua thiệt, thậm chí dẫn tới phá sản. Những thách thức trong hoạt động KCN hiện nay còn do môi trường đầu tư, kinh doanh ở không ít KCN còn nhiều hạn chế (hạ tầng kinh tế, xã hội yếu kém, ô nhiễm môi trường... Từ những cơ hội và thách thức trên, tuỳ theo chức năng, nhiệm vụ cụ thể của mỗi chủ thể: (cơ quan quản lý nhà nước, DN xây dựng và phát triển hạ tầng, DN công nghiệp trong KCN) cần tận dụng mọi thời cơ thuận lợi, vượt qua khó khăn, thách thức mà hướng tới mở rộng thị trường, phát huy lợi thế, đẩy mạnh xuất khẩu, thu hút mạnh các nguồn lực đầu tư phát triển; đồng thời hạn chế các tác động tiêu cực trong quá trình hội nhập III.MỘT SỐ GIẢI PHÁP ĐỂ TĂNG CƯỜNG THU HÚT ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI VÀO KHU CÔNG NGHIỆP, KHU CHẾ XUẤT . 1. Vấn đề phát triển các KCN theo quy hoạch: Có 2 quan điểm trong phát triển các KCN: quan điểm thứ nhất cho rằng tăng thu hút đầu tư trong nước và đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI về mặt số lượng, bất kể vào lĩnh vực nào quy mô bao nhiêu, miễn là đầu tư vào KCN, quan điểm thứ hai cho rằng đã đến lúc tăng thu hút đầu trong nước và FDI về chất lượng theo một quy hoạch, các KCN phải có tính chuyên và cơ cấu hợp lý phù hợp với khả năng và lợi thế của mình. Quan điểm thứ nhất hiện nay là phổ biến, hầu như các KCN đầu tập trung mọi cố gắng thu hút đầu tư, FDI vào địa bàn của mình bất kể ngành nào, sản phẩm. Phát triển các KCN, KCX cần phải theo một quy hoạch thống nhất, cần có chính sách ưu tiên phát triển ngành trong từng khu công nghiệp dựa trên lợi thế của từng khu công nghiệp, thực hiện một sự phân công hợp tác giữa các KCN các tỉnh, các địa phương gắn với nhu cầu thị trường trong và ngoài nước. 2. Xây dựng chuẩn mực và cơ cấu lại các khu công nghiệp: Xây dựng chất lượng KCN ngang tầm khu vực và quốc tế, xác định tiêu chuẩn các xí nghiệp đầu tư vào khu công nghiệp về quy mô, ngành nghề và công nghệ. Cơ cấu ngành nghề trong các KCN còn bất cập. Xác định tiêu chuẩn các xí nghiệp đầu tư vào KCN về quy mô, ngành nghề, công nghệ để tạo được hiệu quả đầu tư cao. Đối với một số KCN cần định hướng phát triển các ngành sản xuất tư liệu sản xuất, các ngành công nghiệp nặng, các ngành có hàm lượng khoa học và vốn cao. 3. Phát triển đồng bộ các thể loại tập trung công nghiệp: Xây dựng cả 3 thể loại: KCN tập trung, cụm công nghiệp vừa và nhỏ, làng nghề công nghiệp. Không nên xây dựng quá nhiều KCN trong một thời gian, cần chú trọng phát triển các làng nghề và các cụm công nghiệp vừa và nhỏ. Cụm công nghiệp vừa và nhỏ là một mô hình tập trung công nghiệp thường hình thành ở các huyện thị vùng nông thôn tập hợp lại theo cùng ngành nghề, mô hình thích hợp để thúc đẩy phát triển khu vực kinh tế tư nhân, phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ, phát triển công nghiệp nông thôn. Các cụm công nghiệp vừa và nhỏ, ngoài việc đầu tư cơ sở hạ tầng cho thuê đất, hỗ trợ hoàn toàn chi phí giải phóng mặt bằng và các công trình ngoài hàng rào và các công trình công cộng trong cụm, cần thực hiện chương tnnh xây dựng nhà xưởng tiêu chuẩn bán trả chậm cho doanh nghiệp vừa và nhỏ có vốn ít, doanh nghiệp được trả chậm tới 10 năm. 4. Cải thiện cơ sở hạ tầng tại các KCN: Đẩy mạnh xây dựng cơ sở hạ tầng, tập trung đầu tư hoàn thiện cơ sở hạ tầng kỹ thuật dịch vụ và xã hội trong KCN, bảo đảm tính đồng bộ, thuận tiện thỏa mãn khách hàng. Kết quả hoạt động và phát triển KCN không được gây hệ quả tiêu cực cho khu vực về giao thông, môi trường và tệ nạn xã hội. 5. Phát triển các cụm dân cư: Phát triển các KCN phải kết hợp chặt chẽ với quy hoạch và quá trình đô thị hóa, phân bố dân cư, theo hướng hình thành mạng lưới đô thị hài hòa, rộng thoáng, kiên quyết tránh tập trung xây dựng các đô thị quá lớn tạo ra sự quá tải về kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội ở đô thị. Không thể mỗi KCN, KCX đều xây dựng các cụm dân cư riêng rẽ, điều đó đưa đến phá vỡ quy hoạch đô thị hóa, cung như làm tăng chi phí xây dựng KCN, giảm hiệu quả các KCN, KCX. 6. Sử dụng đất và tình trạng ô nhiễm môi trường ở các KCN: Cần tập trung lấp đầy và phát triển hiệu quả các KCN đã có, khi nào các khu công nghiệp lấp đầy 60-70% diện tích thì mới cho phép triển khai các khu công nghiệp tiếp theo. Số lượng các KCN của Việt Nam cũng đã khá nhiều, chiếm diện tích đất khá lớn làm giảm diện tích đất nông nghiệp, trong khi diện tích cho thuê của các KCN chiếm chưa đến 45%. Trung Quốc cất giảm 500 KCN nhằm hạn chế việc sử dụng quá mức và phí phạm quỹ đất canh tác, các hồ sơ xin duyệt và mở rộng các KCN bị ngưng và nhiều nơi rút hồ sơ lập KCN mới khỏi danh sách được phê duyệt. Những dự án đầu tư vào KCN, KCX phải hoàn tất các hạng mục công trình xử lý chất thải mới được phép hoạt động. Khi cho thuê được 50% diện tích thì phải tiến hành xây dựng trạm xử lý nước thải tập trung. Cần có biện pháp phối hợp giữa các KCN và các địa phương trong bảo vệ môi trường, tránh gây ô nhiễm cho nhau. 7. Tiếp thị các khu công nghiệp: Cần tiến hành tiếp thị rầm rộ ở những nơi là xuất phát điểm chính của đầu tư trong nước và ngoài nước (FDI) như các tỉnh thành phố lớn trong nước và ngoài nước như Nhật, Mỹ, Hàn Quốc, Singapore... Cần quảng bá điểm khác biệt của KCN mình, phát huy ‘‘giá trị cộng thêm’‘ của mình để thu hút đầu tư. Giá cho thuê đất rẻ ở các tỉnh ĐBSCL không phải là yếu tố quyết định trong việc thu hút đầu tư (giá cho thuê đất thấp hơn giá thành đầu tư xây dựng hạ tầng của ha đất công nghiệp). Theo các chuyên gia Nhật, chìa khóa cho sự thành công của các KCN là vị trí, dịch vụ hạ tầng và năng lực quản lý. Xây dựng khu công nghiệp trong khu vực nghèo (vùng nông nghiệp ĐBSCL) rẻ hơn trong khu vực phát triển (TP.HCM, thành phố Hà Nội), có chi phí lao động, đất đai, vật liệu thấp hơn, ngược lại có chi phí hạ tầng cơ sở và vận chuyển cao hơn, do đó các nhà đầu tư thường hướng đến khu vực phát triển hơn. Không phải ngẫu nhiên 70-75% dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài di chuyển trong nội bộ các nước phát triển, chỉ có 25- 30% di chuyển đến các nước đang phát triển và kém phát triển. 8. Tạo môi trường đắn tư thuận lợi Cải thiện các KCN chỉ là điều kiện cần, nhưng chưa đủ . Điều kiện nền tảng nhất là chính sách thu hút đầu tư, đặc biệt là thu hút FDI vào các khu công nghiệp. Nhà nước cần có chính sách thu hút đầu tư, chính sách thu hút FDI: giảm giá đầu vào nhiên liệu, nguyên liệu, vật liệu, cước viễn thông quốc tế, giá thuê đất chi phí lưu thông hàng hóa, mà hiện nay Việt Nam cao hơn hẳn các nước trong khu vực, chính sách thuế thu nhập của người nước ngoài (Việt Nam cao nhất tại khu vực ASEAN). 9. Quản lý và chính sách phát triển KCN, KCX: Chính sách nhà nước tác động quan trọng đến phát triển các KCN, KCX, cần không ngừng hoàn thiện các chính sách. Đẩy mạnh chuyển từ công tác quản lý hành chính sang công tác dịch vụ theo cơ chế một cửa trong quản lý phát triển các KCN. Cải cách hành chính và công nghệ thông tin trong quản lý. Đảm bảo quản lý thống nhất các KCN. Ngoài ra cần từ bỏ quan điểm nới lỏng đầu vào quản lý chặt đầu ra, hậu kiểm thay thế tiền kiểm như các nhà đầu tư nước ngoài từng nói Việt Nam chỉ khuyến khích đầu tư không khuyến khích sản xuất, tiền hậu bất nhất không nhất quán, không minh bạch. Bài học Trung Quốc là trước cho, sau lấy có tính làm ăn lâu dài là những kinh nghiệm trong thu hút đầu tư, FDI vào các KCN. Chính sách ưu đãi các nhà đầu tư trong việc xây dựng cơ sở hạ tầng các KCN, KCX: giá thuê đất, thuế (thuế lợi nhuận đối với nhà đầu tư cơ sở hạ tầng trong nước là 15%, trong khi nhà đầu tư nước ngoài chỉ 10%), hỗ trợ vốn, lãi suất ưu đãi. Chính sách phát triển cơ sở hạ tầng ngoài hàng rào đấu nối với KCN, phát triển các công trình xã hội phục vụ phát triển các KCN. Chính sách hỗ trợ doanh nghiệp, đặc biệt hỗ trợ tài chính để thu hút các doanh nghiệp vào KCN. Áp dụng cho các doanh nghiệp trong KCX xuất khẩu vào thị trường trong nước được hưởng thuế suất CEPT để có thể cạnh tranh được với hàng hóa của các nước ASEAN xuất vào Việt Nam. Cần có nhận thức đúng, từ đó có chính sách đúng thì các KCN, KCX mới phát triển đúng hướng phục vụ sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội của nước ta. Kết luận Khu công nghiệp, khu chế xuất là mô hình kinh tế mà các nước đang phát triển, nhất là các nước Châu Á, đã và đang sử dụng như một công cụ để thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Các khu công nghiệp, khu chế xuất ở Việt Nam được thành lập cũng không nằm ngoài mục tiêu đó. Nhưng trong quãng thời gian xây dựng và đi vào hoạt động của các khu, dòng đầu tư trực tiếp nước ngoài vào các khu lên tục biến đổi do ảnh hưởng nhiều nguyên nhân khác nhau mà bước chuyển biến lớn nhất là việc chúng ta gia nhập tổ chức WTO. Để các khu có thể hoạt động hiệu quả, góp phần ngày càng lớn vào tăng trưởng kinh tế, khai thác hiệu quả các nguồn lực trong nước, thúc đẩy quan hệ kinh tế đối ngoại… phải có những biện pháp cụ thể nhằm lôi cuốn dòng đầu tư trực tiếp nước ngoài “chảy mạnh” vào các khu. Bài viết đã cố gắng đi vào thực trạng của hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài vào các khu công nghiệp, khu chế xuất ở Việt Nam trong thời gian vừa qua, đồng thời rút ra được thành tựu và tồn tại, thuận lợi và khó khăn. Thông qua đó, có đưa ra những giải pháp để khắc phục khó khăn, tăng cường thuận lợi, nhằm từng bước hoàn thiện dần hoạt động này.Tuy nhiên, vì thời gian có hạn và với trình độ của một sinh viên còn hạn chế, bài viết chắc chắn còn nhiều sai sót. Người viết rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến và chỉ dẫn của các thầy cô giáo có kinh nghiệm cũng như những người quan tâm vấn đề này.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docThực trạng và giải pháp đầu tư trực tiếp nước ngoài vào khu công nghiệp, khu chế xuất.DOC
Luận văn liên quan