Thực trạng việc làm của người dân xã Đông Phương Yên – Chương Mỹ (Hà Tây cũ) sau khi sáp nhập Hà Nội

Phần 1: MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Việc làm là một trong những vấn đề xã hội có tính chất toàn cầu, là mối quan tâm lớn của hầu hết các quốc gia và của toàn nhân loại. Đảng và Nhà nước ta luôn coi việc thúc đẩy mục tiêu tạo việc làm đầy đủ cho mọi người dân để tạo thu nhập và không ngừng nâng cao chất lượng cuộc sống là ưu tiên số một trong chính sách kinh tế - xã hội. Bởi vì, trong chiến lược phát triển đất nước, Đảng ta luôn lấy con người làm trung tâm, coi phát triển con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển. Tạo điều kiện cho mọi người có cơ hội làm việc, một mặt là điều kiện để phát huy được tiềm năng lao động - nguồn nội lực to lớn nhất ở nước ta cho sự phát triển kinh tế - xã hội, cải thiện đời sống, mặt khác cũng là hướng cơ bản để xóa đói giảm nghèo bền vững. Đặc biệt trong điều kiện nước ta, tài nguyên không nhiều, nguồn lực tài chính và cơ sở vật chất còn nghèo, quá trình tiếp cận với nền kinh tế tri thức còn chậm thì việc ưu tiên hàng đầu cho đầu tư phát triển và sử dụng có hiệu quả nguồn lực con người là sự đầu tư có hiệu quả nhất để tăng trưởng và phát triển kinh tế, chống nguy cơ tụt hậu và khẳng định vị thế đất nước khi tham gia vào quá trình hội nhập kinh tế thế giới. Hà Tây (cũ ) là một địa danh nổi tiếng với hơn 1.600 làng nghề, trong đó có hơn 400 làng được chính thức cấp bằng làng nghề truyền thống với các sản phẩm nổi tiếng cả nước như: Lụa Vạn Phúc (Hà Đông), Sơn mài (Duyên Thái), Tiện gỗ (Nhị Khê), Thêu (Quất Động), Mây tre đan (Chương Mỹ) Từ lâu, những làng nghề này đã giải quyết việc làm cho hầu hết lao động nông thôn thuộc mọi lứa tuổi của địa phương trong những lúc nông nhàn. Những năm gần đây nền kinh tế phát triển nhanh chóng, quá trình CNH – HĐH của đất nước diễn ra ngày càng mạnh mẽ, Thủ đô Hà Nội được mở rộng về phía Tây Nam, theo đó từ ngày 01/08/2008 toàn bộ tỉnh Hà Tây được sáp nhập với Hà Nội. Điều này đã ảnh hưởng rất lớn đến vấn đề kinh tế - xã hội của người dân nơi đây. Việc sáp nhập vào thủ đô Hà Nội đã góp phần làm thay đổi cơ cấu kinh tế của tỉnh Hà Tây, nếu như trước đây sản xuất nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và làng nghề truyền thống là chủ yếu thì hiện nay các loại hình kinh tế công nghiệp và dịch vụ lại đang dần chiếm ưu thế. Nhiều KCN xuất hiện và đã thu hút một lực lượng lớn lao động nông thôn nơi đây, điều này đã thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã hội rõ rệt cho toàn tỉnh, song bên cạnh đó cũng nảy sinh những mặt tiêu cực như: ô nhiễm môi trường, thu hẹp đất canh tác, truyền thống làng nghề dần bị mai một Vấn đề thay đổi cơ cấu việc làm và thu nhập đang là vấn đề nóng bỏng của người dân nơi đây. Đông Phương Yên là một xã đồng bằng nằm phía Tây Nam của Huyện Chương Mỹ - Hà Nội, xã nằm trong chuỗi quy hoạch đô thị Miếu Môn – Xuân Mai – Hòa Lạc – Sơn Tây, có đường quốc lộ 6A chạy qua và nằm giữa tam giác du lịch Hà Nội – Ba Vì – Chùa Hương. Với những lợi thế về vị trí địa lý như trên Đông Phương Yên đã thu hút nhiều doanh nghiệp đến đầu tư các dịch vụ và kinh doanh sản xuất, đặc biệt là cụm công nghiệp Phú Nghĩa với diện tích gần 400 ha. Hơn nữa Đông Phương Yên lại có 6 thôn được công nhận là làng nghề Mây Tre Đan ( MTĐ) truyền thống. Đây được coi là thế mạnh và đem lại thu nhập chính cho người dân trong xã. Tuy nhiên cũng từ khi xuất hiện các KCN thu hút hầu hết lao động nữ trong các gia đình đi làm công nhân thì hoạt động làng nghề không được duy trì như trước nữa, làng nghề truyền thống dần bị mai một. Cũng trong quá trình này một số thanh niên không có việc làm ổn định, không thích nghi kịp với sự thay đổi của xã hội nên mất định hướng nghề nghiệp. Mặt khác, người phụ nữ nơi đây thường là những người có trình độ thấp, thời gian làm việc kéo dài từ 12 đến 14 tiếng một ngày nên ảnh hưởng không tốt tới sức khỏe, không có thời gian chăm sóc bản thân và gia đình. Một số gia đình khác mất đất trong quá trình quy hoạch các KCN, họ được đền bù một khoản tiền lớn nhưng không biết cách chi tiêu hay đầu tư làm ăn, buôn bán, cuộc sống trở nên xáo trộn. Với mong muốn có cái nhìn rõ hơn về vấn đề việc làm của người dân ở nơi đây nên tác giả tiến hành chọn đề tài : “Thực trạng việc làm của người dân xã Đông Phương Yên – Chương Mỹ (Hà Tây cũ) sau khi sáp nhập Hà Nội” để làm khóa luận tốt nghiệp. Nghiên cứu này nhằm tìm hiểu về những thay đổi trong việc làm và thu nhập, những chuyển biến tích cực và tiêu cực trong việc làm của người dân xã Đông Phương Yên sau khi sáp nhập Hà Nội. Từ đó đề ra những giải pháp giúp người dân phát huy những mặt tích cực, hạn chế những tác động tiêu cực trong vấn đề việc làm, định hướng tương lai cho lớp thanh niên, giúp cho lao động nữ kết hợp hài hòa cuộc sống lao động và cuộc sống gia đình, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho người dân hòa nhập tốt nhất vào xu thế phát triển chung của xã hội. 2. Mục tiêu nghiên cứu Đề tài nhằm tìm hiểu những thay đổi về việc làm và thu nhập của người dân xã Đông Phương Yên sau khi sáp nhập Hà Nội, từ đó đề ra một số giải pháp giúp giải quyết việc làm, nâng cao chất lượng, ổn định cuộc sống cho người dân. 3. Đối tượng, khách thể nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của đề tài là thực trạng việc làm của người dân xã Đông Phương Yên – Chương Mỹ sau khi sáp nhập Hà Nội. Khách thể nghiên cứu của đề tài là người dân tại xã Đông Phương Yên – Chương Mỹ - Hà Nội. 4. Giả thuyết nghiên cứu Sau khi sáp nhập Hà Nội, cơ cấu việc làm của người dân xã Đông Phương Yên có những biến đổi mạnh mẽ. Đa số các lao động từ làm nghề MTĐ truyền thống chuyển sang làm công nhân tại KCN, nhiều loại hình kinh doanh dịch vụ mới được phát triển mạnh mẽ, một số lao động nông nghiệp bị mất đất trong quá trình đô thị hóa dẫn đến tình trạng không tìm được công việc phù hợp hoặc công việc không ổn định. Thu nhập của người dân trong xã tuy đã tăng lên nhưng bên cạnh đó cũng nảy sinh nhiều vấn đề xã hội như về: ô nhiễm môi trường, thanh niên mất định hướng, tăng thêm áp lực công việc cho phụ nữ Tìm hiểu thực trạng việc làm và định hướng giải pháp giải quyết việc làm cho người dân sẽ giúp họ thích nghi được những thay đổi nhanh chóng trong quá trình đô thị hóa nông thôn, cũng từ đó nâng cao được chất lượng cuộc sống 5. Nhiệm vụ nghiên cứu. Nghiên cứu những lý luận cơ bản về việc làm và thất nghiệp, những nhân tố tác động tới việc làm và nguồn nhân lực trong nền kinh tế thị trường. Khảo sát thực trạng việc làm và thu nhập của người lao động trước và sau khi sáp nhập Hà Nội để thấy được những thay đổi trong cơ cấu việc làm, làm rõ những mặt tích cực, những hạn chế trong vấn đề việc làm, những vấn đề xã hội mới nảy sinh sau khi sáp nhập Hà Nội. Đề ra một số giải pháp nhằm giải quyết và ổn định việc làm, giúp người lao động thích nghi với những thay đổi trong quá trình đô thị hóa nông thôn. 6. Phương pháp nghiên cứu 6.1. Phương pháp nghiên cứu lý luận Cơ sở lý luận được sử dụng xuyên suốt trong đề tài là những lý luận chủ nghĩa duy vật biện chứng. Trong khóa luận còn sử dụng các phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh, phương pháp diễn dịch, quy nạp Tìm hiểu và hệ thống hóa những vấn đề lý luận có liên quan đến đề tài. Trong đề tài sẽ tiến hành thu thập và phân tích các văn bản, báo cáo tổng kết, các nghị quyết có liên quan đến cộng đồng của chính quyền địa phương, sau đó đọc, ghi chép và tổng hợp lại những vấn đề về tình hình kinh tế, chính trị, xã hội của địa phương. Đồng thời thu thập thông tin qua các phương tiện thông tin đại chúng (các báo, Internet ) nhằm đối chiếu, so sánh với thực tế. Đề tài sử dụng phương pháp nghiên cứu định tính, nghiên cứu định lượng cùng một số phương pháp liên ngành. Ngoài ra đề tài còn sử dụng một số lý thuyết trong xã hội học. 6.2 Phương pháp nghiên cứu thực tiễn 6.2.1 Phương pháp trưng cầu ý kiến Mục đích: Nhằm thu thập những ý kiến của lao động làng nghề MTĐ về thực trạng việc làm, những thay đổi về việc làm và thu nhập của người dân trước và sau khi sáp nhập vào Hà Nội, từ đó làm cơ sở cho việc đề xuất các giải pháp để ổn định việc làm, giữ gìn và phát huy truyền thống làng nghề MTĐ trên địa bàn xã Đông Phương Yên. Cách tiến hành: Trong phạm vi đề tài sẽ áp dụng phương pháp trưng cầu ý kiến bằng cách phát cho người dân những phiếu trưng cầu ý kiến ( bao gồm 200 phiếu trưng cầu ý kiến ), sau đó thu lại phiếu và xử lý về mặt định lượng, đinh tính, khái quát hóa về thực trạng. 6.2.2 Phương pháp phỏng vấn Mục đích: Nhằm thu thập thông tin đầy đủ hơn, sâu sắc hơn từ lãnh đạo chính quyền địa phương, chủ các công ty, doanh nghiệp trên địa bàn, người dân về vấn đề việc làm của người dân làng nghề MTĐ Đông Phương Yên sau khi sáp nhập Hà Nội. Cách tiến hành: Trong đề tài đã tiến hành 30 cuộc phỏng vấn sâu với người dân, 8 cuộc phỏng vấn với chủ công ty, doanh nghiệp MTĐ, 6 cuộc phỏng vấn đối với cán bộ địa phương nhằm thăm dò, gợi mở và khai thác các thông tin cần thiết phục vụ cho quá trình nghiên cứu. 6.2.3 Phương pháp quan sát Mục đích: Nhằm kết hợp với những phương pháp khác để thu thập và ghi chép các thông tin, ghi nhận các yếu tố có liên quan đến đối tượng nghiên cứu cảu đề tài. Cách tiến hành: Tiến hành quan sát thực tế những việc làm mà người dân tham gia, cả trong lao động làng nghề hay làm công nhân tại khu công nghiệp. Quan sát về đời sống, sinh hoạt của cộng đồng dân cư, sự phát triển kinh tế - xã hội của địa phương. Từ đó thấy được những thuận lợi, khó khăn, nhu cầu của người dân trong vấn đề việc làm. 6.3 Phương pháp chọn mẫu Trong quá trình nghiên cứu do không thể nào khảo sát trên toàn bộ đối tượng nghiên cứu. Vì vậy tác giả đã tiến hành chọn mẫu nhằm tìm ra tập hợp khách thể đại diện cho tập hợp xã hội lớn. Những kết luận rút ra từ các tập hợp đại diện có thể đại diện cho cả tổng thể. Trong phạm vi đề tài này tác giả tiến hành chọn mẫu là 200 người trên tổng số lao động của xã Đông Phương Yên. 6.3.1 Phương pháp chọn mẫu cho thông tin định tính Tiến hành các cuộc phỏng vấn với cán bộ địa phương: Chủ tịch xã, Chủ tịch Hội nông dân xã, Chủ tịch Hội phụ nữ xã, Phó Bí thư Đoàn xã, cán bộ LĐTB & XH, cán bộ văn hóa xã hội Phỏng vấn chủ các công ty, doanh nghiệp MTĐ trên địa bàn xã và người dân trong 5 thôn. Vận dụng những thông tin thu được vào nghiên cứu giúp đảm bảo tính đúng đắn và độ tin cậy của thông tin. 6.3.2 Phương pháp chọn mẫu cho thông tin định lượng Là thông tin lượng hóa các thông tin định tính nhằm xác định độ lớn, kích cỡ và sức ảnh hưởng của các sự kiện, hiện tượng khác bổ sung cho thông tin định tính. Trong đề tài tác giả tiến hành chọn mẫu cho thông tin định lượng là 200 lao động nông thôn trên tổng số lao động toàn xã qua tiến hành phát 200 bảng hỏi để làm cơ sở cho thông tin định lượng. 7. Phạm vi nghiên cứu của đề tài Về nội dung nghiên cứu: Việc làm của người dân bao gồm nhiều ngành nghề, công việc khác nhau nhưng trong phạm vi nghiên cứu của đề tài này tác giả tập trung vào làm rõ thực trạng việc làm của lao động nông nghiệp, thợ thủ công, công nhân và tiểu thương tại xã Đông Phương Yên – Chương Mỹ sau khi sáp nhập vào Hà Nội (Từ ngày 01/8/2008 đến nay), so sánh với việc làm của người dân trước khi sáp nhập Hà Nội để thấy rõ được những biến đổi về cơ cấu việc làm và thu nhập của người dân trong xã. Về thời gian nghiên cứu: đề tài được nghiên cứu trong thời gian từ tháng 3/2011 đến tháng 5/2011. 8. Cấu trúc của khóa luận Khóa luận được cấu trúc gồm ba phần: phần mở đầu, phần nội dung và phần kết luận. Trong đó phần nội dung bao gồm 3 chương: Chương 1: Cơ sở lý luận. Chương 2: Thực trạng việc làm của người dân xã Đông Phương Yên – Chương Mỹ sau khi sáp nhập Hà Nội. Chương 3: Nhận định tiềm năng, thế mạnh và đề xuất một số giải pháp giải quyết việc làm cho người dân xã Đông Phương Yên – Chương Mỹ - Hà Nội

doc68 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 3438 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Thực trạng việc làm của người dân xã Đông Phương Yên – Chương Mỹ (Hà Tây cũ) sau khi sáp nhập Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ợp. 5 Chính quyền quan tâm hơn đến làng nghề, có chính sách quy hoạch và phát triển làng nghề truyền thống. Không để mai một. 6 Chính quyền xã, các tổ chức Đoàn, Hội thường xuyên thông báo cho người dân những thông tin mới về những hỗ trợ, chính sách, các dự án về việc làm và những vấn đề mới sau khi sáp nhập Hà Nội. Bảng 2.8 Sắp xếp thứ tự ưu tiên nhu cầu của người dân Như vậy ta thấy nhu cầu lớn nhất của người dân là được tăng lương, giảm thời gian làm việc tại các CT, DN. Đây chính là nhu cầu của những người làm công nhân trong các CT, DN trên địa bàn trong và ngoài xã. Nhu cầu này của người dân là rất chính đáng và cấp thiết. Hiện tại đa số công nhân phải làm việc với thời gian quá dài nhưng mức thu nhập lại không tương xứng với công sức họ bỏ ra. Hơn thế nữa chế độ ưu đãi, tiền thưởng cho công nhân ở một số CT, DN cũng không có hoặc có rất ít. Thu nhập thấp khiến cho người lao động gặp nhiều khó khăn trong cuộc sống, chính điều này cũng tạo nên sự không ổn định trong công việc của họ. Vì vậy việc tăng lương, giảm thời gian tăng ca cho công nhân là một trong những giải pháp giúp họ giảm áp lực thích nghi tốt hơn với công việc, có nhiều điều kiện chăm sóc sức khỏe bản thân và gia đình, nâng cao chất lượng cuộc sống. Nhu cầu tiếp theo của người dân là mong muốn được hỗ trợ nhiều vốn hơn để có thể mở rộng quy mô sản xuất hàng MTĐ, không chỉ sản xuất nhỏ lẻ ở các hộ gia đình mà còn có điều kiện để mở xưởng, thành lập CT, DN chuyên sản xuất MTĐ xuất khẩu. Như vậy không chỉ nâng cao hiệu quả sản xuất mà còn giải quyết việc làm và tạo thu nhập ổn định cho nhiều lao động khác trong xã. Đối với lao động nông nghiệp việc hỗ trợ vốn giúp họ đầu tư cho giống, phân bón, thuốc trừ sâu…nâng cao năng suất lúa và cây màu. Ngoài ra hỗ trợ vốn cho người dân để đầu tư mua con giống, thức ăn cho vật nuôi, xây dựng chuồng trại…nhằm phát triển các mô hình chăn nuôi với quy mô lớn trên địa bàn xã. Nghề MTĐ trên địa bàn xã đã có từ lâu đời nhưng do quy mô sản xuất nhỏ lẻ, chưa xây dựng được thương hiệu nên giá thành sản phẩm còn thấp. Chính vì vậy nhu cầu tiếp theo của người dân trong xã là sản phẩm MTĐ của mình được thu mua với giá cao hơn. Mặc dù địa phương và một số chủ hàng đã tham gia hội chợ, đẩy mạnh xúc tiến thương mại nhưng sản phẩm vẫn chưa vươn xa, giá trị sản xuất tiểu thủ công nghiệp chưa tương xứng nghề truyền thống, sản phẩm ở đây phục vụ xuất khẩu vẫn phải qua đơn vị trung gian, gắn nhãn mác của một cơ sở xuất khẩu khác chứ không được mang tên làng nghề, lượng hàng hóa tiêu thụ chậm, lợi nhuận thu được không cao, điều đó là thiệt thòi lớn cho nghề truyền thống của địa phương. Để có thể nâng cao giá thành sản phẩm thì làng nghề cần khắc phục tình trạng sản xuất nhỏ lẻ và tạo tư cách pháp nhân cho các hộ sản xuất, các doanh nghiệp mở rộng giao thương hàng hóa. Bên cạnh đó, cần đa dạng mẫu mã, đào tạo thợ giỏi để nâng cao chất lượng sản phẩm, đáp ứng yêu cầu thị trường. Các chủ doanh nghiệp, cơ sở cần đẩy mạnh xúc tiến thương mại, tham gia triển lãm, hội chợ xây dựng thương hiệu MTĐ Đông Phương Yên. Hiện nay khu chợ làng nghề của xã đang được đẩy nhanh tiến độ để tạo mặt bằng thuận lợi cho hộ sản xuất mua bán nguyên vật liệu và tập kết sản phẩm, là nơi quảng bá giới thiệu để người làm nghề trao đổi kinh nghiệm, nắm bắt thị hiếu của người tiêu dùng. Tuy nhiên, trên đây mới là những yếu tố mang tính nội lực. Việc xây dựng thương hiệu sản phẩm làng nghề truyền thống Đông Phương Yên còn rất cần sự quan tâm, hỗ trợ, giúp đỡ của các cơ quan chuyên môn. Có như vậy mới nâng cao được giá trị xuất khẩu và nâng cao giá thành sản phẩm. Nhu cầu thứ tư trong những mong muốn và đề xuất của người dân là có trung tâm giới thiệu và môi giới việc làm để họ có thể tìm việc dễ dàng hơn. Đa số người dân trong xã là người có trình độ phổ thông, họ thiếu thông tin về việc làm, không biết CT, DN nào tuyển người, yêu cầu ra sao, công việc như thế nào. Vì vậy khi có trung tâm giới thiệu việc làm người dân có thể tìm hiểu được đầy đủ các thông tin từ đó quyết định nộp hồ sơ xin việc, các CT, DN cũng có thể đưa yêu cầu tuyển dụng của mình về các trung tâm này để tuyển được người phù hợp. Ngoài những nhu cầu trên thì một số những nghệ nhân và thợ MTĐ lành nghề trong xã cũng mong muốn chính quyền quan tâm hơn nữa đến sự phát triển của làng nghề. Cụ thể là cần có sự quy hoạch tổng thể, định hướng, hỗ trợ làng nghề phát triển hơn nữa, không để truyền thống làng nghề bị mai một. Ngoài ra hầu hết người dân trong xã đều mong muốn chính quyền sẽ thường xuyên cung cấp thông tin về những thay đổi của địa phương sau khi sáp nhập Hà Nội. Những thay đổi này có thể là về chính sách xã hội, các dự án quy hoạch đô thị, KCN, đường giao thông… Tiếp cận được thông tin là một trong những điều kiện giúp người dân trong xã thích nghi nhanh hơn với những thay đổi trong việc làm cũng như trong cuộc sống, định hướng được nghề nghiệp trong tương lai. 2.3.2.6 Sự hỗ trợ của chính quyền địa phương trong vấn đề việc làm của người dân xã Đông Phương Yên Để có thể giúp người dân ổn định công việc thì chính quyền địa phương đóng vai trò rất quan trọng. Tìm hiểu rõ vấn đề này sẽ giúp cho chúng ta thấy được mức độ quan tâm của chính quyền dành cho người dân và mối quan hệ giữa họ. Điều này được thể hiện cụ thể qua sự hỗ trợ của chính quyền trong vấn đề việc làm cho người lao động. Tuy nhiên theo đánh giá của người dân thì vai trò của chính quyền địa phương trong hỗ trợ việc làm cho người dân là rất nhỏ bé. Hỗ trợ của chính quyền Số lượng Tỷ lệ (%) Không hỗ trợ 141 70.5 Mở lớp đào tạo nghề 29 14.5 Hỗ trợ vốn 33 16.5 Giới thiệu việc làm 17 8.5 Tìm kiếm thị trường 14 7.0 Hỗ trợ khác 11 5.5 Tổng số 200 100 Bảng 2.9 Sự hỗ trợ của chính quyền địa phương trong vấn đề việc làm Có 70.5% trong tổng số ý kiến đánh giá rằng chính quyền địa phương không hỗ trợ gì trong vấn đề việc làm của họ. Như vậy ta có thể thấy rằng chính quyền địa phương chưa thể hiện được vai trò của mình. Đặc biệt là sau khi sáp nhập Hà Nội, tình hình kinh tế, xã hội địa phương có nhiều thay đổi, cơ cấu việc làm cũng có nhiều biến đổi mạnh mẽ nhưng chính quyền địa phương không hỗ trợ, không cung cấp các thông tin cần thiết cho người dân tìm kiếm công việc thích hợp. Xã Đông Phương Yên là làng nghề MTĐ truyền thống, trước đây nó đã đem lại thu nhập chính và cũng giúp cho nhiều hộ gia đình trong xã được khá giả, nhưng hiện nay khi người dân không còn mặn mà với nghề, chính quyền địa phương không quan tâm, không định hướng quy hoạch sự phát triển cho làng nghề thì nghề MTĐ đang dần mai một và có nguy cơ biến mất. MTĐ là một nghề thủ công mỹ nghệ với các sản phẩm tinh xảo và đẹp mắt nếu được quy hoạch đầu tư đúng hướng thì sẽ là một lĩnh vực lao động tiềm năng đem lại thu nhập cao giúp người dân ổn định cuộc sống. Tuy nhiên thông qua bảng số liệu ta cũng nhận thấy chính quyền địa phương đã có sự hỗ trợ về vốn chiếm 16.5%. Đây là những hỗ trợ vô cùng cần thiết, tuy nhiên với tỷ lệ nhỏ như vậy thì chưa thể đáp ứng được nhu cầu vay vốn để mở rộng quy mô sản xuất hay đầu tư kinh doanh buôn bán của người dân trong xã. Hiện nay trên địa bàn xã cũng đã mở lớp đào tạo nghề MTĐ chiếm 14.5%. Những lớp đào tạo nghề này chủ yếu dành cho những người khuyết tật nhẹ, không có khả năng làm những công việc nặng nhọc, không làm việc được tại các CT, DN. Đây là một trong những chính sách hỗ trợ việc làm cho người khuyết tật giúp họ có được thu nhập ổn định, đóng góp vào đời sống chung của gia đình và hòa nhập tốt nhất vào xã hội. 2.4 Đánh giá những mặt tích cực, hạn chế trong lĩnh vực việc làm của người dân xã Đông Phương Yên – Chương Mỹ sau khi sáp nhập Hà Nội 2.4.1 Những chuyển biến tích cực Sau khi sáp nhập vào Hà Nội trên địa bàn xã Đông Phương Yên có nhiều chuyển biến tích cực trong vấn đề việc làm của người dân. Cụ thể là: Thứ nhất: Nhiều cơ hội việc làm mới được mở ra. Cùng với quá trình đô thị hóa mạnh mẽ nhiều CT, DN đã về đây đầu tư xây dựng và sản xuất. Đặc biệt là KCN Phú Nghĩa cách xã Đông Phương Yên 3km do Tập đoàn Phú Mỹ làm chủ đầu tư với tổng diện tích giai đoạn 1 là 170 ha, hiện nay đã có hơn 20 DN trong và ngoài nước đang hoạt động và giải quyết việc làm cho hơn 7000 lao động trong huyện, trong đó có gần 1000 lao động trong xã Đông Phương Yên. Đây là một cơ hội lớn về việc làm cho người dân trong toàn huyện Chương Mỹ nói chung và trong xã Đông Phương yên nói riêng. Các CT, DN ở đây chủ yếu là may mặc, sản xuất đồ chơi, sản xuất thiết bị ô tô, xe máy, chế biến thực phẩm…Khi tuyển dụng công nhân họ không yêu cầu cao về trình độ nên hầu hết những người đủ độ tuổi và sức khỏe đều có thể vào làm việc, nhờ vậy đã giải quyết được việc làm cho một lực lượng lao động lớn lao động nơi đây. Ngoài ra sau khi sáp nhập Hà Nội cơ hội cho người dân buôn bán kinh doanh, dịch vụ cũng rất phát triển. Xã Đông Phương Yên nằm gần trung tâm Thủ đô Hà Nội, lại có đường quốc lộ 6A chạy qua nối liền với các tỉnh phía Tây Bắc rất thuận lợi cho việc vận chuyển hàng hóa từ các tỉnh này xuống Thủ đô và ngược lại. Hơn nữa xã lại nằm giữa hai thị trấn trẻ là Chúc Sơn và Xuân Mai đang trên đà phát triển mạnh mẽ tạo điều kiện thuận lợi cho người dân phát triển các hoạt động kinh doanh của mình. Nếu như trước đậy trên địa bàn xã hầu như không có bất kì loại hình dịch vụ vui chơi giải trí nào thì hiện nay các dịch vụ này cũng rất phát triển như: các quán café, phòng trà, karaoke, các tiệm chăm sóc sắc đẹp, dịch vụ du lịch…Nó đã tạo ra một cơ hội việc làm mới cho nhiều hộ gia đình trong xã, hơn thế nữa nó cũng đã đáp ứng nhu cầu nâng cao đời sống tinh thần cho người dân nơi đây. Hình 2.5 Một số công ty tại KCN Phú Nghĩa Thứ hai: Nâng cao thu nhập cho người dân. Từ những cơ hội việc làm mới thì đồng thời thu nhập bình quân hàng tháng của cá nhân và hộ gia đình cũng được nâng cao. Nhiều người dân trong xã hiện nay đã có thu nhập trên 5 triệu/ tháng. Thu nhập tăng lên đã góp phần cải thiện đời sống cho người dân trong xã. Thứ ba: Nhiều thuận lợi về mặt cơ chế, chính sách việc làm, các dự án về việc làm. Hà Nội là trung tâm kinh tế, văn hóa của cả nước vì vậy vấn đề việc làm của người lao động cũng được UBND Thành phố Hà Nội đặc biệt quan tâm. Năm 2010 vừa qua nhiều dự án về việc làm được phê duyệt như: “ Phát triển thị trường lao động Thành phố Hà Nội đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020”; “ Chương trình giải quyết việc làm Thành phố Hà Nội giai đoạn 2011 – 2015”; “Điều tra về nhu cầu học nghề và sử dụng lao động trên địa bàn Thành phố Hà Nội”…Cùng với việc sáp nhập vào Hà Nội thì các thủ tục hành chính, giải quyết giấy tờ, thủ tục hồ sơ việc làm với cơ chế một cửa nhanh gọn đã tạo nhiều điều kiện thuận lợi trong giải quyết việc làm cho người dân trong xã. Thứ tư: Làng nghề có những bước phát triển mới. Làng nghề MTĐ truyền thống của xã trước đây chủ yếu là lao động chân tay, sản xuất manh mún nhỏ lẻ ở các hộ gia đình. Hiện nay cùng với quá trình chuyển đổi cơ cấu việc làm nhiều người đã nắm bắt cơ hội này thành lập những CT, DN chuyên sản xuất và xuất khẩu các sản phẩm MTĐ. Trên địa bàn xã hiện có 13 CT, DN sản xuất, kinh doanh trong lĩnh vực hàng MTĐ xuất khẩu. Các doanh nghiệp này tập trung lao động làng nghề tại xưởng sản xuất và trả lương cho lao động theo tháng, mỗi cơ sở sản xuất thường có từ 30 đến 40 nhân công. Các DN MTĐ sản xuất trên dây truyền khép kín, từ khâu chọn nguyên liệu, chế biến đến đan sản phẩm, bảo quản, đóng gói và xuất khẩu. Cũng có một số xưởng sản xuất thu mua sản phẩm MTĐ từ các hộ gia đình trong và ngoài xã về sơ chế lại và xuất khẩu ra nước ngoài. Các DN này thường sản xuất theo đơn đặt hàng và đảm bảo được thị trường tiêu thụ sản phẩm. Như vậy các CT, DN MTĐ trên địa bàn xã đã vừa đảm bảo được sản lượng hàng xuất khẩu, vừa đảm bảo thu nhập hàng tháng cho các lao động, giúp họ ổn định cuộc sống, yên tâm sản xuất. Hình 2.6: Công nhân làm việc tại xưởng sản xuất MTĐ 2.4.2 Những hạn chế Bên cạnh những chuyển biến tích cực trong vấn đề việc làm của người dân thì cũng có không ít những hạn chế, những tác động tiêu cực từ quá trình ĐTH nông thôn đến việc làm và đời sống của người dân trong xã. Cụ thể là: Thứ nhất: Thời gian lao động trong ngày kéo dài và những áp lực về công việc, nhất là đối với người phụ nữ. Sau khi sáp nhập Hà Nội nhiều lao động nông nghiệp và lao động nghề MTĐ chuyển sang làm công nhân tại các công ty. Họ phải làm việc trung bình 11 đến 12h/ ngày, thời gian này đã vượt xa thời gian quy định của người lao động. Ngoài thời gian làm việc ở công ty buổi tối về nhà người phụ nữ phải dọn dẹp nhà cửa, chăm sóc con cái và nhiều chị em còn tranh thủ làm thêm hàng MTĐ để có thêm thu nhập. Đối với những lao động vẫn còn đất canh tác nông nghiệp thì vào ngày mùa họ tranh thủ buổi sáng sớm, buổi chiều tối hay những ngày chủ nhật được nghỉ để làm ruộng. Với cường độ làm việc như vậy thì họ không còn thời gian để chăm sóc bản thân, từ đó gây ảnh hưởng tới sức khỏe và chất lượng công việc. Thời gian lao động kéo dài cũng làm nảy sinh một số vấn đề khác trong cuộc sống gia đình như: buông lỏng việc chăm sóc, quản lý con cái, các thành viên trong gia đình không có thời gian quan tâm chia sẻ với nhau, không khí gia đình trở nên tẻ nhạt…những vấn đề này nếu không được giải quyết hợp lý sẽ gây ảnh hưởng rất lớn tới hạnh phúc gia đình. Thứ hai: Sự thiếu ổn định trong công việc và sự mất định hướng nghề nghiệp của một bộ phận thanh niên trong xã, bắt đầu xuất hiện tình trạng thất nghiệp. Do thời gian lao động kéo dài và những áp lực công việc nên đa số công nhân trên địa bàn xã thường có ý định nghỉ việc để “xả hơi” một thời gian sau đó sẽ tìm kiếm việc làm khác. Vì tự ý nghỉ việc nên họ không được chi trả bảo hiểm lao động cũng như không được hưởng bất kỳ khoản trợ cấp nào. Nhiều thanh niên trong xã tốt nghiệp THPT đi làm công nhân được một thời gian họ bỏ việc vì thấy công việc nhàm chán, lương lại thấp, họ luôn mang tâm lý tìm việc khác có thu nhập cao hơn hoặc tìm công ty khác có mức lương cao hơn, nhưng với trình độ phổ thông lại chưa có kinh nghiệm làm việc nên không có nhiều lựa chọn cho họ, nhiều thanh niên cứ loay hoay như vậy và trở thành những người không có việc làm trong một thời gian dài. Chính những lý do này đã tạo nên sự không ổn định trong lĩnh vực việc làm của người dân trong xã. Thứ ba: Nguy cơ mai một của làng nghề MTĐ truyền thống. Trước đây xã Đông Phương Yên có trên 70% hộ gia đình trong xã làm nghề MTĐ, đây là công việc đem lại thu nhập chính và cũng giúp nhiều hộ gia đình trở nên sung túc và khá giả. Sau khi sáp nhập vào Hà Nội cùng với sự biến đổi của cơ cấu việc làm, người dân đã không còn tha thiết với nghề, một số hộ bỏ hẳn nghề, hiện nay trên địa bàn xã chỉ còn lại khoảng hơn 20% số hộ sản xuất hàng MTĐ. Nếu như trước kia từ trẻ nhỏ, thanh niên tới các cụ lớn tuổi đều có thể tham gia vào một công đoạn nào đó của nghề thì nay hoạt động làm nghề chỉ còn do một số ít các nghệ nhân và những người trung niên đảm nhận. Rất nhiều người không muốn truyền lại nghề cho con cháu vì suy nghĩ rằng bây giờ có nhiều công việc tốt hơn, thu nhập cũng cao hơn. Cụ Thanh năm nay 73 tuổi, là một nghệ nhân với hơn 30 năm trong nghề nói: “ ngày xưa mình đói khổ gắn bó với nghề nhiều năm nên không nỡ bỏ, còn bọn trẻ ngày nay thiếu gì việc để làm, học nghề này rồi làm cả đời cũng chỉ đủ nuôi miệng thôi chứ khá lên thế nào được”. Người dân trong xã luôn mong muốn cho thế hệ con cháu có những cơ hội việc làm tốt hơn là một điều dễ hiểu, tuy nhiên họ chưa nhận thức được đầy đủ tầm quan trọng của việc phát triển làng nghề. MTĐ là một nghề thủ công mỹ nghệ với nhiều sản phẩm tinh xảo, mẫu mã đa dạng và đẹp mắt được ưa chuộng ở thị trường trong và ngoài nước, nếu được đầu tư đúng cách, quy hoạch hợp lý sẽ đem lại hiệu quả kinh tế cao. Hiện nay nhà nước ta có nhiều chủ trương nhằm khôi phục và phát triển các làng nghề truyền thống trong cả nước nhằm giải quyết việc làm cho lao động nông thôn và cũng nhằm giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, trong xu thế đó mà nghề MTĐ dần mai một và có nguy cơ biến mất là một điều đáng tiếc và nó cũng gây ra những tổn hại cho kinh tế địa phương nói riêng và cho sự phát triển của các làng nghề truyền thống trên cả nước nói chung. Thứ tư: Vấn đề an toàn lao động của người dân chưa được chú ý. Sự thu hẹp đất canh tác và những hệ quả về môi trường. Nhiều lao động nơi đây đã có thói quen sản xuất nông nghiệp lâu đời, nay họ mất đất sản xuất do quá trình ĐTH, tuy có số tiền đền bù khá lớn nhưng họ không biết cách đầu tư làm ăn hoặc có đầu tư nhưng chưa quen với cung cách làm ăn hiện đại nên hầu hết sự đầu tư này không đem lại hiệu quả. Cùng với quá trình ĐTH này Nhiều CT, DN được hình thành nhưng do mới thành lập, các chủ CT, DN còn thiếu kinh nghiệm, thiếu vốn nên vấn đề môi trường và an toàn lao động chưa được quan tâm đầu tư. Các hóa chất bảo quản, thuốc nhuộm, khói lò sấy không qua xử lí xả ra làm ô nhiễm môi trường xung quanh. Các lao động làm việc trong các cơ sở sản xuất không có hợp đồng lao động, không được hưởng BHYT, một số công nhân làm việc trong môi trường độc hại như: phun in sơn, đùn ép nhựa, tẩy trắng, nhúng hóa chất chống mối mọt cũng không có dụng cụ, quần áo bảo hộ lao động gây ảnh hưởng đến sức khỏe. Tiểu kết chương II: Thông qua phân tích thực trạng việc làm của người dân xã Đông Phương Yên ta nhận thấy nổi lên một số vấn đề sau đây: Lực lượng lao động trong xã rất dồi dào. Xã Đông Phương Yên là làng nghề MTĐ truyền thống vì vậy không chỉ những người trong độ tuổi lao động mới có khả năng lao động tạo thu nhập mà tất cả các thành viên trong gia đình đều có thể làm việc đóng góp thu nhập vào đời sống chung của gia đình. Trước khi sáp nhập Hà Nội thì đa số người dân trong xã làm nghề MTĐ, nhưng Chương 3: NHẬN ĐỊNH TIỀM NĂNG, THẾ MẠNH VÀ ĐỀ XUẤT MỘT SỐ BIỆN PHÁP NHẰM GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM CHO NGƯỜI DÂN XÃ ĐÔNG PHƯƠNG YÊN – CHƯƠNG MỸ SAU KHI SÁP NHẬP HÀ NỘI 3.1 Những tiềm năng và thế mạnh của xã Đông Phương Yên – Chương Mỹ - Hà Nội trong việc giải quyết việc làm cho người dân Việc tìm hiểu tiềm năng và thế mạnh của cộng đồng sẽ giúp cho chúng ta cũng như cộng đồng có những định hướng hiệu quả trong phát huy thế mạnh của cộng đồng để giải quyết khó khăn trong vấn đề việc làm của người dân, đáp ứng nhu cầu của họ một cách tốt nhất. Từ việc xác định được thực trạng chính của cộng đồng thì những tiềm năng của cộng đồng được biểu hiện như sau: 3.1.1 Tiềm năng con người Xã Đông Phương Yên với dân số khá đông, trong đó số người trong độ tuổi lao động và có khả năng lao động là 5780 người, đây là một nguồn lao động dồi dào đóng vai trò quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội của địa phương. ĐPY có truyền thống lâu đời với nghề MTĐ, nghề được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. Trong xã có nhiều nghệ nhân lâu năm và thợ lành nghề với đôi bàn tay khéo léo tạo nên những sản phẩm tinh xảo, đẹp mắt và có giá trị. Lực lượng lao động nghề MTĐ không chỉ là những nghệ nhân hay những người trong độ tuổi lao động mà còn có cả những trẻ em, thiếu niên hay những cụ già đã ngoài tuổi lao động, đây là một tiềm năng lớn về con người trong phát triển nghề MTĐ tại địa phương. Trong lao động nông nghiệp và làm công nhân đa số những người lao động có sức khỏe tốt, đặc biệt là tinh thần siêng năng, chăm chỉ, chịu thương chịu khó trong lao động. Họ luôn có ý thức vươn lên, vượt qua khó khăn mong muốn có một cuộc sống ổn định. Chính vì vậy mà họ dù làm nông vất vả nhưng họ vẫn tranh thủ làm thêm hàng MTĐ vào buổi tối. Những người là công nhân cũng vậy, họ tranh thủ buổi tối và những ngày chủ nhật để đan hàng MTĐ kiếm thêm thu nhập trang trải cho cuộc sống hằng ngày. Tinh thần đoàn kết là một sức mạnh giúp vượt qua mọi khó khăn vươn lên phát triển. Người dân trong xã luôn biết tương trợ, đùm bọc, giúp đỡ lẫn nhau. Trong sản xuất MTĐ các hộ gia đình phân chia các công đoạn sản xuất để tiết kiệm thời gian. Hộ gia đình nào làm nhanh công đoạn nào thì được giao cho công đoạn đó, từ đó cùng tạo điều kiện cho nhau kiếm thêm thu nhập. Trong lao động nông nghiệp cũng vậy, vào mùa vụ họ đổi công cho nhau để làm việc cho nhanh, khi đi làm công nhân họ giúp đỡ nhau về phương tiện đi lại...Chính nhờ những điều này mà cuộc sống của người dân nơi đây được cải thiện, tình làng nghĩa xóm luôn được đề cao và phát huy. 3.1.2 Tiềm năng về cơ sở vật chất Hệ thống cơ sở vật chất của xã được đầu tư xây dựng kiên cố. Hàng năm đều có xây dựng công trình mới và tu bổ, nâng cấp những công trình mới. Đặc biệt sau khi sáp nhập vào Hà Nội cơ sở hạ tầng của xã được đầu tư mạnh mẽ. Hệ thống thủy lợi được xây dựng đảm bảo tưới tiêu cho hầu hết diện tích đất nông nghiệp. Mạng lưới điện đảm bảo cung cấp ánh sáng cho 100% dân cư. Hệ thống đường giao thông được rải nhựa và bê tông hóa đến 90%, rất thuận tiện cho việc đi lại, lưu thông hàng hóa. Hệ thống trường học cấp I, cấp II, trạm y tế đều được xây dựng kiên cố và đạt tiêu chuẩn đáp ứng được nhu cầu cơ bản của người dân. Mỗi thôn trong xã đều có nhà văn hóa riêng tạo điều kiện cho Hội phụ nữ, Hội người cao tuổi, Đoàn thanh niên...sinh hoạt hàng tháng. Trên địa bàn xã hiện có 13 CT, DN MTĐ với 30 chủ hộ đứng ra thu mua sản phẩm từ người dân, có 1 công ty chế biến sữa, sự hoạt động của các CT, DN này sẽ góp phần rất lớn vào tạo việc làm cho người dân nơi đây. Ngoài ra trên địa bàn xã còn có khu chợ Đông Phương Yên và 1 chợ bán giang, mây là nơi diễn ra các hoạt động giao lưu buôn bán cho người dân trong xã và các khu chợ lân cận và cung cấp nguyên liệu cho người dân làm nghề MTĐ. 3.1.3 Thế mạnh về vị trí địa lý, tài nguyên thiên nhiên Đông Phương Yên có đường quốc lộ 6A chạy qua, lại nằm trong chuỗi đô thị Miếu Môn - Xuân Mai – Sơn Tây, nằm giữa tam giác du lịch Hà Nội – Ba Vì – Chùa Hương, đây là những điều kiện rất thuận lợi để phát triển các loại hình kinh doanh, buôn bán, dịch vụ du lịch... Đối với hoạt động của làng nghề thì nguyên liệu chủ yếu là cây mây, cây giang, cây nứa được khai thác ở rừng tự nhiên nằm ở vùng Quốc Oai, Sơn Tây, Hòa Bình cách đó hơn 10km, việc vận chuyển dễ dàng cũng làm giảm đi chi phí nguyên liệu đầu vào. Nằm cách trung tâm Thủ đô Hà Nội 20km, đây cũng là một lợi thế cho làng nghề vì nền kinh tế Thủ đô phát triển sẽ kéo theo sự phát triển của làng nghề. Thị trường tiêu thụ sản phẩm ở khu vực gần Thủ đô cũng mạnh hơn những nơi khác, đặc biệt là từ khi toàn bộ tỉnh Hà Tây được sáp nhập vào Hà Nội. Hình 3.1 Khu chợ buôn bán mây, giang, tre tại xã Đông Phương Yên 3.2 Đề xuất một số biện pháp nhằm giải quyết, ổn định việc làm cho người dân xã Đông Phương Yên Đề ra các biện pháp nhằm giải quyết và ổn định việc làm cho lao động nông thôn là một vấn đề mang tính cấp thiết, đặc biệt là trong giai đoạn hiện nay khi quá trình ĐTH nông thôn đang diễn ra mạnh mẽ, tỷ lệ thất nghiệp ngày tăng. Vấn đề này nhận được sự quan tâm và đầu tư của Nhà nước, các cấp chính quyền và toàn thể người dân. Tuy nhiên để giải quyết vấn đề một cách triệt để thì một cá nhân hay một bộ phận cơ quan Nhà nước có thể làm được mà cần có sự phối hợp chặt chẽ, chia sẻ trách nhiệm giữa các cấp, các ngành đoàn thể, sự ủng hộ và tham gia tích cực của người dân. 3.2.1 Chủ trương và phương hướng và những biện pháp tổng thể giải quyết việc làm của Đảng và Nhà nước Về chủ trương: Giải quyết việc làm cho người lao động vừa là nhiệm vụ chiến lược lâu dài, vừa mang tính cấp bách, là trách nhiệm của toàn Đảng, toàn dân, của các cấp, các ngành, các tổ chức chính trị xã hội và của chính người lao động. Nhà nước, các cấp ngành có chương trách nhiệm xây dựng chương trình giải quyết việc làm hàng năm và từng thời kỳ, đề ra chỉ tiêu việc làm, các giải pháp thực hiện, có hệ thống chính sách ưu đãi khuyến khích có liên quan đến tạo nhiều việc làm mới, thu hút lực lượng lao động và có trách nhiệm với người lao động. Nhà nước tạo những điều kiện cần thiết thông qua cơ chế, chính sách, luật pháp và hỗ trợ một phần về tài chính để khuyến khích các tổ chức, đơn vị kinh tế và người lao động ở mọi thành phần kinh tế tự giải quyết việc làm và tạo việc làm mới. Người lao động được tự do hành nghề, lập hội nghề nghiệp, liên doanh, liên kết, hợp tác và tự do thuê mướn lao động trên cơ sở pháp luật và sự hướng dẫn của Nhà nước. Nhà nước bảo vệ và khuyến khích các chủ doanh nghiệp, kể cả các chủ tư nhân, gia đình và mọi người làm giàu chính đáng, tạo được nhiều chỗ làm việc mới và thu hút được nhiều lao động. Phát huy mọi nguồn tiềm năng trong nước, khai thác đến mức tối đa tiềm năng trong dân (vốn, kỹ thuật và kinh nghiệm làm ăn...), đồng thời tranh thủ và sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn đầu tư nước ngoài vào các chương trình và dự án việc làm có mục tiêu. Giải quyết việc làm phải gắn với quy hoạch tổng thể, phát triển kinh tế - xã hội và đồng thời phải căn cứ vào hai chỉ tiêu chủ yếu là hiệu quả kinh tế và chỗ làm mới để lựa chọn các dự án phát triển kinh tế. Giải quyết việc làm phải gắn liền với việc không ngừng nâng cao chât lượng lao động, do đó phải xây dựng kế hoạch đào tạo và đào tạo lại nguồn nhân lực để đáp ứng yêu cầu trong từng lĩnh vực việc làm nói riêng và yêu cầu của sự nghiệp CNH – HĐH đất nước nói chung. Về phương hướng: Phương hướng cơ bản là gắn việc giải quyết việc làm với nhiệm vụ thực hiện chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, phát huy tiềm năng các thành phần kinh tế, gắn lao động với đất đai và tài nguyên của đất nước; kết hợp giữa giải quyết việc làm tại chỗ là chính với mở rộng hoạt động để phát triển việc làm ngoài nước. Tổ chức đào tạo, đào tạo lại và phổ cập nghề cho lao động xã hội để họ tự tìm việc làm, tự hành nghề. Hướng trọng điểm giải quyết việc làm là khuyến khích, thu hút các lực lượng lao động, kể cả lao động "chất xám", nhằm khai thác tiềm năng kinh tế của 10 triệu ha đất rừng đất đồi, đất ven biển, vào việc định canh, định cư đồng bào dân tộc ít người để ổn định đời sống, phát triển sản xuất hàng hoá và chống nạn phá rừng; đồng thời cần tổ chức việc làm cho lao động dôi thừa trong khu vực Nhà nước, bộ đội xuất ngũ, học sinh đã tốt nghiệp các trường lớp đào tạo, thanh niên đến tuổi lao động, người đi lao động ở nước ngoài về vào việc phát triển sản xuất, chế biến các mặt hàng xuất khẩu, mở rộng các hoạt động dịch vụ cho sản xuất và đời sống ở thành thị, vùng đồng bằng đông dân. Tập trung thực hiện các chương trình quốc gia về việc làm trong kế hoạch 5 năm 2011- 2015. Chương trình được thực hiện ở vùng đồng bằng đông dân ít đất (đặc biệt là đồng bằng Sông Hồng) chủ yếu là phát triển kinh tế hộ gia đình, thu hút lao động vào thâm canh, nâng hệ số sử dụng đất lên trên 2 vòng năm, tận dụng các mảnh đất trũng, đất sình lầy, gò đồi cải tạo thành đất nông nghiệp để tạo thêm việc làm tại chỗ, phát triển chăn nuôi (nhất là chăn nuôi cho xuất khẩu), phát triển ngành nghề ở nông thôn, đưa tiến bộ khoa học kỹ thuật và chuyển giao công nghệ sinh học để nuôi trồng đặc sản xuất khẩu có giá trị cao. Chương trình tổng thể giải quyết việc làm ở thành thị, đặc biệt là ở các thành phố lớn, các KCN tập trung. Thực hiện chương trình đào tạo, đào tạo lại và dạy nghề gắn với dịch vụ việc làm (giới thiệu, tư vấn, cung ứng lao động...) thông qua các dự án phát triển các trung tâm dạy nghề và dịch vụ việc làm, trung tâm áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật và chuyển giao công nghệ ở một số địa phương và thành phố lớn, ở các tổ chức xã hội (Đoàn thanh niên, Hội Liên hiệp phụ nữ, Hội nông dân...). Chương trình xúc tiến việc làm phát triển công nghệ và dịch vụ theo các dự án nhỏ linh hoạt ở các thành phố, thị xã, thị trấn, trước hết là thành phố Hà Nội và thành phố Hồ Chí minh; khôi phục và phát triển nghề cổ truyền. Chương trình phát triển các doanh nghiệp quy mô lớn, nhất là ở địa bàn có điều kiện lập các khu chế xuất, khu công nghiệp tập trung, phát triển các công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn, các dự án thu hút vốn đầu tư của nước ngoài để tạo việc làm trong nước thông qua gia công xuất khẩu, liên doanh, các dự án viện trợ cho mục đích phát triển và gắn với việc làm. Các biện pháp tổng thể : Để thực hiện thắng lợi mục tiêu giải quyết việc làm trong tình hình hội nhập kinh tế quốc tế, cần thực hiện tốt các biện pháp chủ yếu sau: Một là: Hoàn thiện thể chế thị trường lao động theo định hướng xã hội chủ nghĩa; nghiên cứu, xây dựng và ban hành các văn bản, cơ chế, chính sách theo hướng tiếp cận với chuẩn mực chung của quốc tế về lao động, việc làm và thị trường lao động, phù hợp các thông lệ và cam kết quốc tế của Việt Nam trong hội nhập; đẩy mạnh cải cách hành chính theo hướng minh bạch, công khai và đơn giản; tăng cường phân cấp, nâng cao trách nhiệm của chính quyền địa phương nhằm tạo hành lang pháp lý cho hoạt động trong lĩnh vực lao động - việc làm. Hai là: Huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực trong nước và quốc tế cho đầu tư phát triển, nhất là những vùng, ngành, lĩnh vực có khả năng thu hút nhiều lao động như: các vùng kinh tế động lực, trọng điểm ở 3 miền, khu vực dân doanh, trước hết là các doanh nghiệp vừa và nhỏ; kinh tế trang trại, hợp tác xã, làng nghề, xã nghề tiểu thủ công nghiệp ...; khu vực dịch vụ, nhất là các dịch vụ thu hút nhiều lao động kết hợp khai thác tiềm năng, thế mạnh của đất nước và con người Việt Nam. Chuyển dịch mạnh cơ cấu kinh tế và lao động nông thôn theo hướng công nghiệp hóa - hiện đại hóa để tạo thêm nhiều việc làm tại chỗ, góp phần giảm bớt áp lực về lao động ra các thành phố làm việc. Ba là: Tăng cường sự hỗ trợ của Nhà nước trong giải quyết việc làm và phát triển thị trường lao động thông qua việc thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia về việc làm đến năm 2010, thực hiện lồng ghép có hiệu quả Chương trình với các chương trình mục tiêu quốc gia khác (về giáo dục - đào tạo, về giảm nghèo...) và các chương trình phát triển kinh tế - xã hội, đặc biệt trên địa bàn cấp tỉnh, thành phố. Quan tâm công tác đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng, coi đây là một trong những giải pháp góp phần tạo việc làm cho người lao động. Bốn là: Hoàn thiện và phát triển thị trường lao động, góp phần vào việc hình thành đồng bộ thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong đó, tập trung vào các nội dung như: xây dựng và hoàn thiện hệ thống thông tin thị trường lao động nhằm phổ biến rộng rãi cho mọi đối tượng có nhu cầu; phát triển đồng bộ hệ thống giao dịch trên thị trường theo hướng quy hoạch tổng thể hệ thống trung tâm giới thiệu việc làm và các cơ sở giới thiệu việc làm, đầu tư nâng cao năng lực các trung tâm, xây dựng 3 trung tâm ở 3 vùng kinh tế trọng điểm đạt tiêu chuẩn, đa dạng hóa các "kênh" giao dịch trên thị trường lao động; tổ chức thường xuyên, định kỳ các sàn giao dịch việc làm để có thể kết nối hoạt động giao dịch trên phạm vi toàn quốc. Năm là: Nâng cao chất lượng nguồn lao động cả về trình độ học vấn và trình độ chuyên môn kỹ thuật, kỹ năng tay nghề; thực hiện liên thông giữa các cấp trình độ; giáo dục - đào tạo theo định hướng gắn với cầu lao động, đồng thời, nâng cao hiểu biết về pháp luật, ý thức kỷ luật, tác phong công nghiệp và nâng cao thể lực đảm bảo cung cấp đội ngũ lao động có chất lượng cả về thể lực và trí lực, đáp ứng yêu cầu của nền sản xuất công nghiệp. Đây là một quá trình lâu dài với nhiều cơ chế, chính sách thích hợp, đòi hỏi có sự tham gia của tất cả các cấp, các ngành và phải thực hiện ngay từ bậc học phổ thông. Sáu là: Hoàn thiện và phát triển hệ thống an sinh xã hội. Hội nhập kinh tế, Việt Nam phải mở cửa thị trường, thực hiện theo các quy luật của thị trường, kèm theo đó là chúng ta sẽ đối mặt với những tác động tiêu cực từ thị trường, nhất là trong vấn đề xã hội. Vì vậy, hệ thống an sinh xã hội là một công cụ quan trọng để góp phần ngăn ngừa và hạn chế những tiêu cực này. Trong thời gian tới, hệ thống an sinh xã hội cần tập trung vào các chính sách đối với lao động nông thôn bị mất việc làm, thiếu việc làm do quá trình đô thị hóa, công nghiệp hóa, đối với lao động dôi dư và các chính sách về bảo hiểm xã hội, đặc biệt là bảo hiểm thất nghiệp, ... tạo cơ hội cho mọi đối tượng đều được hưởng thành quả từ hội nhập, thực hiện mục tiêu phát triển vì con người của Đảng ta. 3.2.2 Các biện pháp cụ thể nhằm giải quyết việc làm cho người dân xã Đông Phương Yên – Chương Mỹ - Hà Nội Đối với xã Đông Phương Yên có nhiều điều kiện thuận lợi trong giải quyết và ổn định việc làm cho người dân như: điều kiện vị trí địa lý, cơ sở vật chất, những chính sách ưu đãi, tiềm năng lao động của người dân...Trong đó những nguồn lực trong cộng đồng giữ vai trò then chốt, là lực lượng quan trọng giúp người dân tiếp cận thông tin, phát huy thế mạnh trong tìm kiếm và ổn định việc làm. Đông Phương Yên cũng là một xã có truyền thống nghề MTĐ lâu đời vì vậy các giải pháp về việc làm cũng cần gắn liền với việc khôi phục, quy hoạch và phát triển làng nghề, đó mới là sự phát triển lâu dài và bền vững. 3.2.2.1 Phát huy nội lực của bản thân người dân lao động xã Đông Phương Yên Để có thể ổn định được việc làm thì phụ thuộc rất nhiều vào chính bản thân người lao động, họ cần ý thức được rằng họ mới chính là chủ thể trong giải quyết việc làm cho chính mình. Họ là những người lao động có sức khỏe, sức trẻ, có trình độ học vấn chung, có tinh thần sáng tạo... Vì vậy khi đưa ra các phương án để giải quyết và ổn định việc làm thì cần phát huy tối đa những điểm mạnh này. Đối với người lao động nông nghiệp: Trong lao động nông nghiệp do nhiều yếu tố như thiếu vốn, sản xuất không đúng kỹ thuật, diễn biến phức tạp của thời tiết nên cây lúa và các loại cây màu năng suất, chất lượng không cao. Hơn nữa hiện nay diện tích đất nông nghiệp đang dần thu hẹp, sản lượng thu được chỉ vừa đủ đáp ứng nhu cầu của gia đình, hầu như không có hoặc có rất ít thu nhập từ làm nông. Vì vậy người dân cần tích cực tham gia vào các lớp khuyến nông, tập huấn nâng cao kỹ thuật sản xuất các giống lúa mới, thâm canh, tăng vụ. Tìm hiểu thêm các chính sách hỗ trợ cụ thể cho nông nghiệp như: chính sách hỗ trợ vốn của Hội nông dân, Hội phụ nữ để đầu tư cho sản xuất nông nghiệp một cách hiệu quả. Ngoài trồng lúa và cây màu người dân cũng có thể áp dụng một số mô hình chăn nuôi gia súc, gia cầm để nâng cao thu nhập. Hiện trong xã có mô hình chăn nuôi vịt siêu trứng của gia đình anh Giảng với gần 1000 con vịt đẻ trứng mỗi ngày, hay mô hình chăn nuôi nuôi lợn nái của gia đình cô Hòa. Đây là những mô hình chăn nuôi đem lại hiệu quả kinh tế cao và cần nhân rộng tại địa phương. Đối với thợ thủ công làm nghề MTĐ: Trong hoạt động sản xuất MTĐ những nghệ nhân, những thợ lành nghề và người dân cần chú ý đến một số vấn đề như : Khơi dậy truyền thống và lòng yêu nghề của nhân dân trong xã, giữ gìn bản sắc văn hoá nghề nghiệp như : Tổ chức các cuộc thi tài nghệ, để nghị UBND Xã, Huyện có hình thức khen thưởng động viên các cơ sở sản xuất hiệu quả, các nghệ nhân tài ba. Tổ chức hoạt động giao lưu văn hoá giữa các thôn đã được đón danh hiệu làng nghề MTĐ, trao đổi kinh nghiệm phát triển nghề, hằng năm tổ chức lễ kỉ niệm đón nhận danh hiệu hình thành những thuần phong mỹ tục ở làng nghề MTĐ. Ngoài ra người dân cần chú ý học tập, bồi dưỡng, nâng cao tay nghề. Lao động làm việc trong nghề MTĐ hiện nay chủ yếu là cách truyền nghề trực tiếp của bố mẹ, anh chị em và người lớn tuổi, do đó khả năng sáng tạo chưa cao. Để làng nghề MTĐ phát triển hơn nữa, lao động trong nghề cần phải được đào tạo về kỹ thuật, luôn luôn học hỏi rèn luyện để nâng cao tay nghề, tạo ra những sản phẩm chất lượng và uy tín. Các cán bộ quản lí cũng cần được bồi dưỡng, nâng cao trình độ để đáp ứng yêu cầu phát triển làng nghề. Tổ chức các cuộc gặp gỡ, trao đổi, truyền dạy kinh nghiệm của các nghệ nhân giỏi để các thế hệ sau học hỏi và tiếp thu. Họ không chỉ truyền dạy những kinh nghiệm trong nghề mà còn truyền dạy cả lòng nhiệt huyết, những gì là tinh hoa nhất của nghề MTĐ, để cho thế hệ sau hiểu được giá trị của nghề và phát huy chúng theo cách riêng của mình. Đối với người làm công nhân: Trước khi vào làm việc cần tìm hiểu rõ về tính chất, đặc điểm và yêu cầu của công việc, về những nội quy, quy định của các CT, DN xem có phù hợp với thời gian, sức khỏe và khả năng của mình hay không, từ đó mới quyết định nộp hồ sơ đi làm và có sự yêu thích và gắn bó với công việc. Cần phải xem xét kỹ những điều khoản trong hợp đồng lao động để tránh vi phạm trong khi làm việc và đảm bảo được quyền lợi của bản thân. Trong khi làm việc cần có tinh thần hợp tác, tích cực, luôn nắm bắt cơ hội nâng cao tay nghề và phát triển trong công việc. Đối với tiểu thương: Sau khi sáp nhập vào Hà Nội hoạt động buôn bán, kinh doanh, dịch vụ ở địa phương cũng đang phát triển hết sức nhanh chóng như: mở các đại lý, tạp hóa, quán ăn, dịch vụ vui chơi giải trí, du lịch...Những người làm trong lĩnh vực này để hoạt động kinh doanh của mình ổn định và có thu nhập cao cần chú ý một số vấn đề như: tìm hiểu trước về lĩnh vực kinh doanh sau đó lên kế hoạch kinh doanh cụ thể, tính toán đến các rủi ro để có phương án dự phòng, chuẩn bị đầy đủ về nguồn vốn đầu tư. Những người mở các dịch vụ như: cafe giải khát, karaoke, chăm sóc sắc đẹp, internet...cần tìm hiểu trước nhu cầu của người dân, chọn địa điểm kinh doanh thuận lợi...Chú ý đến chất lượng sản phẩm, thái độ phục vụ và chăm sóc khách hàng...Chuẩn bị vốn để quay vòng đầu tư, mở rộng kinh doanh. 3.2.2.2. Trách nhiệm của chính quyền địa phương, vai trò của các tổ chức đoàn thể, câu lạc bộ trên địa bàn xã Đông Phương Yên Chính quyền địa phương cần có sự khảo sát lại một cách toàn diện tình hình đời sống của người dân, đặc biệt là trong vấn đề việc làm. Từ đó đánh giá chính xác hơn đời sống và thực trạng việc làm của người dân, đề ra và thực hiện các giải pháp giải quyết và ổn định việc làm một cách triệt để. Chính quyền cần quy hoạch tổng thể làng nghề MTĐ. Sản xuất công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp nói chung và làng nghề nói riêng là một bộ phận quan trọng trong cơ cấu kinh tế. Do vậy, phát triển làng nghề phải được quy hoạch tổng thể và gắn với kinh tế – xã hội, quy hoạch phát triển công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp của địa phương. Trên cơ sở quy hoạch tổng thể làng nghề, cần xây dựng quy hoạch chi tiết từng khu dân cư, khu sản xuất, giao thông, điện nước…Các cơ quan có chức năng như: Sở công nghiệp, phòng Công nghiệp phối hợp với các ngành Xây Dựng, Địa Chính, Giao thông, Thương mại, Du lịch … và chính quyền xã phát triển làng nghề theo định hướng phát triển kinh tế của xã, huyện, thực hiện các mục tiêu của UBND Thành phố Hà Nội. UBND Xã kết hợp với Ban văn hoá – thông tin giúp các làng nghề xây dựng làng văn hoá. Đầu tư các dự án phát triển làng nghề, đưa các dự án vào kế hoạch phát triển kinh tế xã hội hàng năm của địa phương…từ đó tạo điều kiện cho làng nghề MTĐ ngày càng phát triển mạnh mẽ hơn. Cần xây dựng các điểm sinh hoạt văn hoá liên quan đến nghề, xây dựng nhà thờ tổ, câu lạc bộ làng nghề, văn phòng giao dịch…để giao lưu, trao đổi kinh nghiệm giữa người dân trong một làng nghề và giữa các làng nghề với nhau. Về thị trường tiêu thụ sản phẩm: UBND Xã hỗ trợ, tạo điều kiện thuận lợi cho làng nghề MTĐ tiếp cận, tìm kiếm, khai thác, mở rộng thị trường trong nước và ngoài nước, tạo cơ hội giao lưu buôn bán. Ban dân vận Xã và các ngành có liên quan phối hợp hướng dẫn thành lập Hiệp hội làng nghề góp phần làm tăng sức mạnh, tăng sức cạnh tranh trên thị trường trong sản xuất kinh doanh cũng như tiêu thụ sản phẩm. Có như vậy mới tập hợp được sức mạnh về vốn, trí tuệ và kinh nghiệm của Chính quyền địa phương, của các CT, DN và của toàn thể nhân dân trong nghề MTĐ. Tổ chức kiểm tra, giám sát các hoạt động buôn bán sản phẩm MTĐ cần kiên quyết chống buôn lậu, gian lận trong buôn bán và tiêu thụ sản phẩm MTĐ. Về nguyên liệu cho quá trình sản xuất: quy hoạch các vùng nguyên liệu tập trung từ việc trồng rừng mây, tre, giang tới việc khai thác, buôn bán các khu chợ. Căn cứ vào tình hình phát triển kinh tế – xã hội của Xã trong từng sản xuất. Việc khai thác mây, tre, giang, nứa cần phải được quản lí chặt chẽ, khai thác hợp lí và gắn liền với trồng tái sinh, đảm bảo nguồn nguyên giai đoạn cần hình thành các dịch vụ khai thác, cung cấp nguyên liệu, đảm bảo ổn định cho liệu có thể khai thác lâu dài. Chính quyền Xã đề nghị lên huyện, tỉnh sớm có chủ trương bảo hiểm, trợ giá đối với một số loại cây trồng, nguyên liệu như mây, tre, nứa… cung cấp nguyên liệu ổn định cho quá trình sản xuất hàng xuất khẩu. Về nguồn vốn đầu tư: Quỹ tín dụng nhân dân, Hội nông dân trong xã, Ngân hàng phục vụ người nghèo, Hội phụ nữ, các tổ chức xã hội trên địa bàn có vốn cho vay cần ưu tiên cho các hộ, các CT, DN trong làng nghề muốn mở rộng sản xuất được vay vốn với lãi suất thấp. Ngoài ra Chính quyền địa phương và các cơ quan chức năng cũng cần chú ý thêm một số vấn đề như: thực hiện tuyển chọn và công nhận các nghệ nhân và các thợ tài hoa để có chính sách bồi dưỡng, sử dụng phù hợp với điều kiện của địa phương. Tổ chức cho đi tham quan nước ngoài, tham gia triển lãm, giới thiệu sản phẩm đối với cán bộ và người lao động có nhiều công lao xây dựng và phát triển làng nghề. Sau khi địa phương sáp nhập vào Hà Nội nhiều cơ hội việc làm mới được mở ra nhưng người dân chưa tiếp cận được với các việc làm do thiếu thông tin, vì vậy chính quyền cũng có thể cho xây dựng trung tâm giới thiệu việc làm để các nhà tuyển dụng thuận lợi trong việc tuyển người, còn người dân thì có thể chọn được công việc phù hợp với bản thân. Thường xuyên tổ chức tuyên truyền, phổ biến rộng rãi các chính sách khuyến khích phát triển sản xuất của Nhà nước, của Huyện, Thành phố để mọi người yên tâm bỏ vốn đầu tư sản xuất làm giàu cho mình và góp phần làm giàu cho xã hội. Đoàn thanh niên phối hợp với các trung tâm dạy nghề, các CT, DN trên địa bàn xã kịp thời định hướng cho những đối tượng học sinh nghỉ học sớm hoặc lớp thanh niên đã tốt nghiệp THPT đi học nghề, giúp họ nắm bắt thông tin việc làm, định hướng, hỗ trợ, tạo điều kiện cho họ có việc làm phù hợp với tay nghề, từng bước ổn định cuộc sống. 3.2.2.3 Nâng cao vai trò của các CT, DN trên địa bàn xã Đông Phương Yên Các CT, DN trên địa bàn xã thì hầu hết đều là sản xuất hàng MTĐ xuất khẩu. Những CT, DN đã góp phần rất lớn trong việc phát triển kinh tế - xã hội của địa phương, tạo việc làm và thu nhập ổn định cho nhiều lao động. Tuy nhiên để cơ sở của mình ngày càng lớn mạnh và giúp giải quyết, ổn định việc làm cho người dân thì các CT, DN cần chú ý một số giải pháp như sau: Các CT, DN cần giảm bớt một số thủ tục không cần thiết khi tuyển dụng, thực hiện bình đẳng đối với cả nam và nữ trong tuyển dụng. Cần có kế hoạch đào tạo nâng cao tay nghề cho người lao động, quan tâm đến đời sống vật chất và tinh thần của công nhân. Đối với các CT, DN MTĐ cần tổ chức giới thiệu, quảng bá sản phẩm MTĐ. Tổ chức hội chợ triển lãm các sản phẩm MTĐ hàng năm, đề nghị lên UBND Huyện, Thành Phố dành một khoản ngân sách cho lĩnh vực này. UBND Xã dành vị trí thuận tiện để tổ chức các trung tâm, cửa hàng để giới thiệu sản phẩm. Tổ chức quảng cáo, tiếp thị, thông tin dự báo thị trường tiêu thụ sản phẩm, chống ép giá đối với sản phẩm làng nghề MTĐ. Các CT, DN có thể liên kết với nhau để Thành lập hiệp hội làng nghề, đảm bảo đầu vào, thị trường tiêu thụ, giá thành sản phẩm, xây dựng thương hiệu riêng trên thị trường để sản phẩm MTĐ có chỗ đứng vững chắc trên thị trường trong và ngoài nước. . Hình 3.2 Một số sản phẩm của làng nghề MTĐ xã Đông Phương Yên Các CT, DN cần đối mới công nghệ thiết bị và bảo vệ môi trường, đầu tư ngân quỹ của mình cho việc mua sắm các thiết bị, máy móc phục vụ cho quá trình sản xuất, kết hợp công nghệ tiên tiến và phương pháp cổ truyền nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm. Thường xuyên cập nhật thông tin chuyển giao công nghệ, kỹ thuật. Hàng năm có kế hoạch đầu tư nghiên cứu ứng dụng, trang bị kỹ thuật, nghiên cứu thiết kế chế tạo, cải tiến các mẫu mã MTĐ ngày càng phong phú, tinh xảo đáp ứng được nhu cầu ngày càng cao của người tiêu dùng. Đầu tư các thiết bị và hệ thống xử lý chất thải, thuốc nhuộm, hóa chất…một cách an toàn, giảm gây ô nhiễm môi trường từ sản xuất. Một vấn đề rất quan trọng đó là các CT, DN trên địa bàn xã cần quan tâm đến người lao động. Có chính sách lương, thưởng hợp lý. Tăng lương cho những lao động lâu năm, những người có tay nghề cao, những người có năng suất lao động tốt nhằm khuyến khích họ làm việc hăng say, hiệu quả và gắn bó với cơ sở. Có hợp đồng lao động, đóng đầy đủ BHYT cho lao động trong xưởng. Chú ý đến an toàn lao động của người lao động, mua sắm đầy đủ các vật dụng, quần áo bảo hộ cho những lao động làm việc trong môi trường độc hại như sơn, tẩy hóa chất, thuốc nhuộm…tránh gây ảnh hưởng tới sức khỏe. Nhìn chung trong giai đoạn hiện nay quá trình ĐTH nông thôn diễn ra mạnh mẽ ở những vùng ven những đô thị lớn như Hà Nội, kéo theo đó là hàng loạt các vấn đề về chuyển dịch cơ cấu việc làm, thu hẹp đất nông nghiệp, tình trạng thất nghiệp…ngày càng gia tăng. Một trong những phương án hiệu quả để giải quyết việc làm cho lao động nông thôn trong quá trình ĐTH đó là việc đưa ra chính sách khuyến khích nhằm khôi phục và phát triển các làng nghề truyền thống. Vì vậy cần tăng cường sự quản lí của nhà nước đối với làng nghề. Chính quyền từ huyện đến xã cần tạo điều kiện để người lao động được làm chủ hoạt động sản xuất kinh doanh theo pháp luật. Tạo điều kiện về mặt bằng sản xuất, vay vốn thủ tục hành chính, thông tin kinh tế kỹ thuật, đào tạo, chính sách xã hội. Quy định rõ chế độ thanh tra, kiểm tra của các cơ quan Nhà nước đối với các cơ sở sản xuất làng nghề ngăn chặn tình trạng các thủ tục rườm rà gây khó khăn cho sự phát triển làng nghề. Các nguồn vốn đầu tư, hỗ trợ hằng năm của Nhà nước cho vấn đề việc làm, phát triển làng nghề cần được sử dụng một cách triệt để, hợp lí, tránh việc lãng phí, tham những, cắt xén nguồn ngân quỹ dành cho các dự án này. 3.2.2.4 Tăng cường đội ngũ cộng tác viên và nhân viên công tác xã hội Nhân viên công tác xã hội là người trung gian, giữ vai trò quan trọng trong việc tạo mối liên kết giữa người lao động nông thôn với các tổ chức đoàn thể và các CT, DN đóng trên địa bàn, giúp họ tiếp cận với các thông tin về việc làm, phát huy năng lực của mình để tìm được việc làm phù hợp. Tuyên truyền, phổ biến sâu rộng các chủ trương, chính sách pháp luật của Đảng và Nhà nước về lĩnh vực lao động – việc làm đến tất cả người dân, giúp họ hiểu được quyền và nghĩa vụ của mình trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, đặc biệt là trong lĩnh vực việc làm. Phối hợp với Hội nông dân, Hội phụ nữ mở các lớp tập huấn khuyến nông, vận động người dân tích cực tham gia để học hỏi kiến thức, kỹ năng trong chăn nuôi, trồng trọt, từng bước nâng cao hiệu quả sản xuất. Nhân viên công tác xã hội cần phối hợp, tham gia trong các câu lạc bộ nghề MTĐ ở địa phương, tổ chức giao lưu, trao đổi kinh nghiệm giữa những nghệ nhân trong làng nghề đối với thế hệ trẻ, phát huy truyền thống và lòng yêu nghề. Tham gia làm cộng tác viên hoặc nhân viên trong các trung tâm giới thiệu việc làm để tư vấn, định hướng nghề nghiệp cho người dân, đặc biệt là cho lớp thanh niên trẻ tiếp cận với các cơ hội việc làm phù hợp với sở thích và năng lực của bản thân. PHẦN III: KẾT LUẬN Quá trình ĐTH đang diễn ra mạnh mẽ trên địa bàn huyện Chương Mỹ nói chung và trên Xã Đông Phương Yên nói riêng. Quá trình này đã đem lại sự phát triển về cơ sở hạ tầng, y tế, giáo dục… đặc biệt là những chuyển biến mạnh mẽ về cơ cấu việc làm của người dân nơi đây. Đó là việc chuyển từ làng nghề thủ công truyền thống sang buôn bán, kinh doanh dịch vụ và làm công nhân. Nếu như trước đây hầu hết người dân trong xã đều là thợ thủ công sản xuất hàng MTĐ thì nay chỉ còn lại khoảng 17% người còn theo nghề, số lao động trong nông nghiệp cũng giảm đi do diện tích đất sản xuất bị thu hẹp, thay vào đó số người làm công nhân đã tăng lên đến 34.5%, ngoài ra hoạt động buôn bán, dịch vụ cũng đang rất phát triển. Cùng với sự thay đổi về cơ cấu việc làm thì thu nhập của người dân cũng tăng lên, 51% người có thu nhập từ 2 đến 3 triệu/tháng, đây là một mức thu nhập khá cao đối với người lao động nông thôn. Tuy nhiên trong giai đoạn hiện nay giá cả thị trường nhiều biến động, giá xăng, giá điện tăng kéo theo sự tăng giá của hàng loạt các mặt hàng và các loại thực phẩm nên với mức thu nhập như vậy thì người dân phải “dè dặt” mới đủ chi tiêu cho sinh hoạt hàng ngày. Hơn nữa mức thu nhập này không ổn định hàng tháng mà phụ thuộc nhiều vào thời gian làm việc trong ngày của người lao động. Họ phải làm việc trung bình 10 đến 12h/ ngày, đây là khoảng thời gian vượt xa thời gian quy định của người lao động. Thời gian làm việc quá dài cũng gây ảnh hưởng tới một số vấn đề khác trong cuộc sống của người dân như việc chăm sóc con cái không được quan tâm, không có thời gian nghỉ ngơi nên ảnh hưởng đến sức khỏe, chất lượng công việc cũng không đảm bảo. Đa số công việc của người dân đang làm đều mang tính chất không ổn định, ngoài ra trên địa bàn xã đã bắt đầu xuất hiện tỉ lệ người thất nghiệp do không tìm được công việc phù hợp với khả năng và nhu cầu của mình. Nhìn chung thực trạng việc làm của người dân xã Đông Phương Yên sau khi sáp nhập Hà Nội có nhiều biến đổi mạnh mẽ. Có những chuyển biến tích cực song bên cạnh đó còn tồn tại những hạn chế. Đông Phương Yên có truyền thống lâu đời về làm hàng MTĐ xuất khẩu. Sau khi địa phương sáp nhập vào Hà Nội nhiều CT, DN MTĐ được thành lập, đây là một bước phát triển mới song bên cạnh đó nguy cơ mai một làng nghề là rất lớn vì hầu hết người dân không còn gắn bó, tha thiết với nghề. Việc quy hoạch tổng thể nhằm duy trì và phát triển làng nghề truyền thống là một trong những giải pháp quan trọng nhằm giải quyết việc làm ở nông thôn một cách bền vững. Ngoài ra địa phương cũng có nhiều tiềm năng trong việc giải quyết và ổn định việc làm cho người dân, đó là tiềm năng về con người như lực lượng lao động lớn, có tay nghề, sự cần cù và tinh thần sáng tạo trong công việc…những điều kiện thuận lợi về vị trí địa lý, tài nguyên thiên nhiên, sự phát triển của cơ sở hạ tầng…Phát huy tối đa những tiềm năng và thế mạnh này trong cộng đồng sẽ giúp người dân ổn định việc làm và tăng thu nhập, nâng cao chất lượng cuộc sống. Tuy nhiên để làm được điều này thì cần phải có sự kết hợp đồng bộ của các ngành, các cấp chính quyền và các đoàn thể tại địa phương cùng với sự nỗ lực, hợp tác tích cực từ phía toàn thể người dân.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docThực trạng việc làm của người dân xã Đông Phương Yên – Chương Mỹ (Hà Tây cũ) sau khi sáp nhập Hà Nội.doc
Luận văn liên quan