Tiểu luận Bài môn Quản trị tài chính doanh nghiệp tài chính – Lý thuyết và thực tiễn

LỜI MỞ ĐẦU Trong thời gian qua, nền kinh tế Việt Nam đã đạt được những kết quả đáng khích lệ trong nhiều lĩnh vực. Gia nhập WTO đồng nghĩa với việc Việt Nam đang đứng trước một vận hội lớn, song cũng phải đối mặt với không ít khó khăn và thách thức. Trong sự phát triển của nền kinh tế, việc huy động vốn là một vấn đề hết sức quan trọng. Có rất nhiều kênh huy động, cũng như nhiều hoạt động tín dụng được áp dụng trên thị trường. Trong đó, cho thuê tài chính là một lĩnh vực hoàn toàn mới mẻ, nhưng đây là một phương thức tài trợ vốn thích hợp, góp phần đa dạng hoá các loại hình tín dụng, đặc biệt tín dụng trung, dài hạn; góp phần tháo gỡ những khó khăn về vốn đối với các doanh nghiệp, thúc đẩy nhanh quá trình đổi mới máy móc, thiết bị và công nghệ, thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Với mục tiêu đưa đến những luận điểm khách quan và phù hợp nhất, nhóm nghiên cứu đã tiến hành tập hợp thông tin và phân bổ vào hai phần lớn, đó là lý thuyết và thực tế. Do kiến thức và thời gian còn hạn chế, tiểu luận sẽ không tránh khỏi những sai sót. Nhóm nghiên cứu rất mong nhận được những phản hồi từ phía giáo viên và người đọc, nhằm xây dựng và củng cố thêm những tư liệu về vấn đề đang nghiên cứu. Xin chân thành cảm ơn ! PHẦN 1: LÝ THUYẾT 1.1. Khái niệm về thuê tài chính ( Finance Lease) 1.1.1. Khái niệm Cho thuê tài chính là hoạt động tín dụng trung và dài hạn thông qua việc cho thuê máy móc, thiết bị, phương tiện vận chuyển và các động sản khác trên cơ sở hợp đồng cho thuê giữa bên cho thuê với bên thuê. Bên cho thuê cam kết mua máy móc, thiết bị, phương tiện vận chuyển và các động sản khác theo yêu cầu của bên thuê và nắm giữ quyền sở hữu đối với các tài sản cho thuê. Bên thuê sử dụng tài sản thuê và thanh toán tiền thuê trong suốt thời hạn thuê đã được hai bên thoả thuận. Khi kết thúc thời hạn thuê, bên thuê được quyền lựa chọn mua lại tài sản thuê hoặc tiếp tục thuê theo các điều kiện đã thoả thuận trong hợp đồng cho thuê tài chính. Tổng số tiền thuê một loại tài sản quy định tại hợp đồng cho thuê tài chính, ít nhất phải tương đương với giá trị của tài sản đó tại thời điểm ký hợp đồng (Trích nghị định số95/2008/NĐ-CP sữa đổi nghị định số 16/2001/NĐ-CP của Chính phủ về tổ chức và hoạt động của công ty cho thuê tài chính) 1.1.2. Đối tượng tham gia Trong một giao dịch thuê tài chính điển hình có mối quan hệ giữa ba bên: · Người cho thuê · Người thuê

doc47 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 5292 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Bài môn Quản trị tài chính doanh nghiệp tài chính – Lý thuyết và thực tiễn, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
a tài sản tối thiểu phải chiếm phần lớn thời gian sử dụng kinh tế của tài snr cho dù không có sự chuyển giao quyền sở hữu. Thứ tư, tại thời điểm đầu thuê tài sản, giá trị hiện tại của khoản thanh toán tiền thuê tối thiểu chiếm phần lớn (tương đương) giá trị hợp lý của tài sản thuê. 1.4. So sánh thuê tài chính và thuê vận hành Cho thuê có hai loại chính là cho thuê hoạt động (operating leases) và cho thuê tài chính (financial leases). Cho thuê hoạt động: là loại cho thuê ngắn hạn và trong nội dung hợp đồng thuê tài sản không thể hiện sự chuyển giao phần lớn rủi ro và lợi ích gắn liền với quyền sở hữu tài sản. Cho thuê tài chính là loại cho thuê dài hạn và trong nội dung hợp đồng thuê tài sản có thể hiện sự chuyển giao phần lớn rủi ro và lợi ích gắn liền quyền sở hữu tài sản. Phân biệt cho thuê hoạt động và cho thuê tài chính Tiêu thức so sánh Thuê hoạt động Thuê tài chính Quyền sở hữu Thời hạn thuê Quyền hủy ngang hợp đồng Rủi ro Chi phí bảo trì, dịch vụ và mua bảo hiểm. Ưu đãi và thuế. Bồi thường bảo hiểm. Cung ứng tài sản thuê. Tiền bán tài sản. Các loại tài sản thường sử dụng trong giao dịch. Tách biệt quyền sở hữu pháp lý và quyền sử dụng. Rất ngắn so với đời sống hữu ích của tài sản. Được quyền hủy ngang hợp đồng. Người cho thuê chịu mọi rủi ro, thiệt hại. Người cho thuê chịu mọi chi phí vận hành, bảo trì, dịch vụ, phí bảo hiểm… Người cho thuê hưởng và khấu trừ vào tiền thuê. Người cho thuê hưởng. Tài sản thuê mướn thường do người cho thuê cung cấp. Toàn bộ tiền thu được do bán tài sản thuê thuộc quyền sử dụng của người cho thuê. Máy photocopy, máy vi tính, xe ôtô, đồ đạc trong nhà, văn phòng… Tách biệt quyền sở hữu pháp lý và quyền sử dụng. Thường dài hơn một nửa cho tới đời sống hữu ích của tài sản. Không được quyền hủy ngang hợp đồng. Người thuê chịu mọi rủi ro, thiệt hại. Người thuê chịu mọi chi phí vận hành, bảo trì bảo hiểm. Người cho thuê hưởng và khấu trừ vào tiền thuê. Người cho thuê hưởng. Tài sản cho thuê thường do người thuê đặt hàng, giao nhận và sử dụng. Phần tiền bán tài sản lớn hơn so với giá quy định của người cho thuê được chuyển cho người thuê hưởng như một khoản hoa hồng bán hàng hay được khấu trừ vào tiền thuê. Bất động sản, xe lửa, tàu điện, máy bay, thiết bị văn phòng… Sự so sánh giữa thuê tài chính và thuê hoạt động này nhằm giúp các bên liên quan dễ dàng phân loại, nhận diện giao dịch thuộc phương thức thuê nào để áp dụng các quy chế hạch toán - kế toán, hưởng các ưu đãi (nếu có) và quản lý chung (cơ quan nhà nước) theo quy chế đã được nhà nước quy định. 1.5. Các hình thức thuê tài chính điển hình 1.5.1. Bán và tái thuê Hiện nay, trong hoạt động sản xuất kinh doanh, nhiều doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp vừa và nhỏ gặp rất nhiều khó khăn về nguồn vốn lao động. Vay vốn gặp rất nhiều thủ tục và điều kiện khắt khe và các doanh nghiệp này khó có thể thỏa mãn. Đồng thời, trong điều kiện doanh nghiệp có nhu cầu phải duy trì năng lực sản xuất nên không thể bán bớt tài sản cố định để chuyển thành tài sản lưu động. Trong bối cảnh đó hình thức giao dịch “bán và tái thuê” đã được ra đời để đáp ứng nhu cầu này. Trong hoạt động kinh doanh có nhiều doanh nghiệp thiếu vốn lưu động để khai thác tài sản cố định hiện có,vì thế họ sẽ bán một phần tài sản của mình cho ngân hàng hoặc cty tài chính sau đó thuê lại tài sản để sử dụng và như vậy doanh nghiệp sẽ có thêm nguồn tài chính đáp ứng nhu cầu vốn lưu động. Vậy hình thức bán và tái thuê là gì? Bán và tái thuê là hình thức tín dụng thuê - mua mà bên có tài sản sẽ bán lại tài sản đó và chỉ thuê lại trong một thời gian nhất định. Cụ thể, bán và tái thuê là một thỏa thuận tài trợ tín dụng mà công ty A ( người thuê) bán một tài sản của chính họ cho công ty B (người cho thuê). Đồng thời ngay lúc đó một hợp đồng thuê mua được thảo ra với nội dung công ty B đồng ý cho công ty A thuê lại chính tài sản mà họ vừa bán. Nếu giao dịch này hoàn tất, công ty A sẽ có nguồn tài chính để kinh doah và vẫn duy trì được việc sử dụng tài sản. Người cho thuê (công ty B) giao lại tài sản cho người bán (công ty A-người thuê) thông qua một hợp đồng hoàn trả toàn bộ hay hợp đồng thuê vận hành tùy theo sự thỏa thuận giữa hai bên hoặc nếu công ty B vay tiền của Ngân hàng C để tài trợ cho công ty A thì hợp đồng lại có thêm dạng cho thuê bắc cầu đan xen vào. Căn cứ Điều 42 Nghị định số 16/2001/NĐ-CP ngày 02/5/2001 của Chính phủ về tổ chức và hoạt động của Công ty cho thuê tài chính, Điều 3 Nghị định số 65/2005/NĐ-CP ngày 19/5/2005 của Chính phủ quy định về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 16/2001/NĐ-CP ngày 02/5/2001 của Chính phủ về tổ chức và hoạt động của Công ty cho thuê tài chính có thể hiểu chi tiết về hoạt động thuê mua lại như sau: - "Tài sản mua và cho thuê lại" là máy móc thiết bị, phương tiện vận chuyển và các động sản khác được bên thuê bán cho bên cho thuê và sau đó thuê lại theo hình thức cho thuê tài chính để tiếp tục sử dụng phục vụ cho hoạt động của mình. - "Giá mua tài sản cho thuê" là số tiền bên cho thuê phải trả cho bên thuê khi mua tài sản cho thuê. Giá mua tài sản cho thuê được xác định phù hợp với quy định của pháp luật về mua bán tài sản. - "Hợp đồng mua tài sản" là thỏa thuận bằng văn bản giữa bên cho thuê và bên thuê về việc mua bán tài sản cho thuê. Nguyên tắc mua và cho thuê lại - Giao dịch mua và cho thuê lại phải thực hiện thông qua hợp đồng mua tài sản và hợp đồng cho thuê tài chính giữa bên cho thuê và bên thuê. Hợp đồng mua tài sản có hiệu lực từ thời điểm hợp đồng cho thuê tài chính có hiệu lực. - Trong giao dịch mua và cho thuê lại, bên cho thuê nắm giữ quyền sở hữu tài sản cho thuê và cho thuê lại đối với bên thuê theo hình thức cho thuê tài chính phù hợp với pháp luật về cho thuê tài chính. Việc chuyển quyền sở hữu tài sản từ bên thuê sang bên cho thuê được thực hiện phù hợp với quy định của pháp luật. Việc đăng ký sở hữu tài sản cho thuê thực hiện theo quy định tại khoản 7 Điều 7 Nghị định số 65/2005/NĐ-CP ngày 19/5/2005 của Chính phủ Quy định về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 16/2001/NĐ-CP ngày 02/5/2001 của Chính phủ về tổ chức và hoạt động của Công ty cho thuê tài chính. - Bên cho thuê lựa chọn tài sản cho thuê và bên thuê có khả năng trả nợ để thực hiện giao dịch mua và cho thuê lại an toàn, hiệu quả. Điều kiện của tài sản cho thuê - Thuộc sở hữu hợp pháp của bên thuê - Không là tài sản đang được sử dụng để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ khác - Không có tranh chấp liên quan đến tài sản - Đang hoạt động bình thường. Hợp đồng cho thuê tài chính được thực hiện theo quy định tại Nghị định số 16/2001/NĐ-CP ngày 02/5/2001 của Chính phủ về tổ chức và hoạt động của Công ty cho thuê tài chính, Nghị định số 65/2005/NĐ-CP ngày 19/5/2005 của Chính phủ quy định về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 16/2001/NĐ-CP ngày 02/5/2001 của Chính phủ về tổ chức và hoạt động của Công ty cho thuê tài chính và các văn bản pháp luật khác có liên quan. Quyền và nghĩa vụ của bên cho thuê và bên thuê Quyền và nghĩa vụ của bên cho thuê a) Yêu cầu bên thuê cung cấp đầy đủ thông tin và tài liệu liên quan đến tài sản cho thuê. b) Yêu cầu bên thuê xuất hóa đơn bán hàng hợp pháp, giao toàn bộ bản chính giấy tờ về sở hữu và các hóa đơn, chứng từ khác về quyền, lợi ích có liên quan của tài sản cho thuê. c) Yêu cầu bên thuê bồi thường thiệt hại do các tranh chấp phát sinh liên quan đến quyền sở hữu tài sản cho thuê. d) Thanh toán cho bên thuê số tiền đã thỏa thuận trong hợp đồng mua tài sản. đ) Thực hiện đúng và đầy đủ các điều khoản đã thỏa thuận trong hợp đồng mua tài sản và hợp đồng cho thuê tài chính. Quyền và nghĩa vụ của bên thuê a) Nhận tiền bán tài sản do bên cho thuê thanh toán theo giá đã thỏa thuận trong hợp đồng mua tài sản. b) Cung cấp đầy đủ, chính xác, trung thực tất cả các thông tin, tài liệu, báo cáo theo yêu cầu của bên cho thuê. c) Xuất hóa đơn bán hàng hợp pháp, giao toàn bộ bản chính giấy tờ về sở hữu và các hóa đơn, chứng từ khác về quyền, lợi ích có liên quan của tài sản cho thuê theo yêu cầu của bên cho thuê. d) Bồi thường thiệt hại do các tranh chấp phát sinh liên quan đến quyền sở hữu tài sản cho thuê. đ) Thực hiện đúng và đầy đủ các điều khoản đã thỏa thuận trong hợp đồng mua tài sản và hợp đồng cho thuê tài chính 1.5. Ưu nhược điểm của hình thức bán và tái thuê tài chính Ưu điểm - Các doanh nghiệp có thể hiện đại hoá sản xuất theo kịp tốc độ phát triển của công nghệ mới trong khi nguồn vốn tự có còn có hạn. - Điều kiện của hình thức này: không cần tài sản thế chấp nên các doanh nghiệp rất dễ tiếp cận. Nhược điểm - Bên cho thuê thường chịu toàn bộ rủi ro, nếu bên đi thuê không thực hiện hợp đồng chỉ còn cách thu lại tài sản. - Phạm vi hoạt động hẹp, chi phí sử dụng hình thức này cao so với các hình thức tín dụng khác. 1.5.2. Thuê mua giáp lưng Định nghĩa Thuê mua giáp lưng là phương thức tài trợ mà trong đó được sự thỏa thuận của người cho thuê, người thuê thứ nhất cho người thuê thứ hai thuê lại tài sản mà người thuê thứ nhất đã thuê từ người cho thuê. Doanh nghiệp A muốn thuê tài sản nhưng ko đủ tín nhiệm với bên cho thuê. Doanh nghiệp A phải thông qua bên cho thuê thứ hai để thuê đc tài sản của bên cho thuê thứ nhất (với sụ đồng ý của bên cho thuê). Các trường hợp áp dụng thuê mua giáp lưng. a. Thuê mua giáp lưng thường được áp dụng khi khách hàng không có nhu cầu sử dụng tài sản đó nữa nhưng chưa kết thúc thời hạn thuê mua. Với sự chấp thuận, đồng ý của bên Cho thuê thì họ sẽ cho thuê lại với đối tượng thứ ba (vì hợp đồng ko được huỷ ngang). Như vậy đảm bảo nhu cầu thanh toán được tiền lại ko huỷ ngang hợp đồng Theo Nghị định 64/CP quy định: thời hạn cho thuê một loại tài sản ít nhất phải bằng 60% thời gian cần thiết để khấu hao tài sản thuê. Tổng số tiền thuê một loại tài sản quy định tại hợp đồng thuê, ít nhất phải tương đương với giá trị tài sản đó trên thị trường vào thời điểm ký hợp đồng. NĐ16/CP ngày 02/05/2001.T heo Điều 17 của Nghị định 16/CP thì Hợp đồng cho thuê tài chính là thoả thuận thuê một hoặc một số máy móc thiết bị, phương tiện vận chuyển và động sản khác theo những quy định tại Điều 1 của Nghị định này, phù hợp với các quyền và nghĩa vụ của các bên. Hợp đồng cho thuê tài chính phải được lập thành văn bản phù hợp với quy định của pháp luật. Hợp đồng phải ghi rõ việc xử lý tài sản khi hợp đồng chấm dứt trước thời hạn. Bên cho thuê và bên thuê không được đơn phương huỷ bỏ hợp đồng, trừ những trường hợp nêu tại điều 27 Nghị định 16/CP. b. Áp dụng khi bên thuê thứ hai không được độ tin tưởng cao đối với bên cho thuê tài chính. * Điều kiện để bên thuê được thuê máy móc thiết bị và các loại động sản khác dùng cho sản xuất kinh doanh dưới dạng Hợp đồng cho thuê tài chính, đó là: - Đối với pháp nhân: + Phải được thành lập và hoạt động theo pháp luật hiện hành của Việt Nam. + Có tình trạng tài chính lành mạnh. + Có nhu cầu đổi mới trang thiết bị, máy móc nhằm hiện đại hoá và hợp lý sản xuất. + Có những đảm bảo thích hợp cho tài sản thuê, khi tổ chức tín dụng yêu cầu, tài sản thế chấp cầm cố bảo lãnh. - Đối với thể nhân, hộ sản xuất: ngoài một số điều kiện được quy định đối với doanh nghiệp, thể nhân, hộ sản xuất phải có hộ khẩu cùng địa bàn với tổ chức tín dụng. * Đánh giá khách hàng thuê: - Xem xet về năng lực pháp lý của bên thuê. - Uy tín của bên thuê trên thương trường. - Khả năng kinh doanh của bên thuê. - Tinh hình tài chính. - Kế hoạch sử dụng tài sản thuê. - Kế hoạch tài chính kinh doanh. Các bước trong cho thuê giáp lưng” Bên cho thuê và bên đi thuê thứ nhất ký hợp đồng cho thuê. Bên đi thuê thứ nhất và bên đi thuê thứ hai ký hợp đồng cho thuê. Bên cho thuê, hoặc bên cung cấp chuyển giao tài sản cho bên đi thuê thứ hai . Bên đi thuê thứ hai trả tiền thuê cho bên thuê thứ nhất. Bên đi thuê thứ nhất trả tiền thuê cho bên cho thuê. Quyền và nghĩa vụ của các bên cho thuê và đi thuê Kể từ thời điểm hợp đồng thuê lại được ký kết, mọi nghĩa vụ cùng tài sản được chuyển giao từ người thuê thứ nhất sang người thuê thứ hai. Các chi phí pháp lý, di chuyển tài sản phát sinh từ hợp đồng này do người thuê thứ nhất và người thuê thứ hai thỏa thuận với nhau. Tuy nhiên, người thuê thứ nhất vẫn phải chịu trách nhiệm liên đới đối với những rủi ro và thiệt hại liên quan đến tài sản vì họ là người trực tiếp ký kết với người cho thuê ban đầu. a. Người cho thuê: - Cho thuê tài sản và nhận tiền thuê. - Các quyền lợi và nghĩa vụ khác như trong thỏa thuận thuê mua thuần. b. Người thuê thứ nhất: Thuê tài sản từ người cho thuê. Cho người thứ hai thuê lại tài sản. Không chịu trách nhiệm trực tiếp đối với rủi ro thiệt hại đối với tài sản. Nhận tiền thuê từ người thuê thứ hai và trả tiền thuê cho người cho thuê. c. Người thuê thứ hai: Thuê tài sản từ người thuê thứ nhất. Trả tiền thuê cho người thuê thứ nhất Trong thỏa thuận thuê mua thuần. 1.5.3. Thuê mua trả góp ( Lease- Purchase Arrangement) Khái niệm Tín dụng thuê mua trả góp là một hình thức mua trả góp tài sản trong một khoảng thời gian từ 1 tới 5 năm, được áp dụng đối với trường hợp người mua có thế chấp và cả không có thế chấp. Nhưng trong hầu hết mọi giao dịch, tín dụng thuê mua trả góp là một hình thức tài trợ vốn cho các doanh nghiệp không có thế chấp. Các bước tiến hành Tiến hành thiết lập hợp đồng với chủ tài sản- là nhà chế tạo hay định chế tài chính. Thoả thuận này cho phép công ty thanh toán tiền mua thiết bị làm nhiều kỳ, vào những thời điểm được ấn định trước và mỗi lần trả một phần giá trị của tài sản cùng tiền lãi. Nếu công ty tuân thủ, hoàn tất các điều khoản của hợp đồng vào thời điểm kết thúc, chủ tài sản sẽ chuyển giao quyền sở hữu cho người mua. Khi hợp đồng có hiệu lực người mua phải trả ngay cho nhà tài trợ một khoản tiền chiếm từ 25% đến 30% giá trị của tài sản, phần còn lại sẽ trả góp theo quy định. Trong suốt thời gian thuê mua, người thuê được áp dụng các phương pháp khấu hao nhanh nhằm đảm bảo lịch trình thanh toán theo hợp đồng. Hình thức tài trợ này có nguồn gốc từ những biện pháp khuyến mại của các công ty chế tạo lớn nhằm đẩy mạnh việc bán sản phẩm của họ. Trong giai đoạn đầu, người bán thường giao quyền sở hữu cho người thuê ngay khi hợp đồng có hiệu lực. Nhưng biện pháp này đem lại cho người bán quá nhiều rủi ro, nên sau này người bán thường giữ lại quyền sở hữu đối với thiết bị, thay vì nhận vật thế chấp của người mua và hình thức bán trả góp trở thành khá tương đồng với thuê tài chính. Đây là một phương thức tài trợ khá đặc biệt của tín dụng thuê mua. Ví dụ thuê mua trả góp xe - Thời hạn thuê mua tối đa: 5 năm - Trả trước tối thiểu: 20% - Đăng ký xe mang tên công ty cho thuê tài chính và được chuyển đổi thành tên khách hàng sau khi kết thúc hợp đồng thuê mua. - Doanh nghiệp thuê mua trả góp cần chuẩn bị: + Giấy phép thành lập + Đăng kí kinh doanh + Ngoài ra, tùy từng trường hợp cụ thể khách hàng có thể chuẩn bị thêm một số giấy tờ khác liên quan( báo cáo thuế 2 năm gần nhất, quyết định bổ nhiệm giám đốc và kế toán trưởng) Ưu, nhược điểm của hình thức thuê mua trả góp Ưu điểm Thuận lợi chính của hình thức tăng vốn này là người thuê( hay người mua) có thể có ngay tài sản để sử dụng trong hoạt động sản xuất mà không phải trả ngay những khoản tiền lớn. Mặt khác, những chi phí trả cho nhà tài trợ theo phương thức khấu hao nhanh làm giảm lợi nhuận hàng năm do đó có tác dụng giúp doanh nghiệp hoãn thuế lợi tức trong những năm trả góp. Nhược điểm Bất lợi chính đối với doanh nghiệp mua tài sản theo hình thức này là chi phí để được tài trợ khá cao do công ty không được hưởng phần chiết khấu như mua tài sản bằng tiền mặt. Nếu công ty không thực hiện được đúng tiến độ thanh toán, thì có nguy cơ bị mất quyền sở hữu tài sản vào đúng thời điểm kết thúc hợp đồng, mà đó là một món lời lớn đối với công ty bởi số tiền chuyển giao quyền sở hữu chỉ mang tính tượng trưng. Tuy nhiên, trong điều kiện thị trường có cạnh tranh, nhiều nhà kinh doanh cho thuê đã có sáng kiến hấp dẫn khách hàng bằng cách, tuy yêu cầu trả trước một phần vốn tài trợ ngay kỳ đầu tiên, nhưng chỉ trích một tỷ lệ nhất định để trả nợ, phần còn lại được coi là khoản tiền gửi của khách hàng. Tiền lãi từ khoản tiền gửi này sẽ được khấu trừ vào phí thuê mỗi kỳ do đó làm giảm chi phí của người thuê và vẫn đảm bảo an toàn cho sự giao dịch. Người bán ( người cho thuê) Người mua ( người thuê) - Chuyển giao quyền sử dụng cho người mua. - Nhận các khoản tiền trả góp với mức lãi suất tài trợ khá cao. - Bán được tài sản với mức rủi ro thấp. - Chuyển giao quyền sở hữu tài sản sau khi nhận đủ tiền trả góp. - Trả khoản tiền ban đầu chiếm khoảng 1/4- 1/3 giá trị tài sản. - Khấu hao tài sản phù hợp với lịch trình thanh toán. - Trả tiền mua tài sản với giá tương đương ở thời điểm kết thúc hợp đồng. - Nhận quyền sở hữu tài sản khi hợp đồng đáo hạn. 1.5.4. Thuê mua bắc cầu ( Leveraged Lease Contract) Khái niệm Thuê mua bắc cầu là một hình thức đặc biệt của thuê tài chính chỉ mới được phổ biến trong thời gian gần đây, xuất phát từ thực tế là các công ty Leasing có những hạn chế về nguồn vốn không đủ khả năng tự tài trợ cho khách hàng. Theo thể thức thuê mua này, người cho thuê đi vay để mua tài sản cho thuê- từ một hay nhiều người cho vay nào đó. Các bước tiến hành Người cho vay được hoàn trả tiền đã cho vay từ các khoản tiền thuê, thường do người thuê trực tiếp chuyển trả theo yêu cầu của người cho thuê. Sau khi trả hết món nợ vay, những khoản tiền thuê còn lại sẽ được trả cho người cho thuê. Theo luật pháp của một số quốc gia khoản tiền vay này không được vượt quá 80% tổng giá trị của tài sản tài trợ. Vật thế chấp cho khoản vay này là quyền sở hữu tài sản cho thuê và các khoản tiền thuê mà người thuê sẽ trả trong tương lai. Về phía người thuê, không có sự khác biệt trong mối quan hệ giao dịch với người cho thuê so với phương thức thuê mua thuần. Ưu, nhược điểm của hình thức thuê mua bắc cầu Ưu điểm Hình thức thuê mua này đem lại lợi nhuận và mở rộng khả năng tài trợ ra khỏi phạm vi nguồn vốn của người cho thuê. Được sử dụng trong những giao dịch thuê mua đòi hỏi một lượng vốn đầu tư lớn, chẳng hạn thuê nua một máy bay thương mại, tàu du lịch hoặc một tổ hợp sản xuất chuyên ngành lớn, ….. Nhược điểm Phạm vi hoạt động hẹp, chi phí sử dụng hình thức này cao hơn so với các hình thức khác. Nếu không thực hiện được đúng tiến độ thanh toán, thì có nguy cơ bị mất quyền sở hữu tài sản vào đúng thời điểm kết thúc hợp đồng. Người cho vay Người cho thuê Người thuê - Cấp tín dụng trung và dài hạn chiếm phần lớn giá trị tài sản cho thuê. - Nhận tiền trả nợ vay bằng tiền thuê do người thuê trả theo yêu cầu của người cho thuê. - Khoản cho vay được bảo đảm bằng tài sản và tiền thuê. - Sở hữu chủ tài sản cho thuê và nhận được sự miễn giảm thuế. - Mượn phần lớn giá trị tài sản và bảo đảm khoản nợ vay bằng cả tài sản cùng các khoản tiền cho thuê nó. - Trả nợ bằng tiền thuê tài sản, phần tiền thuê vượt số tiền vay được giữ lại. - Trả tiền thuê tài sản cho người cho thuê. - Ngoài ra không có sự khác biệt so với hình thức thuê mua thuần. 1.6. Lợi ích của cho thuê tài chính 1.6.1. Đối với nền kinh tế Trong bất cứ xã hội nào, nền kinh tế nào mà tìm được phương thức để người có vốn và người cần vốn gặp nhau hiệu quả, tối ưu thì xã hội đó, nền kinh tế đó sẽ phát triển. Bản chất của hoạt động cho thuê tài chính là một hình thức cấp tín dụng trung và dài hạn, thị trường cho thuê tài chính cũng là một bộ phận của thị trường vốn, thị trường này diễn ra các hoạt động trao đổi mua bán quyền sử dụng các nguồn tài chính trung dài hạn theo những phương thức giao dịch nhất định. Như vậy, cho thuê tài chính hay thị trường cho thuê tài chính đã một góp một phần để giải quyết bài toán về vốn cho nền kinh tế. Cho thuê tài chính gắn chặt với việc trang bị và đổi mới máy móc, công nghệ và mở rộng sản xuất đặc biệt là trong lĩnh vực sản xuất của các ngành công nghiệp vừa vào nhỏ thuộc khu vực dân doanh. Phát triển tốt thị trường cho thuê tài chính sẽ giúp cho các doanh nghiệp đổi mới công nghệ, nâng cao năng suất của doanh nghiệp cũng như của toàn nền kinh tế. Đặc biệt thông qua hình thức cho thuê tài chính có thể thu hút một lượng vốn lớn từ dân cư qua các hình thức huy động vốn trung dài hạn hoặc liên doanh với nước ngoài để tạo ra kênh dẫn vốn từ bên ngoài vào cho nền kinh tế. 1.6.2. Đối với bên cho thuê Đối với bên cho thuê, việc ra đời và áp dụng phương thức tài trợ cho thuê tài chính không phải là loại hình thay thế các phương thức tài trợ cổ điển như cho vay trung và dài hạn bằng tiền, mà nó là hình thức tài trợ bổ sung nhằm tạo điều kiện cho các định chế tài chính mở rộng khách hàng và nâng cao năng lực cạnh tranh. Đứng trên góc độ người cho thuê phương thức tài trợ này có một số lợi ích so với loại tài trợ khác như sau: Bên cho thuê với tư cách là sở hữu chủ về mặt pháp lý, vì vậy họ được quyền quản lý và kiểm soát tài sản theo các điều khoản của hợp đồng thuê. Trong trường hợp bên đi thuê không thanh toán tiền thuê đúng hạn thì bên cho thuê được thu hồi tài sản, đồng thời buộc bên đi thuê phải bồi thường các thiệt hại. Trong trường hợp bên đi thuê bị phá sản thì tài sản cho thuê tài chính không bị phát mãi, bên cho thuê thu hồi lại được. Đối tượng tài trợ được thực hiện dưới dạng tài sản cụ thể gắn liền với mục đích kinh doanh của  bên đi thuê, vì vậy mục đích sử dụng vốn được đảm bảo, từ đó tạo tiền đề để hoàn trả tiền thuê đúng hạn. 1.6.4. Đối với bên đi thuê Trong khi các doanh nghiệp đang gặp khó khăn về thủ tục thế chấp tài sản khi vay vốn ở các ngân hàng thì việc có mặt của các công ty cho thuê tài chính đã mở ra nhiều thuận lợi cho các doanh nghiệp. Ví dụ như: Ở Mỹ, người ta cho thuê xe hơi, máy bay, xe tải, tàu hoả, hoang tàu thuỷ và tàu thuỷ, máy vi tính, máy photocopy, máy fax,…Tập đoàn IBM tại Mỹ còn cho thuê cả máy vi tính. Hiện nay, Vietnam Airlines đã thuê máy bay của TEAC, AirFrance,… Tuy nhiên vấn đề đặt ra là mặc dù có mặt đã lâu nhưng thực sự cho thuê tài chính là khái niệm còn khá mới mẻ với nhiều doanh nghiệp. Ít doanh nghiệp hiểu được rằng cho thuê tài chính là hình thức tài trợ tín dụng thông qua cho thuê các loại tài sản, máy móc, thiết bị, phương tiện vận chuyển… là nhu cầu mà các doanh nghiệp, các nhà đầu tư mong muốn để đổi mới máy móc, thiết bị, hiện đại hóa công nghệ sản xuất kinh doanh. Đặc trưng của phương thức này là - đơn vị cho thuê là chủ sở hữu tài sản sẽ chuyển giao tài sản cho người thuê, tức là người sử dụng tài sản được quyền sử dụng và hưởng dụng những lợi ích kinh tế mang lại từ các tài sản đó trong một thời gian nhất định. Người thuê có nghĩa vụ trả một số tiền cho chủ tài sản tương xứng với quyền sử dụng và quyền hưởng dụng. Điều này cũng nói lên việc cấp tín dụng dưới hình thức cho thuê tài chính không đòi hỏi sự bảo đảm tài sản có trước, tạo cho doanh nghiệp tiếp cận hình thức cấp tín dụng mới, vừa giải tỏa được áp lực về tài sản làm đảm bảo nếu phải vay ở ngân hàng. Thông thường đối với các khoản vốn vay trung và dài hạn, các ngân hàng thương mại luôn đòi hỏi tài sản đảm bảo ( thế chấp hoặc cầm cố) và chỉ cho vay tối đa là 80% tổng chi phí thực hiện dự án, nhưng với kênh cho thuê tài chính, doanh nghiệp chẳng những không cần ký quỹ đảm bảo hay tài sản thế chấp mà còn có thể được tài trợ đến 100% vốn đầu tư. Lãi suất hoàn toàn dựa trên sự thỏa thuận của 2 bên. Ngoài ra, các công ty cho thuê tài chính có thể mua tài sản của doanh nghiệp và cho thuê lại tài sản đó nếu doanh nghiệp thiếu vốn lưu động do đã tập trung vốn để đầu tư mua sắm tài sản cố định. Như vậy doanh nghiệp vừa có tài sản để sử dụng lại vừa có vốn lưu động để sản xuất kinh doanh. Loại hình này rất thích hợp cho doanh nghiệp vừa và nhỏ bởi vì với ưu điểm không phải thế chấp tài sản, các doanh nghiệp khi thuê tài chính không bị vướng thủ tục thế chấp tài sản nếu phải vay vốn ở các ngân hang Hoạt động cho thuê tài chính tạo điều kiện cho các doanh nghiệp hạn hẹp về ngân quỹ, các doanh nghiệp có mức độ tín nhiệm thấp có được cơ sở vật chất và thiết bị cần thiết để sử dụng. Thủ tục đi thuê đơn giản, linh hoạt nhanh gọn hơn đi vay vì bớt được thời gian làm thủ tục thế chấp, bảo lãnh. Giúp cho bên đi thuê tránh được rủi ro về tính lạc hậu và lỗi thời của tài sản, đặc biệt đối với những thiết bị có tốc độ phát triển nhanh, như ngành công nghiệp máy tính chẳng hạn. Hoạt động cho thuê tài chính sẽ tạo khả nâng dự trữ các nguồn tín dụng cho tương lai của doanh nghiệp cũng như giúp doanh nghiệp vượt qua được những giai đoạn khó khăn về tài chính trước mắt. Như vậy doanh nghiệp vừa có tài sản để sử dụng lại vừa có vốn lưu động để kinh doanh. Bên cạnh đó một ưu điểm vô cùng quan trọng nữa của hình thức cho thuê tài chính đó là lợi ích được hưởng từ tấm chắn thuế. Tài sản cho thuê tài chính vẫn thuộc quyền sở hữu của bên cho thuê nên bên cho thuê được phép khấu hao tài sản đó, làm giảm thuế thu nhập phải nộp. Mặt khác, bên đi thuê phải trả chi phí thuê, chi phí đó được khấu trừ trước thuế nên cũng làm giảm thuế thu nhập mà doanh nghiệp phải nộp. Như vậy cả hai doanh nghiệp đều nhận được lợi ích từ tấm chắn thuế. 1.7. Hạn chế và nguyên nhân 1.7.1. Hạn chế Thứ nhất, chủ thể tham gia thị trường CTTC chiếm một tỷ lệ rất thấp trong thị trường vốn (mới chỉ có 13 công ty CTTC); chưa có thói quen sử dụng dịch vụ CTTC( Nếu ở các nước đang phát triển, tỷ trọng của thị trường CTTC so với thị trường tín dụng vào khoảng từ 15 đến 20% thì ở Việt Nam, tỷ lệ này chưa đạt tới 2%. Như vậy, cứ 100 doanh nghiệp thì chưa đến 2 doanh nghiệp sử dụng những tiện ích của CTTC) Theo một cuộc khảo sát ngẫu nhiên (được thực hiện cuối năm 2007 ) đối với 1.000 doanh nghiệp thuộc các thành phần khác nhau thì hơn 70% số doanh nghiệp được hỏi trả lời rằng họ biết rất ít và chưa bao giờ tìm hiểu, sử dụng dịch vụ cho thuê tài chính; gần 20% hoàn toàn không biết về dịch vụ này, thậm chí có doanh nghiệp hiểu cho thuê tài chính như hoạt động mua trả góp, nhiều doanh nghiệp chưa hiểu rõ bản chất cấp tín dụng của dịch vụ cho thuê tài chính, chưa thấy rõ được hiệu quả, lợi ích từ dịch vụ cho thuê tài chính mang lại... Thứ hai, phương thức cho thuê và tài sản cho thuê chưa đa dạng, phong phú; tăng trưởng CTTC chưa tương xứng với tiềm năng. Giá cho thuê (gồm tiền trích khấu hao tài sản thuê, phí, bảo hiểm...) hiện nay còn cao. Nếu bỏ qua các yếu tố an toàn, chi phí bỏ ra ban đầu thấp... thì cho đến hết thời hạn thanh lý hợp đồng cho thuê tài chính, bên thuê sẽ phải thanh toán tổng số tiền đối với tài sản thuê cao hơn so với đi vay từ các nguồn khác như ngân hàng. 1.7.2. Nguyên nhân Môi trường pháp lý chưa hoàn chỉnh và thiếu đồng bộ, biểu hiện ở quy định lãi suất của Ngân hàng Nhà nước, quy định về đối tượng khách hàng thuê tài chính, khoản 10 và khoản 11 Điều 20 của Luật các Tổ chức tín dụng. Hoạt động kinh doanh còn khá nhiều rủi ro, môi trường kinh tế đang có những tác động không thuận chiều với sự phát triển của hoạt động CTTC. Định giá tiền thuê, lãi suất cho thuê cao hơn so với các loại hình tài trợ vốn khác; phương pháp tính trả tiền thuê chưa linh hoạt. Năng lực cạnh tranh, quản lý kinh doanh của bên đi thuê chưa thích ứng với môi trường kinh tế nhiều biến động làm cho việc sử dụng tài sản thuê không có hiệu quả, vi phạm hợp đồng thuê tài chính. Mặt khác, quản lý Nhà nước về hoạt động sản xuất kinh doanh của thành phần kinh tế ngoài quốc doanh còn nhiều bất cập, sơ hở dẫn đến lừa đảo gây thiệt hại về tài chính cho công ty CTTC. Chưa hình thành thị trường mua bán máy móc, thiết bị đã qua sử dụng tại Việt Nam. Thủ tục vẫn còn nhiều công rườm rà. PHẦN 2: TÌNH HÌNH THỰC TIỄN 2.1. Thuê tài chính ở các doanh nghiệp Việt Nam 2.1.1. Thực trạng Vấn đề vốn để khởi sự doanh nghiệp luôn là sự đau đầu của bất kỳ ai muốn bước chân vào thương trường. Bạn không có sẵn vốn để đầu tư vào những yếu tố như máy móc, thiết bị sản xuất, thiết bị văn phòng, tin học, viễn thông và các động sản khác ... hoặc để dành vốn vào mục đính kinh doanh khác. Cho thuê tài chính sẽ là kênh tín dụng hữu hiệu giúp bạn giải quyết những khó khăn đó. Thuê tài chính là một hình thức đang được áp dụng phổ biến ở nhiều nước trên thế giới như Mỹ, Nhật Bản, Ðức, Thụy Ðiển, Úc... Tại Việt Nam nghiệp vụ cho thuê tài chính hay còn gọi là tín dụng thuê mua đã được ngân hàng NN-VN cho áp dụng thí điểm bởi quyết định số 149/QĐ - ngân hàng5 ngày 17/5/1995. Đến ngày 02/05/2001, chính phủ đã ban hành Nghị định 16/NĐ-CP về tổ chức và hoạt động của Công ty cho thuê tài chính. Trước đây, ở nước ta một số thiết bị với số vốn lớn mà trong nước không thể sản xuất được như máy bay, tàu thuỷ có trọng tải lớn, chúng ta đã áp dụng phương thức này với các nhà sản xuất hoặc nhà cho thuê nước ngoài. Cho đến nay đã có hàng chục công ty cho thuê tài chính ra đời và hoạt động. Qua thời gian thực hiện nghiệp vụ cho thuê tài chính ở Việt Nam cho thấy những lợi ích mà nghiệp vụ cho thuê tài chính mang lại là rất lớn, nó làm giảm những khó khăn về nguồn vốn đầu tư dài hạn vào máy móc, thiết bị của doanh nghiệp, tạo điều kiện để các doanh nghiệp tiếp cận với thiết bị và công nghệ hiện đại; cho thuê tài chính tỏ ra rất thích hợp đối với các doanh nghiệp đang trong giai đoạn tái cấu trúc và cơ cấu lại dây chuyền công nghệ sản xuất các doanh nghiệp mới thành lập. Có thể nói, cho thuê tài chính là một thị trường đầy tiềm năng ở nước ta. Song một sự thật là nghiệp vụ cho thuê tài chính chưa phát triển ngang tầm với những ưu thế vốn có của nó. Còn nhiều bất cập trong cơ chế chính sách và điều hành thực tiễn, còn bế tắc trong thị trường đầu ra. Chủ thể tham gia: Tính đến thời điểm tháng 10 năm 2008 thì chỉ có 13 công ty cho thuê tài chính đang hoạt động chính thức trên thị trường thuê mua ở Việt Nam Vốn điều lệ của các công ty cho thuê tài chính trung bình chỉ khoảng 150 tỷ. Các chủ thể có nhu cầu thuê tài chính trên thị trường cho thuê tài chính là các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế, hộ kinh doanh,... và cá nhân hoạt động trong nhiều lĩnh vực, ngành nghề khác nhau. Tuy nhiên, thực tế thì khách hàng đi thuê chủ yếu là các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực vận tải và xây dựng. Hàng hóa trên thị trường cho thuê tài chính: Thực trạng hàng hoá CTTC tại Việt Nam: Hiện nay, tài sản cho thuê tài chính chủ yếu tập trung vào phương tiện vận tải, máy móc thiết bị đáp ứng được tỷ lệ 37% so với nhu cầu của nền kinh tế. Tiếp đến là máy móc thiết bị và dây chuyền công nghệ cũng chỉ đáp ứng được 34% so với nhu cầu của nền kinh tế. Máy móc, thiết bị của một ngành khác được tài trợ bằng phương thức thuê tài chính như thiết bị ngành in, máy móc công trình sử dụng cho hoạt động xây dựng cơ bản cũng chiếm một tỷ trọng thấp so với nhu cầu của nền kinh tế. Đánh giá thực trạng hàng hoá CTTC tại Việt Nam: Chiến lược khách hàng tập trung vào các doanh nghiệp vừa và nhỏ, đặc biệt ưu tiên cho các doanh nghiệp làm hàng xuất khẩu, thị trường đầu ra ổn định, có khả năng quản lý và tiềm năng phát triển tốt. Việc đầu tư dưới hình thức CTTC ngày càng được mở rộng ở tất cả các lĩnh vực như giao thông vận tải, xây dựng, công nghiệp nhẹ, công nghiệp chế biến, bệnh viện, nông nghiệp,…Tài sản cho thuê chủ yếu tập trung vào phương tiện vận tải, máy móc thiết bị… có chất lượng và mức độ công nghệ có trình độ trung bình, dây chuyền công nghệ cao và máy móc thiết bị hiện đại tiên tiến còn chiếm một tỷ trọng thấp trong hoạt động cho thuê của các công ty CTTC. Các công ty CTTC chưa áp dụng tài sản cho thuê là bất động sản. Phương thức cho thuê tài chính: Tuy có nhiều phương thức giao dịch cho thuê tài chính nhưng trên thị trường cho thuê tài chính Việt Nam hiện nay phổ biến có 3 phương thức: Phương thức giao dịch CTTC 3 bên. Phương thức giao dịch CTTC 2 bên. Phương thức giao dịch mua và cho thuê lại Giá cả cho thuê tài chính: Giá cả CTTC hiện nay thường cao hơn so với các loại hình tín dụng khác, chưa hấp dẫn được các khách hàng thuê. Lãi suất CTTC cao hơn so với lãi suất cho vay trung dài hạn từ 20% đến 25% và cao hơn 10% nếu tài sản được mua sắm trực tiếp từ nhà sản xuất. 2.1.2. Hạn chế và nguyên nhân Hạn chế Thứ nhất, chủ thể tham gia thị trường CTTC chiếm một tỷ lệ rất thấp trong thị trường vốn; chưa có thói quen sử dụng dịch vụ CTTC. Theo một cuộc khảo sát ngẫu nhiên (được thực hiện cuối năm 2007 ) đối với 1.000 doanh nghiệp thuộc các thành phần khác nhau thì hơn 70% số doanh nghiệp được hỏi trả lời rằng họ biết rất ít và chưa bao giờ tìm hiểu, sử dụng dịch vụ cho thuê tài chính; gần 20% hoàn toàn không biết về dịch vụ này, thậm chí có doanh nghiệp hiểu cho thuê tài chính như hoạt động mua trả góp, nhiều doanh nghiệp chưa hiểu rõ bản chất cấp tín dụng của dịch vụ cho thuê tài chính, chưa thấy rõ được hiệu quả, lợi ích từ dịch vụ cho thuê tài chính mang lại... Thứ hai, phương thức cho thuê và tài sản cho thuê chưa đa dạng, phong phú; tăng trưởng CTTC chưa tương xứng với tiềm năng. Giá cho thuê (gồm tiền trích khấu hao tài sản thuê, phí, bảo hiểm...) hiện nay còn cao. Nếu bỏ qua các yếu tố an toàn, chi phí bỏ ra ban đầu thấp... thì cho đến hết thời hạn thanh lý hợp đồng cho thuê tài chính, bên thuê sẽ phải thanh toán tổng số tiền đối với tài sản thuê cao hơn so với đi vay từ các nguồn khác như ngân hàng. Nguyên nhân Môi trường pháp lý chưa hoàn chỉnh và thiếu đồng bộ, biểu hiện ở quy định lãi suất của Ngân hàng Nhà nước, quy định về đối tượng khách hàng thuê tài chính, khoản 10 và khoản 11 Điều 20 của Luật các Tổ chức tín dụng. Hoạt động kinh doanh còn khá nhiều rủi ro, môi trường kinh tế đang có những tác động không thuận chiều với sự phát triển của hoạt động CTTC. Định giá tiền thuê, lãi suất cho thuê cao hơn so với các loại hình tài trợ vốn khác; phương pháp tính trả tiền thuê chưa linh hoạt. Năng lực cạnh tranh, quản lý kinh doanh của bên đi thuê chưa thích ứng với môi trường kinh tế nhiều biến động làm cho việc sử dụng tài sản thuê không có hiệu quả, vi phạm hợp đồng thuê tài chính. Mặt khác, quản lý Nhà nước về hoạt động sản xuất kinh doanh của thành phần kinh tế ngoài quốc doanh còn nhiều bất cập, sơ hở dẫn đến lừa đảo gây thiệt hại về tài chính cho công ty CTTC. Chưa hình thành thị trường mua bán máy móc, thiết bị đã qua sử dụng tại Việt Nam. 2.1.3. Giải pháp Để khắc phục những tồn tại nhằm phát triển nghiệp vụ cho thuê tài chính Việt Nam ta dựa trên các quan điểm sau: Phát triển nghiệp vụ cho thuê tài chính phải trên cơ sở đa dạng hoá các nghiệp vụ kinh doanh tiền tệ và phát triển đồng bộ các loại thị trường, đặc biệt là thị trường vốn và thị trường chứng khoán. Phát triển nghiệp vụ cho thuê tài chính dựa trên cơ sở sự hình thành và phát triển của các doanh nghiệp theo hướng đa dạng hoá loại hình sở hữu, đa năng hoá nội dung hoạt động. Hoàn thiện và phát triển cho thuê tài chính Việt Nam phải dựa trên một hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật hoàn chỉnh, đồng bộ, đơn giản, dễ hiểu, dễ làm, dễ kiểm tra. Tham khảo và vận dụng có chọn lọc các ưu thế và chuẩn mực của quốc tế về cho thuê tài chính. Trên cơ sở những định hướng và nguyên tắc cơ bản, một số giải pháp chủ yếu nhằm hoàn thiện và phát triển nghiệp vụ cho thuê tài chính ở nước ta: Tiếp tục hoàn thiện các điều kiện của một giao dịch cho thuê tài chính. Theo các văn bản hiện hành, một giao dịch cho thuê tài chính thoả mãn các điều kiện là: Khi kết thúc thời hạn cho thuê theo hợp đồng, bên thuê được quyền sở hữu tài sản thuê hoặc tiếp tục thuê theo sự thỏa thuận của hai bên. Để được quyền sở hữu tài sản thuê, bên thuê mua lại tài sản thuê theo giá danh nghĩa thấp hơn giá trị thực tế của tài sản thuê tại thời điểm mua lại. Thời hạn cho thuê một tài sản ít nhất phải bằng 60% thời gian cần thiết để khấu hao tài sản thuê. Tổng số tiền thuê một loại tài sản quy định tại hợp đồng thuê ít nhất phải tương đương với giá của tài sản đó trên thị trường vào thời điểm ký hợp đồng. Bên thuê và các đối tác trong cho thuê tài chính: Trong các văn bản hiện hành, "bên thuê" chỉ là các doanh nghiệp được thành lập theo pháp luật Việt Nam. Tác giả kiến nghị: "Bên thuê" là mọi tổ chức, đơn vị và cá nhân chứng minh được khả năng thanh toán tiền thuê của mình.Các đối tác tham gia thành lập công ty cho thuê tài chính không nên dừng lại ở các doanh nghiệp trong nước mà bổ sung thêm đối tác tham gia thành lập là các doanh nghiệp nước ngoài, việc các doanh nghiệp không phải là tổ chức tín dụng tham gia thành lập công ty cho thuê tài chính đã trở nên khá phổ biến ở nhiều nước. Do vậy, sự tham gia của các doanh nghiệp nước ngoài trong đối tác của các công ty cho thuê tài chính giúp cho các công ty cho thuê tài chính trong nước tiếp cận nhanh với nguồn máy móc thiết bị và công nghệ hiện đại trên thế giới. Tuy nhiên, đối tác là các tổ chức tín dụng trong công ty cho thuê tài chính phải chiếm tỷ lệ vốn đủ lớn để chi phối hoạt động của công ty. Vấn đề quản lý tài sản thuê. Để đảm bảo an toàn hoạt động cho các công ty cho thuê tài chính, theo kinh nghiệm của nhiều nước, cần phải đăng ký quyền sở hữu tài sản cho thuê, tránh trường hợp bên thuê sử dụng tài sản cho thuê vào mục đích cầm cố, thế chấp và bán... Vấn đề xuất, nhập khẩu đối với tài sản cho thuê. Các công ty cho thuê tài chính muốn có tài sản cho thuê thường phải thông qua uỷ thác hoặc mua lại của các đơn vị kinh doanh xuất, nhập khẩu nên làm tăng chi phí và không chủ động cho thuê. Để tháo gỡ khó khăn này, đề nghị cho phép các công ty cho thuê tài chính được nhập khẩu trực tiếp tài sản cho thuê như các đơn vị kinh doanh xuất nhập khẩu. Các giải pháp khác Cần có chính sách miễn, giảm thuế để tạo điều kiện cho các công ty cho thuê tài chính áp dụng lãi suất cho thuê phù hợp, đủ sức cạnh tranh trên thị trường như thuế xuất nhập khẩu, thuế chuyển nhượng quyền sở hữu tài sản, thuế thu nhập doanh nghiệp đối với hoạt động cho thuê. Sớm hình thành các trung tâm giao dịch, mua bán máy móc, thiết bị cũ. Khi kết thúc hợp đồng cho thuê tài chính hoặc vì lý do nào đó hợp đồng cho thuê tài chính kết thúc trước hạn, để tìm được một khách hàng mới thuê lại máy móc, thiết bị này quả là một việc khó khăn. Việc hình thành các trung tâm môi giới, mua bán, kinh doanh thiết bị cũ giúp tháo gỡ khó khăn cho các công ty cho thuê tài chính trong việc thu hồi vốn. Vấn đề Marketing trong cho thuê tài chính.Do các công ty cho thuê tài chính mới ra đời và hoạt động, nghiệp vụ cho thuê tài chính rất mới mẻ đối với các doanh nghiệp Việt Nam, địa bàn hoạt động của công ty lại rộng khắp trong toàn quốc, do vậy, việc quy định chi phí quảng cáo, tiếp thị của các công ty cho thuê tài chính (5%-7% tổng chi phí) giống như các tổ chức tín dụng hiện hành là chưa hợp lý. Chúng tôi kiến nghị mức chi phí này của các công ty cho thuê tài chính từ 7%-10% là hợp lý hơn. Cho thuê tài chính là vấn đề rộng lớn, phức tạp và mới mẻ ở nước ta. Với những định hướng và giải pháp cơ bản trên đây, tác giả mong muốn góp một số ý kiến vào tiếng nói chung của các nhà nghiên cứu về lĩnh vực này nhằm hoàn thiện và phát triển hoạt động cho thuê tài chính ở nước ta hiện nay. 2.2. Thực trạng cho thuê tài chính ở các ngân hàng 2.2.1. Thực trạng cho thuê tài chính tại các ngân hàng ở Việt Nam Với mức lãi suất huy động và cho vay hiện tại là khá cao so với mức lợi nhuận đem lại từ hoạt động sản xuất kinh doanh, những nguy cơ, rủi ro tiềm ẩn tín dụng là rất lớn. Theo báo cáo của Ngân hàng Nhà nước mới đây, tổng nguồn vốn huy động của toàn hệ thống ngân hàng tính đến ngày 30.6.2003 tăng 14,49% (đạt 321.280 tỉ đồng), cho vay tăng tới 15,03% (đạt 328.490 tỉ đồng), cho thấy tốc độ tăng trưởng tín dụng hiện tại là quá nóng mặc dầu lãi suất huy động (tăng 0,02-0,06%/tháng) và cho vay (tăng 0,02 – 0,04%/tháng) liên tục tăng đều trong thời gian. Với mức lãi suất huy động và cho vay hiện tại là khá cao so với mức lợi nhuận đem lại từ hoạt động sản xuất kinh doanh, những nguy cơ, rủi ro tiềm ẩn tín dụng là rất lớn. Các ngân hàng thương mại quốc doanh (NH TMQD) đang đối mặt với nguy cơ rủi ro tín dụng rất lớn do các NHTMQD áp dụng rất phổ biến hình thức cho vay không bảo đảm bằng tài sản với các doanh nghiệp nhà nước (như vốn cho vay tín chấp đối với các doanh nghiệp nhà nước trong ngành mía đường trong thời gian vừa qua là rất lớn, ngành này bị lỗ nặng nhưng hiện tại các NH TMQD vẫn chưa thu hồi được vốn cho vay là ví dụ điển hình), trong khi dư nợ tín chấp loại này chiếm tỷ trọng rất lớn trong tổng dư nợ của toàn hệ thống ngân hàng. Nghị định 178/1999/ NĐ-CP của Chính phủ ngày 29.12.1999 cho phép các tổ chức tín dụng được quyền tự chủ lựa chọn khách hàng để cho vay không có bảo đảm bằng tài sản, đây là chỉ đạo đúng đắn đã tạo ra sự đột phá khi cho vay. Tuy nhiên, trên thực tế do không thể so sánh được với các NH TMQD về vốn, quy mô hoạt động, lãi suất cho vay nên các ngân hàng thương mại cổ phần (NH TMCP) không thể áp dụng hình thức cho vay tín chấp như các NHTMQD, mà chủ yếu áp dụng cho vay với hình thức bảo đảm nợ vay bằng tài sản. Ngoài ra do yếu về mạng lưới chi nhánh, lãi suất cho vay cao, kinh nghiệm hoạt động tín dụng hạn chế, mạng lưới khách hàng hẹp nên các NH TMCP gặp nhiều khó khăn khi mở rộng thị phần khách hàng là các doanh nghiệp, các NH TMCP có thể ít gặp nguy cơ rủi ro tín dụng như tại các NH TMQD, nhưng do khách hàng vay chủ yếu là các hộ gia đình, cá thể nên chất lượng tín dụng thấp, lâu dài sẽ khó phát triển và mở rộng quy mô để từng bước trở thành ngân hàng thương mại hiện đại được. Do đó, để tránh rủi ro tín dụng, tìm khách hàng là các doanh nghiệp để cho vay (các NHTMCP rất quan tâm điều này), nâng cao chất lượng tín dụng, giúp các doanh nghiệp thiếu điều kiện vay vốn (do không có tài sản thế chấp mặc dầu có dự án đầu tư, phương án kinh doanh hiệu quả) tiếp cận nguồn vốn của ngân hàng để tăng sức sản xuất, mở rộng hoạt động kinh doanh là vấn đề quan tâm hàng đầu của các nhà quản lý điều hành ngân hàng. Trong tình hình đó thì cho thuê tài chính (CTTC) là giải pháp bổ sung hữu hiệu cho ngân hàng để giải quyết những vướng mắc trên khi cấp tín dụng: Hiện tại hoạt động cho thuê tài chính tại Việt Nam là dưới hình thức công ty, công ty cho thuê tài chính được thành lập và hoạt động tại Việt Nam dưới hình thức sau: công ty cho thuê tài chính nhà nước, công ty cho thuê tài chính cổ phần, công ty cho thuê tài chính liên doanh, công ty cho thuê tài chính 100% vốn nước ngoài và công ty cho thuê tài chính trực thuộc tổ chức tín dụng. Các công ty CTTC sau đây đang hoạt động tại Việt Nam: Công ty CTTC của Ngân hàng ngoại thương Việt Nam, Công ty CTTC của Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam, 2 Công ty CTTC của Ngân hàng NN&PT NT Việt Nam, Công ty CTTC Kexim (100% vốn của Hàn Quốc), Công ty CTTC ANZ-VTRAC (100% vốn của Ngân hàng ANZ của Úc và tập đoàn V-TRAC của Mỹ), Công ty CTTC VILC (liên doanh giữa Ngân hàng công thương Việt Nam và đối tác nước ngoài). Hầu hết các Công ty CTTC đang hoạt động tại Việt Nam đều gặt hái nhiều thành công, lợi nhuận cao, tỷ lệ nợ quá hạn thấp trong tổng dư nợ, hoạt động CTTC tỏ ra là hình thức kinh doanh phù hợp trong việc tài trợ vốn tín dụng cho các doanh nghiệp trong tình hình hiện tại của Việt Nam. CTTC là phương thức tài trợ hữu hiệu cho các doanh nghiệp chưa đủ điều kiện vay vốn tại ngân hàng, đây là hoạt động tín dụng trung và dài hạn thông qua việc cho thuê máy móc , thiết bị, phương tiện vận chuyển và các động sản khác trên cơ sở hợp đồng cho thuê giữa bên cho thuê với bên thuê. Trong thời hạn cho thuê tài chính thì tài sản cho thuê vẫn thuộc quyền sở hữu của bên cho thuê nên hình thức cấp tín dụng này đạt sự an toàn cao. Ngược lại, doanh nghiệp có nhiều thuận lợi khi thuê tài chính: bên CTTC xét thấy doanh nghiệp có dự án đầu tư hiệu quả, tình tình tài chính tốt thì doanh nghiệp chỉ cần đặt cọc hay ký cược thì sẽ được xét duyệt thuê tài chính mà không cần tài sản thế chấp hay cầm cố, với sự thuận như vậy nên thời gian qua hoạt động cho thuê tài chính đã tiếp cận rất nhiều với các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh vừa và nhỏ thông qua tài trợ vốn. Thông tư số 08/2001/TT-NHNN của Ngân hàng Nhà nước ngày 6.9.2001 quy định: “Vốn pháp định của công ty cho thuê tài chính cổ phần, công ty cho thuê tài chính trực thuộc tổ chức tín dụng là 50 tỷ đồng; vốn pháp định của công ty cho thuê tài chính liên doanh, công ty cho thuê tài chính 100% vốn nước ngoài là 5 triệu USD”. Đối với các NHTMQD thì quy định về vốn này không có gì để bàn cãi, nhưng đối với các NHTMCP thì rõ ràng sẽ gặp rất nhiều khó khăn về vốn thành lập khi muốn tiếp cận và thực hiện kinh doanh hình thức hoạt động cho thuê tài chính hiệu quả này. Cần nhận thức rằng đây là ngành kinh doanh có nhiều triển vọng, kênh dẫn vốn hiệu quả cho các doanh nghiệp tư nhân vừa và nhỏ thiếu điều kiện vay vốn ngân hàng (Nhà nước đang ủng hộ mạnh cho các doanh nghiệp loại này, thời gian qua doanh nghiệp loại này được thành lập rất nhiều theo Luật doanh nghiệp), mang lại lợi ích thiết thực đối với nền kinh tế nói chung. 2.2.2. Nguyên nhân của thực trạng thuê tài chính tại các ngân hàng thương mại Môi trường pháp lý chưa hoàn chỉnh và thiếu đồng bộ, biểu hiện ở quy định lãi suất của Ngân hàng Nhà nước, quy định về đối tượng khách hàng thuê tài chính, khoản 10 và khoản 11 Điều 20 của Luật các Tổ chức tín dụng. Hoạt động kinh doanh còn khá nhiều rủi ro, môi trường kinh tế đang có những tác động không thuận chiều với sự phát triển của hoạt động CTTC. Định giá tiền thuê, lãi suất cho thuê cao hơn so với các loại hình tài trợ vốn khác; phương pháp tính trả tiền thuê chưa linh hoạt. 2.3. Giải pháp cho tình hình thuê tài chính tại các ngân hàng thương mại Trước mắt Nhà nước có thể giảm vốn pháp định khi thành lập công ty cho thuê tài chính (hiện tại là 50 tỷ đồng) hoặc thí điểm cho các ngân hàng được trực tiếp tài trợ tín dụng trung và dài hạn cho các doanh nghiệp dưới hình thức cho thuê tài chính mà không cần phải thành lập công ty cho thuê tài chính. Làm được điều này, các ngân hàng và nhất là các NHTMCP sẽ tiếp cận được nhiều hơn số lượng các doanh nghiệp nhỏ và vừa, ngân hàng sẽ đa dạng hoá hơn đối tượng cho vay, ngành cho vay, phân tán được những rủi ro tín dụng tại các NHTMQD, riêng NHTMCP có điều kiện nâng cao chất lượng tín dụng thông qua thẩm định dự án đầu tư, phân tích tài chính doanh nghiệp, thẩm định tình hình thị trường, giải quyết vốn đầu ra hiệu quả, linh hoạt hơn trong việc cấp tín dụng mà vẫn đảm bảo an toàn vốn Ngược lại các doanh nghiệp sẽ thuận tiện hơn khi tiếp cận sự nguồn vốn từ ngân hàng mà không cần phải có tài sản bảo đảm. Nếu giải pháp này thành hiện thực, ngân hàng nói chung và NH TMCP nói riêng có thêm phương tiện hữu hiệu để thực hiện mục tiêu kinh doanh đạt lợi nhuận và an toàn, từng bước phát triển thành ngân hàng thương mại hiện đại, kinh doanh đạt hiệu quả, đóng góp nhiều hớn cho sự phát triển kinh tế thông qua sự phát triển của các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Ngân hàng Nhà nước và Bộ Tài chính phối hợp tăng khối lượng tín phiếu Kho bạc Nhà nước đấu thầu hàng quý, hàng năm. Có thể tăng tần suất các phiên đấu thầu từ 1 phiên/1tuần hiện nay lên 2 phiên/tuần. Linh hoạt hơn nữa lãi suất đấu thầu qua các phiên theo sát diễn biến trên thị trường. Thời hạn tín phiếu cũng có thể đa dạng hơn, như kỳ hạn 60 ngày, 90 ngày... thay cho chỉ có loại 360 ngày như hiện nay. Cần có cơ chế để các NHTM cổ phần và Ngân hàng khác có quy mô nhỏ hơn có thể trúng thầu tín phiếu trên thị trường này. Đặc biệt là Bộ Tài chính cần có biện pháp đưa các Công ty bảo hiểm, tổ chức bảo hiểm tham gia đấu thầu tín phiếu, không nên để tình trạng lãng phí vốn hay quan hệ tiền gửi không kỳ hạn trực tiếp với các TCTD như hiện nay. Ngân hàng Nhà nước có biện pháp bảo đảm tính hệ thống của Quỹ tín dụng, có cơ chế điều hòa vốn linh hoạt hơn của hệ thống này. Trên cơ sở đó tạo điều kiện thu hút Quỹ tín dụng tham gia thị trường liên ngân hàng và các dạng khác của thị trường tiền tệ so NHNN tổ chức, vận hành. NHNN nâng cấp thị trường nội tệ liên ngân hàng, thể hiện rõ vai trò can thiệp cuối cùng của NHNN trên thị trường này. Tiến tới công bố được lãi suất thị trường nội tệ liên ngân hàng ở Việt Nam do là lãi suất chủ đạo của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Bản thân các Tổ chức trung gian tài chính cần phải nhanh chóng đa dạng hóa các nghiệp vụ kinh doanh của mình, nhất là nghiệp vụ kinh doanh trên thị trường tiền tệ theo thông lệ quốc tế. Các NHTM mạnh dạn đầu tư hơn nữa cho các nghiệp vụ kinh doanh chứng khoán và thu hút tiền gửi không kỳ hạn, dịch vụ thanh toán cho khách hàng. Đây cũng chính là các nhà đầu tư cá nhân trên thị trường chứng khoán trong thời gian tới, cũng như là khách hàng tiềm năng của nghiệp vụ kinh doanh chứng khoán mà Ngân hàng thương mại cần nhằm tới thu hút. Tăng cường nguồn vốn của các công ty CTTC bằng cách phát hành trái phiếu và các giấy tờ có giá khác; Huy động tiền gửi có kỳ hạn từ một năm trở lên; Khai thác nguồn hàng trả chậm từ các nhà cung cấp nước ngoài. Mở rộng mạng lưới kinh doanh, xây dựng chiến lược khách hàng và hàng hoá cho thuê. Phát triển dịch vụ tư vấn máy móc thiết bị. Liên kết với các công ty sản xuất trang thiết bị để đưa ra kế hoạch quảng bá về hoạt động CTTC cũng như sản phẩm của công ty sản xuất đến khách hàng. KẾT LUẬN Vấn đề vốn để khởi sự doanh nghiệp luôn là sự đau đầu của bất kỳ ai muốn bước chân vào thương trường. Bạn không có sẵn vốn để đầu tư vào những yếu tố như máy móc, thiết bị sản xuất, thiết bị văn phòng, tin học, viễn thông và các động sản khác ... hoặc để dành vốn vào mục đính kinh doanh khác. Cho thuê tài chính sẽ là kênh tín dụng hữu hiệu giúp bạn giải quyết những khó khăn đó. Qua nghiên cứu trên đây, có thể thấy, thuê tài chính là một hình thức đang được áp dụng phổ biến ở nhiều nước trên thế giới như Mỹ, Nhật Bản, Ðức, Thụy Ðiển, Úc... và ngay cả ở Việt Nam hiện nay. Tuy nhiên vấn đề đặt ra là mặc dù có mặt đã lâu nhưng thực sự cho thuê tài chính là khái niệm còn khá mới mẻ với nhiều doanh nghiệp. Việc nghiên cứu và đưa ra các giải pháp cho vấn đề thuê tài chính đang thực sự là một nhu cầu cấp bách của các doanh nghiệp nói riêng, và của toàn nền kinh tế nói chung. Thông qua bài tiểu luận này, nhóm nghiên cứu xin được góp một phần những kiến thức của mình, để bổ sung một số trong rất nhiều những luận điểm liên quan đến vấn đề thuê tài chính. Nhóm nghiên cứu rất mong nhận được ý kiến phản hồi từ giáo viên và người đọc. Xin chân thành cảm ơn !

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docBài tiểu luận môn Quản trị tài chính doanh nghiệp- Thuê tài chính – Lý thuyết và thực tiễn.doc
Luận văn liên quan