Tiểu luận Điều kiện ra đời và bước ngoặt cách mạng trong triết học mác

Qua phần trình bày trên chúng ta có thể rút ra một số điều cơ bản như sau: Việc sáng lập ra chủ nghĩa duy vật biện chứng và mối quan hệ của nó là những thành tựu vĩ đại của nó. Từ sự việc này, Mác đã giải quyết vấn đề triệt để cơ bản của triế t học trên cơ sở thực tiễn, thể hiện thế giới quan của giai cấp vô sản, t ạo nên tính thống nhất cách mạng với khoa học, thay đổi cơ bản hệ thống triết học. Để thực hiện điều này, C.Mác và Ăngghen đã kế thừa những tinh hoa của triết học thế giới, đồng thời tạo ra những bước ngoặt vĩ đại, sáng lập ra một trường phái triết học tiên tiến làm kim chỉ nam cho phong trào công nhân thế giới, thực hiện sứ mạng lịch sử của giai cấp công nhân. Chủ nghĩa Mác xem hệ thống triết học của mình là một hệ thống mở, luôn luôn đòi hỏi phải được bổ sung, đổi mới và phát triển, kiên quyết chống lại mọi biểu hiện của chủ nghĩa giáo điều.

pdf22 trang | Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 4263 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Điều kiện ra đời và bước ngoặt cách mạng trong triết học mác, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tiểu luận Điều kiện ra đời và bước ngoặt cách mạng trong triết học mác 1 MỤC LỤC Trang phụ bìa A.Phần mở đầu: ........................................................................................... Trang 2 1. Lí do chọn đề tài ................................................................................ Trang 2 2. Đối tượng nghiên cứu đề tài ................................................................ Trang 3 3. Phương pháp nghiên cứu .................................................................... Trang 3 B.Phần nội dung: ......................................................................................... Trang 3 Chương 1: NHỮNG TIỀN ĐỀ XUẤT HIỆN CHỦ NGHĨA MÁC ........... Trang 3 1.1: Tiền đề kinh tế xã hội ........................................................................ Trang 4 1.2: Tiền đề l‎ý luận .................................................................................. Trang 5 1.3: Tiền đề khoa học tự nhiên ................................................................. Trang 7 Chương 2; NHỮNG BƯỚC NGOẶT CÁCH MẠNG TRONG TRIẾT HỌC CỦA CHỦ NGHĨA MÁC ............................................................................ Trang 8 2.1 Tiểu sử của C.Mác và Ph.Ăngghen ..................................................... Trang 9 2.1.1 Tiểu sử của C.Mác ..................................................................... Trang 9 2.1.2 Tiểu sử của Ph.Ănghgen .......................................................... Trang 10 2.2 Thực chất của bước ngoặt cách mạng do Mác và Ăngghen thực hiện Trang 10 2.2.1 Khái quát quá trình dẫn đến hình thành chủ nghĩa DVBC .............. Trang 10 2.2.2 Triết học Mác ra đời làm cho chủ nghĩa duy vật và phép biện chứng thống nhất chặt chẽ .................................................................................... Trang 13 2.2.3 Thống nhất giữa lí luận và thực tiễn ......................................... Trang 14 2.2.4 Sự sáng tạo ra chủ nghĩa duy vật lịch sử .................................. Trang 15 2.2.5 Thống nhất giữa tính khoa học và tính cách mạng .................... Trang 16 2.2.6 Những thay đổi căn bản về tính chất, đối tượng và mối quan hệ của Triết học với các ngành khoa học khác ........................................................ Trang 17 2.3 Vai trò của Triết học Mác đối với sự đổi mới ở nước ta ..................... Trang 18 C. Phần kết luận ........................................................................................ Trang 19 TÀI LIỆU THAM KHẢO ......................................................................... Trang 21 2 A.Phần mở đầu: 1.Lí do chọn đề tài: Có thể nói tư duy khoa học lôgic và có biện chứng của con người là một yếu tố rất cần thiết và quan trọng đối với sự phát triển xã hội loài người nói chung. Tư duy ấy được đề cập đến ở nhiều ngành khoa học, một trong những ngành mà có thể khẳng định không thể thiếu trong tư duy suy nghĩ của con người đối với sự phát triển văn hóa, chính trị, kinh tế của bất kỳ xã hội nào quốc gia nào, đó là ngành khoa học triết học. Triết học ra đời cách đây đã lâu, nhưng có thể khẳng định, những thành tựu , những đóng góp, của nó đối với xã hội của nhân loại nói chung không dừng lại ở đó mà trong tương lai và sự phát triển ổn định về mọi mặt không thể không có ngành khoa học triết học được. Như vậy triết học là gì, và nó có khái niệm như thế nào? Ta nên đi tìm hiểu một số ý kiến trong các công trình nghiên cứu lớn. Triết học xuất hiện đầu tiên ở một số trung tâm văn minh cổ đại của nhân loại như Trung Quốc, Ấn Độ, Hy Lạp. Vì vậy, theo người Trung Quốc, triết học có ý nghĩa là Trí bao hàm sự hiểu biết, sự nhận thức sâu sắc của con người về thế giới. Theo tiếng Hy Lap, thuật ngữ triết học được cấu tạo bởi hai từ Philos và Sophia. Philos có nghĩa là tình bạn, tình yêu, là khát vọng để vươn tới. Còn Sophia là sự khôn ngoan, hiểu biết , là sự thông thái. Cho đến nay đã có rất nhiều cách định nghĩa khác nhau về triết học, nhưng những cách định nghĩa ấy, ít nhiều vẫn có những nội dung giống nhau là: Triết học nghiên cứu thế giới như một chỉnh thể và tìm cách đưa lại một hệ thống các quan niệm về chỉnh thể đó. Theo quan niệm của chủ nghĩa Mác- Lênin: Triết học là một hệ thống tri thức l‎ý luận chung nhất của con người, về vị trí vai trò của con người trong thế giới ấy. Lịch sử triết học đã trải qua nhiều thời kỳ và mỗi thời kỳ đều có những trường phái khác nhau cùng phát triển. Trường phái triết học càng về sau thì luôn phát triển và càng hoàn thiện hơn. Thực chất sự xuất hiện của triết học Mác là một 3 sản phẩm tất yếu của lịch sử, hợp quy luật, nó là kết tinh tất cả những giá trị cao qu‎ý của tư duy triết học, văn học, khoa học tự nhiên, lịch sử nhân loại. Lần đầu tiên trong lịch sử triết học, chủ nghĩa Mác tìm thấy vai trò to lớn của quần chúng bị áp bức, vai trò quan trọng của thực tiễn cách mạng, biến thành những động lực chủ yếu để thành công trong công cuộc cách mạng vô sản. Ngoài ra chủ nghĩa Mác còn gắn liền với hoàn cảnh lịch sử mới, với cuộc đấu tranh của nhân dân lao động và sự thay đổi cách mạng trên toàn thế giới, mang đến cho giai cấp vô sản và chính đảng của nó có một thế giới quan thực sự khoa học. 2. Đối tượng nghiên cứu đề tài: Từ khi ra đời, chủ nghĩa triết học Mác đã làm thay đổi nhận thức nhiều mặt trong xã hội, Từ kinh tế chính trị cho đến văn hóa. Bên cạnh đó con người nhận thức về thế giới, về xã hội, về con người, về tôn giáo cũng có ít nhiều đổi so với trước đây. Tất nhiên, việc tìm hiểu, phân tích, l‎ý giải, đưa vào thực tiễn của sống ở tất cả mọi lĩnh vực, mọi ngành nghề, có lẽ sẽ là công việc của rất nhiều người, ở những thời đại khác nhau. Trong khuôn khổ nhỏ của đề tài “Điều kiện ra đời và bước ngoặt cách mạng trong triết học mác”, một lần nữa người viết nhằm khẳng định tính tích cực của nó trong hoàn cảnh phức tạp của nước ta hiện nay. Cũng từ đó khẳng định, lập trường kiên định của cách mạng ta trong mọi hoàn cảnh. 3. Phương pháp nghiên cứu: Rất nhiều phương pháp nghiên cứu; như là sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu của triết học, phép biện chứng duy vật và phép biện chứng lịch sử, kết hợp với việc phân tích lôgic, qui nạp, diễn dịch, nhận định tổng hợp để làm sáng tỏ vấn đề. B. Phần nội dung: Chương 1: NHỮNG TIỀN ĐỀ XUẤT HIỆN CỦA CHỦ NGHĨA MÁC Để ra đời chủ nghĩa Mác hay bất kỳ những trường phái triết học nào thì cũng phải dựa trên những tiền đề khác nhau. Tất cả những biến động những thay 4 đổi trong xã hội ở từng chặng đường là cơ sở để ra đời chủ nghĩa Mác. Theo dòng trải của lịch sử, Triết học Mác ra đời là sản phẩm tất yếu của thời đại, dựa trên cơ sở những điều kiện lịch sử-xã hội nhất định cùng với những tiền đề lý luận và khoa học sau đây 1.1 Tiền đề về kinh tế xã hội: Triết học Mác ra đời vào những năm 40 của thế kỷ XIX, do Karx Marx (1818-1883) và Engels (1820 – 1895) xây dựng nên. Vào thời gian này ở các nước, Anh, Pháp, Đức, chủ nghĩa tư bản đã phát triển mạnh mẽ trên cơ sở nền sản xuất bằng cơ giới do cuộc cách mạng công nghệ tạo ra. Sự phát triển của chủ nghĩa tư bản cũng làm lộ rõ thêm mâu thuẫn cơ bản vốn có của nó, đó là mâu thuẫn giữa một bên là tính chất xã hội hóa và trình độ phát triển ngày càng cao của lực lượng sản xuất (LLSX) với một bên là quan hệ sản xuất (QHSX)Tư Bản chủ nghĩa ( TBCN ).Mâu thuẫn này được biểu hiện về mặt xã hội, đó là mâu thuẫn giữa giai cấp vô sản (GCVS) và giai cấp tư sản (GCTS). Đặc biệt khi giai cấp tư sản đã xác lập được sự thống trị chính trị của mình thì họ trở thành lực lượng bảo thủ làm cho mâu thuẫn giai cấp giữa GCVS và GCTS ngày càng gay gắt hơn. Do vậy ở thời kỳ này phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân phát triển mạnh mẽ và đã nổ ra những cuộc khởi nghĩa như: + Cuộc khởi nghĩa của công nhân ở Li-ông (Pháp) nổ ra năm (1831- 1834).Cuộc nổi dậy của công nhân TP Pari năm 1832. + Cuộc khởi nghĩa của thợ dệt Xi-Lê-Di (Đức) năm1844. + Ở Anh đã ra đời phong trào quần chúng đầu tiên của công nhân và được gọi là “Phong trào hiến chương” năm (1830-1840). Như vậy, trên vũ đài lịch sử đã xuất hiện một lực lượng chính trị xã hội mới mẻ mặc dù còn mang tính tự phát, nhưng ngày càng mạnh mẽ, trở thành nhân tố quan trọng của đời sống chính trị - xã hội, đó là giai cấp vô sản cách mạng. Trong bối cảnh lịch sử ấy, các học thuyết xã hội chủ nghĩa không tưởng phê phán của Xanh-Xi-Mông, Phu-ri-ê, Ô-Oen lại không đáp ứng được yêu cầu của phong trào vô sản, không thể hiện được những lợi ích căn bản của giai cấp vô sản trong sự nghiệp giải phóng nhân dân lao động khỏi chế độ Tư bản chủ nghĩa. Phong trào đấu tranh của giai cấp vô sản còn mang tính tự phát và thiếu tổ chức, do đó cần phải có một lý 5 luận tiên phong hướng dẫn và giác ngộ cho giai cấp công nhân về vai trò sứ mệnh lịch sử của mình. Trên cơ sở nghiên cứu hệ thống lý luận trước kia, và trực tiếp tham gia vào phong trào đấu tranh của g/c công nhân, Mác và Ăng Ghen đã khái quát kinh nghiệm đấu tranh của g/c công nhân, sáng tạo ra lý luận cách mạng của phong trào vô sản; dẫn đến sự ra đời của triết học Mác. Có thể nói giai cấp vô sản đã tìm thấy ở triết học Mác vũ khí tinh thần của mình, cũng giống như triết học Mác đã tìm thấy giai cấp vô sản như là vũ khí vật chất của mình. 1.2 Tiền đề lý luận của triết học Mác HÊ GHEN (1770- 1831) PHƠ -BÁCH (1804- 1872) Triết học Mác ra đời do nhu cầu của sự khái quát tri thức nhân loại.Với tư cách là một khoa học, triết học Mác đã kế thừa tất cả những tinh hoa di sản lý luận quý báu mà loài người đã đạt được. Đặc biệt Mác-Ăng Ghen đã kế thừa chủ nghĩa duy vật (CNDV) của Phơ-Bách và phép biện chứng của Hê-Ghen trong triết học cổ điển Đức. Công lao của Hê-Ghen là ở chỗ ông là người đã phê phán mạnh mẽ phương pháp tư duy siêu hình. Ông là người đầu tiên đã diễn đạt được những quy luật của phép biện chứng với tư cách là hệ thống lý luận. Nghĩa là ông coi toàn bộ giới tự nhiên, lịch sử và tinh thần nằm trong quá trình liên hệ, vận động, phát triển tuân 6 theo quy luật. (Quy luật mâu thuẫn, QL lượng–chất, QL phủ định của phủ định). Nhưng khi trình bày các quy luật của phép biện chứng, Hê-Ghen lại cho rằng: các quy luật ấy cũng chỉ là sản phẩm của sự sáng tạo của ý niệm tuyệt đối. Do đó phép biện chứng của Hê-Ghen là phép biện chứng duy tâm. Hệ thống triết học của Hê- Ghen là hệ thống triết học duy tâm. Vì vậy, để xây dựng nên phép biện chứng duy vật Mác – Ăng Ghen đã phê phán tính chất duy tâm trong phép biện chứng của Hê- Ghen, các ông đã kế thừa, tiếp thu những mặt tiến bộ trong phép biện chứng ấy để hình thành phép biện chứng duy vật. Như vậy, Phép biện chứng của Mác không những là hình thức phát triển cao nhất của phép biện chứng mà còn đối lập với phép biện chứng của Hê-Ghen. Chủ nghĩa duy vật của Phơ-Bách đã ảnh hưởng mạnh mẽ đến sự hình thành thế giới quan khoa học của Mác, Ăng-Ghen. ->Các ông đã đánh giá cao Phơ-Bách trong việc phê phán tôn giáo và chủ nghĩa duy tâm. Đặc biệt là khi đấu tranh chống chủ nghĩa duy tâm, Phơ-Bách đã khôi phục lại vị trí xứng đáng cho triết học duy vật. Nhưng chủ nghĩa duy vật của Phơ-Bách vẫn mang tính trực quan siêu hình và duy tâm về xã hội. Vì vậy, để xây dựng hệ thống triết học duy vật biện chứng, Mác – Ăng Ghen đã trực tiếp kế thừa những quan điểm duy vật tiến bộ của triết học Phơ-Bách; đồng thời các ông cũng khắc phục tính trực quan, siêu hình và duy tâm về lịch sử của nó, thay vào đó những kết luận có tính khoa học trên cơ sở khái quát mhững thành tựu của khoa học đương thời. Như vậy, Triết học cổ điển Đức trước hết là phép biện chứng của Hê-Ghen và chủ nghĩa duy vật của Phơ-Bách là nguồn gốc lý luận trực tiếp cho sự ra đời của triết học Mác. * Ngoài sự chín muồi của điều kiện kinh tế - xã hội, của tiền đề lý luận; để triết học duy vật biện chứng ra đời còn phải nói đến vai trò của Mác – Ăng Ghen, những vĩ nhân có bộ óc thiên tài. Các ông vừa là những nhà khoa học có tri thức khoa học sâu sắc, có lý tưởng cách mạng nồng cháy mà còn là những người có tài năng về tổ chức thực tiễn. Chính nhờ tham gia trực tiếp vào vào hoạt động thực tiễn, tổ chức và lãnh đạo phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân; Mác – Ăng Ghen 7 đã có bước chuyển biến quyết định từ chủ nghĩa duy tâm triết học sang chủ nghĩa duy vật biện chứng, từ lập trường dân chủ cách mạng sang lập trường cộng sản chủ nghĩa. Đó cũng là điều kiện để triết học Mác ra đời. 1. 3 Tiền đề khoa học tự nhiên của triết học Mác Để triết học Mác có thể ra đời được ngoài những điều kiện kinh tế, xã hội còn phải có những tiền đề về khoa học tự nhiên cho phép khắc phục không những quan điểm duy tâm mà cả quan điểm siêu hình về thế giới để hình thành thế giới quan duy vật biện chứng. Thời kỳ này có ba phát minh vĩ đại, đóng vai trò quan trọng cho sự ra đời của chủ nghĩa duy vật biện chứng. Ba phát minh đó là: * Định luật bảo toàn và chuyển hóa năng lượng. * Học thuyết về cấu tạo tế bào của cơ thể sống. * Thuyết Tiến hóa của Đác-Uyn. + Định luật bảo toàn và chuyển hóa năng lượng: Do nhà vật lý học người Đức là RôBéc May-e phát minh năm (1842–1845). Sự phát minh ra định luật bảo toàn và chuyển hóa năng lượng đã chứng minh rằng: các hình thức vận động khác nhau của vật chất không tách rời nhau, mà giữa chúng có sự liên hệ, chuyển hóa lẫn nhau trong những điều kiện nhất định. Nghĩa là không có sự mất đi của năng lượng, mà chỉ có sự chuyển biến không ngừng của năng lượng từ dạng này sang dạng khác. Định luật này là cơ sở khoa học cho quan điểm biện chứng về thế giới. + Thuyết tế bào: Chủ yếu do hai nhà bác học người Đức là: Slây-Đen và Sa- Van-Nơ xây dựng năm (1838–1839), đã xác định rằng: Cơ thể thực vật và động vật đều do tế bào tạo thành. Học thuyết này chỉ rõ sự thống nhất bên trong của sinh vật, chỉ ra con đường phát triển, tiến hóa phổ biến của cơ thể sống. Vì vậy, nó góp phần 8 quan trọng vào sự khẳng định quan niệm duy vật biện chứng về tính thống nhất của sự sống trong những biểu hiện phong phú, đa dạng, muôn vẻ của nó. + Thuyết Tiến hóa: Do Đác-Uyn, nhà bác học người Anh xây dựng vào năm 1859. Thuyết này đã chứng minh một cách khoa học rằng: thế giới thực vật và động vật là kết quả tất yếu của một quá trình tiến hóa lâu dài, trong đó các sinh vật phức tạp bậc cao đã hình thành từ các sinh vật giản đơn, bậc thấp; không phải theo ý định của thượng đế mà là do áp lực của quy luật chọn lọc tự nhiên. Học thuyết này cũng góp phần khẳng định quan điểm DVBC về thế giới. Học thuyết nói trên không những khẳng định mối liên hệ vận động, phát triển của các dạng vật chất sống mà còn đập tan luận điểm cho rằng: chúa sáng tạo ra muôn loài, thượng đế sáng tạo ra con người. Như vậy: các phát minh khoa học nói trên đã đặt cơ sở vững chắc cho quan điểm biện chứng về thế giới. Đồng thời sự phát triển của khoa học tự nhiên cũng đòi hỏi phải có những khái quát mới về lý luận triết học, phải xây dựng phép biện chứng duy vật với tính cách là một khoa học thật sự, giúp cho khoa học tự nhiên phát triển. Chương 2: NHỮNG BƯỚC NGOẶT CÁCH MẠNG TRONG TRIẾT HỌC CỦA CHỦ NGHĨA MÁC Sự xuất hiện chủ nghĩa Mác nói chung và triết học Mác nói riêng là một tất yếu khách quan, nó bắt nguồn từ những nguyên nhân kinh tế, xã hội và sự phát triển của ĐẮC – UYN và học thuyết về sự tiến hóa của các loài 1859 9 tư tưởng nhân loại trước đó. Khái quát kinh nghiệm của phong trào công nhân và những thành tựu của khoa học tự nhiên, kế thừa có phê phán những tư tưởng triết học trước đó, Mác và Ăng-Ghen đã thực hiện bước ngoặt cách mạng trong triết học, dẫn đến sự ra đời của triết học Mác 2.1: Tiểu sử của C.Mác và Ph.Ăngghen 2.1.1: Tiểu sử của C.Mác - C. Mác sinh ngày 5 / 5 / 1818 và mất 14 / 3 / 1883. Sinh ra trong một gia đình luật sư, Mác học luật tại trường Đại học Bon (1835/1836) và trường Đại học Béclin (1836/1841). Tại trường Đại học tổng hợp Béclin, Mác đã nghiên cứu triết học và lịch sử. Sự hình thành thế giới quan duy vật của Mác là một quá trình đầy khó khăn phức tạp vì bản thân Mác không phải là là người cách mạng và cộng sản “bẩm sinh”. Ông sinh ra trong một gia đình trí thức tư sản và nền học vấn tư sản đã ảnh hưởng sâu sắc đến ông. Trước khi làm quen với Triết học Hêghen vào năm 1837, thậm chí Mác là một tín đồ Kitô ngoan đạo. Ở thời kỳ trung học Mác đã có những bài viết ca ngợi chúa Kitô. Tất nhiên niềm tin tôn giáo của Mác được hiểu nghĩa là bản tính con người khao khát hướng tới cái thiện . - Năm 1837 C. Mác đến với triết học của Hêghen và tham gia vào phái Hêghen trẻ, tách ra từ phái Hêghen vào năm 1835 đại diện cho phái tư sản cấp tiến, họ phê phán thần học và chế độ phong kiến ở Đức, chuẩn bị tư tưởng cho cuộc cách mạng tư sản Đức năm 1848. - Từ 1839 C. Mác nghiên cứu lịch sử triết học cổ Hy Lạp, triết học thời kỳ cận đại. Tháng 4/1841 ông nhận bằng tiến sĩ. Trong luận án tiến sĩ Mác còn chịu ảnh hưởng tư tưởng duy tâm của Hêghen, đề cao không đúng vai trò ‎ý thức con người, đồng thời cũng manh nha tư tưởng về phép biện chứng giữa tồn tại và tư duy. 10 - Mác đối lập với Hêghen và phái Hêghen trẻ trong quan niện về vai trò của phép biện chứng và triết học nói chung. Ông coi nhiệm vụ của triết học là phục vụ cuộc đấu tranh chính trị, phục vụ sự nghiệp giải phóng người lao động. Phép biện chứng phải có nhiệm vụ phá bỏ hiện thực cũ lỗi thời, hạn chế. 2.1.2: Tiểu sử của Ph.Ănghgen Ph. Ăngghen sinh ngày 28 /11/ 1820 và mất 5/8/ 1895. Sinh ra trong một gia đình chủ xưởng dệt ở thành phố Bácmen (Đức). Ông chỉ học hết trung học và theo cha làm một số công việc kinh doanh mà ông không thích và cho là việc “xấu xa”. Trong khi làm việc kinh doanh ông đã kiên trì con đường tự học, nuôi ý làm khoa học và hoạt động cách mạng cải tiến xã hội - Năm 1839 Ph. Ăngghen nghiên cứu triết học của Hêghen và tham gia vào phái Hêghen trẻ. Tháng 3/1839 Ăngghen đăng bài báo “Những bức thư từ Vêsphali” thể hiện lập trường dân chủ cách mạng của mình. Qua bài báo này ông phê phán bọn chủ xưởng sùng đạo, bày tỏ thiện cảm với công nhân. Tuy nhiên, lúc này Ăngghen vẫn chưa hiểu bản chất của giai cấp công nhân như một giai cấp cách mạng nhất trong các giai tầng bị bóc lột của xã hội hiện đại. - Năm 1841, Ăngghen tới Béclin làm nghĩa vụ quân sự, ông tham gia phái Hêghen trẻ. Cũng trong năm này ông nghiên cứu tác phẩm nổi tiếng của Phơbach “Bản chất đạo cơ đốc”- một tác phẩm có ảnh hưởng lớn đến đến thế giới quan của ông. - Từ 1842 Ph.Ăngghen nghiên cứu kinh tế chính trị học cổ điển Anh và phong trào công nhân. Từ đó Mác và Ăngghen vẫn đứng trên lập trường của chủ nghĩa duy tâm trong việc giải quyết các vấn đề triết học và trong quan điểm chính trị là nhà dân chủ cách mạng 2.2: Thực chất của bước ngoặt cách mạng do Mác và Ăngghen thực hiện. 2.2.1 Khái quát quá trình dẫn đến hình thành chủ nghĩa duy vật biện chứng: 11 Sự hình thành thế giới quan khoa học của Mác và Ăngghen là quá trình hợp quy luật, là nhu cầu khách quan của lịch sử trước hết là lịch sử đấu tranh của giai cấp công nhân. Quá trình này gắn bó chặt chẽ với nhau giữa lập trường chính trị và quan điểm triết học. Hoạt động luận của Mác và Ăngghen gắn liền với thực tiễn cách mạng làm cho hai ông chuyển từ lập trường của chủ nghĩa duy tâm sang lập trường của chủ nghĩa duy vật biện chứng, từ lập trường chính trị dân chủ cách mạng sang lập trường chính trị cộng sản chủ nghĩa. Quá trình hình thành triết học mác cũng không tách rời tình cảm sâu sắc của Mác và Ăngghen đối với những người lao động bị áp bức, tình cảm đó là yếu tố quan trọng hình thành thế giới quan khoa học của hai ông. Mác và Ăngghen cũng kế thừa và phê phán di sản l‎ý luận của nhân loại, nghiên cứu tiếp thu những thành tựu khoa học. Trong giai đoạn đầu, trước nửa năm sau của năm 1843, Mác và Ăngghen là những nhà biện chứng duy tâm. Hai ông tiếp nhận phép biện chứng của Hêghen, song có thái độ đối lập với hệ thống siêu hình của triết học Hêghen và các kết luận chính trị phản động xuất phát từ hệ thống triết học ấy. Quan điểm chính trị và xã hội của Mác và Ăngghen thời kì này là quan điểm dân chủ cách mạng. Song, ngay từ năm 1842 khi Mác còn làm biên tập viên Báo Rainơ tại Côlônhơ và khi Ăngghen đang nghiên cứu tình cảnh giai cấp công nhân Anh, các ông đã có những biểu hiện chuyển từ chủ nghĩa dân chủ cách mạng sang chủ nghĩa cộng sản. Đặc điểm nổi bật trong hoạt động của hai ông khi nghiên cứu các thành tựu của khoa học và triết học là nghiên cứu một cách có phê phán và sự sáng tạo của hai ông là nhằm giải quyết những vấn đề thực tiễn chính trị - xã hội. Khi Mác làm biên tập viên Báo Rainơ, ông đã bày tỏ ý kiến của mình trên báo trí về vai trò và ý nghĩa của các lợi ích vật chất trong đời sống xã hội, những vấn đề kinh tế xã hội đặt ra ở tỉnh Rainơ, về vấn đề sở hửu đất, vấn đề đốn rừng, về thương nghiệp và về thuế quan bảo hộ...Nhưng khi khi sử dụng phép biện chứng duy tâm và học thuyết về nhà nước và pháp quyền của Hêghen, Mác đã rơi vào tình trạng khó xử, không giải đáp được các vấn đề của thực tiễn chính trị xã hộim đặt ra. Lúc này, chính Mác đã cảm thấy rằngnhững lợi ích vật chất của con người trong đời sống xã hội đã đóng một vai trò quan trọng đặc biệt. Mác đã đi tới kết luận rằng, phải nghiên cứu sâu sắc hơn nữa những vấn đề 12 kinh tế chính trị và phải xem xét lại một cách có phê phán những quan điểm triết học và pháp quyền của Hêghen. Sau khi rời ban biên tập Báo Rainơ, Mác hoàn toàn dành thời gian để giải quyết những vấn đề đã đặt ra cho ông trong thoiừ gian công tác tại tờ báo. Ông đã viết một bài luận văn lớn dành cho việc phê phán triết học pháp quyền của Hêghen. Tháng 10 – 1843, ông sang Pari cố gắng nghiên cứu các vấn đề kinh tế - chính trị học và lịch sử các phong trào cách mạng. Tại đây, ông đã tham gia các cuộc hội họp của công nhân, đặt mối quan hệ với các nhà lãnh đạo của các tổ chức công nhân bí mật Pháp và Đức. Những năm 1843 – 1844 là thời kì ông chuyển hoàn toàn sang lập trường của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa cộng sản. Các bài của Mác đăng trên Niên giám Pháp – Đức mà số đầu xuất bản tại Pari vào tháng 2/1844 đã thể hiện rõ sự chuyển biến đó. Trong thời kỳ này Mác ở Pari, Ăngghen ở Anh, hai ông độc lập trong việc nghiên cứu tình cảnh giai cấp công nhân, sống gần gũi với họ, giải thích vai trò lịch sử thế giới của giai cấp công nhân với tính cách là giai cấp cách mạng triệt để, tiêu biểu cho lực lượng sản xuất mới và phương thức sản xuất mới trong tương lai, vượt chủ nghĩa tư bản. Trong thời kì này, qua nghiên cứu và thực tiễn, các ông đã khắc phục được phép biện chứng duy tâm, và sự hạn chế của chủ nghĩa duy vật siêu hình, hình thành những cơ sở của chủ nghĩa duy vật biện chứng. Sự hình thành triết học Mác là bước ngoặt quan trọng trong lịch sử tư tưởng của nhân loại. Triết học Mác là thế giới quan khoa học của giai cấp công nhân và đảng cách mạng của nó, là vũ khí tinh thần để cải tạo xã hội. Triết học Mác không chỉ xem thực tiễn có vai trò quyết định đối với sự phát triển của nhận thức mà còn đối với sự phát triển xã hội nói chung. Trong triết học Mác, lý luận liên hệ chặt chẽ với thực tiễn, là nguyên tắc làm nên sức mạnh làm nên sức mạnh để cải tạo xã hội và khoa học về con người. Triết học Mác không phải là hệ thống đóng kín không biến đổi, mà là một học thuyết cách mạng đòi hỏi phải được bổ sung và phát triển không ngừng, trên cơ sở khái quát thực tiễn xã hội và những thành tựu của khoa học. Các nhà sáng lập ra chủ nghĩa Mác cho rằng học thuyết của ông không phải là một tín điều, một khuôn mẫu, 13 mọi công thức mà là kim chỉ nam cho hành động. Nó cần được vận dụng sáng tạo vào thực tiễn và cần phải được phát triển thực tiễn xã hội. 2.2.2: Triết học Mác ra đời làm cho chủ nghĩa duy vật và phép biện chứng thống nhất chặt chẽ. Chủ nghĩa duy vật trước Mác đã đóng vai trò rất to lớn trong sự phát triển của khoa học, trong công cuộc đấu tranh chống tôn giáo và chủ nghĩa duy tâm. Trong thời kỳ cổ đại thì chủ nghĩa duy vật chất phác, ngây thơ, tự phát. Còn trong thời kỳ cận đại là chủ nghĩa siêu hình máy móc. Nó không thể khắc phục triệt để chủ nghĩa duy tâm và vạch ra những nguyên nhân phát triển của tự nhiên và xã hội, không vạch ra được phép biện chứng của quá trình nhận thức và những con đường cải tạo thế giới. Tuy nhiên, trong các học thuyết duy vật trước Mác cũng chứa đựng một số tư tưởng biện chứng nhất định, nhưng do hạn chế về trình độ phát triển khoa học và về lịch sử nên mới tồn tại những thiếu sót trên. Trong lịch sử triết học trước Mác, chủ nghĩa duy vật thường gắn liền với với phép siêu hình và biện chứng gắn liền với chủ nghĩa duy tâm. Các Mác và Ăng nghen đã khắc phục sự khập khiễng của chủ nghĩa duy vật trước đó và phép biện chứng của Hê ghen và Phơ Bách, xác lập thế giới quan triết học mới, thống nhất thế giới quan duy vật và phép biện chứng. Trước Mác chủ nghĩa duy vật thường bị tách rời khỏi phép biện chứng. Có những nhà triết học thế giới quan duy vật nhưng lại dùng phương pháp siêu hình như Phơ Bách hoặc có nhà triết học duy tâm mà lại dùng phương pháp biện chứng như Hêghen. Vì vậy để xây dựng triết học duy vật biện chứng, Mác đã cải tạo cả chủ nghĩa duy vật cũ, siêu hình và cả phép biện chứng duy tâm. Mác đã tạo nên sự thống nhất hữu cơ giữa thế giới quan duy vật và phương pháp biện chứng. Lần đầu tiên trong lịch sử triết học, Mác đã tạo ra một hình thức mới của chủ nghĩa duy vật đó là chủ nghĩa duy vật biện chứng và cũng là lần đầu tiên Mác tạo ra một hình thức mới của phép biện chứng đó là phép biện chứng duy vật. 14 Và có thể nói rằng, trong triết học Mác chủ nghĩa duy vật và phép biện chứng là hai yếu tố khắng khít, gắn liền với nhau, vì nó gắn liền với nhau nên cho phép triết học Mác không chỉ là lý luận mà còn là phương pháp luận trong hoạt đọng nhận thức, thực tiễn của con người. 2.2.3: Thống nhất giữa lí luận và thực tiễn. Chủ nghĩa duy vật của Mác là đỉnh cao của thế giới quan duy vật, là chủ nghĩa duy vật khoa học triệt để. Chủ nghĩa duy vật của Mác đã giải quyết đúng đắn vấn đề cơ bản của triết học từ quan điểm thực tiễn. Trước Mác, chủ nghĩa duy vật đã trải qua quá trình phát triển lịch sử lâu dài. Nó đạt được những thành tựu quan trọng góp phần vào việc xác định quan niệm về duy vật và thế giới. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đó triết học trước Mác, không thể không tránh khỏi những thiếu sót, hạn chế mang tính lịch sử. Triết học trước Mác chỉ duy vật trong việc xem xét thế giới tự nhiên nhưng vẫn duy tâm trong khi xem xét đời sống xã hội. Đây là một thứ chủ nghĩa duy vật không triệt để, duy vật “một nửa”. Họ không thấy được vai trò của ý thức, sự tác động của nó trong hoạt động thực tiễn, coi ý thức là sự phản ánh sự vật một cách thụ động, đơn giản máy móc. Khuyết điểm chủ yếu của chủ nghĩa duy vật cũ là do thiếu quan điểm thực tiễn. Do đó l‎ý luận của nó mang tính trực quan và không thể giải quyết một cách khoa học, duy vật triệt để vấn đề cơ bản của triết học. Trái lại, triết học Mác không chỉ duy vật trong nghiên cứu tự nhiên mà còn mở rộng khi nghiên cứu xã hội. Triết học Mác là triết học triệt để cả trong tự nhiên và xã hội. Việc chủ nghĩa duy vật của Mác đưa thực tiễn vào trong triết học không những đã tạo ra một cuộc cách mạng trong triết học mà còn tạo ra cơ sở cho việc khắc phục những hạn chế của chủ nghĩa duy vật cũ và những khuyết điểm của nó trước đó. Chủ nghĩa duy vật của Mác còn khẳng định, vật chất có trước, ý thức có sau, vật chất quyết định ý thức. Đó là nguyên tắc xuất phát của chủ nghĩa duy vật Mác. Nếu xa rời nguyên tắc đó sẽ xa rời thế giới quan duy vật, sẽ sa vào chủ nghĩa duy tâm duy ý chí. Khi khẳng định sự phụ thuộc của ý thức vào vật chất, chủ nghĩa duy vật của Mác cũng đề cao sự tác động trở lại vô cùng quan trọng của ý thức đối với vật chất. Ý thức phản ánh thế giới khách quan trong quá trình tác động cải tạo 15 thế giới bằng thực tiễn. Sự tác động qua lại giữa vật chất và ý thức trong đó vật chất là cái quyết định diễn ra trên cơ sở thực tiễn. Cái vật chất muốn “di chuyển và cải tiến trong bộ não” phải thông qua hoạt động thực tiễn. Trái lại ý thức muốn tác động vào thế giới vật chất cũng phải thông qua thực tiễn. Vậy thực tiễn là khâu trung gian nối liền giữa vật chất và ý thức. Phạm trù thực tiễn có ý nghĩa quan trọng làm cho quan niệm duy vật của Mác triệt để, duy vật trong tự nhiên, xã hội và tư duy con người. Khác với tất cả hệ thống triết học trước đó, triết học Mác đã chỉ ra vai trò quyết định của hoạt động thục tiễn trong sự tồn tại, phát triển của xã hội và trong nhận thức. Nếu không hiểu rõ vai trò của thực tiễn, nhất là thực tiễn sản xuất xã hội thì tất yếu dẫn đến chủ nghĩa duy tâm. Trong nhận thức thực tiễn là cơ sở, động lực, mục đích của nhận thức, là nơi mà l‎ý luận hướng đến để giải thích và cải tạo thế giới. Mác đã cho rằng, lý luận khi đã thâm nhập vào quần chúng, sẽ trở thành lực lượng vật chất vô cùng to lớn. Triết học Mác không phải là hệ thống lý tự biện mà nó được rút ra từ hoạt động thực tiễn của phong trào công nhân, đồng thời khái quát từ những thành tựu của khoa học tự nhiên, cho nên triết học đó bắt nguồn từ thực tiễn. 2.2.4: Sự sáng tạo ra chủ nghĩa duy vật lịch sử. Bước ngoặt cách mạng vĩ đại nhất mà chủ nghĩa Mác thực hiện là đã đưa ra quan điểm duy vật lịch sử. Trước Mác các nhà triết học hiểu sự phát triển của xã hội một cách duy tâm, coi động lực phát triển của xã hội là ở trong ý thức, tinh thần của con người. Đối lập với quan điểm trên, C.Mác và Ăngghen đã giải quyết đúng đắn vấn đề cơ bản của triết học trong đời sống xã hội, không phải ý thức xã hội quyết định tồn tại xã hội mà ngược lại tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội. Sự phát triển của xã hội phụ thuộc vào nguyên nhân vật chất, chứ không phụ thuộc vào ‎ý thức con người, sự phát triển xã hội mang tính quy luật, là quá trình lịch sử tự nhiên. Do sự tác động của các quy luật vốn có của xã hội, các hình thái kinh tế - xã hội thay thế nhau một cách khách quan độc lập với ý thức của con người. Trong sự phát triển ấy, quần chúng nhân dân là lực lượng quyết định sáng tạo ra lịch sử. Tất cả các trường phái triết học trước Mác kể cả trường phái phi Mácxit hiện nay, khi nghiên 16 cứu xã hội đều xuất phát tù những khía cạnh rời rạc, lẻ tẻ trong con người nà không thấy được con người với tính cách là một chỉnh thể thống nhất, vì vậy họ đều mắc phải sai lầm lớn và đều rơi vào lập trường của chủ nghĩa duy tâm trong quan niệm về đời sống xã hội. 2.2.5: Thống nhất giữa tính khoa học và tính cách mạng. Cơ sở của chủ nghĩa Mác là chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Với cơ sở này, lần đầu tiên trong giai cấp lịch sử giai cấp vô sản và nhân dân lao động và cả xã hội ra khỏi sự áp bức bóc lột. Lênin viết: “ triết học Mác là một triết học hoàn bị, nó cung cấp cho loài người và nhất là giai cấp công nhân những công cụ công thức vĩ đại”. Như vậy, triết học Mác là vũ khí tinh thần của giai cấp vô sản là “lực lượng” vật chất của triết học Mác. Sự thống nhất chặt chẽ giữa triết học Mác với giai cấp vô sản làm cho triết học Mác thực sự thể hiện tính cách mạng của mình và giai cấp vô sản mới thực hiện được sứ mệnh lịch sử là lật đổ xã hội cũ, từng bước xây dựng xã hội mới. Trong triết học Mác, tính cách mạng thống nhất hữu cơ với tính khách quan khoa học. Mác và Ănghen vạch ra quy luật phát triển của lịch sử tất cả các xã hội là “lịch sử đấu tranh giai cấp” (tr.540, Mác-Ănghen tuyển tập, tập 1). Xã hội tư sản nảy sinh từ trong lòng xã hội phong kiến đã bị diệt vong nhưng vẫn không xoá bỏ được những đối kháng giai cấp. Nó chỉ đem những giai cấp mới, những điều kiện áp bức mới, những hình thức đấu tranh mới thay thế cho những giai cấp, những điều kiện áp bức, những hình thức đấu tranh cũ mà thôi. Tuy nhiên, tính chất đặc biệt của thời đại đã làm đơn giản những đối kháng giai cấp. Xã hội thì dần dần phân hoá thành hai giai cấp cơ bản là vô sản và tư sản. Hai giai cấp lớn này thù địch với nhau, hoàn toàn đối lập với nhau. Mác và Ănghen nêu lên quy luật phát triển của chủ nghĩa tư bản, đánh giá vai trò của giai cấp tư sản về mặt chính trị và kinh tế. Trong cuộc đấu tranh chống chế độ phong kiến và xây dựng một xã hội mới, giai cấp tư sản đã phát huy mặt tích cực của nó. Nó đã đứng ra đảm nhận cương vị lãnh đạo cuộc cách mạng tư sản và thiết lập nhà nước tư bản chủ nghĩa. Tiềm lực mà giai cấp tư sản tạo ra được rất lớn, giai cấp tư sản, trong quá trình thống trị giai cấp chưa 17 đầy một thế kỉ, đã tạo ra những lực lượng sản xuất nhiều hơn và đồ sộ hơn lực lượng sản xuất của tất cả các thế hệ trước kia gộp lại. Lịch sử ra đời triết học Mác không những gắn liền với thực tiễn đấu tranh cách mạng của giai cấp công nhân mà còn gắn liền với sự phát triển khoa học. Giai cấp công nhân, là lực lượng xã hội tiên tiến nhất của lịch sử hiện đại, lợi ích của nó phản ánh chung mọi lực lượng tiến bộ trong xã hội. Vì vậy thế giới quan cách mạng của triết học Mác, không thể không phản ánh đúng đắn, khách quan những quy luật phát triển của lịch sử. Không hề trái ngược với l‎ý luận khoa học, không phải là thứ chủ nghĩa bè phái thuần tuý mà là hệ thống lý luận chặt chẽ được đúc kết từ thực tiễn và từ những thành tựu của khoa học tự nhiên cũng như khoa học xã hội. Vì vậy nó là hệ tư tưởng khoa học chứa đựng sự thống nhất giữa tính đảng và tính khoa học, giữa tính thực tiễn và tính lý luận. Nhờ đó triết học Mác mang sức mạnh cải tạo thế giới bằng cách mạng và không đội trời chung với chủ nghĩa chủ quan duy ý chí cũng như chủ nghĩa giáo điều bảo thủ. 2.2.6: Những thay đổi căn bản về tính chất, đối tượng và mối quan hệ của triết học với các ngành khoa học khác : Với chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, C.Mác và Ăngghen đã biến đổi căn bản tính chất của triết học, đối tượng nghiên cứu và mối liên hệ của nó với các khoa học khác. Triết học Mác không hòa tan vào các khoa học cụ thể, cũng không có tham vọng đóng vai trò “khoa học của mọi khoa học”, thay thế các ngành khoa học hoặc tồn tại tách rời chúng, mà triết học Mác đóng vai trò là thế giới quan và phương pháp luận của các khoa học cụ thể. Các tri thức của các khoa học cụ thể là cơ sở để cụ thể hóa và phát triển triết học Mác. Triết học Mác có chức năng cơ bản là xóa bỏ những cái thừa cái cũ và tạo lập cái mới, luôn gắn liền hữu cơ với thực tiễn cuộc sống, với phong trào đấu tranh cách mạng của giai cấp công nhân, cũng như với sự phát triển của khoa học. Vì vậy nó không là một học thuyết ngưng đọng, mà trái lại là một học thuyết sáng tạo, không ngừng bổ sung, được làm phong phú thêm bởi chính thực tiễn và phát triển cùng thực tiễn. Sự hình thành các quan điểm của triết học Mác và Ăngghen qua 18 hàng loạt các tác phẩm đã cho thấy đó là một quá trình phát triển liên tục, không ngừng. Sự ra đời của tuyên ngôn Đảng cộng sản năm 1848, tuy đánh dấu bước chuyển căn bản của triết học Mác và Ăngghen về thế giới quan cũng như về lập trường chính trị, nhưng triết học Mác không dừng lại tại đó mà sau thời kỳ này hai ông đã sáng tạo ra nhiều công trình lớn, nhằm tổng kết về mặt l‎ý luận những kinh nghiệm thực tiễn phong phú của phong trào đáu tranh cách mạng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động toàn thế giới, đưa triết học Mác phát triển lên một đỉnh cao mới. Tuy mang tính cách mạng và là hệ tư tưởng vĩ đại, tiến bộ nhất, triết học Mác không phải là hệ thống đóng kín, không biến đổi. Chủ nghĩa Mác là một học thuyết cách mạng đòi hỏi phải không ngừng được bổ sung và phát triển. Trên cơ sở khái quát thực tiễn xã hội và những thành tựu khoa học kĩ thuật. Các nhà sáng lập ra chủ nghĩa Mác cho rằng học thuyết của họ không phải là một tín điều, một khuôn mẫu, một công thức mà là một kim chỉ nam cho hành động. Nó cần được vận dụng một cách sáng tạo vào thực tiễn, từng hoàn cảnh. Điều cần thiết là nó phải được phát triển cùng với sự phát triển của thực tiễn xã hội. 2.3: Vai trò của Triết học Mác đối với sự đổi mới ở nước ta. Nước ta từ khi bước vào thời kỳ đổi mới cho đến nay, nhìn một cách tổng quát thì có sự thay đổi rất nhiều mặt; về kinh tế, về văn hóa, xã hội, về chính trị…Đổi mới gắn liền với sự hiện đại hóa không chỉ ở công nghiệp mà còn ở nông nghiệp, không chỉ ở thành phố mà còn ở nông thôn, không chỉ ở đồng bằng mà còn ở đồi núi, hải đảo xa xôi. Sự đổi mới biểu hiện rất đa dạng và phong phú. Chẳng hạn như nền kinh tế truyền thống nước ta là nền kinh tế nông nghiệp, độc canh với cây lúa nước và làm chỉ duy nhất một vụ trong năm, nhưng khi bước vào thời kỳ đổi mới, giống cây lúa nước cũng được thay đổi, không phải chỉ là những cây dài ngày như trước đây mà còn những cây ngắn ngày, làm được nhiều vụ trong năm. Từ đó nâng dần đời sống người nông dân khá hẳn dần lên. Bên cạnh đó nền văn hóa xã hội cũng thay đổi rõ rệt. Trong thời kỳ hội nhập, người trong nước không chỉ tiếp cận với với hóa của nước mình mà còn tiếp cận với rất nhiều loại văn hóa khác đến từ nhiều quốc gia khác nhau. Sự tiếp cận có chọn lọc, có sự kế thừa và phát triển, 19 nên nền văn hóa trong thời kỳ đổi mới của đất nước rất nhiều màu sắc. Nhưng cho dù có nhiều màu sắc như thế nào, thì con người Việt Nam vẫn giữ được bản sắc của mình. Cũng như sự phát triển nền kinh tế của dân tộc, không thể không thừa nhận rằng sự hợp tác công nghệ hiện đại của nhiều nước mang đến nhiều khởi sắc cho dân tộc. Nhưng dù phát triển vượt bật như thế nào, thì con người Việt Nam vẫn giữ vững nền chính trị với lập trường chủ nghĩa xã hội không thay đổi. Điều đó có được là do đâu? Thiết nghĩa không có gì khác, đó là do sự ổn định về tư tưởng chính trị, về văn hóa xã hội của con người Việt Nam. Sự ổn định đó tất nhiên là dựa trên nền tảng của Triết học Mác, của tưởng Hồ Chí Minh, về vấn đề con người, văn hóa, kinh tế, chính trị trong mọi thời đại. chẳng hạn, là con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta mà đảng và Bác Hồ đã chọn con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản với mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh” đó là sự vận dụng một cách sáng tạo chủ nghĩa Mác thể hiện, mặc dầu chủ nghĩa xã hội bị khủng hoảng và sụp đổ, nhưng đó là sụp đổ mô hình chủ nghĩa xã hội tập trung, quan liêu, bao cấp chứ không phải chủ nghĩa xã hội với tư cách là một xã hội cao hơn chủ nghĩa tư bản. Chủ nghĩa tư bản mặc dù chưa hết vai trò lịch sử và đang đạt được nhiều thành tựu to lớn nhất là khoa học và công nghệ, nhưng với những thành tựu chủ nghĩa tư bản tạo ra, đến lượt nó lại trở thành cái phủ định chủ nghĩa tư bản và thay thế nó bằng xã hội cao hơn – chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản. C. Phần kết luận. Qua phần trình bày trên chúng ta có thể rút ra một số điều cơ bản như sau: Việc sáng lập ra chủ nghĩa duy vật biện chứng và mối quan hệ của nó là những thành tựu vĩ đại của nó. Từ sự việc này, Mác đã giải quyết vấn đề triệt để cơ bản của triết học trên cơ sở thực tiễn, thể hiện thế giới quan của giai cấp vô sản, tạo nên tính thống nhất cách mạng với khoa học, thay đổi cơ bản hệ thống triết học. Để thực hiện điều này, C.Mác và Ăngghen đã kế thừa những tinh hoa của triết học thế giới, đồng thời tạo ra những bước ngoặt vĩ đại, sáng lập ra một trường phái triết học tiên tiến làm 20 kim chỉ nam cho phong trào công nhân thế giới, thực hiện sứ mạng lịch sử của giai cấp công nhân. Chủ nghĩa Mác xem hệ thống triết học của mình là một hệ thống mở, luôn luôn đòi hỏi phải được bổ sung, đổi mới và phát triển, kiên quyết chống lại mọi biểu hiện của chủ nghĩa giáo điều. Đối với sự nghiệp đổi mới của nước ta trong giai đoạn hiện nay, Đảng ta đã ứng dụng chủ nghĩa Mác một cách sáng tạo, linh hoạt tạo ra những thành quả hết sức to lớn. Đảng và nhà nước ta không ngừng vượt qua những khó khăn, trong thời điểm mà tình hình thế giới hết sức bất lợi cho chủ nghĩa cộng sản, mà còn tạo ra những biến đổi kỳ diệu bất ngờ, đó là nền kinh tế tăng trưởng, chính trị ổn định, địa vị quốc tế ngày càng được nâng cao, mục tiêu chính vẫn là thực hiện thành công chủ nghĩa xã hội, xây dựng đất nước theo mục tiêu, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng văn minh, dân chủ. ------- Hết ------ 21 TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2006), Giáo trình triết học (dùng cho học viên cao học và nghiên cứu sinh không thuộc ngành Triết học), nhà xuất bản lý luận chính trị Hà Nội. 2.TS Đinh Ngọc Quyên, Th S Nguyễn Đại Thắng (2004), Giáo trình lịch sử triết học, khoa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, trường Đại học Cần Thơ. 3. Ban tư tưởng văn hóa trung ương (2006), Giáo trình sơ sấp lí luận chính trị, nhà xuất bản chính trị Quốc Gia, Hà Nội. 4. Lê Văn Giạng (2004), Tìm hiểu sự phát triển của học thuyết duy vật biện chứng và duy vật lịch sử cuối thế kỉ XX, nhà xuất bản chính trị quốc gia. 5. Các Mác, Ăngghen tuyển tập (1980), nhà xuất bản sự thật, Hà Nội.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfdieu_kien_ra_doi_va_buoc_ngoat_cach_mang_trong_triet_hoc_mac_6758.pdf
Luận văn liên quan