Tiểu luận lịch sử kinh tế quốc dân - Fdi trong công nghiệp Việt Nam từ 1986 đến nay

MỤC LỤC I. MỞ ĐẦU 4 1. Lý do chọn đề tài 4 2. Mục đích nghiên cứu 5 3. Mục tiêu nghiên cứu 5 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 5 5. Phương pháp nghiên cứu 5 II. NỘI DUNG 6 Chương I: KHÁI NIỆM CHUNG VỀ FDI 6 1.1. Khái niệm 6 1.2. Các hình thức của đầu tư trực tiếp 6 1.2.1. Xét theo động cơ đầu tư 6 1.2.2. Xét theo hình thức đầu tư 7 1.3. Đặc điểm của hình thức đầu tư trực tiếp 7 1.4. Ưu và nhược điểm của hình thức đầu tư trực tiếp 8 1.4.1. Ưu điểm 8 1.4.1.1. Về phía chủ đầu tư nước ngoài 8 1.4.1.2. Về phía nước tiếp nhận đầu tư trực tiếp: 8 1.4.2. Hạn chế 9 1.5. Tác động của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế đối với hoạt động FDI 9 1.5.1. Tác động thuận lợi đến hoạt động FDI 9 1.5.2. Tác động không thuận lợi của quá trình hội nhập đối với hoạt động FDI 10 1.6. Các hình thức FDI cơ bản ở Việt Nam. 11 1.6.1. Hình thức hợp đồng hợp tác kinh doanh 11 1.6.1.1. Khái niệm 11 1.6.1.2. Nội dung 11 1.6.1.3. Vấn đề điều hành hoạt động, hợp tác kinh doanh 12 1.6.2. Hình thức doanh nghiệp liên doanh 13 1.6.2.1. Khái niệm 13 1.6.2.2. Các cách thức hình thành doanh nghiệp liên doanh 13 1.6.2.3. Hình thức tổ chức hoạt động của doanh nghiệp liên doanh 13 1.6.2.4. Vấn đề góp vốn của liên doanh 13 1.6.2.5. Vấn đề quản trị doanh nghiệp liên doanh 14 1.6.3. Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài: 15 1.6.3.1. Khái niệm: 15 1.6.3.2. Hình thức tổ chức hoạt động 15 1.6.3.3. Vốn pháp định của doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài. 15 1.6.3.4. Bộ máy quản lý 15 Chương II: THỰC TRẠNG THU HÚT VỐN ĐẦU TƯ NUỚC NGOÀI CỦA VIỆT NAM TRONG CÔNG NGHIỆP GIAI ĐOẠN 1986 – 2010 16 2.1. Vốn đầu tư trực tiếp FDI 16 2.1.1. Quy mô thu hút vốn 16 2.1.2. Đánh giá hiệu quả sử dụng vốn FDI 22 2.2. Vai trò của FDI đối với Việt Nam 27 2.2.1. Tốc độ tăng trưởng kinh tế 27 2.2.2. Tiến bộ xã hội 29 2.2.3. Môi trường 29 Chương III: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ THU HÚT VỐN ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI VÀO VIỆT NAM GIAI ĐOẠN HIỆN NAY 31 III. KẾT LUẬN 35 IV. TÀI LIỆU THAM KHẢO 36 V. NHẬN XÉT CỦA GIÁO VIÊN HƯỚNG DẪN 37

doc37 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 2923 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận lịch sử kinh tế quốc dân - Fdi trong công nghiệp Việt Nam từ 1986 đến nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
doanh nằm “trong lòng” các nước thực thi chính sách bảo hộ mậu dịch. - Đầu tư trực tiếp cho phép chủ đầu tư tham dự trực tiếp kiểm soát và điều hành doanh nghiệp mà họ bỏ vốn theo hướng có lợi nhất cho chủ đầu tư. - Thông qua hoạt động trực tiếp đầu tư các nhà đầu tư nước ngoài tham dự vào quá trình giám sát và đóng góp việc thực thi các chính sách mở cửa kinh tế theo các cam kết thương mại và đầu tư song phương và đa phương của các nước chủ nhà. Về phía nước tiếp nhận đầu tư trực tiếp: - Giúp tăng cường khai thác vốn của từng chủ đầu tư nước ngoài. nhiều nước thiếu vốn trầm trọng nên đối với hình thức đầu tư trực tiếp không quy định mức đóng góp tối đa của mỗi chủ đầu tư, thậm chí, đóng góp vốn càng nhiều thì càng được hưởng những chính sách ưu đãi về thuế của nước chủ nhà. - Giúp tiếp thu được công nghệ tiên tiến và kinh nghiệm quản lý kinh doanh của các chủ đầu tư nước ngoài. - Nhờ có vốn đầu tư nước ngoài cho phép nước chủ nhà có điều kiện khai thác tốt nhất những lợi thế của mình về tài nguyên, vị trí, mặt đất, mặt nước… - Sự cạnh tranh, ganh đua giữa các nhà đầu tư có vốn trong nước và nước ngoài tạo động lực kích thích sự đổi mới và hoàn thiệ trong các nhà doanh nghiệp và đây là nhân tố quan trọng đưa nền kinh tế phát triển với tốc độ cao. - Các dự án FDI góp phần giải quyết việc làm nâng cao mức sống của người lao động. Hạn chế - Nếu đầu tư vào môi trường bất ổn định về kinh tế và chính trị chủ đầu tư nước ngoài dễ bị mất vốn. - Như trên đã đề cập, nước chủ nhà không có một sự quy hoạch thu hút vốn FDI đầu tư cụ thể và khoa học dẫn tới sự đầu tư tràn lan kém hiệu quả, tài nguyên thiên nhiên bị bóc lột quá mức và sự ô nhiễm môi trường nghiêm trọng. - Vì hiện nay ở các nước tư bản phát triển thực hiện sự kiểm soát gay gắt những dự án gây ô nhiễm môi trưòng, nên xu thế nhiều nhà tư bản nước ngoài đã và đang chuyển giao những công nghệ độc hại sang các nước kém phát triển. Tác động của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế đối với hoạt động FDI Tác động thuận lợi đến hoạt động FDI Quy mô thị trường thuận lợi lớn hơn nhờ đó mà tăng sức hút của các nguồn vốn FDI: ví dụ trước đây khi đầu tư vào việt nam, các nhà đầu tư nước ngoài chủ yếu là nhắm đến thị trường việt nam, thì nay thị trường Việt Nam đang ở giai đoạn cuối thực hiện các chương trình hội nhập khu vực ASEAN, thuế nhập khẩu khi thực hiện thương mại giữa các nước khu vực giảm mà các nhà đầu tư đang hoạt động tại việt nam có thể dễ dàng đưa hàng hóa vào các nước asean. Môi trường đầu tư được cải thiện theo hướng bình dẳng, thủ tục đơn giản, công khai và mang những chuẩn mực quốc tế. Hệ thống pháp lý đầy đủ và hoàn chỉnh hơn tạo điều kiện chuẩn mực cho các nhà đầu tư hoạt động. Cạnh tranh quyết liệt hơn là nhân tố tạo ra động lực cải tiến và hoàn thiện: - Cạnh tranh giữa các nước nhằm thu hút vốn đầu tư FDI, buộc chính phủ phải quan tâm mạnh mẽ và thường xuyên hoàn thiện môi trường đầu tư. - Cạnh tranh giữa các nhà đầu tư có vốn nước ngoài với nhau và với các nhà đầu tư nội địa kích thích sự ganh đua trong hoàn thiện sản phẩm, giảm giá thành…. tạo ra hàng hóa tôt hơn đáp ứng yêu cầu của xã hội. Hội nhập kinh tế quốc tế tác động tích cực đến việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, là nhân tố quan trọng nâng cao hiệu quả hoạt động FDI: - Tạo ra các nhà quản lý doanh nghiệp có tầm nhìn rộng hơn, bao quát hơn đáp ứng yêu cầu thị trường được mở rộng, mang tính cạnh tranh cao. - Tạo ra các nhà chuyên gia giỏi đáp ứng các yêu cầu kinh doanh sản phẩm và dịch vụ mang chuẩn mực quốc tế. - Kích thích đội ngũ công nhân nâng cao tay nghề để duy trì được chỗ làm việc của mình trong môi trường cạnh tranh cao. Ngoài ra toàn cầu hóa tạo ra môi trường hàng hóa và dịch vụ rẻ hơn, chất lượng cao hơn đáp ứng yêu cầu của người lao động tốt hơn, nhờ vậy mức sống được nâng cao, thể lực, trí tuệ, văn hóa của người lao động có điều kiện phát triển tốt hơn. và như vậy nguồn nhân lực thỏa mãn tốt hơn yêu cầu của hoạt động đầu tư FDI. Hội nhập kinh tế quốc tế hỗ trợ các nhà đầu tư FDI bảo vệ quyền lợi kinh tế của mình tốt hơn, nhờ đó tạo sự yên tâm trong hoạt động đầu tư ở nước ngoài: - Có môi trường pháp lý mang những chuẩn mực quốc tế để hoạt động. - Thương hiệu và quyền sở hữu trí tuệ của doanh nghiệp được bảo hộ (đây là quan điểm mà nhà đầu tư có vốn nước ngoài đặc biệt quan tâm khi đầu tư vào các nước có nên kinh tế chuyển đổi). - Bảo vệ quyền lợi của mình thuận lợi hơn khi có tranh chấp. Tác động không thuận lợi của quá trình hội nhập đối với hoạt động FDI Thị trường đầu tư thuận lợi mở rộng và nước nào có môi trường cạnh tranh kém hơn sẽ khó khăn hơn trong thu hút vốn đầu tư FDI thật vậy, khi chưa thực hiện mở cửa nền kinh tế, thì các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào một thị trường, dù thị trường ấy có tính cạnh tranh chưa cao, nhưng đầu tư như là một cách thức vượt hang rào bảo hộ mậu dịch cao. Thì nay với sự hộ nhập khu vực và quốc tế hàng rào ấy không còn nữa thì các nhà đầu tư nước ngoài sẽ chỉ quan tâm đầu tư vào những thị trường hấp dẫn mang tính canh tranh cao nhất, sau đó bằng con đường thương mại đưa hang hóa vào các nước khác có môi trường kém cạnh tranh hơn. Liên kết kinh tế khu vực có thể dẫn tới sự phá vỡ quy hoạch và chiến lược thu hút vốn FDI của một quốc gia, nếu như quy hoạch và chuến lược ấy đã đựơc xây dựng mà chưa tính đến sự thay đổi về quy mô, về quy hoạch do tiến trình hội nhập mang lại. Một số nhà đầu tư nước ngoài đang hoạt động sẽ gặp khó khăn, nếu như mục tiêu trước khi mở cửa kinh tế là lợi dụng chính sách bảo hộ mậu dịch lớn của nước tiếp cận đầu tư để tồn tại và phát triển. ví dụ các doanh nghiệp FDI sản xuất đường ăn, sắt thép, xi măng… trước đây hoạt động thuận lợi do chính sách bảo hộ mậu dịch của nhà nước Việt Nam nay cùng với tiến trình hội nhập: thuế nhập khẩu giảm, giây phép nhập khẩu dần bị loại bỏ thì với chi phí sản xuất cao như hiện nay rất khó cạnh tranh với hang nhập khẩu từ các nước ASEAN khác. E Tóm lại, hội nhập kinh tế quốc tế sẽ mang lại cơ hội và thách thức cho các quốc gia vào quá trình này. Để nâng cao hiệu quả thu hút vốn đầu tư thì chính phủ cần chủ động đề xuất các giải pháp để tận dụng phát triển cơ hội và hạn chế các thách thức nguy cơ do hội nhập mang lại. Các hình thức FDI cơ bản ở Việt Nam. Hình thức hợp đồng hợp tác kinh doanh Khái niệm Hợp đồng hợp tác kinh doanh là văn bản ký kết giữa hai bên hoặc nhiều bên để tiến hành đầu tư, kinh doanh ở việt nam, trong đó quy định trách nhiệm và phân chia kết quả kinh doanh cho mỗi bên mà không thành lập pháp nhân mới các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài được hợp tác với tổ chức, cá nhân nước ngoài để thực hiện hợp đồng hợp tác kinh doanh Nội dung Theo quy định của nghị định Chính phủ về chi tiết thi hành luật đầu tư nước ngoài của việt nam thì nội dung hợp đồng hợp tác kinh doanh có vốn đầu tư nước ngoài phải có những nội dung bắt buộc sau: Tên, địa chỉ, người đại diện có thẩm quyền của các bên thực hiện hợp tác kinh doanh, địa chỉ giao dịch hoặc địa chỉ nơi thực hiện dự án. Mục tiêu và phạm vi kinh doanh. Đóng góp của các bên hợp doanh, việc phân chia kết quả kinh doanh, tiến độ thực hiện hợp đông. Sản phẩm chủ yếu, tỷ lệ xuất khẩu và tiêu thụ trong nước Thời hạn hợp đồng Quyền, nghĩa vụ của các bên hợp doanh. Các nguyên tắc tài chính Thể thức sửa đổi, chấm dứt hợp đồng, điều kiện chuyển nhượng Trách nhiệm do vi phạm hợp đồng, phưong thức giải quyết tranh chấp. ngoài các nội dung trên, các bên hợp doanh có thể thỏa thuận những nội dung khác trong hợp đồng hợp tác kinh doanh hợp đồng hợp tác kinh doanh phải do đại diện có thẩm quyền của các bên hợp doanh ký vào từng trang và ký đầy đủ vào cuối hợp đồng. hợp đồng hợp tác hinh doanh có hiệu lực kể từ ngày được cấp giấy phép đầu tư Vấn đề điều hành hoạt động, hợp tác kinh doanh + Thành lập ban điều phối: Do các bên tham gia thỏa thuận, nhưng không phải là cơ quan lãnh đạo của các bên hợp doanh. + Lập văn phòng điều hành: Bên hợp doanh nước ngoài được thành lập văn phòng điều hành tại việt nam để làm đại diện cho mình trong việc thực hiện hợp đồng hợp tác kinh doanh và chịu trách nhiệm về hoạt động của văn phòng điều hành. Văn phòng điều hành của bên hợp doanh nước ngoài có con dấu, dược mở tài khoản, được tuyển dụng lao động, đựơc ký hợp đồng và tiến hành các hoạt động kinh doanh trong phạm vi các quyền và nghĩa vụ quy định tại giấy phép đầu tư. Nghĩa vụ nộp thuế của các bên hợp doanh Bên hợp doanh nước ngoài thực hiện nghĩa vụ thuế và các nghĩa vụ tài chính khác theo luật đầu tư nước ngoài, bên hợp doanh việt nam thực hiện nghĩa vụ thuế và các nghĩa vụ tài chính khác theo các quy định của pháp luật áp dụng đối với các doanh nghiệp trong nước. Thuế thu nhập doanh nghiệp và các nghĩa vụ tài chính khác của các bên hợp doanh (gồm cả tiền thuê đất, thuế tài nguyên…) có thể được tính gộp vào phần tài sản được chia cho bên hợp doanh việt nam và bên hợp doanh việt nam có trách nhiệm nộp cho nhà nước. Hình thức doanh nghiệp liên doanh Khái niệm Là hình thức đầu tư mà một doanh nghiệp mới được thanh lập trên cơ sở góp vốn của hai bên hoặc nhiều bên việt nam và nước ngoài. Các cách thức hình thành doanh nghiệp liên doanh - Doanh nghiệp việt nam và doanh nghiệp hoặc cá nhân nước ngoài (có thể nhiều bên). - Doanh nghiệp liên doanh đã được thành lập ở Việt Nam với: Nhà đầu tư nước ngoài. Doanh nghiệp Việt Nam. Cơ sở khám chữa bệnh, giáo dục đào tạo, nghiên cứu khoa học đáp ứng các điều kiện do chính phủ quy định. Người Việt Nam định cư ở nước ngoài. Doanh nghiệp liên doanh Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài - Doanh nghiệp liên doanh được thành lập trên cơ sở hiệp định giữa Chính phủ Việt Nam với chính phủ các nước khác. Hình thức tổ chức hoạt động của doanh nghiệp liên doanh Công ty trách nhiệm hữu hạn pháp nhân việt nam. - Công ty cổ phần pháp nhân Việt Nam. Vấn đề góp vốn của liên doanh Vốn pháp định: Vốn pháp định của doanh nghiệp liên doanh ít nhất phải bằng 30% vốn đầu tư. đối với các dự án xây dựng kết cấu hạ tầng, dự án đầu tư vào địa bàn khuyến khích đầu tư, dự án trồng rừng, dự án có quy mô lớn, tỷ lệ này có thể thấp hơn, nhưng không dưới 20% vốn đầu tư và phải được cơ quan cấp giấy phép đầu tư chấp nhận. - Tỷ lệ góp vốn của bên hoặc các bên liên doanh nước ngoài do các bên liên doanh thỏa thuận, nhưng không được thấp hơn 30% vốn pháp định của doanh nghiệp. căn cứ vào lĩnh vực kinh doanh, công nghệ, thị trường, hiệu quả kinh doanh và các lợi ích kinh tế - xã hội khác của dự án, cơ quan cấp giấy phép đầu tư có thể xem xét cho phép bên liên doanh nước ngoài có tỷ lệ góp vốn thấp hơn, nhưng không dưới 20% vốn pháp định. Trường hợp thành lập doanh nghiệp liên doanh mới, tỷ lệ góp vốn pháp định của các nhà đầu tư nước ngoài phải bảo đảm điều kiện nêu trên . - Đối với những dự án quan trọng theo quy định của chính phủ, khi ký kết hợp đồng kinh doanh, các bên liên doanh thỏa thuận việc tăng tỷ lệ góp vốn của bên việt nam trong vốn pháp định của doanh nghiệp liên doanh Góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng đất: Việc góp vốn pháp định bằng giá trị quyền sử dụng đất của bên việt nam do các bên liên doanh thỏa thuận trên cở mức giá tiền thuê đất được Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định trong khung giá do Bộ Tài chính ban hành. 1.6.2.5. Vấn đề quản trị doanh nghiệp liên doanh Hội đồng quản trị: - Số thành viên do các bên tham gia quyết định. - Nhiệm kỳ hội đồng quản trị không quá 5 năm. - Trong trường hợp thành lập doanh nghiệp liên doanh mới, bên doanh nghiệp liên doanh đang hoạt động có ít nhất 2 thành viên trong hội đồng quản trị và trong đó có ít nhất 1 thành viên là công dân Việt Nam đại diện cho bên liên doanh Việt Nam. Tổng giám đốc doanh nghiệp liên doanh: Tổng giám đốc hay phó tổng giám đốc thứ nhất là công dân Việt Nam, thường trú tại Việt Nam. Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài: Khái niệm: - Doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài là doanh nghiệp thuộc sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài do nhà đầu tư nước ngoài thành lập tại Việt Nam, tự quản và tự chịu trách nhiệm về kết quả kinh doanh. - Doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài đã thành lập tại việt nam được hợp tác với nhau và/ hoặc với nhà đầu tư nước ngoài để thành lập doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài mới tại Việt Nam. Hình thức tổ chức hoạt động - Công ty trách nhiệm hữu hạn pháp nhân Việt Nam. - Công ty cổ phần pháp nhân Việt Nam. Vốn pháp định của doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài. Vốn pháp định của doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài ít nhất phải bằng 30% vốn đầu tư. đối với các dự án xây dựng công trình kết cấu hạ tầng, dự án đầu tư vào địa bàn khuyến khích đầu tư, dự án trồng rừng, dự án có quy mô lớn, tỷ lệ này có thể thấp hơn nhưng không dưới 20% vốn đầu tư và phải được cơ quan cấp giấy phép đầu tư chấp thuận. Bộ máy quản lý Việc thành lập bộ máy quản lý và cử nhân sự của doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài do nhà đầu tư nước ngoài quyết định. Chương II: THỰC TRẠNG THU HÚT VỐN ĐẦU TƯ NUỚC NGOÀI CỦA VIỆT NAM TRONG CÔNG NGHIỆP GIAI ĐOẠN 1986 – 2010 Vốn đầu tư trực tiếp FDI Quy mô thu hút vốn Tính từ năm 1988 - 2007 cả nước có hơn 9.500 dự án đầu tư nước ngoài(ĐTNN)được cấp phép đầu tư với tổng vốn đăng ký khoảng 98 tỷ USD (kể cả vốn tăng thêm). Trừ các dự án đã hết thời hạn hoạt động và giải thể trước thời hạn, hiện có 8.590 dự án còn hiệu lực với tổng vốn đăng ký 83,1 tỷ USD. Thời kỳ 1991-1996 được xem là thời kỳ “bùng nổ” ĐTNN tại Việt Nam (có thể coi như là “làn sóng ĐTNN” đầu tiên vào Việt Nam) với 1.781 dự án được cấp phép có tổng vốn đăng ký (gồm cả vốn cấp mới và tăng vốn) 28,3 tỷ USD. Tuy nhiên trong 3 năm 1997-1999 có 961 dự án được cấp phép với tổng vốn đăng ký hơn 13 tỷ USD; nhưng vốn đăng ký của năm sau ít hơn năm trước (năm 1998 chỉ bằng 81,8% năm 1997, năm 1999 chỉ bằng 46,8% năm 1998), chủ yếu là các dự án có quy mô vốn vừa và nhỏ, nguyên nhân chính là do các nhà đầu tư gặp khó khăn về tài chính. Tuy nhiên, giai đoạn từ năm 2000 đến 2008 có thể thấy quy mô thu hút vốn FDI của VN ngày càng nhiều được thể hiện ở bảng số liệu sau: Nguồn: tổng hợp từ Bộ Kế hoạch & Đầu tư năm2008 Từ năm 2000 đến 2003, dòng vốn ĐTNN vào Việt Nam bắt đầu có dấu hiệu phục hồi chậm. Vốn đăng ký cấp mới năm 2000 đạt 2,01 tỷ USD, tăng 21% so với năm 1999; năm 2001 tăng 18,2% so với năm 2000; năm 2002 vốn đăng ký giảm, chỉ bằng 91,6% so với năm 2001, năm 2003 (đạt 1.51 tỷ USD), giảm 6% so với năm 2002. Và có xu hướng tăng nhanh từ năm 2004 (đạt 4,5 tỷ USD) tăng 45,1% so với năm trước; năm 2005 tăng 50,8%; năm 2006 tăng 75,4% và năm 2007 đạt mức kỷ lục trong 20 năm qua 20,3 tỷ USD, tăng 69% so với năm 2006, và tăng hơn gấp đôi so với năm 1996, năm cao nhất của thời kỳ trước khủng hoảng. Trong tháng 12/2008, cả nước có 112 dự án ĐTNN được cấp phép mới với tổng số vốn dăng ký 1254 triệu USD, nâng tổng số dự án cấp phép từ đầu năm đến 19/12/2008 lên 1171 dự án với tổng số vốn đăng ký 60,01 tỷ USD, giảm 24,2% về số dự án nhưng gấp 3,2 lần về vốn đăng ký so với năm 2007. Nếu tính cả 3,7 tỷ USD vốn đăng ký tăng thêm của 331 dự án được cấp phép từ các năm trước thì năm 2008 cả nước đã thu hút được 64 tỷ USD vốn đăng ký, gấp 3 lần năm 2007, đạt mức cao nhất từ trước tới nay. Trong 10 tháng đầu năm 2009, các nhà đầu tư nước ngoài đã đăng ký đầu tư vào Việt Nam 18,926 tỷ USD, bằng 27,1% so với cùng kỳ 2008. Có thể nhận thấy thời kỳ 1998 - 2007, các dự án đầu tư vào các ngành công nghiệp chiếm tỷ trọng lớn cả về số dự án lẫn vốn đầu tư 35,8%, tiếp đó là các lĩnh vực khách sạn, khu đô thị, văn phòng chiếm tỷ trọng 22,3%; các ngành công nghiệp nhẹ, chế biến thực phẩm và nông nghiệp chiếm 26, 2%. Có thể thấy 10 tháng đầu năm 2008, ngành công nghiệp nặng và dầu khí lại thu hút nhiều FDI, tiếp theo là khách sạn, văn phòng và căn hộ; cuối cùng công nghiệp nhẹ và nông nghiệp là ngành có quy mô thu hút vốn thấp nhất. Trong giai đoạn năm 2008, mặc dù, vốn FDI chủ yếu vào lĩnh vực bất động sản, song trên thực tế kết quả thu hút vốn FDI trong 11 tháng đầu năm 2008 cho thấy, vốn đăng ký cấp mới tập trung chủ yếu vào lĩnh vực công nghiệp và xây dựng, với 512 dự án với tổng vốn đăng ký 32,5 tỷ USD, chiếm 53,7% về số dự án và 55,7% về vốn đầu tư đăng ký, lĩnh vực dịch vụ có 400 dự án với tổng vốn đăng ký 25,5 tỷ USD, chiếm 42% về số dự án và 43,9% về vốn đầu tư đăng ký. Số còn lại thuộc lĩnh vực nông - lâm - ngư. Bên cạnh đó, cơ cấu đầu tư đã chuyển dịch dần sang lĩnh vực dịch vụ với sự xuất hiện của một số dự án quy mô lớn trong lĩnh vực bất động sản, cảng biển. Hiện nay, FDI chiếm một tỷ lệ đáng kể trong các ngành công nghiệp chủ đạo của Việt Nam, cụ thể là 42% công nghiệp giầy da, 25% trong may mặc và 84% trong điện tử, máy tính và các linh kiện. FDI chiếm 100% về khai thác dầu, sản xuất ô tô, máy giặt, tủ lạnh, máy điều hoà nhiệt độ, thiết bị văn phòng, …FDI cũng chiếm 60% sản lượng thép tấm, 28% xi măng, 33% sản phẩm điện/điện tử, 76% thiết bị y tế. Thế nhưng, lượng vốn FDI đã sụt giảm ngay trong tháng đầu tiên của năm 2009. Cả quý I/2009 tổng vốn FDI cam kết mới chỉ 6 tỷ USD và sau 2 quý mới chỉ đạt 8,7 tỷ USD cam kết và 4 tỷ USD giải ngân. Nguồn: Số liệu từ Cục Đầu tư nước ngoài - Bộ Kế hoạch & Đầu tư năm 2008 Tuy nhiên, với những nỗ lực vận động xúc tiến đầu tư, cải thiện môi trường đầu tư, cải cách thủ tục hành chính của các ngành các cấp, đến cuối năm 2009, tổng vốn FDI thu hút mới đã vươn lên con số 21,482 tỷ USD (bao gồm cả cấp mơi và tăng thêm vốn) với sự tham gia của 43 nhà đầu tư các nước, vùng lãnh thổ mà đứng đầu là Hoa Kỳ. Mặc dù vốn đăng ký giảm mạnh nhưng vốn thực hiện trong năm 2009 vẫn duy trì ở mức khá. Tốc độ giải ngân 10 tỷ USD đã khiến cho khoảng cách giữa vốn đăng ký và vốn thực hiện được giảm bớt. Bộ Kế hoạch và Đầu tư khẳng định, tuy FDI năm 2009 đạt thấp nhưng vẫn là con số cao trong bối cảnh khủng hoảng, suy giảm nguồn FDI thế giới và cạnh tranh gay gắt. Đáng lưu ý, kết quả này còn vượt hơn cả chỉ tiêu dự kiến của năm 2009 với con số hàng tỷ USD (Chỉ tiêu dự kiến là 20 tỷ USD cam kết, 8 tỷ USD giải ngân). Hoạt động sản xuất kinh doanh của khu vực FDI cũng đã nhanh chóng phục hồi, góp phần đưa nền kinh tế Việt Nam vượt qua đáy suy giảm, duy trì tăng trưởng dương với tốc tộ tăng 5,32% so với năm trước. Đặc biệt trong khi cả nước nhập siêu 12 tỷ USD thì khu vực FDI xuất siêu 5,03 tỷ USD.Bộ KHĐT cho biết xuất khẩu của khu vực FDI (kể cả dầu khí) năm 2009 đạt 29,9 tỷ USD, bằng 86,6 % so với năm 2008 và chiếm 52,7 % tổng xuất khẩu cả nước.Nếu không tính dầu thô, khu vực FDI xuất khẩu 23,6 tỷ USD, chiếm 41,7 % tổng xuất khẩu và bằng 98% so với năm 2008.Nhập khẩu của khu vực FDI năm 2009 đạt 24,8 tỷ USD, bằng 89,2% so với năm 2008 và chiếm 36,1% tổng nhập khẩu cả nước. Tuy nhiên, xu hướng sau khủng hoảng của các nhà đầu tư nước ngoài là cơ cấu lại và điều chỉnh chiến lược kinh doanh. Điều này sẽ ảnh hưởng tới các dự án đang được triển khai thực hiện và cả các dự án đang trong quá trình đàm phán. Cơ cấu FDI vào Việt nam trong năm 2009 đã cho thấy một sự chuyển dịch rõ nét khi mà lĩnh vực dịch vụ lưu trú và ăn uống trở thành lĩnh vực thu hút sự quan tâm lớn nhất của các nhà đầu tư nước ngoài với 8,8 tỷ USD cam kết. Lĩnh vực kinh doanh bất động sản đứng thứ 2 với 7,6 tỷ USD. Lĩnh vực công nghiệp chế biến, chế tạo vốn là lĩnh vực có có quy mô vốn FDI đăng ký lớn nhưng lại đứng thứ ba trong năm 2009 với 2,97 tỷ USD. Các chuyên gia cảnh báo cần theo sát các động thái phát triển để có các phản ứng chính sách nhanh nhạy và phù hợp nhằm tận dụng các thời cơ mới xuất hiện; đồng thời có giải pháp khắc phục các khó khăn mới nảy sinh để thu hút và sử dụng hiệu quả nguồn vốn này. Theo các nhận định gần đây, đà phục hồi của nền kinh tế thế giới trong năm 2010 sẽ mạnh hơn so với năm 2009.Luồng vốn FDI sẽ phục hồi trong ngắn hạn khi mà các nhà đầu tư ngày một lạc quan hơn về khả năng phục hồi và phát triển của nền kinh tế trong trung và dài hạn; các doanh nghiệp cũng tin tưởng hơn về khả năng vượt qua khủng hoảng và tận dụng đà tăng trưởng của mình. Tiến sĩ Lê Đình Ân, Giám đốc Trung tâm Thông tin và Dự báo kinh tế-xã hội Quốc gia cho rằng mức độ tăng trưởng kinh tế toàn cầu, hiệu quả của các chính sách cứu trợ của các quốc gia trước sự khủng hoảng, sự phục hồi và ổn định hệ thống tài chính, năng lực của các công ty xuyên quốc gia, đặc biệt tại các nền kinh tế mới nổi... sẽ quyết định mức độ phục hồi dòng vốn FDI trong thời gian tới. Với xu thế phục hồi này, Việt Nam được đánh giá là có nhiều triển vọng để nâng cao nguồn FDI. Kết quả nghiên cứu mới nhất của tổ chức UNCTAD cho thấy, Việt Nam nằm trong 15 nước được đánh giá cao về môi trường đầu tư và là điểm hấp dẫn cho FDI trong năm 2010. Các chính sách của Chính phủ Việt Nam về cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước, chuyển đổi hoạt động các tổng công ty, tập đoàn đặc biệt là thông qua việc bán một số doanh nghiệp cho các nhà đầu tư nước ngoài... cũng sẽ tạo dòng cho vốn FDI chảy mạnh vào Việt Nam. Mặc dù khủng hoảng kinh tế vừa qua là nguyên nhân chính dẫn đến FDI vào Việt Nam giảm mạnh, nhưng theo các chuyên gia kinh tế, còn có nguyên nhân từ những tồn tại yếu kém của nền kinh tế Việt Nam như sự thiếu đồng bộ của hệ thống pháp luật; chính sách về đầu tư, thủ tục vẫn còn rườm rà; hạ tầng cơ sở yếu; chi phí đầu vào còn ở mức cao; thiếu hụt nguồn nhân lực có đào tạo; công tác xúc tiến đầu thiếu tính chuyên nghiệp... Các chuyên gia cho rằng những yếu kém trong nội tại vẫn là những rào cản làm hạn chế luồng vốn FDI. Đây chính là các vấn đề cần tập trung giải pháp xử lý trong thời gian tới. Như vậy, trong những năm gần đây tình hình đầu tư nước ngoài ngày càng gia tăng cả về số lượng dự án lẫn qui mô vốn đầu tư cho dự án. Bên cạnh đó, Việt Nam cũng ngày càng thu hút được nhiều vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, số dự án đầu tư và số vốn đầu tư FDI gia tăng theo từng năm. Tính đến năm 2008 có 80 nước và vùng lãnh thổ đầu tư vào VN, trong đó các nước châu Á chiếm 68% số dự án, các nước EU chiếm 16,2 và các nước châu Mỹ chiếm 11%. Năm 2007 là năm thứ 2 liên tiếp, Hàn Quốc giữ vị trí nhà đầu tư nước ngoài lớn nhất vào Việt Nam với 1.837 dự án, tổng vốn đăng ký trên 13,5 tỷ USD; tiếp đến lần lượt là Singgapo, Đài Loan và Nhật Bản. Những quốc gia này đồng thời cũng là những quốc gia có số vốn thực hiện lớn nhất, chiếm tới 91% tổng số vốn thực hiện của cả nước. Cơ cấu vốn đầu tư cho vùng lãnh thổ cũng đã từng bước phù hợp với quy hoạch phát triển kinh tế. Những năm đầu các nguồn vốn đầu tư tập trung nhiều vào các tỉnh phí nam như: TP Hồ Chí Minh, Đồng Nai, Bà Rịa - Vũng Tàu,... thì hiện nay nguồn FDI có sự phân bố tương đối đồng đều giữa các vùng tập trung chủ yếu vào các khu vực kinh tế trọng điểm như Hà Nội, Hải Phòng, Quảng Ninh. Các tỉnh phía Nam thu hút được khoảng 73% số dự án được cấp phép và 60% tổng vốn đăng ký, trong khi đó các tỉnh phía Bắc chiếm 19,4 % trên số dự án được cấp phép và 26,4% vốn đăng ký. Hiện nay, ĐTNN đã có mặt ở 63 tỉnh thành phố trong cả nước, trong đó thành phố Hồ Chí Minh vẫn là nơi tu hút nhiều nhà ĐTNN nhất với trên 3.000 dự án còn hiệu lực, vốn đăng ký 26,9 tỷ USD, chiếm 29% tổng số dự án và 16,4% tổng vốn đăng ký của cả nước. Bà Rịa - Vũng tàu đang vươn lên rất sát với thành phố HCM với quy mô vốn đăng ký 23,3 tỷ USD, chiếm 14,2% tổng vốn đăng ký của các nước. Tiếp theo lần lượt là Hà Nội, Đồng Nai, Bình Dương, Ninh Thuận, Hà Tĩnh, Thanh Hóa, Phú Yên và Hải Phòng. 10 tỉnh, thành phố thu hút ĐTNN lớn nhất này đã chiếm tới 79% tổng vốn đăng ký của cả nước. 53 tỉnh thành còn lại chỉ chiếm 21% tổng vốn đăng ký. Sau 3 năm gia nhập WTO, có thể khẳng định FDI là một trong những điểm sáng nhất của bức tranh kinh tế Việt Nam.Trong quá trình gia nhập WTO , Việt Nam đã thực hiện nghiêm túc đòi hỏi của tổ chức này như minh bạch hóa chính sách, hoàn thiện và cải cách hành chính…từ đó đã tạo lập được môi trường kinh doanh có sức hấp dân đối với các nhà đầu tư quốc tế. Như vậy, giai đoạn 2000 - 2009 có thể xem là " bùng nổ " đầu tư nước ngoài tại VN, đặc biệt là năm 2008, với số vốn đăng ký kỷ lục sẽ tạo làn sóng ĐTNN lần thứ hai vào VN. Đánh giá hiệu quả sử dụng vốn FDI Kể từ sau khủng hoảng tài chính khu vực năm 1997, xu hướng dòng vốn FDI vào VN tiếp tục phục hồi và tăng trưởng. Các vùng trọng điểm kinh tế vẫn là đầu tàu trong việc thu hút vốn ĐTNN, làm động lực phát triển kinh tế của nước ta, tạo sức lan tỏa của ĐTNN sang những vùng có điều kiện kinh tế khó khăn. *Về quy mô dự án: Qua các thời kỳ, quy mô dự án ĐTNN có sự biến động thể hiện khả năng tài chính cũng như sự quan tâm của các nhà ĐTNN đối với môi trường đầu tư Việt Nam. Quy mô vốn đầu tư bình quân của một dự án ĐTNN tăng dần qua các giai đoạn, tuy có “trầm lắng” trong vài năm sau khủng hoảng tài chính khu vực 1997. Thời kỳ 1988-1990 quy mô vốn đầu tư đăng ký bình quân đạt 7,5 triệu USD/dự án/năm. Từ mức quy mô vốn đăng ký bình quân của một dự án đạt 11,6 triệu USD trong giai đoạn 1991-1995 đã tăng lên 12,3 triệu USD/dự án trong 5 năm 1996-2000. Trong 2 năm 2006 và 2007, quy mô vốn đầu tư trung bình của một dự án đều ở mức 14,4 triệu USD, cho thấy số dự án có quy mô lớn đã tăng lên so với thời kỳ trước, thể hiện qua sự quan tâm của một số tập đoàn đa quốc gia đầu tư vào một số dự án lớn (Intel, Panasonic, Honhai, Compal, Piaggio....). Nếu trong giai đoạn 20 năm trước đó (1988 - 2007), vốn FDI thực hiện đạt 42% tỷ USD, tức là tính trung bình chỉ giải ngân được 2,15 tỷ USD/năm, thì giải ngân trong năm 2008 đã bằng 26,7% tổng số vốn giải ngân 20 năm trước đó. Từ đây có thể nhận thấy, tỷ lệ vốn FDI thực hiện được so với cam kết cao hơn những năm qua và có thể đạt được mục tiêu đề ra trong năm 2009. Qua các thời kỳ, định hướng thu hút ĐTNN lĩnh vực công nghiệp- xây dựng tuy có thay đổi về lĩnh vực, sản phẩm cụ thể nhưng cơ bản vẫn theo định hướng khuyến khích sản xuất vật liệu mới, sản phẩm công nghệ cao, công nghệ thông tin, cơ khí chế tạo, thiết bị cơ khí chính xác, sản xuất sản phẩm và linh kiện điện tử... Đây cũng chính là các dự án có khả năng tạo giá trị gia tăng cao và Việt Nam có lợi thế so sánh khi thu hút ĐTNN. Nhờ vậy, cho đến nay các dự án ĐTNN thuộc các lĩnh vực nêu trên (thăm dò và khai thác dầu khí, sản xuất các sản phẩm công nghệ cao, sản phẩm điện và điện tử, sản xuất sắt thép, sản xuất hàng dệt may...) vẫn giữ vai trò quan trọng đóng góp cho tăng trưởng kinh tế, xuất khẩu và tạo nhiều việc làm và nguồn thu nhập ổn định cho hàng triệu lao động trực tiếp. Cơ cấu đầu tư có chuyển biến tích cực theo hướng gia tăng tỷ trọng đầu tư vào lĩnh vực công nghệ cao, lọc dầu và công nghệ thông tin (IT). Và hầu hết các dự án ĐTNN này sử dụng thiết bị hiện đại xấp xỉ 100% và tự động hoá đạt 100% cho sản lượng, năng suất, chất lượng cao, do đó có ảnh hưởng lớn đến các chỉ tiêu giá trị của toàn ngành. Tính đến hết năm 2007, lĩnh vực công nghiệp và xây dựng có tỷ trọng lớn nhất với 5.745 dự án còn hiệu lực, tổng vốn đăng ký hơn 50 tỷ USD, chiếm 66,8% về số dự án, 61% tổng vốn đăng ký và 68,5% vốn thực hiện. STT Chuyên ngành Số dự án Vốn đầu tư (USD) Vốn thực hiện (USD) 1 CN dầu khí 38 3,861,511,815 5,148,473,303 2 CN nhẹ 2,542 13,268,720,908 3,639,419,314 3 CN nặng 2,404 23,976,819,332 7,049,365,865 4 CN thực phẩm 310 3,621,835,550 2,058,406,260 5 Xây dựng 451 5,301,060,927 2,146,923,027 Tổng số 5,745 50,029,948,532 20,042,587,769 Nguồn: tổng hợp từ Bộ Kế hoạch & Đầu tư và Bộ Tài chính Trong năm 2007 tuy vốn đầu tư đăng ký tiếp tục tập trung vào lĩnh vực công nghiệp (50,6%), nhưng đã có sự chuyển dịch cơ cấu đầu tư mạnh vào lĩnh vực dịch vụ, chiếm 47,7% tổng vốn đăng ký của cả nước, tăng 16,5% so với năm 2006 (31,19%) với nhiều dự án xây dựng cảng biển, kinh doanh bất động sản, xây dựng khu vui chơi, giải trí… Năm 2008, tổng doanh thu của khối các doanh nghiệp FDI trong năm 2008 lên đến 50,55 tỷ USD, tăng 24,4% so với năm 2007. Trong đó, giá trị xuất khẩu của các doanh nghiệp FDI năm 2008 đạt 24,465 tỷ USD, chiếm khoảng 40% tổng kim ngạch xuất khẩu cả nước. Cũng trong năm nay, khối doanh nghiệp này đã tạo ra trên 200 nghìn việc làm mới trong tổng số 1,615 triệu việc làm mới tạo được của cả nước, nâng tổng số lao động làm việc trong các dự án FDI lên 1,467 triệu người, góp phần giải quyết vấn đề công ăn việc làm vốn đang rất nóng bỏng của Việt Nam hiện nay. Bên cạnh đó, khối doanh nghiệp FDI đã đóng góp vào ngân sách nhà nước 1,982 tỷ USD, tăng 25,8% so với năm 2007. Trong 5 tháng đầu năm 2009, cả nước đã thu hút thêm hơn 2,412 tỷ USD vốn đầu tư đăng ký mới, bao gồm cả vốn bổ sung của những dự án cũ. Trong đó, riêng phần mới cấp phép có 281 dự án, với tổng vốn đăng ký trên 2 tỷ USD, tăng 8,5% về số dự án và tăng 19,5% về vốn so với cùng kỳ năm trước. Lĩnh vực công nghiệp và xây dựng chiếm 74,3% số dự án và 66,1% tổng vốn đăng ký cấp mới; lĩnh vực dịch vụ chiếm tương ứng là 21,1% và 33,4%; phần còn lại thuộc lĩnh vực nông-lâm-thuỷ sản. Đáng chú ý là, trong số dự án mới cấp phép không chỉ có một số dự án có quy mô vốn đầu tư lớn, mà còn gắn liền với việc sẽ chuyển giao công nghệ cao, như Tập đoàn Intel 605 triệu USD, Công ty Tây Hồ Tây 314 triệu USD, Winvest Investment 300 triệu USD, Công ty Panasonic Communication 76,36 triệu USD, Công ty Kho xăng dầu Vân Phong 60 triệu USD… Từ sản xuất cao su, nhựa, linh kiện và thiết bị điện tử, linh kiện ô tô, xi- măng đến các ngành giày dép, đồ chơi trẻ em, nến thơm…đều có sự tăng trưởng đáng kể. Trong đó, riêng các doanh nghiệp FDI trong các KCN có doanh thu tăng 54% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, doanh thu xuất khẩu tăng tới 85%. Ông Mai Xuân Hòa, Phó trưởng Ban quản lý Khu kinh tế Hải Phòng cho biết, ngay từ đầu năm, các doanh nghiệp FDI trong các KCN đã tăng tuyển dụng lao động đón đầu sự phục hồi kinh tế. Đến nay, nhiều doanh nghiệp có kim ngạch xuất khẩu lớn tăng trưởng rất cao như Yazaki, Pioneer, Toyota Gosei…Ngay cả một số doanh nghiệp nhỏ như Hilex, J.K.C, Syntec, Sougou…cũng có sự phục hồi mạnh, tuyển dụng thêm nhiều lao động. Ngành giày dép sau nhiều năm “liêu xiêu” vì vụ áp thuế chống bán phá giá giày mũ da của EU lại tiếp đến cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu có lúc đứng trước nguy cơ phá sản, nay cũng bắt đầu phục hồi. Các đơn hàng tăng lên và doanh nghiệp tăng tuyển dụng lao động để đáp ứng yêu cầu sản xuất. Các ngành khác như xi măng (Chinfon) vẫn sản xuất ổn định, tăng trưởng khá và đóng góp cho ngân sách cao. Ngoài ra, hơn chục dự án FDI mới đi vào hoạt động, góp phần làm tăng thêm 200 tỷ đồng giá trị sản xuất công nghiệp cho khối này. Trong đó, dự án nhà máy sản xuất tua-bin sức gió của Tập đoàn GE (Mỹ) trong KCN Nomura (xuất xưởng lô hàng đầu tiên vào tháng 5 vừa qua), dự kiến, sẽ khánh thành vào ngày 15-10 tới. Một vài ngành sản xuất có sự sụt giảm nhẹ như ngành sản xuất thép giảm 4,1% do một số nhà máy tạm dừng lò để bảo dưỡng; sản xuất sản phẩm từ kim loại giảm 35,6%; chế biến gỗ giảm 2,5% do thiếu đầu vào. Số liệu của Bộ Kế hoạch và Đầu tư cho thấy, trong tháng 7 vừa qua, cả nước có thêm 95 dự án FDI mới được cấp phép với tổng số vốn hơn 508 triệu USD. Tính cả các dự án tăng vốn, tổng lượng vốn FDI được đăng ký mới trong tháng 7 đạt 698 triệu USD. Như vậy, tổng số dự án FDI đăng ký  cấp mới và tăng vốn trong 7 tháng qua đã đạt 670 dự án với tổng số vốn đạt hơn 9,1 tỷ USD, chỉ bằng  68,2% cùng kỳ năm năm ngoái. Con số này còn cách khá xa mục tiêu thu hút vốn FDI năm nay là khoảng 22-25 tỷ USD. Theo các chuyên gia kinh tế, trong điều kiện kinh tế thế giới còn khó khăn thì việc các luồng vốn FDI giảm sút là điều không đáng lo ngại. Vấn đề quan trọng là liệu nước ta còn có lợi thế và các lĩnh vực tiềm năng hấp dẫn các luồng vốn FDI hay không? Nguồn vốn FDI đăng ký mới đang giảm tốc trong những tháng gần đây: từ khoảng 1,5 tỷ USD trong tháng 5, xuống còn trên 800 triệu USD trong tháng 6 và tiếp tục thể hiện trong tháng 7 này.Theo báo cáo của Cục Đầu tư nước ngoài (Bộ Kế hoạch và Đầu tư), tính đến ngày 20/7, vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) giải ngân đã tăng thêm 1 tỷ USD so với con số tại báo trước và đạt 6,4 tỷ USD. Như vậy, bình quân mỗi tháng của năm 2010, giải ngân FDI vẫn đạt trên 900 triệu USD.Tuy nhiên, tốc độ tăng trưởng vốn FDI giải ngân so với cùng kỳ năm ngoái đã giảm dần trong 3 tháng trở lại đây, từ mức tăng 7,1% trong tháng 4 xuống còn tăng 6% trong tháng 6, và tháng này chỉ còn tăng 1,6%. Theo Cục Đầu tư nước ngoài, kim ngạch xuất khẩu 7 tháng đầu năm khu vực FDI đã đạt 20,674 tỷ USD, tăng 26,7% so với cùng kỳ. Nếu không kể dầu thô, khối này đạt  kim ngạch xuất khẩu 17,67 tỷ USD, tăng tới 40,1% trong cùng so sánh. Trong khi đó, khu vực FDI nhập khẩu tới 19,453 tỷ USD trong 7 tháng qua, tăng 46,4% so với cùng kỳ.Như vậy, các doanh nghiệp FDI đã xuất siêu 1,221 tỷ USD kể từ đầu năm đến nay. Nếu không kể dầu thô, khối này nhạp siêu 1,783 tỷ USD. Mặc dù, nếu so với chỉ tiêu đề ra từ đầu năm, giải ngân vốn FDI cả năm vào khoảng 10-11 tỷ USD, đến tháng này, vốn FDI giải ngân đã “đi” được gần 2/3 quãng đường.Nhưng thu hút vốn FDI đã giảm tốc trong tháng này. Trong tháng 7, cả nước thu hút thêm được 95 dự án đăng ký mới với số vốn đăng ký tương ứng chỉ tăng thêm 508 triệu USD, một mức rất thấp nếu so với bình quân 1,3 tỷ USD trong 6 tháng trước đó. Hơn nữa, sự sụt giảm này đã thể hiện trong vài tháng gần đây, từ mức khoảng 1,5 tỷ USD trong tháng 5, giảm xuống còn trên 800 triệu USD trong tháng 6 và đến tháng này chỉ còn hơn nửa tỷ USD.Với kết quả này, tổng số dự án đăng ký cấp mới tính từ đầu năm đã đạt 533 dự án, tương ứng số vốn đăng ký 8,413 tỷ USD, bằng 83,9% về số dự án và 105,4% về vốn đăng ký so với cùng kỳ.Số dự án tăng vốn cũng “chật vật”. Trong tháng qua, chỉ có thêm 16 dự án đăng ký tăng vốn với số vốn tăng thêm là 190 triệu USD. Tính chung từ đầu năm, đã có 137 dự án tăng vốn với tổng số vốn đăng ký tăng thêm là 715 triệu USD.Như vậy, tổng số dự án FDI đăng ký cả cấp mới và tăng vốn trong 7 tháng qua đã đạt 670 dự án với tổng số vốn đạt 9,128 tỷ USD, tương đương 68,2% cùng kỳ năm 2009. Con số này còn cách khá xa mục tiêu thu hút vốn FDI năm 2010 khoảng 22-25 tỷ USD. Theo Nguyên Phó thủ tướng Vũ Khoan, với nền kinh tế tăng trưởng nhanh như hiện nay. Nếu chỉ huy động nguồn vốn trong nước thì không thể đáp ứng được tốc độ phát triển. Nước ta còn rất nhiều nhiều lĩnh vực cần đầu tư, rất nhiều lĩnh vực cần phải huy động cũng như cần được chuyển giao công nghệ và trình độ quản lý tiên tiến của các doanh nghiệp nước ngoài. Phải khẳng định là việc thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài có hiệu quả. Bởi nhìn lại sự phát triển kinh tế trong những năm đổi mới, từ năm 1986 đến nay thì thấy, FDI đóng góp hơn 30% cho công nghiệp, chiếm 10% trong tỷ trọng thu ngân sách, đóng góp 15– 17% cho GDP... Có thể thấy rằng, đây là nguồn lực không thể bỏ qua, không thể bỏ qua, không thể bỏ phí. Nhưng vấn đề là sử dụng cái nguồn lực đó như thế nào? FDI có tầm quan trọng và những tác động lan tỏa tích cực tới sự phát triển của nền kinh tế của cả nước, trong nhưng năm tới, nước ta vẫn cần rất thu hút nhiều vốn FDI nhằm tạo động lực phát triển cho nền kinh tế. Tuy nhiên hiện nay khi vị thế, cũng như trình độ phát triển kinh tế của nước ta đã thay đổi thì các việc phân bố và thu hút FDI vào lĩnh vực nào, sử dụng ra sao là bài toán cần được tính toán để nền kinh tế phát triển nhanh và hiệu quả. Sản xuất phục hồi mạnh mẽ là nguyên nhân dẫn tới lượng vốn FDI đổ vào lĩnh vực chế biến chế tạo chiếm tỷ trọng lớn. Nếu nhìn trên kết quả hoạt động thương mại quốc tế, các doanh nghiệp FDI đang thể hiện sự hồi phục mạnh mẽ sau giai đoạn trì trệ kéo dài. Vai trò của FDI đối với Việt Nam Tốc độ tăng trưởng kinh tế - Đầu tư trực tiếp là nguồn vốn bổ sung quan trọng cho vốn đầu tư đáp ứng nhu cầu đầu tư phát triển xã hội và tăng trưởng kinh tế: Đóng góp của FDI trong đầu tư xã hội biến động lớn. Trong thời kỳ 1991-1995 tỷ trọng của FDI trong đầu tư xã hội chiếm 30%, là mức cao nhất cho đến nay. Tỷ lệ này đã giảm dần chiếm 23,4% trong giai đoạn 1996-2000 và trong 5 năm 2001-2005 và 2006-2007 chiếm 16,7%. - FDI góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế, nâng cao năng lực sản xuất công nghiệp Tốc độ tăng trưởng công nghiệp của khu vực kinh tế có vốn FDI cao hơn mức tăng trưởng công nghiệp chung của cả nước, góp phần thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, tăng tỷ trọng của ngành công nghiệp trong GDP từ 23,79% vào năm 1991 lên 40% năm 2004. Đầu tư trực tiếp đã kích thích lĩnh vực dịch vụ Việt Nam nâng cao chất lượng và phát triển nhanh hơn, nhất là trong các ngành viễn thông, du lịch, kinh doanh bất động sản, giao thông vận tải, tài chính, ngân hàng… - Thúc đẩy chuyển giao công nghệ: đầu tư trực tiếp góp phần thúc đẩy chuyển giao công nghệ tiên tiến vào Việt Nam, phát triển một số ngành kinh tế quan trọng của đất nước như viễn thông, thăm dò và khai thác dầu khí, hoá chất, cơ khí chế tạo điện tử, tin học, ô tô, xe máy… Nhìn chung, trình độ công nghệ của khu vực ĐTNN cao hơn hoặc bằng các thiết bị tiên tiến đã có trong nước và tương đương các nước trong khu vực. Hầu hết các Doanh nghiệp có vốn ĐTNN áp dụng phương thức quản lý tiên tiến, được kết nối và chịu ảnh hưởng của hệ thống quản lý hiện đại của công ty mẹ. - Có tác động lan toả đến các thành phần kinh tế khác trong nền kinh tế thông qua sự liên kết giữa doanh nghiệp có vốn ĐTNN với các doanh nghiệp trong nước, công nghệ và năng lực kinh doanh được chuyển giao từ doanh nghiệp có vốn ĐTNN đến các thành phần khác của nền kinh tế. Sự lan tỏa này có thể theo hàng dọc giữa các doanh nghiệp trong ngành dọc hoặc theo hàng ngang giữa các doanh nghiệp hoạt động cùng ngành. - FDI đóng góp đáng kể vào Ngân sách Nhà nước và các cân đối vĩ mô. Cùng với sự phát triển các doanh nghiệp có vốn ĐTNN tại Việt Nam, mức đóng góp của khu vực kinh tế có vốn ĐTNN vào ngân sách ngày càng tăng. Thời kỳ 1996-2000, không kể thu từ dầu thô đạt 1,49 tỷ USD, gấp 4,5 lần 5 năm trước. Trong 5 năm 2001-2005, thu ngân sách trong khối doanh nghiệp FDI đạt hơn 3,6 tỷ USD, tăng bình quân 24%/năm. FDI tác động tích cực đến các cân đối lớn của nền kinh tế như cân đối ngân sách, cải thiện cán cân vãng lai, cán cân thanh toán quốc tế thông qua việc chuyển vốn vào Việt Nam và mở rộng nguồn thu ngoại tệ gián tiếp qua khách quốc tế, tiền thuê đất, tiền mua máy móc, nguyên vật liệu… - FDI góp phần giúp Việt Nam tiếp cận và mở rộng thị trường quốc tế, nâng cao năng lực xuất khẩu Tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu của khu vực ĐTNN tăng nhanh, cao hơn mức bình quân chung của cả nước, đóng góp quan trọng vào việc gia tăng kim ngạch xuất khẩu của cả nước. ĐTNN chiếm một tỷ trọng cao trong xuất khẩu một số sản phẩm: 100% dầu khí, 84% hàng điện tử, máy tính và linh kiện, 42% sản phẩm da giày, 35% hàng may mặc… Trong lĩnh vực khách sạn và du lịch, ĐTNN đã tạo điều kiện gia tăng nhanh chóng xuất khẩu tại chỗ. Thông qua mạng lưới tiêu thụ của các tập đoàn xuyên quốc gia, nhiều sản phẩm sản xuất tại Việt Nam đã tiếp cận được với các thị trường trên thế giới. Tiến bộ xã hội - Góp phần quan trọng trong việc tạo việc làm, tăng năng suất lao động, cải thiện nguồn nhân lực Đến nay, khu vực có vốn ĐTNN đã tạo ra việc làm cho trên 1,2 triệu lao động trực tiếp và hàng triệu lao động gián tiếp khác. Thông qua sự tham gia trực tiếp vào hoạt động của các doanh nghiệp có vốn ĐTNN, Việt Nam đã từng bước hình thành đội ngũ cán bộ quản lý, công nhân kỹ thuật có trình độ cao và có tác phong công nghiệp hiện đại, có kỷ luật lao động tốt, học hỏi được các phương thức lao động tiên tiến. Hoạt động của các doanh nghiệp có vốn ĐTNN tại Việt Nam cũng đã thúc đẩy các doanh nghiệp trong nước không ngừng đổi mới công nghệ, phương thức quản lý để nâng cao hơn chất lượng, sức cạnh tranh của sản phẩm và dịch vụ trên thị trường trong nước và quốc tế. Đặc biệt, một số chuyên gia Việt Nam làm việc tại các doanh nghiệp có vốn ĐTNN đã dần thay thế các chuyên gia nước ngoài trong đảm nhiệm các vị trí quản lý doanh nghiệp cũng như điều khiển các quy trình công nghệ hiện đại. - Góp phần mở rộng quan hệ đối ngoại, chủ động hội nhập kinh tế với khu vực và thế giới ĐTNN đã góp phần quan trọng trong việc xóa bỏ cấm vận của Hoa Kỳ đối với Việt Nam, tạo điều kiện mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế theo hướng đa phương hóa và đa dạng hóa, thúc đẩy Việt Nam chủ động hội nhập kinh tế khu vực và thế giới, đẩy nhanh tiến trình tự do hoá thương mại và đầu tư. Thông qua tiếng nói và sự ủng hộ của các nhà đầu tư nước ngoài, hình ảnh và vị thế của Việt Nam không ngừng được cải thiện. Môi trường Nhìn chung các doanh nghiệp có vốn ĐTNN tuân thủ các tiêu chuẩn môi trường Việt Nam và có kết quả tốt hơn so với số đông các doanh nghiệp trong nước vì có khả năng tài chính và khả năng tiếp cận với các kỹ năng quản lý môi trường. ĐTNN đã tác động tích cực tới kết quả môi trường của bạn hàng cung cấp đầu vào và các công ty vệ tinh thông qua việc hỗ trợ, tư vấn về hệ thống quản lý môi trường hoặc các giải pháp xử lý môi trường. Thông qua các đối tác liên doanh, các đối tác Việt Nam có thể học hỏi, được hỗ trợ và tư vấn để cải thiện kết quả môi trường. ĐTNN tạo điều kiện làm cho nguồn lực trong nước như lao động, đất đai, tài nguyên… được khai thác và sử dụng có hiệu quả hơn. Chương III: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ THU HÚT VỐN ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI VÀO VIỆT NAM GIAI ĐOẠN HIỆN NAY Để triển khai thực hiện việc thu hút và sử dụng hiệu quả vốn ĐTNN trong giai đoạn 2006- 2010 và một số năm về sau, Chính phủ sẽ chỉ đạo thực hiện các giải pháp sau : Nhóm giải pháp về quy hoạch: Đẩy nhanh tiến độ xây dựng và phê duyệt các quy hoạch còn thiếu; rà soát để định kỳ bổ sung, điều chỉnh các quy hoạch đã lạc hậu nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho nhà đầu tư trong việc xác định và xây dựng dự án. Quán triệt và thực hiện thống nhất các quy định mới của Luật Đầu tư trong công tác quy hoạch, đảm bảo việc xây dựng các quy hoạch ngành, lĩnh vực, sản phẩm phù hợp với các cam kết quốc tế. Hoàn chỉnh quy hoạch sử dụng đất, công bố rộng rãi quy hoạch, tạo điều kiện để đẩy nhanh tiến độ giải phóng mặt bằng cho các dự án đầu tư. Nhóm giải pháp về luật pháp, chính sách: Tiếp tục rà soát pháp luật, chính sách để sửa đổi hoặc loại bỏ các điều kiện áp dụng ưu đãi đầu tư không phù hợp với cam kết của Việt Nam với WTO và có giải pháp đảm bảo quyền lợi của nhà đầu tư liên quan. Xây dựng văn bản hướng dẫn các địa phương và doanh nghiệp về lộ trình cam kết mở cửa đầu tư nước ngoài làm cơ sở xem xét cấp giấy chứng nhận đầu tư. Theo dõi, giám sát việc thi hành pháp luật về đầu tư và doanh nghiệp để kịp thời phát hiện và xử lý các vướng mắc phát sinh. Khẩn trương ban hành các văn bản hướng dẫn các luật mới, nhất là các luật mới được Quốc hội thông qua trong năm 2006 có liên quan đến đầu tư, kinh doanh. Chấn chỉnh tình trạng ban hành và áp dụng các ưu đãi, hỗ trợ đầu tư trái với quy định của pháp luật. Tăng cường tập huấn, phổ biến nội dung và lộ trình thực hiện các cam kết quốc tế của Việt Nam. Nhóm giải pháp về xúc tiến đầu tư: - Các Bộ, ngành và Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh tiếp tục rà soát, cập nhật bổ sung danh mục kêu gọi đầu tư phù hợp với nhu cầu đầu tư phát triển và quy hoạch phát triển ngành, địa phương. Tăng cường các đoàn vận động đầu tư theo phương thức làm việc trực tiếp với các tập đoàn lớn, tại các địa bàn trọng điểm (Nhật Bản, Mỹ và EU) để kêu gọi đầu tư vào các dự án lớn, quan trọng. Chủ động tiếp cận và hỗ trợ các nhà đầu tư tiềm năng có nhu cầu đầu tư vào Việt Nam. Nhóm giải pháp về cải thiện cơ sở hạ tầng: - Tiến hành tổng rà soát, điểu chỉnh, phê duyệt và công bố các quy hoạch về kết cấu hạ tầng đến năm 2020 làm cơ sở thu hút đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng. Tăng cường công tác quy hoạch, thực thi các quy hoạch cũng như thu hút đầu tư vào các công trình giao thông, năng lượng. - Khẩn trương xây dựng và ban hành cơ chế khuyến khích các thành phần kinh tế ngoài nhà nước tham gia phát triển các công trình kết cấu hạ tầng trong đó có các công trình giao thông, cảng biển, các nhà máy điện độc lập. - Mở rộng hình thức cho thuê cảng biển, mở rộng đối tượng cho phép đầu tư dịch vụ cảng biển, đặc biệt dịch vụ hậu cần (logistic) để tăng cường năng lực cạnh tranh của hệ thống cảng biển Việt Nam; kêu gọi vốn đầu tư các cảng lớn của các khu vực kinh tế như hệ thống cảng Hiệp Phước-Thị Vải, Lạch Huyện ... - Tập trung thu hút vốn đầu tư vào một số dự án thuộc lĩnh vực bưu chính-viễn thông và công nghệ thông tin để phát triển các dịch vụ mới và phát triển hạ tầng mạng. - Đẩy mạnh đầu tư vào các lĩnh vực (văn hóa-y tế-giáo dục, bưu chính-viễn thông, hàng hải, hàng không) đã cam kết khi gia nhập WTO. Xem xét việc ban hành một số giải pháp mở cửa sớm hơn mức độ cam kết đối với một số lĩnh vực dịch vụ mà nước ta có nhu cầu. Nhóm giải pháp về lao động, tiền lương: - Đẩy nhanh việc triển khai kế hoạch tổng thể về đào tạo nhằm nâng tỷ lệ lao động qua đào tạo lên 40% vào năm 2010. Theo đó, ngoài việc nâng cấp đầu tư hệ thống các trường đào tạo nghề hiện có lên ngang tầm khu vực và thế giới, sẽ phát triển thêm các trường đào tạo nghề và trung tâm đào tạo từ các nguồn vốn khác nhau. - Nghiên cứu điều chỉnh chuyển dịch cơ cấu lao động theo tốc độ chuyển dịch cơ cấu kinh tế. - Thực hiện các giải pháp nhằm đưa Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Lao động vào thực tế cuộc sống để ngăn ngừa tình trạng đình công bất hợp pháp, lành mạnh hóa quan hệ lao động theo tinh thần của Bộ luật Lao động. - Tiếp tục hoàn thiện luật pháp, chính sách về lao động, tiền lương phù hợp trong tình hình mới; tăng cường công tác kiểm tra, giám sát việc chấp hành pháp luật về lao động đối với người sử dụng lao động nhằm đảm bảo điều kiện làm việc và đời sống cho người lao động. Nhóm giải pháp về cải cách hành chính:  - Thực hiện tốt việc phân cấp quản lý nhà nước đối với ĐTNN, đặc biệt trong việc phê duyệt, cấp Giấy chứng nhận đầu tư, quản lý tốt các dự án ĐTNN, gắn với việc tăng cường hợp tác, hỗ trợ, phối hợp hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát việc thi hành pháp luật về đầu tư. - Nâng cao trình độ của đội ngũ cán bộ, công chức nhằm đảm bảo thực hiện nhiệm vụ theo quy định tại Luật Đầu tư và quy định mới về phân cấp quản lý ĐTNN. - Đơn giản hóa và công khai quy trình, thủ tục hành chính đối với ĐTNN, thực hiện cơ chế "một cửa" trong việc giải quyết thủ tục đầu tư. Đảm bảo sự thống nhất, các quy trình, thủ tục tại các địa phương, đồng thời, phù hợp với điều kiện cụ thể. - Tăng cường cơ chế phối hợp quản lý ĐTNN giữa Trung ương và địa phương và giữa các Bộ, ngành liên quan. Một số giải pháp khác: - Trong các giải pháp nêu trên cần phải tính đến yếu tố vùng, miền cho các định hướng ưu tiên, đặc thù phù hợp thực tế để dần thu hẹp khoảng cách giữa các vùng, miền trong thu hút ĐTNN phục vụ phát triển kinh tế-xã hội trên địa bàn nói riêng và cả nước nói chung. - Tiếp tục nâng cao hiệu quả việc chống tham nhũng, tiêu cực và tình trạng nhũng nhiễu đối với nhà đầu tư. Đề cao tinh thần trách nhiệm cá nhân trong xử lý công việc, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí ở các cơ quan quản lý nhà nước. III. KẾT LUẬN Trong điều kiện toàn cầu hoá kinh tế hiện nay, đầu tư quốc tế trở thành một hoạt động thường xuyên mang lại nhiều hiệu quả cho các doanh nghiệp đầu tư cũng như cho nước tiếp nhận đầu tư không chỉ còn là đặc quyền của những nước có nền kinh tế phát triển, có tiềm lực tài chính mạnh, có khoa học kỹ thuật tiên tiến hiện đại, trình độ quản lý cao, mà đã có sự tham gia của các nước đang phát triển với tư cách là nước đầu tư. Qua hoạt động đầu tư FDI vừa qua, những doanh nghiệp đã đi đầu, đón đầu thử thách ít nhiều đã gặt hái được thành công. Bên cạnh đó cũng phải đối mặt với rất nhiều những khó khăn, thử thách do hạn chế về vốn, hạn chế về kinh nghiệm sản xuất kinh doanh từ nước ngoài, hạn chế về những hiểu biết về quy chế chính sách của nhà nươc sở tại, ngoài ra cung phải kể đến những tồn tại, những khó khăn do cơ chế, chính sách của nhà nước ta vẫn chưa đồng bộ, còn nhiều bất cập, thiếu sót và nhất là chưa có được sự hỗ trợ có hiệu quả từ phía nhà nước dành cho các doanh nghiệp hoạt động đầu tư trực tiếp ra nước ngoài tuy nhiên trong xu thế hội nhập kinh tế hiện nay thì ngày càng nhiều những cơ hội thuận lợi, những sự hỗ trợ có hiệu quả hơn từ phía nhà nước khi đã nhận thức được vai trờ của hoạt động đầu tư ra nước ngoài của các doanh nghiệp, do đó hứa hẹn sự mở rộng đầu tư ra nước ngoài sẽ ngày càng phát triển mạnh mẽ. Nước ta muốn trở thành một nước công nghiệp, động lực cũng như điều kiện quan trọng là phải thu hút được nguồn vốn đầu tư trực tiếp vào công nghiệp. Trong thời kỳ hội nhập, chúng ta muốn theo kịp kinh tế các nước chúng ta phải chuyển giao công nghệ, kỹ thuật. Chúng ta phải làm sao cho nguồn vốn FDI chảy vào Việt Nam có hiệu quả, không thất thoát, góp phần đáng kể vào tăng trưởng kinh tế. Vì vốn hiểu biết hạn chế và thời gian không cho phép nên đề tài còn ít nhiều sai sót mong cán bộ hướng dẫn sửa để bài hoàn thiện hơn. Em xin chân thành cảm ơn.! IV. TÀI LIỆU THAM KHẢO - Bộ ngoại giao - Học viện Quan hệ quốc tế, Giáo trình kinh tế đối ngoại Việt Nam, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội (2005). - Võ Thiện Chín – Nguyễn Văn, Bài giảng Lịch sử kinh tế quốc dân - Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh - Khoa Kinh tế, Kinh tế học quốc tế, Nhà xuất bản Đại học Quốc gia TP Hồ Chí Minh (2004). - Đại học Kinh tế Quốc dân - Khoa Kinh tế và kinh doanh quốc tế, Giáo trình kinh tế học quốc tế, Nhà xuất bản thống kê (1999) . - Đại học Kinh tế Hồ Chí Minh , Giáo trình kinh tế quốc tế, Nhà xuất bản thống kê (2005). - Xu hướng FDI 2010 - Trần Tấn Sỹ - FDI vào Việt Nam 2010: Những động thái mới - Số liệu lấy từ Đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI - V. NHẬN XÉT CỦA GIÁO VIÊN HƯỚNG DẪN ………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………….............................................................................................................................................................................................................................................................................................

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docTiểu luận lịch sử kinh tế quốc dân- đề tài FDI TRONG CÔNG NGHIỆP VIỆT NAM TỪ 1986 ĐẾN NAY.doc
Luận văn liên quan