Tiểu luận Đầu tư nước ngoài gián tiếp tại Việt Nam

Năm 2007: Ủy ban Chứng khoán Nhà nước (UBCKNN) đã cấp phép hoạt động kinh doanh chứng khoán cho 61 công ty, với tổng số vốn điều lệ đạt 5.735 tỷ đồng. Trong đó, có 43 công ty được cấp phép 4 nghiệp vụ môi giới chứng khoán, tư vấn đầu tư chứng khoán, tự doanh chứng khoán và bảo lãnh phát hành chứng khoán. Số tài khoản giao dịch chứng khoán tại các CTCK đạt 255.185 tài khoản , tổng giá trị giao dịch chứng khoán của nhà đầu tư trong tháng 6/2007 qua các CTCK đạt 25.196 tỷ đồng Trong quá trình hoạt động, các CTCK luôn đẩy mạnh việc phát triển mạng lưới, tính đến hết ngày 30/6/2007, ngoài 56 trụ sở chính, mạng lưới hoạt động của các công ty gồm 25 chi nhánh, 14 phòng giao dịch, 24 đại lý nhận lệnh (so với mạng lưới gồm 12 chi nhánh, 9 phòng giao dịch và 13 đại lý nhận lệnh tại thời điểm 31/12/2006). Cùng với việc mở rộng chi nhánh, hoàn thiện bộ máy tổ chức, nhiều CTCK đã thực hiện tăng vốn điều lệ nhằm nâng cao năng lực tài chính và đáp ứng quy định vốn pháp định theo yêu cầu của Nghị định 14 hướng dẫn Luật Chứng khoán. Mặc dù vậy, do tỷ lệ người dân Việt Nam tham gia đầu tư chứng khoán vẫn còn rất nhỏ, nên việc số lượng các CTCK gia tăng nhanh trong một khoảng thời gian khá ngắn đã dẫn đến một số công ty gặp nhiều khó khăn trong hoạt động kinh doanh. Với khả năng tài chính và kinh nghiệm còn hạn chế, vì mục tiêu lợi nhuận của mình một số CTCK đã sử dụng những biện pháp cạnh tranh không lành mạnh, gây ra những ảnh hưởng xấu đến sự phát triển chung của thị trường, tạo tâm lý lo ngại cho các nhà đầu tư. Trên thực tế, với số lượng trên 60 CTCK được cấp phép và đi vào hoạt động nhưng phải chia nhau một thị trường quá nhỏ chỉ với trên dưới 250.000 khách hàng (là các nhà đầu tư, tổ chức và cá nhân, trong khi đó các CTCK lớn và hoạt động lâu năm như SSI, VCBS, ACBS, BCVS, SBS. đ

pdf42 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 2358 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Đầu tư nước ngoài gián tiếp tại Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
oán. Điều kiện để được cấp Giấy phép thành lập và hoạt động, công ty chứng khoán: Quyền sử dụng trụ sở làm việc tối thiểu một năm, trong đó diện tích làm sàn giao dịch phục vụ nhà đầu tư tối thiểu 150 m2. Có đủ cơ sở vật chất, kỹ thuật phục vụ hoạt động kinh doanh, bao gồm: sàn giao dịch phục vụ khách hàng; thiết bị văn phòng, hệ thống máy tính cùng các phần mềm thực hiện hoạt động giao dịch chứng khoán; trang thông tin điện tử, bảng tin để công bố thông tin cho khách hàng; hệ thống kho, két bảo quản chứng khoán, tiền mặt, tài sản có giá trị khác và lưu giữ tài liệu, chứng từ giao dịch đối với công ty chứng khoán có nghiệp vụ môi giới chứng khoán, tự doanh chứng khoán. Page 15 of 42 Đáp ứng đủ số vốn pháp định theo quy định tại Điều 18 Nghị định số 14/2007/NĐ-CP ngày 19 tháng 01 năm 2007 của Chính phủ trong đó môi giới chứng khoán là 25 tỷ VNĐ, tự doanh chứng khoán là 100 tỷ VNĐ, bảo lãnh phát hành chứng khoán là 165 tỷ VNĐ và tư vấn đầu tư chứng khoán là 10 tỷ VNĐ. Cá nhân góp vốn từ 5% trở lên vốn điều lệ của công ty chứng khoán phải chứng minh tài sản bằng tiền, chứng khoán hoặc các tài sản khác. Đối với tài sản bằng tiền, phải có xác nhận của ngân hàng. Đối với tài sản bằng chứng khoán, phải có xác nhận của công ty chứng khoán hoặc của tổ chức phát hành về số chứng khoán đó. Đối với tài sản khác, phải có tài liệu chứng minh quyền sở hữu và tài sản đó phải được định giá bởi tổ chức định giá hợp pháp. Cổ đông sáng lập, thành viên sáng lập phải cùng nhau nắm giữ ít nhất 20% vốn điều lệ thực góp ban đầu của công ty chứng khoán. Phần vốn góp ban đầu của cổ đông sáng lập, thành viên sáng lập không được chuyển nhượng trong vòng ba (03) năm kể từ ngày được cấp Giấy phép thành lập và hoạt động, trừ trường hợp chuyển nhượng cho cổ đông sáng lập, thành viên sáng lập khác theo quy định của Luật Doanh nghiệp. Giám đốc hoặc tổng giám đốc và các nhân viên thực hiện nghiệp vụ kinh doanh chứng khoán phải có chứng chỉ hành nghề chứng khoán. Người hành nghề chứng khoán phải tham gia các khoá tập huấn về văn bản pháp luật, hệ thống giao dịch, loại chứng khoán mới do Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước, Sở giao dịch chứng khoán, Trung tâm giao dịch chứng khoán tổ chức. Thủ tục cấp Giấy phép thành lập và hoạt động công ty chứng khoán: Trong vòng ba mươi (30) ngày kể từ ngày nhận được hồ sơ hợp lệ, Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước xem xét chấp thuận nguyên tắc việc cấp Giấy phép thành lập và hoạt động công ty chứng khoán. Trong vòng sáu (06) tháng kể từ ngày được chấp thuận nguyên tắc, tổ chức xin cấp phép thành lập và hoạt động công ty chứng khoán phải hoàn tất việc đầu tư cơ sở vật chất kỹ thuật và phong toả vốn pháp định. Tổ chức xin cấp phép Page 16 of 42 được trích phần vốn góp của các cổ đông hoặc của các thành viên hoặc vốn góp của chủ sở hữu để đầu tư cơ sở vật chất phục vụ cho hoạt động kinh doanh của công ty. Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước kiểm tra cơ sở vật chất tại trụ sở công ty chứng khoán trước khi chính thức cấp Giấy phép thành lập và hoạt động. Phần vốn góp còn lại của các cổ đông hoặc của thành viên góp vốn hoặc của chủ sở hữu phải được gửi vào một tài khoản phong toả tại ngân hàng do Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước chỉ định và phải có xác nhận của ngân hàng này về số vốn trên tài khoản phong toả. Số vốn này chỉ được giải toả sau khi được Ủy ban Chứng khoán Nhà nước chính thức cấp Giấy phép thành lập và hoạt động. Trong thời hạn bảy (07) ngày, kể từ ngày nhận được xác nhận phong tỏa vốn của ngân hàng và biên bản kiểm tra cơ sở vật chất trụ sở công ty, Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước cấp Giấy phép thành lập và hoạt động cho công ty chứng khoán. Công ty chứng khoán phải chính thức hoạt động trong thời hạn mười hai (12) tháng kể từ ngày được cấp Giấy phép thành lập và hoạt động. Trong thời hạn bảy (07) ngày, kể từ ngày được cấp Giấy phép thành lập và hoạt động, công ty chứng khoán phải công bố Giấy phép thành lập và hoạt động trên trang thông tin điện tử của Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước và một tờ báo điện tử hoặc báo viết đang hoạt động hợp pháp tại Việt Nam trong ba (03) số liên tiếp. Một số quy định về đình chỉ, thu hồi Giấy phép thành lập và hoạt động: Lỗ gộp đạt mức 50% vốn điều lệ hoặc không còn đáp ứng đủ điều kiện về vốn hoạt động kinh doanh chứng khoán. Thời hạn đình chỉ hoạt động tối đa sáu mươi (60) ngày. Sau khi bị đình chỉ hoạt động mà không khắc phục được tình trạng trong thời hạn 06 tháng thì bị thu hồi giấy phép hoạt động, hoặc không tiến hành hoạt động kinh doanh chứng khoán trong thời hạn 12 tháng, kể từ ngày được cấp Giấy phép thành lập và hoạt động cũng sẽ bị thu hồi giấy phép. Nguyên tắc tổ chức trong công ty chứng khoán: Cơ cấu tổ chức của công ty chứng khoán phải đảm bảo tách biệt về văn phòng làm việc, nhân sự, hệ thống dữ liệu, báo cáo giữa các bộ phận nghiệp vụ có xung đột giữa lợi Page 17 of 42 ích của công ty chứng khoán và của khách hàng hoặc giữa lợi ích của các khách hàng với nhau. Công ty chứng khoán phải thiết lập và duy trì hệ thống kiểm soát nội bộ độc lập và chuyên trách. Hệ thống kiểm soát nội bộ phải được thiết lập tại trụ sở chính, chi nhánh của công ty chứng khoán. Tối thiểu mỗi năm một (01) lần, công ty chứng khoán phải đánh giá hoạt động của hệ thống kiểm soát nội bộ. Báo cáo đánh giá hoạt động của hệ thống kiểm soát nội bộ phải gửi Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước cùng với báo cáo tài chính năm. Nguyên tắc quản lý an toàn tài chính: - Công ty chứng khoán được tổ chức dưới hình thức công ty cổ phần được mua lại không quá 10% số cổ phần phổ thông đã bán làm cổ phiếu quỹ. - Công ty chứng khoán phải duy trì tỷ lệ vốn khả dụng trên tổng vốn nợ điều chỉnh tối thiểu bằng 5%. - Tỷ lệ tổng nợ trên vốn chủ sở hữu của công ty chứng khoán không được vượt quá sáu lần. Nợ ngắn hạn tối đa bằng tài sản ngắn hạn. - Công ty chứng khoán được mua, đầu tư vào tài sản cố định của mình theo nguyên tắc giá trị còn lại của tài sản cố định không được vượt quá 50% vốn điều lệ của công ty CK. Hạn chế đầu tư của công ty chứng khoán: Công ty chứng khoán không được: đầu tư vào cổ phiếu hoặc phần vốn góp của công ty có sở hữu trên 50% vốn điều lệ của công ty chứng khoán, cùng với người có liên quan đầu tư từ 5% trở lên vốn điều lệ của công ty chứng khoán khác, đầu tư từ 20% trở lên tổng số cổ phiếu đang lưu hành của một tổ chức niêm yết, đầu tư từ 15% trở lên tổng số cổ phiếu đang lưu hành của một tổ chức không niêm yết, đầu tư hoặc góp vốn từ 15% trở lên tổng số vốn góp của một công ty trách nhiệm hữu hạn. Gần đây, UBCK vừa công bố Quyết định 126/2008/QĐ-BTC về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Quy chế tổ chức và hoạt động công ty chứng khoán với các điều kiện khắc khe hơn để củng cố và lành mạnh hóa tình hình hoạt động của các CTCK hiện Page 18 of 42 nay. Theo đó, cá nhân và cổ đông sáng lập chỉ được phép sử dụng vốn của mình để góp vốn, không được sử dụng vốn vay, vốn ủy thác đầu tư của tổ chức, cá nhân khác. Điều kiện đối với pháp nhân khắc khe hơn, với yêu cầu có thời gian hoạt động tối thiểu là 5 năm. Công ty chứng khoán được thành lập theo hình thức công ty cổ phần hoặc công ty TNHH từ 2 thành viên trở lên phải có tối thiểu 2 cổ đông sáng lập, thành viên sáng lập là tổ chức, trong đó phải có ít nhất 1 tổ chức là NHTM, công ty tài chính hoặc công ty bảo hiểm. Tỷ lệ sở hữu cổ phần, vốn góp của cổ đông sáng lập, thành viên sáng lập là tổ chức tối thiểu 65% vốn điều lệ, trong đó tỷ lệ sở hữu cổ phần của cổ đông sáng lập, thành viên sáng lập là NHTM, công ty tài chính hoặc công ty bảo hiểm tối thiểu phải đạt 30% vốn điều lệ của CTCK. Đối với CTCK thành lập theo hình thức công ty TNHH một thành viên chủ sở hữu phải là NHTM, công ty tài chính hoặc công ty bảo hiểm và đảm bảo giữ tối thiểu 35% vốn điều lệ CTCK. 2. Quy chế về tổ chức và hoạt động của công ty quản lý quỹ đầu tư và quỹ đầu tư: Theo quy định tại Điều 18 Nghị định số 14/2007/NĐ-CP ngày 19 tháng 01 năm 2007, mức vốn pháp định của công ty quản lý quỹ, công ty quản lý quỹ có vốn đầu tư nước ngoài, chi nhánh công ty quản lý quỹ nước ngoài tại Việt Nam tối thiểu là 25 tỷ đồng Việt Nam. Theo Quyết định 73/2004/QĐ-BTC về Quy chế tổ chức và hoạt động của quỹ đầu tư chứng khoán và công ty quản lý quỹ gồm 8 chương và 60 điều: Chương 1: Quy định chung (điều 1-2) Chương 2: Quỹ công chúng (3-24) Chương 3: Quỹ thành viên (25-30) Chương 4: Công ty quản lý quỹ (31-49) Chương 5: Ngân hàng giám sát (50-54) Chương 6: Chế độ báo cáo và quản lý hồ sơ (55-57) Page 19 of 42 Chương 7: Thanh tra, giám sát, xử lý vi phạm (58-59) Chương 8: Tổ chức thực hiện (60) Quỹ đầu tư chứng khoán bao gồm 2 hình thức quỹ công chúng và quỹ thành viên: Quỹ công chúng là Quỹ có chứng chỉ quỹ được phát hành ra công chúng Tổng giá trị chứng chỉ quỹ xin phép phát hành đạt ít nhất 5 tỷ đồng. Các sáng lập viên không chuyển nhượng chứng chỉ quỹ mà mình sở hữu trong 02 năm kể từ ngày phát hành. Thời hạn cấp giấy phép phát hành chứng chỉ quỹ ra công chúng là trong vòng 30 ngày làm việc kể từ ngày UBCK nhận được hồ sơ hợp lệ. Trong thời hạn 5 ngày làm việc kể từ ngày UBCKNN cấp giấy phép phát hành chứng chỉ quỹ ra công chúng, công ty quản lý quỹ phải công bố việc phát hành trên một (01) tờ báo trung ương hoặc một (01) tờ báo địa phương nơi công ty quản lý quỹ đặt trụ sở chính với các nội dung theo quy định. Công ty quản lý quỹ phải phân phối chứng chỉ quỹ một cách công bằng và phải đảm bảo thời hạn đăng ký mua chứng chỉ quỹ cho người đầu tư tối thiểu là 15 ngày làm việc và phải hoàn thành đợt phân phối chứng chỉ quỹ trong thời hạn 90 ngày kể từ ngày giấy phép phát hành chứng chỉ quỹ ra công chúng có hiệu lực. Số tiền mua chứng chỉ quỹ phải được chuyển vào tài khoản phong toả mở tại ngân hàng giám sát cho đến khi hoàn tất đợt phát hành. Trong thời hạn 30 ngày làm việc kể từ phiên họp Đại hội người đầu tư đầu tiên sau khi kết thúc đợt phát hành chứng chỉ quỹ ra công chúng, công ty quản lý quỹ gửi UBCKNN hồ sơ xin đăng ký lập Quỹ công chúng và niêm yết chứng chỉ quỹ. Trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày nhận hồ sơ hợp lệ, UBCKNN cấp chứng nhận đăng ký lập Quỹ công chúng và niêm yết chứng chỉ quỹ. Việc đầu tư vốn và tài sản của Quỹ công chúng phải tuân thủ các hạn chế sau: một Quỹ công chúng không được góp vốn hoặc đầu tư vào chứng chỉ quỹ của chính Quỹ công chúng đó hoặc của một Quỹ khác, không được đầu tư vào quá 15% tổng giá trị chứng khoán đang lưu hành của một tổ chức phát hành, không được đầu tư quá 20% tổng giá trị Page 20 of 42 tài sản quỹ vào chứng khoán đang lưu hành của một tổ chức phát hành, không được đầu tư quá 10% tổng giá trị tài sản quỹ vào bất động sản, không được đầu tư quá 30% tổng giá trị tài sản Quỹ vào các công ty trong cùng một tập đoàn hay một nhóm công ty có quan hệ sở hữu lẫn nhau, vốn và tài sản của Quỹ công chúng không được dùng để cho vay hoặc bảo lãnh cho bất kỳ khoản vay nào; không được phép vay để tài trợ cho hoạt động của Quỹ công chúng, trừ trường hợp vay ngắn hạn để trang trải các chi phí cần thiết cho Quỹ công chúng, tổng giá trị các khoản vay của Quỹ công chúng không được vượt quá 1% giá trị tài sản ròng của Quỹ công chúng tại mọi thời điểm, thời hạn vay tối đa không được quá 30 ngày, quỹ công chúng không bị hạn chế đầu tư vào các loại trái phiếu Chính phủ. Ngoài ra, các giao dịch tài sản của Quỹ công chúng mà công ty quản lý quỹ hoặc người có liên quan của công ty quản lý quỹ có tham gia dưới mọi hình thức không được là bất động sản. Quỹ thành viên là Quỹ được lập bằng vốn góp của tối đa 49 thành viên góp vốn và không phát hành chứng chỉ quỹ ra công chúng. Quỹ thành viên có số vốn điều lệ tối thiểu là 5 tỷ đồng. Thành viên góp vốn phải luôn đáp ứng điều kiện: đầu tư tối thiểu 3 tỷ đồng Việt Nam, trường hợp thành viên là tổ chức; đầu tư tối thiểu 1 tỷ đồng Việt Nam, trường hợp thành viên là cá nhân. Thời hạn cấp chứng nhận đăng ký lập Quỹ thành viên là trong vòng 30 ngày kể từ ngày nhận đủ hồ sơ hợp lệ tại UBCKNN. Kể từ khi được cấp chứng nhận đăng ký lập quỹ thành viên, công ty quản lý quỹ và ngân hàng giám sát phải lập và lưu giữ sổ đăng ký đăng ký sở hữu phần vốn góp của thành viên góp vốn của Quỹ thành viên và mọi thông tin liên quan đến việc chuyển nhượng vốn góp. Quỹ thành viên phải đảm bảo đầu tư tối thiểu 60% giá trị tài sản quỹ vào chứng khoán. Công ty quản lý quỹ được cấp giấy phép thực hiện một hoặc các loại hình dịch vụ: lập và quản lý Quỹ công chúng; lập và quản lý Quỹ thành viên. Việc thành lập công ty liên Page 21 of 42 doanh quản lý quỹ phải được UBCKNN cấp Giấy phép sau khi được Bộ Tài chính chấp thuận. Giấy phép này đồng thời có giá trị là giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh. Tổ chức kinh doanh chứng khoán nước ngoài tham gia góp vốn thành lập công ty liên doanh quản lý quỹ phải là tổ chức được phép hoạt động quản lý quỹ theo pháp luật nước ngoài. Thời hạn cấp các giấy phép quản lý quỹ tối đa là 60 ngày, kể từ ngày UBCKNN nhận được hồ sơ hợp lệ. Sau khi nhận được văn bản chấp thuận nguyên tắc việc cấp giấy phép quản lý quỹ của UBCKNN, tổ chức xin cấp phép phải chuyển toàn bộ số vốn điều lệ vào tài khoản phong toả tại Ngân hàng chỉ định thanh toán. Số tiền này chỉ được giải tỏa sau khi công ty được chính thức cấp giấy phép quản lý quỹ. Việc bán cổ phần hoặc phần vốn góp trị giá trên 5% vốn điều lệ của Công ty quản lý quỹ cho công ty quản lý quỹ nước ngoài phải được UBCKNN chấp thuận. Ban Giám đốc công ty quản lý quỹ hoặc người điều hành quỹ phải có chứng chỉ hành nghề quản lý quỹ do UBCKNN cấp theo điều 97 Nghị định 144/2003/NĐ-CP ngày 28/11/2003 3. Quy chế về nhà đầu tư nước ngoài được quyền mua cổ phiếu của doanh nghiệp VN - Đối với Ngân hàng thương mại Theo Nghị định 69/2007/NĐ-CP về việc nhà đầu tư nước ngoài mua cổ phần của ngân hàng thương mại Việt Nam được chính phủ ban hành thì tổng mức sở hữu cổ phần của các nhà đầu tư nước ngoài (bao gồm cả cổ đông nước ngoài hiện hữu ) và người có liên quan của các nhà đầu tư nước ngoài đó không vượt quá 30% vốn điều lệ của một ngân hàng Việt Nam. Một cổ đông chiến lược không được nắm giữ quá 15% vốn điều lệ một ngân hàng. Trường hợp đặc biệt mức sở hữu vượt quá 15%, người quyết định tỷ lệ nắm giữ cụ thể là Thủ tướng Chính phủ trên cơ sở đề nghị của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Tuy nhiên, mức sở hữu của một nhà đầu tư chiến nước ngoài cũng không được vượt quá 20% Page 22 of 42 vốn điều lệ của của một ngân hàng. Nhà đầu tư chiến lược nước ngoài chỉ được phép chuyển nhượng cổ phần thuộc sở hữu của mình tối thiểu sau 5 năm kể từ khi trở thành nhà đầu tư chiến lược. Và 3 năm đối với tổ chức tín dụng nước ngoài và người có liên quan sỡ hữu 10% vốn điều lệ. Bên cạnh đó, Nghị định cũng quy định, mức sở hữu cổ phần của một nhà đầu tư nước ngoài không phải là tổ chức tín dụng nước ngoài và người có liên quan của nhà đầu tư nước ngoài đó không vượt quá 5% vốn điều lệ của một ngân hàng Việt Nam. Mức sở hữu cổ phần của một tổ chức tín dụng nước ngoài không là cổ đông chiến lược không vượt quá 10% vốn điều lệ của một ngân hàng Việt Nam. Để được bán cổ phần cho đối tác nước ngoài, các ngân hàng Việt Nam phải có vốn điều lệ tối thiểu đạt 1.000 tỷ đồng, có tình hình tài chính lành mạnh và không bị cơ quan có thẩm quyền xử phạt do vi phạm các quy định về an toàn trong hoạt động ngân hàng trong thời gian 24 tháng. Về phía đối tác nước ngoài mua cổ phần ngân hàng Việt Nam phải có tổng tài sản tối thiểu tương đương 20 tỷ đô la Mỹ vào năm trước năm đăng ký mua cổ phần, được các tổ chức xếp loại tín nhiệm quốc tế xếp hạng ở mức có khả năng thực hiện các cam kết tài chính và hoạt động bình thường ngay cả khi tình hình, điều kiện kinh tế biến đổi theo chiều hướng không thuận lợi. Riêng đối với nhà đầu tư chiến lược nước ngoài còn phải có văn bản cam kết về việc hỗ trợ ngân hàng Việt Nam trong việc phát triển sản phẩm, dịch vụ ngân hàng, nâng cao năng lực quản trị, điều hành và áp dụng công nghệ hiện đại. Hiện nay, đã có một số ngân hàng Việt Nam thực hiện bán cổ phần cho đối tác nước ngoài. Một số ngân hàng đã có cam kết sẽ nâng mức bán cổ phần lên đến 20% cho đối tác chiến lược. Tuy nhiên, nếu theo quy định mới này, các cam kết này là không phù hợp. Nếu muốn bán phải được sự đồng ý của Thủ tướng. - Đối với công ty khác: Page 23 of 42 Ngày 11/03/2003, Chính phủ ban hành Quyết định 36/2003/QĐ-TTg về quy chế góp vốn, mua cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài trong các doanh nghiệp Việt Nam kèm theo đó là Thông tư 73/2003/TT-BTC của Bộ tài chính Hướng dẫn thực hiện quy chế trên. Theo đó, mức góp vốn, mua cổ phần của các nhà đầu tư nước ngoài ở doanh nghiệp Việt Nam tối đa bằng 30% vốn điều lệ của doanh nghiệp Việt Nam. Quy chế này nhằm khuyến khích các nhà đầu tư nước ngoài góp vốn, đồng thời huy động vốn, công nghệ, phương pháp quản lý doanh nghiệp của nước ngoài và mở rộng thị trường, tăng sức cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam. Doanh nghiệp Việt Nam theo quy chế này bao gồm: Doanh nghiệp nhà nước thực hiện cổ phần hóa, Công ty cổ phần, Công ty trách nhiệm hữu hạn, Công ty hợp danh, Liên hiệp hợp tác xã, hợp tác xã hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực ngành nghề do Thủ tướng Chính phủ quyết định và tư công bố trong từng thời kỳ. Hình thức góp vốn, mua cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài gồm: mua cổ phần phát hành lần đầu của các doanh nghiệp nhà nước thực hiện cổ phần hóa hoặc mua cổ phần phát hành thêm của Công ty cổ phần, mua lại cổ phần của các cổ đông trong Công ty cổ phần. Theo quyết định 238/2005/ QĐ-TTg ngày 29/09/2005 của thủ tướng chính phủ về tỷ lệ tham gia của bên nước ngoài vào thị trường chứng khoán Việt Nam có quy định tổ chức, cá nhân nước ngoài mua bán chứng khoán trên thị trường chứng khoán VN được nắm giữ tối đa 49% tổng số cổ phiếu niêm yết, đăng ký giao dịch của một tổ chức niêm yết, đăng ký giao dịch trên Trung tâm giao dịch chứng khoán. Đối với tổ chức niêm yết, đăng ký giao dịch là DN có vốn đầu tư nước ngoài chuyển sang hoạt động theo hình thức công ty cổ phần thì tổng số cổ phiếu niêm yết là số cổ phiếu phát hành ra công chúng theo phương án được cấp có thẩm quyền phê duyệt. Ngoài ra, tổ chức, cá nhân nước ngoài mua bán chứng khoán trên thị trường chứng khoán VN cũng chỉ được tối đa hóa 49% tổng số chứng chỉ quỹ đầu tư niêm yết, đăng ký giao dịch của một quỹ đầu tư chứng khoán. Tuy nhiên không giới hạn tỷ lệ nắm giữ đối với trái phiếu lưu hành của tổ chức phát hành. Tổ chức kinh doanh chứng khoán nước Page 24 of 42 ngoài được góp vốn, mua cổ phần, góp vốn liên doanh thành lập Cty chứng khoán hoặc Cty quản lý quỹ đầu tư chứng khoán tối đa là 49% vốn điều lệ. Page 25 of 42 Phần 3: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƯ GIÁN TIẾP NƯỚC NGOÀI VÀO VIỆT NAM --- o0o --- Theo quy định của luật đầu tư số 59/2005/QH11 ngày 29 tháng 11 năm 2005 thì Nhà đầu tư thực hiện đầu tư gián tiếp tại Việt Nam theo các hình thức: a) Mua cổ phần, cổ phiếu, trái phiếu và các giấy tờ có giá khác; b) Thông qua quỹ đầu tư chứng khoán; c) Thông qua các định chế tài chính trung gian khác. I. CÁC GIAI ĐOẠN THU HÚT FDI TẠI VIỆT NAM Thực tiễn 3 giai đoạn thu hút vốn ĐTGTNN ở nước ta thời gian qua cho thấy rõ sự tác động quan trọng của những nhân tố sau cùng mà ta vừa đề cập ở trên: Giai đoạn 1 (1988 – 1997): là thời kỳ mở đầu cho dòng vốn ĐTGTNN để vào Việt Nam theo xu hướng đổi mới và mở cửa thu hút đầu tư nước ngoài diễn ra trong phạm vi cả nước và tạo động lực, hy vọng chung cho các nhà đầu tư nước ngoài. Trong giai đoạn này, ở Việt Nam đã có 7 Quỹ đầu tư nước ngoài được thành lập với tổng số vốn được huy động khoảng 400 triệu USD. Giai đoạn 2 (1998 – 2002): là thời kỳ khủng hoảng và hậu khủng hoảng tài chính – tiền tệ châu Á khiến các dòng vốn đầu tư trực tiếp và gián tiếp nước ngoài đổ vào châu Á bị chững lại và Việt Nam cũng chịu ảnh hưởng chung của xu hướng này với việc giảm sút và thu hẹp đáng kể quy mô thu hút cảu cả FDI và FPI. Trong số 7 Quỹ đầu tư kể trên có 5 Quỹ rút khỏi Việt Nam, 1 Quỹ thu hẹp trên 90% quy mô quỹ, chỉ còn duy nhất Quỹ Vietnam Enterprise Investment Fund được thành lập 7/1995 với quy mô vốn 35 triệu USD (nhỏ nhất trong số 7 Quỹ) là còn hoạt động cho đến nay. Giai đoạn 3 (từ 2003 đến nay): là thời kỳ phục hồi trở lại của dòng vốn ĐTGTNN vào Việt Nam cùng với xu hướng tăng cường cải thiện môi trường đầu tư, phát triển các định chế thị trường tài chính, trong đó có lập sàn giao dịch chứng khoán ở thành Page 26 of 42 phố Hồ Chí Minh tháng 7/2000 và TTGDCK Hà Nội tháng 3/2005, đặc biệt là chủ trương và quyết tâm của Chính phủ đẩy mạnh cổ phần hóa và nới lỏng tỷ lệ nắm giữ cổ phần của các nhà đầu tư nước ngoài trong các DNNN lớn được cổ phần hóa (từ 30% lên 49%)….Tính đến tháng 6/2006, cả nước đã có 19 Quỹ đầu tư nước ngoài với tổng vốn 1,9 tỷ USD đang hoạt động ở Việt Nam. Tổng cộng đến nay vốn ĐTGTNN Việt Nam thu hút được bằng khoảng 2 – 3% so với tổng vốn FDI mà chúng ta đã thu hút được trong cùng thời kỳ (so với tỷ lệ trung bình 30 – 40% của các nước khu vực thì đây là tỷ lệ khiêm tốn…). Tuy nhiên, có thể cảm nhận khá rõ rệt và xác đáng những triển vọng rất sáng sủa của dòng ĐTGTNN đổ vào Việt Nam trong thời gian tới, đặc biệt từ sau khi Việt Nam triển khai các cam kết hội nhập WTO và thúc đẩy trên thực tế quá trình cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước lớn đang hoạt động trong các lĩnh vực độc quyền hoặc gần như độc quyền hiện nay. II. QUỸ ĐẦU TƯ TẠI VIỆT NAM 1. TÌNH HÌNH Có thể chia các quỹ đầu tư tại Việt Nam thành hai loại như sau:  Các Công ty Quản lý quỹ trong nước (hoặc liên doanh) như công ty quản lý quỹ Bảo Việt, Vietfund, Vietcombank, Việt Thành, Quỹ Công nghiệp và Năng lượng Việt Nam... Về các quỹ đầu tư trong nước và liên doanh, cách đây gần 3 năm, Việt Nam có quỹ đầu tư chứng khoán đầu tiên: Quỹ VF1. Nhưng hiện tại VF1 không còn là duy nhất. Ra đời muộn nhưng đang lớn khá nhanh là quỹ thành viên Vietcombank 1 với 200 t ỉ đồng vốn. Vietcombank 1 đã đầu tư hơn 70% vốn vào các doanh nghiệp chưa niêm yết như ngân hàng, dầu khí, viễn thông. Đáng nói là các NĐT của Hồng Kông, Singapore và Nhật Bản đã góp 33% vốn vào Quỹ Vietcombank 1. Với Vietcombank 2, Ngân hàng Ngoại thương dự định sẽ gọi 49% vốn nước ngoài. Các NĐT nước ngoài hiện cũng đang sở hữu gần 40% cổ phần trong VF1. Ngoài ra, Quỹ Công nghiệp và Năng lượng Việt Nam cũng vừa mới được thành Page 27 of 42 lập với tổng số vốn lên đến 10 ngàn tỷ đồng. Đây là quỹ có quy mô lớn nhất hiện nay tập trung đầu tư vào các dự án nguồn điện. Cùng góp vốn thành lập Quỹ Công nghiệp và Năng lượng có các tên tuổi lớn trong nước như: Tập đoàn Bưu chính - Viễn thông, Dầu khí, Than và Khoáng cùng các Tổng Công ty Sông Đà, Tổng Công ty Đầu tư phát triển đô thị và khu công nghiệp do Ngân hàng Đầu tư - Phát triển đứng đầu.  Các quỹ đầu tư 100% vốn của nước ngoài. Về các quỹ đầu tư của nước ngoài, ngay từ những năm đầu của thập kỉ 90 đã xuất hiện 7 quỹ đầu tư nước ngoài (tổng lượng vốn huy động được khoảng 700 triệu USD) nhưng sau đó đã lần lượt rút lui do những bất cập trong chính sách kinh tế đối ngoại lúc đó. Đến nay, cùng với sự phát triển của TTCK, làn sóng các quỹ đầu tư trở lại đã mang một luồng gió mới cho nền kinh tế. Theo số liệu của UBCKNN, hiện có khoảng 206 quỹ đầu tư nước ngoài đã đăng ký tham gia thị trường hoạt động đầu tư thông qua 2 hình thức: qua văn phòng đại diện, nhân viên làm việc tại các văn phòng đại diện và đầu tư uỷ thác thông qua các đại diện giao dịch uỷ quyền. Phần lớn quỹ đầu tư không cho vay tiền mà chỉ mua cổ phần và hạn chế đầu tư vào các DN mới thành lập, các DN mà một chủ nắm giữ hơn 50% vốn (trừ Nhà nước). Lớn nhất hiện nay phải kể đến 3 quỹ đầu tư trên TTCK: Dragon Capital, Vina Capital và Indochina Capital đang nắm giữ gần 4 tỷ USD. Dragon Capital đang quản lý khoảng 1,5 tỷ USD, kế đến là VinaCapital với gần 1,3 tỷ USD và Indochina Capital gần 1 tỷ USD. Ngoài ra còn các quỹ đầu tư khác với số vốn không hề nhỏ: VEIL (190 triệu USD) và VGF (90 triệu USD) cũng đã đi vào hoạt động. Không hề kém cạnh, Mekong Capital cũng đẩy mạnh đầu tư với số vốn 18.5 triệu USD của Mekong Enterprise Fund vào các doanh nghiệp cổ phần. Thêm vào đó, các NĐT tầm cỡ như Merrill Lynch, Morgan Stanley, Goldman Sachs, JP Morgan Chase bước đầu có những hoạt động khảo sát, tìm hiểu thị trường Việt Nam. Sự xuất hiện ngày càng nhiều của các quỹ đầu tư nước ngoài đã làm tăng Page 28 of 42 thêm niềm tin của các NĐT vào khả năng phát triển mạnh mẽ của TTCK Việt Nam trong thời gian tới. 2. TÁC ĐỘNG Về sự ảnh hưởng của các quỹ đầu tư, đặc biệt là các quỹ đầu tư 100% vốn nước ngoài đến TTCK Việt Nam. Cũng có nhiều ý kiến cho rằng các quỹ đầu tư nước ngoài với tiềm lực vượt trội về vốn, kinh nghiệm, kiến thức, và cả thủ đoạn đang lũng đoạn TTCK Việt Nam theo chiều hướng có lợi cho họ. Tuy nhiên, theo nhiều chuyên gia chứng khoán, những ý kiến nêu trên là chưa xác đáng bởi những lý do sau đây: Thứ nhất, xét về quy mô của các quỹ, cho dù họ có lớn đến thế nào chăng nữa nhưng tổng cộng lại, họ không thể nắm giữ quá tỷ lệ sở hữu theo quy định hiện hành (hạn mức thường là 30% tổng số cổ phiếu của một doanh nghiệp). Với tỷ lệ nắm giữ không phải là chi phối như vậy thì không thể kết luận một cách chắc chắn rằng TTCK Việt Nam đang nằm trong tay của các quỹ đầu tư nước ngoài. Thứ hai, các quỹ nước ngoài chỉ có thể lũng đoạn thị trường được một khi họ liên kết ngầm với nhau tạo thành một lực lượng thống nhất đủ sức mạnh để thông đồng làm giá theo hướng có lợi cho họ mặc dù điều này dường như là không tưởng. Thực tế, đánh giá một cách chính xác ảnh hưởng của các quỹ đầu tư nước ngoài đối với TTCK hiện tại là điều chưa thể thực hiện bởi chưa có số liệu chính xác về số lượng và giá trị cổ phiếu mà họ sở hữu. Với cổ phiếu trên sàn, một cái nhìn bao quát cho thấy tỷ lệ cổ phiếu do các quỹ đầu tư nắm giữ là không nhỏ, phần nhiều đều được sở hữu từ 20 - 49%. Như vậy, ảnh hưởng của các quỹ đến cổ phiếu niêm yết là không thể phủ định. Nhiều phiên, sự mua vào bán ra của các quỹ đã quyết định chiều hướng lên, xuống của thị trường. Tuy nhiên, trước mắt, phần lớn các quỹ đều tuyên bố họ đầu tư lâu dài và cam kết nắm giữ cổ phiếu trong một thời gian nhất định với các doanh nghiệp mà họ sở hữu trên 10% cổ phần. Page 29 of 42 Trong tương lai, việc chuyển nhượng sẽ còn phổ biến hơn nữa do hàng hóa trong và ngoài sàn sẽ ngày càng đa dạng và các quỹ có cơ hội thay đổi danh mục đầu tư, hướng đến các doanh nghiệp quy mô lớn và hiệu quả. 3. MỘT SỐ QUỸ ĐẦU TƯ TẠI VIỆT NAM Công ty quản lý quỹ Cấp phép Quỹ Vốn điều lệ Cty liên doanh quản lý quỹ đầu tư chứng khoán Việt Nam 15/07/2003 100 tỷ VF1 500 tỷ VF2 33,35 tỷ Cty cổ phần quản lý quỹ đầu tư Thành Việt 10/11/2004 88 tỷ SFA1 Cty TNHH quản lý quỹ đầu tư Prudential Việt Nam 26/5/2005 23 tỷ PRUBF 1 500 tỷ Cty TNHH quản lý quỹ Manulife Việt Nam 14/6/2005 26 tỷ Manulif eF 214 tỷ Cty TNHH quản lý quỹ đầu tư chứng khoán Bảo Việt 08/11/2005 25 tỷ Cty liên doanh quản lý quỹ đầu tư chứng khoán Vietcombank 02/12/2005 8 tỷ VPF1 200 tỷ Cty cổ phần quản lý quỹ đầu tư chứng khoán Hà Nội 16/11/2007 25 tỷ Cty Cổ phần quản lý quỹ đầu tư chứng khoán Bản Việt 25/10/2006 94 tỷ Page 30 of 42 Cty liên doanh quản lý quỹ đầu tư BIDV - VIETNAM PARTNERS 06/01/2006 32 tỷ VIF 1600 tỷ Cty TNHH liên doanh quản lý quỹ đầu tư chứng khoán AGRIBANK – VGFM 21/12/2006 16 tỷ Cty Cổ phần quản lý quỹ đầu tư chứng khoán Việt Long 22/12/2006 40 tỷ Cty TNHH quản lý quỹ đầu tư chứng khoán Bông Sen 27/12/2006 5 tỷ Cty cổ phần quản lý quỹ đầu tư chứng khoán An Bình 28/12/2006 30 tỷ Cty cổ phần quản lý quỹ đầu tư Anpha 28/12/2006 10 tỷ Cty cổ phần quản lý quỹ đầu tư chứng khoán Phương Đông 28/12/2006 6,8 tỷ Cty cổ phần quản lý quỹ đầu tư chứng khoán An Phúc 28/12/2006 8,1 tỷ Cty cổ phần quản lý quỹ đầu tư chứng khoán Hải Phòng 29/12/2006 11 tỷ Cty cổ phần quản lý quỹ đầu tư chứng khoán An Phú 29/12/2006 8 tỷ Cty TNHH quản lý quỹ SSI 03/8/2007 30 tỷ Cty cổ phần quản lý quỹ đầu tư FPT 25/7/2007 110 tỷ Cty TNHH quản lý quỹ đầu tư chứng khoán Đông Á 24/9/2007 30 tỷ Cty cổ phần quản lý quỹ Lộc Việt 06/11/2007 25 tỷ Cty cổ phần quản lý quỹ Sabeco 16/11/2007 25 tỷ (Theo Ủy ban Chứng khoán Nhà nước) Page 31 of 42 III. CÔNG TY CHỨNG KHOÁN TẠI VIỆT NAM 1. TÌNH HÌNH Thị trường chứng khoán Việt Nam chính thức đi vào hoạt động từ tháng 7 năn 2000, tính đến nay Ủy Ban Chứng Khoán Nhà nước đã cấp phép hoạt động kinh doanh chứng khoán cho 102 công ty. Đa số các CTCK được cấp phép 4 nghiệp vụ môi giới chứng khoán, tư vấn đầu tư chứng khoán, tự doanh chứng khoán và bảo lãnh phát hành chứng khoán, ngoài ra các công ty còn thực hiện một số hoạt động kinh doanh khác như : Lưu ký chứng khoán, cầm cố chứng khoán, repo chứng khoán, dịch vụ thị trường vốn, dịch vụ thị trường nợ, quản lý tài sản, tư vấn phát hành trái phiếu doanh nghiệp. Năm năm đầu (2001-2005), các công ty niêm yết lên sàn chứng khoán vẫn còn nhỏ lẻ chập chững Năm 2005 , thị trường đã đón nhận thêm 6 công ty mới (tổng giá trị niêm yết 333 tỷ đồng); Có nhiều công ty bắt đầu thực hiện phát hành ra công chúng để huy động vốn. Điều này cho thấy, các công ty đã bắt đầu nhận thấy lợi ích của việc huy động vốn qua kênh TTCK, đồng thời cũng phản ánh những diễn biến tích cực của thị trường, tạo thuận lợi cho việc huy động vốn. Tính hết 2005, có khoảng 29.000 tài khoản cá nhân và tổ chức mở tại các công ty CK. 4 /13 công ty CK đã tiến hành tăng vốn điều lệ trong năm 2005 với tổng số vốn tăng thêm là 140 tỷ đồng cho thấy nhu cầu mở rộng quy mô hoạt động cũng như tăng cường tiềm lực tài chính của chính các tổ chức trung gian trên của thị trường. Trong khi đó, nhà đầu tư nước ngoài (ĐTNN) vẫn rất quan tâm tới TTCK Việt Nam thể hiện qua tỷ lệ nắm giữ cổ phiếu của họ trong các công ty niêm yết vẫn tăng dần... Tháng 9.2006: Ủy ban chứng khoán Nhà nước cấp phép mở văn phòng đại diện tại VN cho 3 tổ chức kinh doanh chứng khoán gồm Nomura International (Hong Kong), Blackhorse Asset (Singapore) và Mirae Asset Maps Investment (Hàn Quốc). Cuối năm 2006, có 35 công ty chứng khoán được cấp giấy phép. Trong số này, có 9 công ty được phép thực hiện tất cả năm nghiệp vụ chứng khoán: môi giới, lưu ký, tư vấn đầu tư và bảo lãnh phát hành, quản lý quỹ và tự doanh. Vốn điều lệ tối thiểu bắt buộc để Page 32 of 42 công ty được phép thực hiện cả năm nghiệp vụ như vậy là 43 tỷ đồng. Theo Luật Chứng khoán có hiệu lực từ ngày 1 tháng 1 năm 2007, mức vốn điều lệ tối thiểu đó là 200 tỷ đồng; các công ty đã được cấp phép hoạt động trước đó được gia hạn một thời gian để tăng vốn cho đủ mức quy định. Năm 2007: Ủy ban Chứng khoán Nhà nước (UBCKNN) đã cấp phép hoạt động kinh doanh chứng khoán cho 61 công ty, với tổng số vốn điều lệ đạt 5.735 tỷ đồng. Trong đó, có 43 công ty được cấp phép 4 nghiệp vụ môi giới chứng khoán, tư vấn đầu tư chứng khoán, tự doanh chứng khoán và bảo lãnh phát hành chứng khoán. Số tài khoản giao dịch chứng khoán tại các CTCK đạt 255.185 tài khoản , tổng giá trị giao dịch chứng khoán của nhà đầu tư trong tháng 6/2007 qua các CTCK đạt 25.196 tỷ đồng Trong quá trình hoạt động, các CTCK luôn đẩy mạnh việc phát triển mạng lưới, tính đến hết ngày 30/6/2007, ngoài 56 trụ sở chính, mạng lưới hoạt động của các công ty gồm 25 chi nhánh, 14 phòng giao dịch, 24 đại lý nhận lệnh (so với mạng lưới gồm 12 chi nhánh, 9 phòng giao dịch và 13 đại lý nhận lệnh tại thời điểm 31/12/2006). Cùng với việc mở rộng chi nhánh, hoàn thiện bộ máy tổ chức, nhiều CTCK đã thực hiện tăng vốn điều lệ nhằm nâng cao năng lực tài chính và đáp ứng quy định vốn pháp định theo yêu cầu của Nghị định 14 hướng dẫn Luật Chứng khoán. Mặc dù vậy, do tỷ lệ người dân Việt Nam tham gia đầu tư chứng khoán vẫn còn rất nhỏ, nên việc số lượng các CTCK gia tăng nhanh trong một khoảng thời gian khá ngắn đã dẫn đến một số công ty gặp nhiều khó khăn trong hoạt động kinh doanh. Với khả năng tài chính và kinh nghiệm còn hạn chế, vì mục tiêu lợi nhuận của mình một số CTCK đã sử dụng những biện pháp cạnh tranh không lành mạnh, gây ra những ảnh hưởng xấu đến sự phát triển chung của thị trường, tạo tâm lý lo ngại cho các nhà đầu tư. Trên thực tế, với số lượng trên 60 CTCK được cấp phép và đi vào hoạt động nhưng phải chia nhau một thị trường quá nhỏ chỉ với trên dưới 250.000 khách hàng (là các nhà đầu tư, tổ chức và cá nhân, trong khi đó các CTCK lớn và hoạt động lâu năm như SSI, VCBS, ACBS, BCVS, SBS... đã thâu tóm khoảng 85% lượng khách hàng, những CTCK mới và quy mô vốn nhỏ phải chật vật chia nhau 15% thị phần còn Page 33 of 42 lại (chưa kể số CTCK mới đang nộp hồ sơ chờ cấp phép tại UBCKNN). Nhiều CTCK đã phải bỏ ra hàng chục tỷ đồng để mua sắm trang thiết bị, thuê mặt bằng... nhưng thực tế hoạt động trong thời gian này số lượng khách hàng đến đầu tư không đáng kể, khiến nhiều CTCK bị thâm hụt vốn sở hữu. Năm 2008: cùng với VN-Index đã giảm 66% và HASTC-Index giảm 67,5%, hoạt động của các công ty chứng khoán đã suy giảm, gặp nhiều khó khăn và có nhiều trường hợp thua lỗ lớn đến mức nghĩ đến việc giải tán hoặc tuyên bố phá sản. Mức vốn hóa thị trường vào cuối năm 2008 của 338 công ty niêm yết là 225.000 tỉ đồng, chiếm khoảng 17,5% GDP 2008. Tổng vốn huy động qua thị trường chứng khoán, kể cả qua phát hành tăng vốn, huy động trái phiếu, trong năm 2008 ước tính khoảng 29.000 tỉ đồng, bằng khoảng 23% mức vốn huy động của năm 2007 (năm 2007 vốn huy động là 127.000 tỉ đồng). Năm 2008, UBCKNN cấp phép cho 101 đợt phát hành nhưng tỉ lệ thành công chỉ khoảng 55% so với lượng thực hiện. Theo kết quả kinh doanh của một số công ty chứng khoán mới công bố nhiều công ty chứng khoán đã thua lỗ lớn trong năm 2008. Tính đến thời điểm tháng 12/2008, giá trị danh mục của nhà đầu tư nước ngoài trên thị trường chứng khoán Việt Nam khoảng 4,6 tỉ USD. Nếu so với thời điểm đầu năm 2008 (thời điểm giá trị danh mục đầu tư lớn nhất) giá trị danh mục của nhà đầu tư nước ngoài giảm gần 4 tỉ USD. Trước tình cảnh khó khăn và thua lỗ trong hoạt động kinh doanh, nhiều công ty chứng khoán đã Page 34 of 42 thực hiện các biện pháp cắt giảm nhân sự, đặc biệt là tìm các đối tác nước ngoài nhằm thu hút nguồn tài chính vững mạnh và tạo ra cơ sở khách hàng ổn định. Năm 2009: Với những khó khăn các công ty chứng khoán Việt Nam đã gặp phải trong năm 2008 và được dự báo sẽ khó khăn hơn trong năm 2009, nên một số nhà phân tích cho rằng xu hướng bán cổ phần cho các đối tác chiến lược nước ngoài sẽ mạnh mẽ hơn trong năm 2009. Page 35 of 42 2. CAM KẾT CỦA VIỆT NAM TRONG LĨNH VỰC CHỨNG KHOÁN Chứng khoán là một lĩnh vực mới mẻ ở Việt Nam. Luật Chứng khoán được Quốc hội thông qua năm 2006 và có hiệu lực từ 1/1/2007. Những cam kết của Việt Nam trong WTO phù hợp với Luật Chứng khoán được ban hành. Các cam kết về dịch vụ chứng khoán Trong 6 hình thức cung cấp dịch vụ chứng khoán qua biên giới, Việt Nam chỉ cam kết có 2 dịch vụ cung cấp tin tài chính và các dịch vụ tư vấn phụ trợ. Sau 5 năm kể từ khi Việt Nam gia nhập WTO, các nhà cung cấp dịch vụ chứng khoán nước ngoài sẽ được thành lập chi nhánh ở những loại hình như cung cấp dịch vụ quản lý tài sản như quản lý danh mục đầu tư, quản lý quỹ hưu trí, các dịch vụ lưu ký và tín thác; dịch vụ tư vấn, trung gian và các dịch vụ phụ trợ liên quan đến chứng khoán, bao gồm tư vấn và nghiên cứu đầu tư, danh mục đầu tư, tư vấn về mua lại công ty, lập chiến lược và cơ cấu lại công ty. Còn trước mắt, ngay khi Việt Nam gia nhập WTO, các nhà cung cấp dịch vụ chứng khoán nước ngoài chỉ được phép được thành lập văn phòng đại diện và công ty liên doanh với đối tác Việt Nam. Và tỷ lệ vốn góp của phía nước ngoài trong liên doanh đó không vượt quá 49%. Việt Nam cũng cam kết sẽ không hạn chế việc tiêu dùng dịch vụ chứng khoán ở nước ngoài. Như vậy, thời điểm quan trọng nhất đối với thị trường chứng khoán (TTCK) Việt Nam sẽ đến trong ít nhất 5 năm tới, khi Việt Nam cho phép thành lập các công ty chứng khoán 100% vốn nước ngoài. Đây sẽ là một áp lực cạnh tranh lớn đối với các công ty chứng khoán trong nước. Cơ hội và thách thức của dịch vụ chứng khoán Page 36 of 42 TTCK Việt Nam được đánh giá là đang ở giai đoạn đầu của sự phát triển. Đây cũng là thời điểm nở rộ các công ty chứng khoán thành lập mới trong nước. Quãng thời gian 5 năm còn lại được đánh giá là bước đệm cần thiết để công ty chứng khoán nội địa hoàn thiện hơn và chuẩn bị tốt hơn cho cuộc hội nhập thực sự. Liên quan đến bước đệm trên, nhiều công ty chứng khoán nước ngoài cũng đã bắt đầu đến Việt Nam bằng việc thành lập các văn phòng đại diện, xây dựng vốn kinh nghiệm và nắm bắt thị trường để sẵn sàng nhập cuộc ngay một khi rào cản được xóa bỏ. Nhờ có sự tham gia thị trường của các công ty chứng khoán, công ty quản lý quĩ có vốn đầu tư nước ngoài và các chi nhánh sẽ làm thị trường sôi động hơn. Bên cạnh đó, việc tham gia ngày càng nhiều của các công ty chứng khoán nước ngoài với vai trò là định chế trung gian trên thị trường cũng sẽ góp phần thúc đẩy sự phát triển của TTCK. Đồng thời tạo điều kiện tăng cường trao đổi kiến thức và kỹ năng chuyên ngành, góp phần thúc đẩy năng lực cạnh tranh của các công ty chứng khoán trong nước. Sức ép cạnh tranh lớn hơn buộc các công ty chứng khoán trong nước phải chủ động điều chỉnh mô hình và chính sách quản lý, đào tạo nhân viên, ứng dụng công nghệ thông tin nhằm tạo lợi thế với các công ty nước ngoài. Tuy nhiên, các công ty chứng khoán trong nước còn non trẻ cả về nghiệp vụ chứng khoán, kinh nghiệm, khả năng cạnh tranh chưa được kiểm chứng và tiềm lực tài chính hạn chế sẽ phải đối đầu với thách thức lớn; trong đó, môi giới chứng khoán, một trong những nghiệp vụ cơ bản nhất của các công ty chứng khoán, là lĩnh vực xảy ra sự cạnh tranh mạnh nhất và sớm nhất. Để có thể cạnh tranh được với các công ty chứng khoán nước ngoài trong vòng 5 năm tới, các công ty chứng khoán trong nước sẽ phải tập trung khắc phục 5 điểm yếu sau: Tiềm lực tài chính, qui mô và khả năng bổ sung tài chính của các công ty chứng khoán trong nước còn hạn chế; Nghiệp vụ chứng khoán của các công ty chứng khoán trong nước vẫn còn yếu, họat động chủ yếu tập trung vào dịch vụ tư vấn đầu tư, tài chính và môi giới chứng khoán; mức độ ứng dụng công nghệ thông tin hạn chế; và chất lượng nguồn nhân lực còn thấp, đạo đức nghề nghiệp chưa được xác lập rõ ràng. Page 37 of 42 IV.NHÀ ĐẦU TƯ NHỎ Là các nhà đầu tư cá nhân, những người mua một lượng nhỏ các cổ phần, trái phiếu thường là các lượng không tròn lô, còn được gọi là nhà đầu tư lẻ. Thị trường chứng khoán sôi động Việt Nam đã có sự điều chỉnh cần thiết. Các nhà đầu tư lẻ đã bắt được mạch khi thị trường đang dần hình thành một văn hóa chứng khoán. Thị trường chứng khoán sôi sục của Việt Nam đã dịu bớt phần nào trong giai đoạn này. Tình trạng giảm giá đã cho đại đa số nhà đầu tư lẻ thấy giá cả chứng khoán có lên thì cũng có xuống, đúng như mong đợi của các chuyên gia tài chính. Quỹ Tiền tệ quốc tế đã từng cảnh báo Chính phủ Việt Nam rằng thị trường chứng khoán đã phát triển quá nóng - 20 công ty đứng đầu, chiếm 99% thị trường vốn, đạt tỷ lệ giá thu nhập trên cổ phần là 73, báo hiệu một thị trường đầu cơ lớn. Cơ quan này cũng cảnh báo, sự sụp đổ của thị trường chứng khoán có thể đánh mạnh vào các ngân hàng nội địa và dẫn đến việc vốn nước ngoài tràn ra, làm trầm trọng thêm tình trạng thâm hụt của đất nước. Việt Nam đã bắt được mạch của thị trường chứng khoán trong hai năm qua, với hàng chục nghìn nhà đầu tư tham gia giao dịch thị trường chứng khoán và có lẽ hơn hàng trăm nghìn giao dịch qua Internet. Những giao dịch kiểu cá nhân như vậy gần giống cách người ta bán hàng trên mạng eBay hoặc Craigslist tại Mỹ. Mặc dù gọi là chợ đen nhưng thị trường OTC cũng tương đối nhiều màu sắc, với việc cổ phần giao dịch bằng tiền mặt tại các hàng trà nhắc lại hình ảnh về các quán cà phê sản sinh ra thị trường chứng khoán châu Âu. Page 38 of 42 Phần 4: NÂNG CAO HIỆU QUẢ ĐẦU TƯ GIÁN TIẾP TẠI VIỆT NAM RÀO CẢN VÀ GIẢI PHÁP ---o0o--- 4.1 CÁC RÀO CẢN 4.1.1 Rào cản về luật lệ, chính sách - Việt Nam đang trong quá trình hội nhập, doanh nghiệp đang trong quá trình đổi mới, hệ thống pháp lý và các quy phạm chưa hoàn thiện, còn thiếu và không đồng bộ. Luật Chứng khoán tới đầu năm 2007 mới có hiệu lực. Mặc dù Luật Đầu tư, Luật Doanh nghiệp mới được ban hành trong năm 2006 nhưng chưa thể đi vào vận hành ngay vì thiếu hệ thống nghị định, thông tư hướng dẫn. Luật không quy định được vấn đề chi tiết nên phải chờ các văn bản hướng dẫn của các bộ, ban, ngành. - Chưa có chính sách thu hút vốn và quản lý đầu tư gián tiếp nước ngoài hiệu quả. Sau cuộc khủng hoảng tài chính khu vực, các tác động tiêu cực của dòng vốn đầu tư gián tiếp chưa được phân tích, đánh giá đúng vai trò, tiềm năng của nó. Do đó, các nhà hoạch định chính sách còn khá e ngại trước dòng vốn đầu tư gián tiếp biểu hiện thông qua sự phân biệt đối xử, và các quy định nhằm hạn chế ngành nghề, và tỷ lệ cổ phần của các nhà đầu tư nước ngoài trong doanh nghiệp Việt Nam. - Khả năng quản trị doanh nghiệp của các công ty còn thấp, một số tiêu chí đánh giá chưa theo chuẩn quốc tế, hệ thống kế toán kiểm toán còn nhiều bất cập, hệ thống thông tin còn thiếu và yếu, các báo cáo tài chính doanh nghiệp chưa trung thực… là hàng loạt nguyên nhân dẫn đến thị trường tài chính không minh bạch. Đối với các nhà đầu tư nước ngoài chuyên nghiệp thì đầu tư vào thị trường tài chính không minh bạch sẽ là một quyết định không khôn ngoan. - Chế độ tỷ giá hối đoái còn cứng nhắc, thiếu linh hoạt. Thực tiễn đã cho thấy chế độ tỷ giá cố định, cứng nhắc kéo dài là không phù hợp, không có lợi cho quốc gia chủ nhà trong bối cảnh có sự gia tăng dòng vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài. Page 39 of 42 - Cơ chế quản lý, giám sát bảo đảm cạnh tranh lành mạnh và sự an toàn thị trường còn kém 4.1.2 Rào cản thị trường - Quy mô thị trường còn nhỏ bé, tính thanh khoản yếu. Tiến trình cổ phần hóa các doanh nghiệp còn chậm (khoảng 8% các doanh nghiệp trong tổng số các doanh nghiệp nhà nước phải cơ cấu lại), quy mô của các doanh nghiệp nhỏ. Các doanh nghiệp cổ phần hóa phần lớn chưa niêm yết trên thị trường chứng khoán. - Quy mô và chất lượng các sản phẩm thị trường tài chính Việt Nam còn hạn chế. Đây là nguyên nhân cơ bản khiến các quỹ đầu tư chưa thật nhiều và chưa tương xứng với tiềm năng thị trường. - Hoạt động thông tin tuyên truyền, xúc tiến thu hút vốn đầu tư gián tiếp tại Việt nam chưa được chú trọng, nhà đầu tư chưa có nhiều thông tin, hiểu biết về thị trường tài chính Việt nam. - Việt nam chưa có trung tâm tài chính lớn mang tầm cỡ khu vực. 4.1.3 Rào cản khác - Nguồn nhân lực có kiến thức, kỹ năng, kinh nghiệm cho thị trường còn nhiều hạn chế. - Thiếu công cụ hỗ trợ quan trọng: xếp hạng tín nhiệm. Việt Nam đang trên đà tăng trưởng mạnh mẽ cộng với nhu cầu về vốn cho đầu tư và phát triển trong giai đoạn tới, cần phải coi định mức tín nhiệm như một công cụ hỗ trợ đầu tư, góp phần tăng cường tính minh bạch, chất lượng của các công ty trong nước cũng như mức độ tín nhiệm quốc gia của Việt Nam trong con mắt các nhà đầu tư quốc tế. 4.2 CÁC NHÓM GIẢI PHÁP 4.2.1 Nhóm giải pháp về luật lệ, chính sách - Tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp lý, khuôn khổ quản lý thị trường theo hướng thống nhất, đồng bộ, minh bạch nhằm hướng đến mục tiêu tự do hóa dòng vốn đầu tư đồng thời bảo vệ cho quyền lợi của nhà đầu tư. Các nhà đầu tư nói chung rất e ngại khi đầu tư vào Page 40 of 42 những nước có hệ thống luật pháp còn yếu, có nền tài chính không minh bạch và đồng bộ. Họ đặc biệt quan tâm đến những chính sách quản lý của Nhà nước, hệ thống luật pháp và tính ổn định của nó bao gồm chính sách về thuế (thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế suất áp dụng cho các quỹ đầu tư), quản lý ngoại hối, luật điều chỉnh đầu tư gián tiếp nước ngoài, luật về thị trường chứng khoán…. - Từng bước nâng cao tỷ lệ tham gia của bên nước ngoài trong các doanh nghiệp Việt Nam thông qua việc tăng tỷ lệ sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài, đối với ngành ngề không trọng yếu, liên quan trực tiếp đến an ninh quốc gia thì không cần phải giới hạn tỷ lệ này; thu hẹp đối tượng ngành nghề Nhà nước cần nắm giữ 100% vốn hoặc nắm giữ cổ phần chi phối. - Xây dựng, triển khai áp dụng các chuẩn mực quốc tế về quản lý và điều hành doanh nghiệp và quản lý Nhà nước. Nâng cao nhận thức và xây dựng cơ chế bắt buộc các doanh nghiệp phải áp dụng các chuẩn mục quản trị và điều hành, các bộ đạo đức nghề nghiệp theo thông lệ quốc tế. Cũng cần phải có những cơ chế để đảm bảo sự thực thi của các quy định này. Bản thân các quỹ đầu tư, công ty quản lý quỹ cũng phải tuân thủ các quy định này. Chính phủ đang có những biện pháp để khuyến khích các doanh nghiệp chuẩn bị và tiến hành công bố thông tin theo các tiêu chuẩn chất lượng cao về kế toán cũng như công bố các thông tin tài chính và phi tài chính. Đây cũng là một tín hiệu đáng mừng nhằm tăng cường tính minh bạch trong các hoạt động kinh doanh, đầu tư của các doanh nghiệp Việt Nam, tăng tính hấp dẫn của các doanh nghiệp này trong con mắt nhà đầu tư nước ngoài. - Tiếp tục thực hiện chính sách tự do hóa tài khoản vãng lai để tạo điều kiện thu hút nguồn từ nước ngoài và tạo điều kiện thuận lợi cho việc chuyển các nguồn thu nhập hợp pháp của các nhà đầu tư nước ngoài ra nước ngoài. Ở đây hệ thống ngân hàng đóng vai trò rất quan trọng trong việc kiểm soát các giao dịch của tài khoản vốn. Page 41 of 42 - Tăng cường an ninh của hệ thống tài chính, thực hiện kiểm soát các dòng vốn khi cần thiết. Tăng cường phối hợp giữa chính sách tiền tệ, chính sách tài khoá và chính sách thu hút vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài; đảm bảo sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan ngân hàng - tài chính - chứng khoán trong việc quản lý các dòng vốn nhằm đảm bảo sự an toàn, vững chắc và lành mạnh của hệ thống tài chính. 4.2.2 Nhóm giải pháp về phát triển thị trường - Phát triển quy mô thị trường niêm yết: tích cực đẩy mạnh công tác tạo hàng, khuyến khích các doanh nghiệp đủ điều kiện và có tiềm năng phát triển lên niêm yết tại các trung tâm giao dịch chứng khoán. Đẩy mạnh tiến độ cổ phần hóa và xây dựng cơ chế, tạo điều kiện hỗ trợ các doanh nghiệp vừa và nhỏ phát triển; mục đích nhằm thu hút nguồn vốn đầu tư từ các quỹ mạo hiểm, vốn tư nhân nước ngoài. - Đa dạng hóa và nâng cao chất lượng các sản phẩm tài chính nhằm thu hút hơn nữa sự quan tâm của các nhà đầu tư. - Đầu tư cho việc tiếp thị, quảng bá hình ảnh đất nước và môi trường đầu tư của Việt Nam trong bối cảnh cạnh tranh thu hút vốn đầu tư nước ngoài với các nước trong khu vực đang ngày càng khốc liệt. Bên cạnh đó, Nhà nước cần sớm hình thành các khuôn khổ pháp lý để doanh nghiệp Việt Nam có thể chủ động ra nước ngoài tiếp thị xuất khẩu vốn thông qua các hình thức niêm yết cổ phiếu ở nước ngoài. - Xây dựng được trung tâm tài chính lớn mang tầm cỡ khu vực. Hiện tại, Hà Nội đã có đề án xây dựng "Trung tâm Tài chính - Ngân hàng Hà Nội" nhằm mục tiêu đến năm 2010, Hà Nội sẽ có một trung tâm tài chính - ngân hàng thuộc loại hàng đầu khu vực. Đó sẽ là nơi hội tụ các tổ chức tài chính ngân hàng và phi ngân hàng lớn, có tầm cỡ quốc gia và quốc tế, nhằm phát triển một mạng lưới hạ tầng tài chính toàn diện, hiện đại trên quy mô lớn để nâng cao năng lực cạnh tranh và tầm vóc thị trường tài chính Việt Nam trong phạm vi khu vực và quốc tế; phục vụ hiệu quả nhiệm vụ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước trong thời kỳ đổi mới và từng bước hội nhập quốc tế. Page 42 of 42 4.2.3 Nhóm giải pháp khác - Tăng cường hoạt động đào tạo nguồn nhân lực tài chính trong nước (bao gồm cán bộ lãnh đạo, doanh nghiệp, nhà đầu tư chuyên nghiệp và không chuyên) để tăng kiến thức, kỹ năng, kinh nghiệm tiếp nhận, giải quyết và ứng xử với các tình huống có thể xảy ra trong quá trình thu hút, tham gia và quản lý dònh vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài. - Xếp hạng tín nhiệm để thu hút đầu tư, đây là công cụ hỗ trợ hết sức cần thiết trong bối cảnh kinh tế Việt nam, nó góp phần tăng cường tính minh bạch, chất lượng của các công ty trong nước cũng như mức độ tín nhiệm quốc gia của Việt nam trong con mắt các nhà đầu tư quốc tế. KẾT LUẬN Vai trò to lớn của các dòng vốn đầu tư nước ngoài, trong đó có dòng vốn đầu tư gián tiếp là không thể phủ nhận, đặc biệt đối với các quốc gia đang phát triển như Việt nam. Trong bối cảnh mới, khi Việt nam đã là thành viên chính thức của WTO, và đang trên lộ trình thực hiện các cam kết khi gia nhập tổ chức này. Từ đây mở ra những vận hội mới kèm theo những thách thức mới cho Việt nam trong việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Chính vì vậy việc làm sao để có thể tận dụng tối đa các vận hội mới, b iến nó thành sức mạnh, đồng thời đối phó với các thách thức theo cách khôn ngoan nhất là vấn đề cần được quan tâm. Trên đây là những tìm hiểu về tình hình thu hút vốn đầu tư gián tiếp tại Việt nam, cũng như toàn cảnh thị trường chứng khoán Việt nam hiện nay, trên cơ sở đó nhóm đưa ra những giải pháp, kiến nghị để nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư gián tiếp tại Việt nam, một nguồn vốn đang có một ý nghĩa ngày càng to lớn. Mong rằng với việc thực hiện đồng bộ các giải pháp sẽ giúp cho Việt nam trong thời gian tới sẽ trở thành một môi trường đầu tư gián tiếp cực kỳ hấp dẫn đối với các nhà đầu tư, và Việt nam có thể thu hút và hấp thụ tốt lượng vốn đầu tư lớn phục vụ cho sự nghiệp Công nghiệp hóa – Hiện đại hóa đất nước.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfdau_tu_quoc_te_gian_tiep_nhom_10_6493.pdf
Luận văn liên quan