Tiểu luận Môn chính sách đối ngoại Việt Nam II

Trong bối cảnh khu vực và quốc tế diễn ra những chuyển biến vô cùng nhanh chóng và phức tạp, Việt Nam đã có những điều chỉnh chính sách đối ngoại trong đó có các nước láng giềng và khu vực. Năm 1995, việc gia nhập ASEAN đã đánh dấu bước ngoặt to lớn trong chính sách của Việt Nam, cải thiện quan hệ với các nước trong khu vực Đông Nam Á. Từ đó, ASEAN luôn là một trong những hướng ưu tiên trong quá trình ho ạch định chính sách đối ngoại của ta. Việt Nam luôn khẳng định mình là một thành viên thực sự, một bộ phận hữu cơ của ASEAN. Điều này được thể hiện trong nhiều văn kiện cũng như các phát biểucủa các vị lãnh đạo cấp cao nhà nước. Có thể khẳng định rằng việc các nước ASEAN nhất trí cùng nhau “xây dựng Cộng đồng ASEAN 2020” trên cơ sở ba trụ cột chính (sau đó được rút ngắn 5 năm đến năm 2015 trong tuyên bố Cebu 2007) tiếp đó là việc xây dựng Hiến chương ASEAN được các nước kí kết, thông qua cuối năm 2008 là bước đột phá trên con đường hợp tác, liên kết giữa các nước Đông Nam Á.

pdf23 trang | Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 4361 | Lượt tải: 4download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Môn chính sách đối ngoại Việt Nam II, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
dựng chỉ là "cộng đồng các quốc gia Đông Nam Á sống hòa bình với nhau". Giai đoạn hai từ Tuyên bố Bali II đến Hiến chương ASEAN: cộng đồng mà ASEAN hướng tới là "Cộng đồng ASEAN" không những chung sống hòa bình mà còn "đùm bọc và chia sẻ", đoàn kết vì "một tầm nhìn, một bản sắc" và gắn bó với nhau không chỉ bởi "vị trí địa lý" mà còn bởi "mục tiêu và vận mệnh chung". Cộng đồng ASEAN không còn coi "sự đa dạng phong phú" của các nước thành viên là một thực tế phải chấp nhận mà quyết tâm "chuyển sự đa dạng về văn hóa và sự khác biệt của ASEAN thành thịnh vượng và các cơ hội phát triển công bằng trong một môi trường đoàn kết, tự cường khu vực và hòa hợp". Cộng đồng ASEAN có mục tiêu bao trùm là xây dựng Hiệp hội thành một tổ chức hợp tác liên Chính phủ liên kết sâu rộng hơn và vững mạnh hơn, nhưng vẫn mở rộng hợp tác với bên ngoài, đồng thời hướng mạnh tới người dân, phục vụ và nâng cao cuộc sống của người dân. Hơn hết, Cộng đồng ASEAN với cơ sở pháp lý là Hiến chương ASEAN phản ánh sự trưởng thành của Hiệp hội, thể hiện tầm nhìn và quyết tâm chính trị mạnh mẽ của các nước thành viên, nhất là mục tiêu xây dựng một ASEAN liên kết 3 5 chặt chẽ hơn và ràng buộc pháp lý hơn. Đẩy nhanh tiến trình xây dựng cộng đồng và khẩn trương đưa Hiến chương vào cuộc sống là trọng tâm hợp tác ASEAN trong những năm tới. 4 2.2 Các trụ cột của Cộng đồng ASEAN Về cơ cấu của Cộng đồng ASEAN bao gồm ba trụ cột: Cộng đồng chính trị - an ninh (APSC), Cộng đồng kinh tế (AEC) và Cộng đồng văn hóa xã hội (ASCC). Ý tưởng xây dựng Cộng đồng An ninh ASEAN (ASC) lần đầu tiên được Indonesia đưa ra nhằm tạo nên một sự cân bằng giữa các hợp tác chính trị và kinh tế của ASEAN, biến ASEAN từ “cơ chế quản lý xung đột” sang “cơ chế giải quyết xung đột”. ASC không hướng tới một thỏa thuận quốc phòng, một liên minh quân sự hay một cộng đồng với chính sách an ninh và đối ngoại chung. ASC được thực hiện dựa trên khái niệm an ninh toàn diện cho tất cả các nước thành viên; tuân thủ các nguyên tắc cơ bản của ASEAN như nguyên tắc đồng thuận và không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau. Ban đầu, ASEAN dùng tên gọi Cộng đồng An ninh cho đến sau khi có Hiến chương (2007), Cộng đồng An ninh ASEAN mang tên gọi mới là Cộng đồng Chính trị-An ninh ASEAN (APSC) để phản ánh đúng tính chất của trụ cột này là hợp tác chính trị-an ninh ASEAN. Để đảm bảo tính chính xác, tên gọi ASC dưới đây sẽ được sử dụng khi đề cập đến các sự kiện diễn ra trước khi có Hiến chương. AEC là một cộng đồng kinh tế với sự lưu chuyển tự do của hàng hóa, dịch vụ, đầu tư và các nguồn vốn, lao động có kỹ năng. Ý tưởng về việc xây dựng cộng đồng này là do Philippines và Indonesia đề xướng nhằm hướng tới một cộng đồng Kinh tế ASEAN vào năm 2015. Mục tiêu của AEC là: Thiết lập một thị trường chung để tăng cường khả năng cạnh tranh của nền kinh tế khu vực; thu hẹp khoảng cách phát triển giữa các nước thành viên và tăng cường hội nhập của khu vực vào nền kinh tế thế giới. ASCC được xây dựng với mục tiêu xây dựng một cộng đồng của các xã hội quan tâm và chia sẻ dựa trên một bản sắc chung, ban đầu thuộc Ủy ban về phát triển xã hội (COSD) - một cơ chế được 5 nước thành viên đầu tiên của ASEAN sáng lập. ASCC sẽ đóng góp vào việc cải thiện mức sống của các dân tộc, chống các bệnh dịch, đảm bảo công bằng xã hội, và duy trì phát triển bền vững. ASCC cũng thúc đẩy bản sắc ASEAN để nâng cao vị trí của Hiệp hội trên trường quốc tế.5 2.3 Hiến chương ASEAN Xây dựng Hiến chương ASEAN là một nhu cầu tất yếu khách quan của ASEAN sau 40 năm tồn tại và phát triển. Trong suốt thời gian 4 thập kỷ qua, bên cạnh những thành tựu đạt được, trên thực tế, Hiệp hội vẫn là một tổ chức khu vực lỏng lẻo, chưa có tư cách pháp nhân (vì Hiệp hội ra đời trên cơ sở một tuyên bố chính trị, chứ không phải là một văn kiện pháp lý), các quyết định đưa ra chưa có sự ràng buộc về mặt pháp lý, cơ cấu tổ chức chưa xác định rõ ràng, việc thi hành các quyết định còn nhiều hạn chế. Bởi vậy, bản Hiến chương được kí kết năm 2007 và có hiệu lực từ ngày 4 “Sự tiến triển quan điểm của ASEAN về Cộng đồng ASEAN” – Nguyễn Thành Văn, Viện nghiên cứu Đông Nam Á – Tạp chí nghiên cứu Đông Nam Á 1/2008 5“Tiến trình xây dựng Cộng đồng ASEAN và vai trò của Việt Nam” – Hà Anh Tuấn - Tạp chí Nghiên cứu quốc tế số 71 và “Cộng đồng an ninh ASEAN: Từ ý tưởng đến hiện thực” - Nguyễn Thu Mỹ - tạp chí nghiên cứu Đông Nam Á 4/2006. 6 15/12/2008 đã làm cho ASEAN trở thành một tổ chức hợp tác khu vực có đầy đủ tư cách pháp nhân, tạo ra một khuôn khổ thể chế và bộ máy tổ chức mới phù hợp hơn mục tiêu xây dựng Cộng đồng ASEAN vào năm 2015.6 Nhìn chung, nội dung Hiến chương là kết quả của quá trình đàm phán kéo dài và phức tạp, đã thể hiện khá cân bằng và dung hòa quan điểm của các nước thành viên, phản ánh mức độ “thống nhất trong đa dạng” của ASEAN vào thời điểm hiện nay. Những nguyên tắc cơ bản và phương thức hoạt động chủ đạo của ASEAN như không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, ra quyết định bằng tham vấn và đồng thuận tiếp tục được đảm bảo trong nội dung của Hiến chương. Những điểm mới chủ yếu là về đổi mới về tổ chức bộ máy và phương thức hoạt động của ASEAN và trao tư cách pháp nhân cho tổ chức ASEAN. Tóm lại đây là một văn kiện lịch sử của ASEAN, và là một trong những mốc phát triển quan trọng của Hiệp hội, là nền tảng trong tiến trình xây dựng AC. Bởi Hiến chương đã khẳng định lại tính chất của ASEAN là một tổ chức hợp tác khu vực liên chính phủ và nguyên tắc bình đẳng chủ quyền của các nước thành viên (không phải là tổ chức siêu quốc gia như Liên minh Châu Âu).7 6 “Hiến chương ASEAN và việc xây dựng cộng đồng ASEAN” – Nguyễn Hùng Sơn – Tạp chí nghiên cứu quốc tế số 4 (79) (tháng 12/2009). 7 7 II. Nhận thức và chính sách đối ngoại của Việt Nam đối với tiến trình xây dựng Cộng đồng ASEAN 1. Nhận thức chung của Việt Nam về Cộng đồng ASEAN Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á ASEAN đang ngày càng hợp tác và phát triển. Trong tuyên bố Bali 2003, các nhà lãnh đạo của 10 nước ASEAN đã thông qua tuyên bố hòa hợp ASEAN II, chính thức tuyên bố việc thành lập Cộng đồng ASEAN (AC) dựa trên ba trụ cột về hợp tác chính trị-an ninh, hợp tác kinh tế và hợp tác văn hoá-xã hội nhằm mục đích bảo đảm hòa bình lâu dài, ổn định và chia sẻ thịnh vượng trong khu vực.8 Đối với vấn đề này, cũng như các nước ASEAN khác, cả ASEAN 5 và Việt Nam đều hoan nghênh kế hoạch xây dựng Cộng đồng ASEAN. Các nước ASEAN 5 thì cho rằng việc thành lập AC không chỉ là cấp thiết mà còn là cấp bách để ứng phó với các thách thức mà Hiệp hội sẽ phải đối diện trong kỉ nguyên toàn cầu hóa. Còn theo quan điểm của Việt Nam, việc xây dựng Cộng đồng ASEAN chính là một hoạt động “hướng tới tương lai” và là “lí tưởng cao đẹp” của hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á. Mục tiêu bao trùm của việc xây dựng AC theo quan điểm Việt Nam là xây dựng Hiệp hội thành một tổ chức liên chính phủ sâu rộng và vững mạnh hơn trên cơ sở pháp lí là Hiến chương ASEAN nhưng vẫn mở rộng hợp tác với bên ngoài đồng thời hướng mạnh tới người dân, phục vụ và nâng cao đời sống của nhân dân. Như vậy quan điểm trên gồm ba nét chính: Thứ nhất, Cộng đồng ASEAN là một tổ chức liên chính phủ, tính chất như ASEAN trước đây chứ không phải là tổ chức siêu quốc gia giống như EU. Các nước ASEAN khác và Hiến chương ASEAN cũng đều ghi nhận quan điểm như trên trừ một số nước. Đối với Philippines, các nhà lãnh đạo nước này cho rằng AC phải trở thành một liên minh chính trị thông qua liên hiệp các nhà nước Đông Nam Á.9 Họ muốn hội nhập khu vực của ASEAN được đưa lên mức cao nhất của tiến trình hội nhập khu vực như liên minh châu Âu hiện nay. Còn Indonesia thì cho rằng AC có ý nghĩa không chỉ là chia sẻ mục đích, nguồn lực mà cả sự chia sẻ giá trị. Indonexia cho rằng cần phải hội nhập đến mức xây dựng được “ý thức chúng ta” (we-feeling) giữa các thành viên và nuôi dưỡng ý thức này đủ mạnh để có thể giải quyết một cách hòa bình và thân thiện các tranh chấp hiện đang tồn tại.10 Tuy có một số nét khác biệt với quan điểm của một số thành viên ASEAN khác, nhưng Việt Nam và các nước này đều hiểu AC là cộng đồng các quốc gia độc lập, cùng chia sẻ những lợi ích chung trong hòa bình và phát triển ở Đông Nam Á. Thứ hai, AC là một cộng đồng mở tức là mở rộng hợp tác, mở cửa cho sự tham gia của các các nước bên ngoài chứ không phải là một tổ chức khép kín. Quan điểm này của Việt Nam không có gì khác so với các nước ASEAN khác. 8 Trích lời của phó Thủ tướng Phạm Gia Khiêm trong bài viết “Hợp tác chính trị - an ninh ASEAN: Việt Nam sẽ nỗ lực hết mình”. Đặc san báo Thế giới và Việt Nam, Hà Nội (8/2007). 9“Philippines và tiến trình xây dựng Cộng đồng ASEAN” - Võ Xuân Vinh - tạp chí nghiên cứu Đông Nam Á 9/2007, T27. 10 “Indonexia và tiến trinh xây dựng Cộng đồng ASEAN” - Lê Thanh Hương - tạp chí ngiên cứu Đông Nam Á 9/2007, T14. 8 Thứ ba, AC hướng mạnh tới người dân, phục vụ và nâng cao cuộc sống của người dân. Theo đó, ASEAN sẽ phấn đấu để không chỉ là một “câu lạc bộ” của các quan chức chính phủ mà phải hướng tới người dân, phục vụ dân và khuyến khích họ tham gia vào các hoạt động của ASEAN, nhất là hoạt động liên kết và xây dựng Cộng đồng ASEAN.11 Đối với Hiến chương ASEAN, Việt Nam rất coi trọng việc xây dựng và xác định cần phải đưa Hiến chương vào cuộc sống vì bản Hiến chương chính là cơ sở, là khuôn khổ pháp lí, tạo thể chế cho hợp tác nội khối, tiến tới thành lập AC và nâng cao vị thế của nó trong tương lai.12 Để xây dựng thành công cộng đồng này, không chỉ riêng Việt Nam mà tất cả các nước ASEAN đều nhận thấy sự cần thiết phải đổi mới ASEAN. Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đánh giá “phải tự đổi mới mình về nhiều mặt” là “nhiệm vụ quan trọng” của ASEAN hiện nay.13 Điều đó không có nghĩa là từ bỏ tất cả các nguyên tắc hoạt động đặc biệt là các nguyên tắc tạo nên những đặc trưng, khác biệt của ASEAN như tôn trọng độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, đồng thuận, thống nhất trong đa dạng, hợp tác, liên kết trên cơ sở bình đẳng, cùng có lợi. Thủ tướng khẳng định ASEAN cần phải cải tiến mạnh mẽ phương thức hoạt động sao cho hợp tác nội khối thiết thực hơn, hiệu quả hơn. Cũng giống như Lào, Campuchia, Myanmar, Việt Nam cho rằng: việc thu hẹp khoảng cách phát triển giữa các nước thành viên sao cho lợi ích của hội nhập ASEAN được chia sẻ giữa các nước thành viên tiếp tục là nhiệm vụ vô cùng quan trọng và cấp bách, để Hiệp hội có thể liên kết chặt chẽ hơn. 2. Nhận thức và quan điểm của Việt Nam về các trụ cột Cộng đồng chính trị - an ninh (APSC), cộng đồng kinh tế ASEAN (AEC), cộng đồng văn hóa-xã hội (ASCC) là ba trụ cột của Cộng đồng ASEAN. Đối với ba trụ cột này, Việt Nam cũng có những quan điểm rất rõ ràng. Khác với các nước thuộc ASEAN 5, Việt Nam không quan tâm nhiều đến việc bổ sung ý nghĩa cho các khái niệm về các trụ cột mà tập trung làm rõ mục tiêu và tính chất của chúng. Trong phát biểu của phó Thủ tướng Phạm Gia Khiêm nhân kỉ niệm 40 năm ngày thành lập ASEAN14, phó Thủ tướng cho rằng: Thứ nhất, đối với APSC, Việt Nam khẳng định APSC là bước phát triển cao hơn của hợp tác chính trị, an ninh ASEAN, với sự tham gia, đóng góp xây dựng của các đối tác bên ngoài.15 Mục đích của ASEAN không phải là tạo ra một khối phòng thủ chung như NATO hay SEATO trước kia mà mục tiêu là tạo dựng một môi trường hòa bình và an ninh cho phát triển ở khu vực. Như vậy khái niệm về APSC của Việt Nam giống với khái niệm mà ASEAN đưa ra. Thứ hai, đối với AEC, Việt Nam không hề thay đổi mục tiêu và bản chất của AEC theo quan điểm mà đã được các nước ASEAN nhất trí. Mục tiêu của AEC vẫn được xác định là: “tạo ra một thị trường chung duy nhất và cơ sở sản xuất thống nhất trong 11 Hiến chương ASEAN 12 Trích trả lời phỏng vấn của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng cho Thông tấn xã Việt Nam ngày 22/11/2007. 13 Thông điệp của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng gửi nhân dân các nước ASEAN. 14 Đặc san của báo “Thế giới và Việt Nam”, số ra nhân kỉ niện 40 năm ngày thành lập ASEAN. 15 Phát biểu của Phó Thủ tướng Phạm Gia Khiêm nhân kỉ niệm 40 năm ngày thành lập ASEAN 9 đó có sự lưu chuyển tự do của hàng hoá, dịch vụ, đầu tư, vốn và lao động; từ đó nâng cao tính cạnh tranh và thúc đẩy sự thịnh vượng chung cho cả khu vực; tạo ra sức hấp dẫn với đầu tư, kinh doanh từ bên ngoài”.16 Trong nhận thức về AEC, Việt Nam chú ý nhiều hơn đến các biện pháp cần thực hiện để xây dựng cộng đồng này. Trong bài phát biểu của mình, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng cũng khẳng định hai nhân tố quan trọng đưa đến thành công của việc thành lập AEC là củng cố các liên kết nội khối và tăng cường đối thoại, đàm phán với các đối tác nước ngoài nhằm tạo ra nhiều khu vực mậu dịch tự do hơn nữa.17 Để có được hai nhân tố đó, Việt Nam và các nước ASEAN cần: thực hiện các điều đã cam kết và đề xuất thêm các sáng kiến để thu hẹp khoảng cách về trình độ phát triển giữa các nước thành viên, tăng cường liên kết kinh tế trong ASEAN; quan tâm tới việc thành lập các các hiệp định thương mại tự do FTA trên cơ sở cùng có lợi và lôi cuốn sự tham gia của khu vực tư nhân. Thứ ba, đối với ASCC, tuy Việt Nam là nước đề xuất ý tưởng hình thành ASCC nhưng Philippines đã được giao soạn thảo kế hoạch hành động cho trụ cột ASCC. Với chế độ chính trị, hoàn cảnh lịch sử và phát triển, bản sắc văn hóa hoàn toàn khác biệt, quan điểm của Việt Nam về một số khái niệm giá trị như nhân quyền, an ninh con người, văn hóa… có điểm khác với các nước ASEAN khác đặc biệt một số vấn đề lại là nhạy cảm ở một số nước, nếu thảo luận có thể không đi đến kết quả thậm chí còn có thể gây căng thẳng giữa các nước nên ta không tham gia thảo luận về vấn đề này. Tuy nhiên Phó Thủ tướng Phạm Gia Khiêm cũng xác định mục tiêu tổng quát của cộng đồng này là “phục vụ và nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân ASEAN, tập trung giải quyết các vấn đề liên quan đến bình đẳng, công bằng xã hội, bản sắc văn hóa, môi trường, tác động của toàn cầu hóa và khoa học công nghệ”.18 Hơn nữa, Việt Nam đặc biệt quan tâm đến thu hẹp khoảng cách phát triển bên trong ASEAN. 3. Chính sách đối ngoại Việt Nam đối với việc xây dựng Cộng đồng ASEAN Từ đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI (1986), Việt Nam đã có sự đổi mới trong tư duy đối ngoại trong đó có sự đổi mới chính sách với các nước ASEAN nhằm hướng tới giảm bớt căng thẳng để giúp Việt Nam có điều kiện hòa bình phát triển kinh tế. Năm 1995, Việt Nam chính thức trở thành thành viên thứ 7 của ASEAN đã đánh dấu một bước tiến quan trọng trong quan hệ giữa Việt Nam và ASEAN, đồng thời góp phần đưa Đông Nam Á thành một tổ chức khu vực hòa bình, ổn định và thịnh vượng, tạo điều kiện thuận lợi để tiến đến xây dựng Cộng đồng ASEAN và thúc đẩy hợp tác ở khu vực châu Á-Thái Bình Dương. Tại các kì đại hội Đảng VIII (1996) đến đại hội Đảng X (2006), trong các văn kiện, Đảng và nhà nước ta vẫn nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, chính sách đối ngoại rộng mở, đa dạng hóa, đa phương hóa theo tinh thần Việt Nam “muốn làm bạn” sau đó là “sẵn sàng làm bạn và làm đối tác tin cậy” (Đại hội Đảng IX (2001) và được nhấn mạnh tại đại hội Đảng X). 16 “ASEAN bước vào giai đoạn phát triển mới” - Phó Thủ tướng Phạm Gia Khiêm - Báo Nhân dân 8/8/ 2008. 17 Bài phát biểu của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng về đầu tư và kinh doanh tổ chức tại Singapore ngày 18/11/2007. 18 “ASEAN bước vào giai đoạn phát triển mới” - Phó Thủ tướng Phạm Gia Khiêm - Báo Nhân dân 8/8/ 2008. 10 Tại Đại hội đảng X, Việt Nam xác định: “Việt Nam là bạn, là đối tác tin cậy, tham gia tích cực vào tiến trình hợp tác quốc tế và khu vực”.19 Chính sách đối ngoại vẫn nhất quán là chính sách đối ngoại độc lập, tự chủ, rộng mở, đa dạng hóa, đa phương hóa, chủ động hội nhập không chỉ trong lĩnh vực kinh tế mà còn trong các lĩnh vực khác. Các quan hệ đã được thiết lập thì cần phát triển theo chiều sâu, ổn định, bền vững. Chính sách đối ngoại của Việt Nam theo hướng là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế góp phần tăng các cơ hội hợp tác quốc tế với nhiều quốc gia và tổ chức khác. Chính sách đối ngoại chung sẽ định hướng cho việc xác định chính sách đối ngoại với từng đối tượng cụ thể trong đó có ASEAN và việc xây dựng Cộng đồng ASEAN. Đại hội Đảng X đã xác định Việt Nam cần chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế theo các lộ trình đã đặt ra và phù hợp với chiến lược phát triển đất nước từ đó đến năm 2010 và tầm nhìn ASEAN 2020. Việt Nam cần chủ động hợp tác toàn diện và có hiệu quả với các nước ASEAN, các nước châu Á-Thái Bình Dương. Trong hai kì đại hội trước, Đảng và nhà nước ta cũng xác định cần phải ra sức tăng cường quan hệ hợp tác, đoàn kết, hữu nghị với các nước ASEAN, tạo môi trường hòa bình, ổn định, cùng phát triển. Trong một số phát biểu, bài viết của các nhà lãnh đạo Việt Nam, chính sách của ta đối với ASEAN và việc xây dựng AC cũng được xác định rõ ràng. Trong bài viết của mình, Phó Thủ tướng Phạm Gia Khiêm đã khẳng định: “Việt Nam là một thành viên trong ASEAN, là một bộ phận hữu cơ của khu vực Đông Nam Á”.20 Khu vực Đông Nam Á và ASEAN có ý nghĩa chiến lược đối với Việt Nam vì nó liên quan trực tiếp đến môi trường an ninh và phát triển của nước ta. Do vậy một ASEAN liên kết chặt chẽ, đoàn kết và thống nhất, có vai trò và vị thế quốc tế quan trọng là hoàn toàn phù hợp với lợi ích cơ bản và lâu dài của Việt Nam. Gia nhập và tham gia hợp tác ASEAN đã và sẽ mang lại cho Việt Nam nhiều lợi ích quan trọng và thiết thực cả về chính trị, an ninh, kinh tế, văn hóa, xã hội và đối ngoại mà bao trùm là tạo môi trường quốc tế thuận lợi cho xây dựng, bảo vệ đất nước cũng như hỗ trợ Việt Nam hội nhập nhanh chóng và hiệu quả hơn vào khu vực và quốc tế. Chính vì lẽ đó, ASEAN, xét về hợp tác song phương và đa phương, là một bộ phận trong tổng thể chính sách đối ngoại độc lập, tự chủ, đa dạng hóa, đa phương hóa, chủ động hội nhập khu vực và quốc tế của nhà nước ta. Phó Thủ tướng cũng chỉ rõ rằng chúng ta cần tiếp tục làm hết sức mình trong việc xây dựng Cộng đồng ASEAN thành công năm 2015 và đưa Hiến chương ASEAN đi vào cuộc sống. Trong hợp tác ASEAN, chúng ta cần tham gia tích cực, chủ động và có trách nhiệm hơn nữa. Chúng ta cần tích cực tham gia mọi hoạt động của Hiệp hội, đề xuất thêm nhiều sáng kiến và biện pháp để giải quyết các vấn đề và tăng cường tình đoàn kết hữu nghị trong ASEAN. Chúng ta cần có sự đổi mới và chuẩn bị tốt trong nội bộ để nâng cao hiệu quả tham gia hợp tác ASEAN, cả về tổ chức bộ máy, phương thức hoạt động và nguồn lực; cần có sự phân công rõ ràng và phối hợp chặt chẽ giữa các bộ ngành và cả các cơ quan đảm nhiệm vai trò điều phối trong từng trụ cột của AC. Cần 19 20“ASEAN bước vào giai đoạn phát triển mới và phương hướng tham gia của Việt Nam” - Phạm Gia Khiêm - tạp chí nghiên cứu quốc tế số 73. “Phát biểu của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng nhân dịp 41 năm thành lập ASEAN” - tạp chí nghiên cứu quốc tế số 73. 11 tăng cường công tác tuyên truyền cho mọi tầng lớp nhân dân và các tổ chức xã hội về ASEAN và sự tham gia của Việt Nam, tạo ra sự đồng thuận về nhận thức và hành động, huy động được nhiều người tham gia và đóng góp vào tiến trình xây dựng Cộng đồng ASEAN, hướng tới phục vụ và nâng cao cuộc sống của người dân. Phó Thủ tướng Phạm Gia Khiêm khẳng định Việt Nam đã và sẽ tiếp tục tham gia một cách tích cực, chủ động và có trách nhiệm để góp phần xây dựng ASEAN trở thành một tổ chức liên kết chặt chẽ, đoàn kết và vững mạnh, có vai trò chủ đạo trong việc bảo đảm hòa bình, ổn định và thịnh vượng khu vực. Năm 2010, trên cương vị Chủ tịch ASEAN, chính sách đối ngoại của Việt Nam với các nước ASEAN vẫn nhất quán như đã nêu ở trên. Việt Nam xác định chủ đề cho năm là: “Hướng tới Cộng đồng ASEAN: Từ tầm nhìn tới hành động”. Theo đó, Việt Nam sẽ tiếp tục phối hợp chặt chẽ với các nước thành viên, tập trung thúc đẩy đoàn kết và hợp tác ASEAN, đẩy mạnh liên kết khu vực nhằm hiện thực hóa mục tiêu xây dựng Cộng đồng, hoàn tất việc đưa Hiến chương ASEAN vào cuộc sống; mở rộng và tăng cường hơn nữa quan hệ hợp tác toàn diện giữa ASEAN với các bên đối tác; củng cố và duy trì vai trò quan trọng của ASEAN tại các khuôn khổ hợp tác khu vực, đóng góp cho hòa bình, ổn định và phát triển ở khu vực châu Á-Thái Bình Dương. III. Triển khai chính sách đối ngoại của Việt Nam Từ sau khi gia nhập Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) đến nay, Việt Nam luôn nỗ lực tham gia và có nhiều đóng góp quan trọng vào hầu hết các hoạt động của ASEAN trên các lĩnh vực chủ chốt như chính trị, kinh tế, an ninh, văn hóa,… Với những đóng góp như vậy, Việt Nam đã chung tay cùng các nước ASEAN đẩy nhanh tiến trình xây dựng Cộng đồng ASEAN (AC) vào năm 2015, cụ thể là: Thứ nhất, việc Việt Nam trở thành thành viên chính thức của ASEAN và sau đó là ủng hộ việc các nước Lào, Campuchia và Myanmar cùng gia nhập vào tổ chức này, Việt Nam đã góp phần hoàn tất ý tưởng một ASEAN 10 gồm tất cả các quốc gia trong khu vực Đông Nam Á. Đây là một trong những cơ sở để biến ý tưởng AC thành hiện thực – một ý tưởng được cụ thể hóa trong Tầm nhìn ASEAN 2020 năm 1997. Thứ hai, Việt Nam đã tham gia đầy đủ, tích cực và có những đề xuất, sáng kiến cụ thể trong các Hội nghị Thượng đỉnh, Hội nghị Bộ trưởng Ngoại giao, Bộ trưởng Kinh tế, các hội nghị khác liên quan đến AC và các trụ cột: Trên cương vị chủ trì Hội nghị Cấp cao ASEAN lần thứ 6 tại Hà Nội năm 1998, Việt Nam đã cùng ASEAN xây dựng các bước đi và biện pháp cụ thể nhằm hiện thực hóa viễn cảnh được nêu trong Tầm nhìn 2020, thể hiện trong Chương trình Hành động Hà Nội (HPA) thực hiện trong giai đoạn 6 năm 1998-2004 bao gồm những hành động vừa cụ thể nhưng cũng rất toàn diện như tăng cường hợp tác và liên kết kinh tế khu vực, phát triển khoa học-công nghệ, cơ sở hạ tầng, phát triển nguồn nhân lực, bảo vệ môi trường, tăng cường hợp tác duy trì hòa bình, an ninh ở khu vực cũng như đề cao vai trò, vị thế quốc tế của ASEAN, nâng cao nhận thức về ASEAN… Việt Nam đã đảm nhiệm chức Chủ tịch ủy ban Thường trực ASEAN (ASC) và Chủ tịch Diễn đàn Khu vực ASEAN (ARF) từ tháng 7-2000 đến hết tháng 7-2001 và đã đề xuất chủ đề chung của các Hội nghị là "ổn định, đoàn kết, tăng cường liên kết kinh tế và mở rộng hợp tác". Trong nhiệm kỳ gần một năm, tuy là thành viên mới và lần đầu tiên giữ cương vị Chủ tịch ASC và ARF, Việt Nam đã tích cực chủ động triển khai các 12 hoạt động như cuộc họp Bộ trưởng Ngoại giao ASEAN lần thứ 34 (AMM), Diễn đàn Khu vực ASEAN lần thứ 8 (ARF), Hội nghị Bộ trưởng Ngoại giao (PMC) và Hội nghị hợp tác sông Mê Công và sông Hằng. Tại Hội nghị Thượng đỉnh lần thứ 13 họp tại Singapore tháng 11/2007, Việt Nam đã nỗ lực đấu tranh để duy trì các nguyên tắc cơ bản của Hiệp hội, đặc biệt là nguyên tắc “đồng thuận” và “không can thiệp vào công việc nội bộ của nước khác”; hướng đến thúc đẩy đoàn kết nội bộ ASEAN và tạo điều kiện thuận lợi cho việc xây dựng AC.21 Một đóng góp quan trọng khác trong tiến trình xây dựng Cộng đồng ASEAN đó là Việt Nam đã tham gia rất tích cực và để lại dấu ấn đậm nét trong việc xây dựng, ký kết, phê chuẩn và triển khai Hiến chương ASEAN. Trước hết, Việt Nam đã góp phần củng cố và hệ thống hóa các mục tiêu và nguyên tắc cơ bản của ASEAN trong Hiến chương; bảo đảm nội dung Hiến chương vừa phù hợp với thực tiễn hoạt động, vừa đáp ứng được nhu cầu phát triển của ASEAN. Sau khi Hiến chương được ký thông qua, Việt Nam là một trong 5 nước đầu tiên phê chuẩn văn kiện này. Thứ tư, đối với việc xây dựng ba trụ cột Cộng đồng An ninh – Chính trị (APSC), Cộng đồng Kinh tế (AEC) và Cộng đồng Văn hóa – Xã hội (ASCC) của AC, Việt Nam đã có những nỗ lực thực hiện các chương trình hành động như sau: 1. Đối với Cộng đồng chính trị - an ninh ASEAN Trước hết, việc Việt Nam – một nước có chế độ chính trị-xã hội khác hẳn với các nước ASEAN khác, trở thành thành viên chính thức đã mang đến cho việc hợp tác chính trị an ninh của ASEAN một sắc thái mới; thể hiện trước tiên ở việc chấm dứt tình trạng chia rẽ đối đầu căng thẳng và mở ra một giai đoạn mới hợp tác vì hòa bình phát triển ở khu vực.22 Hiệp ước Thân thiện và Hợp tác (TAC) chứa đựng những nguyên tắc cơ bản, làm cơ sở để các nước thành viên cùng nhau đẩy mạnh sự hợp tác, thân thiện và hữu nghị trong khối. Việt Nam đã cùng các nước ASEAN phát huy tác dụng của Hiệp ước này, đặc biệt là đóng góp vào việc soạn thảo Nghị định thư thứ hai tạo điều kiện cho các nước ngoài khu vực nhất là các nước lớn tham gia. Bên cạnh đó, Việt Nam cũng góp phần soạn thảo Quy chế hoạt động của Hội đồng tối cao của Hiệp ước TAC.23 Ngay trong năm gia nhập Hiệp hội 1995, Việt Nam đã tích cực cùng các nước ASEAN nhanh chóng soạn thảo văn kiện Hiệp ước biến Đông Nam Á thành khu vực phi vũ khí hạt nhân (SEANWFZ) để Hiệp ước này được ký kết vào tháng 12. Đối với vấn đề tranh chấp ở biển Đông – một vấn đề an ninh phức tạp và nhạy cảm, Việt Nam bày tỏ rõ lập trường nhất quán cùng các bên hữu quan giải quyết thông qua đàm phán thương lượng hòa bình. Việt Nam đã đưa ra sáng kiến và nỗ lực cùng Philippines soạn thảo dự thảo Bộ Quy tắc ứng xử ở biển Đông (COC-7/1999). Tại Hội nghị Thượng đỉnh ASEAN lần thứ 8 (Phnompenh – 11/2002), Tuyên bố Ứng xử ở biển Đông được ASEAN và Trung Quốc thông qua. Qua những điều trên, có thể thấy 21 “Việt Nam và công cuộc xây dựng Cộng đồng ASEAN” – Nguyễn Thu Mỹ, Lê Phương Hòa – Tạp chí nghiên cứu Đông Nam Á 7/2008. 22 “Hướng tới cộng đồng an ninh ASEAN: Triển vọng và vai trò của Việt Nam” – Luận Thùy Dương – Tạp chí nghiên cứu quốc tế số 62 (9/2005). 23 “Hướng tới cộng đồng an ninh ASEAN: Triển vọng và vai trò của Việt Nam” – Luận Thùy Dương – Tạp chí nghiên cứu quốc tế số 62 (9/2005). 13 rằng Việt Nam luôn tỏ rõ thái độ có trách nhiệm và luôn cố gắng cùng ASEAN đưa ra những nguyên tắc ứng xử hợp lý giữa các bên hữu quan, hướng tới duy trì và củng cố môi trường hòa bình, an ninh khu vực vì mục tiêu phát triển.24 Diễn đàn an ninh khu vực (ARF) là công cụ duy trì hòa bình và an ninh trong khu vực, đồng thời cũng là một nhân tố quan trọng trong quá trình xây dựng ASPC. Sau 17 năm tham gia ARF, Việt Nam đã chủ động đề xuất nhiều sáng kiến, tham gia soạn thảo nhiều văn bản, chủ trì thành công nhiều hoạt động của ARF. Các hoạt động này của Việt Nam được các nước trân trọng và đánh giá cao. Việt Nam cũng đã đi đầu trong quá trình cải tiến bộ máy, kiện toàn tổ chức, nâng cao hiệu quả hợp tác của ARF, những sáng kiến này đang tiếp tục được thực hiện và áp dụng rộng rãi. Mặt khác, Việt Nam còn cùng các nước trong khu vực tìm kiếm những hình thức hợp tác thích hợp, tiến tới các biện pháp ngoại giao phòng ngừa và cùng nhau giải quyết các vấn đề phi truyền thống như ngăn chặn xung đột, chống tội phạm xuyên quốc gia hay khủng bố,…25 2. Đối với Cộng đồng kinh tế ASEAN Từ quan điểm cho rằng việc hình thành Cộng đồng Kinh tế ASEAN sẽ giúp cho các nền kinh tế ASEAN trở nên đa dạng hơn, tạo cơ hội hỗ trợ và bổ sung cho nhau giữa các nền kinh tế trong khu vực, Việt Nam đã có nhiều đóng góp trên cả lý thuyết lẫn thực tiễn như: Khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA) – là một nhân tố quan trọng đối với quá trình xây dựng AEC. Do đó, sau khi chính thức trở thành thành viên thứ 7 của ASEAN, Việt Nam bắt đầu tham gia AFTA và thực hiện lộ trình giảm thuế quan từ ngày 1/1/1996, thời hạn hoàn thành là đến năm 2006. Trong lộ trình này, Việt Nam đã thực hiện nghiêm túc các cam kết đối với Hiệp định về Chương trình Thuế quan Ưu đãi có hiệu lực chung (CEPT). Cụ thể là, Việt Nam đã hoàn thành nghĩa vụ xóa bỏ thuế quan đối với 99,65% số dòng thuế tham gia CEPT/AFTA của các nước ASEAN 6; cắt giảm thuế quan xuống mức 0-5% đối với 98,86% số dòng thuế tham gia CEPT/AFTA của các nước ASEAN 4; đưa Hiệp định Thương mại Hàng hóa ASEAN (ATIGA) vào thực hiện từ ngày 17 tháng 5 năm 2010.26 Đây là những thành tích quan trọng bậc nhất để thực hiện mục tiêu tạo ra dòng luân chuyển tự do của hàng hóa. Nhu cầu thu hẹp khoảng cách phát triển càng trở nên thiết yếu trong bối cảnh ASEAN đẩy nhanh việc thành lập Cộng đồng vào năm 2015. Do đó, đối với vấn đề này, Việt Nam đã có những đóng góp cụ thể sau: Việt Nam đã đề xuất và được các nước thông qua “Tuyên bố Hà Nội”; triển khai “Sáng kiến liên kết ASEAN” (IAI) vào năm 2001 và đóng góp vào chương trình hợp tác tiểu khu vực trong khuôn khổ ASEAN như chương trình Hợp tác Tiểu vùng sông Mê Công mở rộng (GMS). Bên cạnh đó, Việt Nam đã khởi đầu chương trình hợp tác dọc hành lang Đông Tây (WEC). Tất cả những chương trình này đều hướng đến nhằm mục đích thu hẹp khoảng cách 24 “Việt Nam với hợp tác, liên kết ASEAN trong lĩnh vực chính trị-an ninh” – Nguyễn Hoàng Giáp – Tạp chí nghiên cứu quốc tế số 74 (9/2008). 25 “Việt Nam với hợp tác, liên kết ASEAN trong lĩnh vực chính trị-an ninh” – Nguyễn Hoàng Giáp – Tạp chí nghiên cứu quốc tế số 74 (9/2008). 26 Bài viết của Bộ trưởng Bộ Công Thương Vũ Huy Hoàng - Chủ tịch Hội đồng Cộng đồng Kinh tế ASEAN. kinh-te-ASEAN-2010-va-dong-gop-cua-Viet-Nam-tren-cuong-vi-Chu-tich-HDKT-ASEAN. 14 phát triển giữa các nước thành viên mới là Campuchia, Lào, Myanmar,Việt Nam (CLMV) và các nước thành viên cũ của ASEAN; đồng thời nhằm hướng đến một khu vực ổn định và thịnh vượng bền vững. 3. Đối với Cộng đồng Văn hóa – xã hội ASEAN Kể từ khi gia nhập ASEAN, Việt Nam đã cùng với các nước tiến hành nhiều chương trình và hoạt động thúc đẩy Cộng đồng Văn hóa- Xã hội (ASCC) trong khu vực. ASCC với mục tiêu cơ bản là góp phần xây dựng một Cộng đồng ASEAN lấy con người làm trung tâm và có trách nhiệm xã hội nhằm xây dựng tình đoàn kết và thống nhất bền lâu giữa các quốc gia và dân tộc ASEAN. Để thực hiện mục tiêu, tại Hội nghị Thượng đỉnh ASEAN 14 tại Thái Lan năm 2009, nhà lãnh đạo Việt Nam cùng nhà lãnh đạo các nước đã phê duyệt kế hoạch tổng thể ASCC. Năm 2009 cũng là năm Việt Nam thực hiện đặc biệt thành công và hiệu quả chính sách "Ngoại giao Văn hóa", hỗ trợ đắc lực cho việc triển khai các hoạt động lớn trong năm 2010. Việt Nam có những đóng góp nổi bật trong hai lĩnh vực sau: Về Lao động: Việt Nam đã tổ chức thành công Hội thi tay nghề lần thứ 5 năm 2004, Hội nghị mạng lưới an toàn vệ sinh lao động lần thứ 5 vào năm 2005 và Hội nghị Bộ trưởng lao động ASEAN lần thứ 21 tổ chức tại Hà Nội ngày 24/5/2010 đã thông qua kế hoạch hành động của các Bộ trưởng Lao động giai đoạn 2010-2015.27 Về Thúc đẩy và bảo vệ quyền phụ nữ và trẻ em : Việt Nam đã đạt được một số tiến bộ đáng kể: Thứ nhất, là một trong những nước đầu tiên phê chuẩn Công ước về quyền trẻ em, Việt Nam đã chủ động đề xuất nội dung chăm sóc trẻ em có hoàn cảnh khó khăn đặc biệt vào chương trình hợp tác trong ASEAN. 28 Thứ hai, Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội Việt Nam đã đăng cai Hội nghị Ủy ban Phụ nữ ASEAN lần thứ 7, tháng 10/2008 tại Hà Nội. Khi thực hiện vai trò là Chủ tịch đương nhiệm của Ủy ban Phụ nữ ASEAN năm 2008, Việt Nam đã đề xuất xây dựng kế hoạch tổng thể nhằm nâng cao năng lực các thiết chế quốc gia về bình đẳng giới và phát triển phụ nữ thông qua các hoạt động tuyên truyền, hội nghị, hội thảo theo lịch của Ủy ban. Việt Nam tích cực phối hợp với các cơ quan liên quan tham gia quá trình thành lập Ủy ban quyền phụ nữ và trẻ em ASEAN. Ngoài ra, Ủy ban về Thúc đẩy và Bảo vệ quyền Phụ nữ và Trẻ em ASEAN (ACWC) đã được thành lập tại Hội nghị Thượng đỉnh ASEAN lần thứ 16 vào tháng 4/2010 tại Hà Nội. Việc thành lập ACWC sẽ đóng vai trò là chiếc cầu nối cho hạnh phúc, sự phát triển, tăng quyền năng và sự tham gia của phụ nữ và trẻ em trong tiến trình xây dựng Cộng đồng ASEAN. Thứ năm, trong hành trình 15 năm gia nhập ASEAN, đối với đất nước ta, năm 2010 có ý nghĩa quan trọng khi Việt Nam đảm nhiệm cương vị Chủ tịch luân phiên ASEAN. Trong suốt một năm qua, Việt Nam đã tổ chức và điều hành trôi chảy nhiều sự kiện quan trọng của ASEAN gồm hai đợt Hội nghị Cấp cao (ASEAN-16 và 27 Bài viết của Bộ trưởng Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội – Nguyễn Thị Kim Ngân – Thông tấn xã Việt Nam. van-hoaxa-hoi-ASEAN/4664735.epi 28 “Việt Nam và công cuộc xây dựng Cộng đồng ASEAN” – Nguyễn Thu Mỹ, Lê Phương Hòa – Tạp chí nghiên cứu Đông Nam Á 7/2008. 15 ASEAN-17), các hoạt động của Quốc hội (Đại hội đồng Liên nghị viện ASEAN – AIPA), hơn 10 Hội nghị cấp Bộ trưởng tiêu biểu như Hội nghị Bộ trưởng Ngoại giao ASEAN và các hội nghị liên quan tại Đà Nẵng; trên 20 Cuộc họp cấp quan chức liên quan đến cả chính trị-an ninh, kinh tế và văn hoá-xã hội, cũng các hoạt động của các tổ chức quần chúng (Diễn đàn Nhân dân ASEAN) và doanh nghiệp (Hội nghị Thượng đỉnh về Kinh doanh và Đầu tư ASEAN), … Chúng ta đã điều hành các Hội nghị đi vào thảo luận thực chất với không khí xây dựng và đạt được đồng thuận cao trong nhiều vấn đề quan trọng. Đặc biệt, chúng ta đã xử lý khéo léo trên cơ sở tham vấn chặt chẽ với các nước liên quan và tạo được quan điểm chung rộng rãi về nhiều vấn đề phức tạp có liên quan trực tiếp đến ASEAN như tình hình Biển Đông, Myanmar, Thái Lan, bán đảo Triều Tiên, … Bên cạnh đó, Việt Nam đã hoàn thành tốt vai trò Phó Chủ tịch Diễn đàn an ninh khu vực (ARF), Chủ tịch Nhóm đặc trách về thu hẹp khoảng cách phát triển (IAI), điều phối quan hệ đối thoại ASEAN-Canada đạt kết quả thiết thực. Ngoài ra, Việt Nam đã vận động thành công để thay mặt ASEAN tham dự Cấp cao G.20 tại Canada và Hàn Quốc, và đã có những đóng góp quan trọng và thiết thực cho kết quả của các Hội nghị này trên cơ sở tham vấn chặt chẽ với các nước ASEAN khác. Khép lại một năm với đầy ắp các sự kiện cũng như những thành tựu to lớn của ASEAN, chúng ta càng có thêm cơ sở vững chắc để tin tưởng vào tương lai tươi sáng của Cộng đồng ASEAN vững mạnh, đoàn kết và thịnh vượng vào năm 2015 cũng như vai trò và vị thế quốc tế của Việt Nam. IV. Đánh giá chính sách đối ngoại Việt Nam và nhận định về tương lai của Cộng đồng ASEAN 1. Đánh giá về chính sách đối ngoại Việt Nam 1.1 Đánh giá chung về hoạch định chính sách đối ngoại Thành công của nhiệm kỳ Chủ tịch ASEAN năm 2010 nói riêng cũng như những kết quả tốt đẹp của quá trình tham gia ASEAN 15 năm qua, xuất phát từ đường lối đối ngoại đúng đắn, sáng suốt của Đảng, Nhà nước ta, từ vai trò, vị thế của đất nước sau hơn 20 năm Đổi mới và mở cửa. Đồng thời thành công này cũng đánh dấu một bước phát triển mới đầy ý nghĩa của Việt Nam trên bước đường hội nhập khu vực và quốc tế. Vai trò của ngoại giao Việt Nam ngày càng được nâng cao, không chỉ về chính trị đối ngoại, mà còn mở rộng ra các lĩnh vực kinh tế đối ngoại, văn hóa đối ngoại... Công tác ngoại giao toàn diện đã được triển khai mạnh mẽ với sự hài hòa, gắn bó chặt chẽ giữa đối ngoại Đảng, Quốc hội, ngoại giao Nhà nước và ngoại giao nhân dân, cũng như sự phối hợp nhịp nhàng, hiệu quả giữa Bộ Ngoại giao với các ngành, các cấp, các địa phương, đặc biệt là giữa ngoại giao, quốc phòng và an ninh. 29 Không chỉ dừng lại ở ngoại giao truyền thống, Việt Nam đã đẩy mạnh và có nhiều thành công về cả ngoại giao kinh tế, ngoại giao văn hóa. Ngoại giao kinh tế đã làm tốt công tác nghiên cứu, dự báo về kinh tế thế giới, tìm hiểu kinh nghiệm các nước về quá trình phục hồi và tái cấu trúc kinh tế để phục vụ công tác hoạch định chính sách và điều hành kinh tế vĩ mô của chính phủ. Kinh tế đối ngoại đã được lồng ghép trong 29 “Ngoại giao Việt Nam tích cực, chủ động hội nhập quốc tế vì sự phát triển bền vững của đất nước” - Phó Thủ tướng Chính phủ - Ủy viên Bộ Chính trị - Bộ trưởng Bộ Ngoại Giao Phạm Gia Khiêm. 16 chính trị đối ngoại, nội dung kinh tế được tăng cường trong các chuyến thăm và tiếp xúc cấp cao. Công tác ngoại giao văn hóa đã có nhiều khởi sắc, hỗ trợ hiệu quả cho việc triển khai các hoạt động của ASEAN, từng bước chuẩn hóa các tiêu chí và hoạt động văn hóa đối ngoại để áp dụng rộng rãi trong và ngoài nước. 1.2 Đánh giá về đóng góp của Việt Nam Mặc dù việc xây dựng Cộng đồng ASEAN nói chung, đặc biệt là AEC, là một mục tiêu khá lớn đối với một nước có trình độ phát triển kinh tế chưa cao như Việt Nam, nhưng nước ta đã tích cực tham gia vào tiến trình xây dựng chung. Cho thấy Việt Nam đã thật sự coi mình là một phần không thể tách rời của ASEAN. Trong tiến trình xây dựng Cộng đồng ASEAN, Việt Nam đã có những đóng góp không nhỏ. Từ vị trí là thành viên thứ 7 của ASEAN, Việt Nam đã nỗ lực đóng góp hết mình, một cách toàn diện. Những đóng góp đó không chỉ thể hiện trong quá trình xây dựng và phát triển ý tưởng AC và các trụ cột của nó mà cả trong quá trình hiện thực hóa ý tưởng đó, khi nó đã được thông qua và trở thành mục tiêu phấn đấu của toàn Hiệp hội. Không chỉ tiến hành các hoạt động sôi nổi, cụ thể để góp phần hiện thực hóa AC, Việt Nam còn cố gắng truyền tải các nội dung, ý tưởng về AC và các trụ cột tới nhân dân Việt Nam qua các phương tiện thông tin đại chúng. Việt Nam đã và đang đưa ASEAN tới gần nhân dân hơn và làm cho tầm nhìn ASEAN trở thành tầm nhìn của nhân dân Việt Nam, đúng như tinh thần của ASEAN. Các nước là thành viên ban đầu như Indonesia, Malaysia, Philippines và Singapore, là những nước đề xuất các trụ cột của AC và là tác giả chính của các Chương trình Hành động về ASC, AEC, ASCC. Việt Nam tham gia sau với tư cách là thành viên thứ 7, luôn cố gắng hoạt động tích cực, Việt Nam đã có những đóng góp quan trọng vào các thành tựu của ASEAN, thể hiện tinh thần “chủ động, tích cực và có trách nhiệm”, được bạn bè tin cậy và ghi đậm dấu ấn của nước Chủ tịch ASEAN 2010.30 1.3 Đánh giá về vị thế của Việt Nam trong ASEAN ASEAN là một tổ chức năng động trong đó các quốc gia thành viên luôn nỗ lực hợp tác và liên kết để cùng nhau phát triển. Đối với Việt Nam, thời gian tham gia vào ASEAN chưa phải là dài, chỉ hơn 15 năm nhưng Việt Nam có thể tự hào vì những đóng góp quan trọng và những dấu ấn của mình. Từ vị trí là thành viên mới gia nhập năm 1995 cho đến nay, vị thế của Việt Nam trong khu vực ngày càng lớn mạnh. Việc Việt Nam tham gia vào ASEAN đã mở ra một giai đoạn mới khác hẳn về chất của quan hệ giữa các quốc gia ở khu vực, mở rộng hợp tác hòa bình và phát triển. Chúng ta đã có những đóng góp quan trọng trong việc xác định các phương hướng hợp tác, tương lai phát triển cũng như trong việc đưa ra những quyết sách lớn của ASEAN, góp phần tăng cường đoàn kết hợp tác cũng như nâng cao vai trò và vị thế của Hiệp hội. Hiện nay, việc xây dựng thành công Cộng đồng ASEAN đang là ưu tiên hàng đầu của Hiệp hội. Bởi vậy, Việt Nam đã nỗ lực cùng các nước thành viên hiện thực hóa 30 “Việt Nam và công cuộc xây dựng Cộng đồng ASEAN” - Nguyễn Thu Mỹ- Lê Phương Hòa - tạp chí Nghiên cứu Đông Nam Á 7/2008. 17 mục tiêu quan trọng này. Đặc biệt với việc hoàn thành tốt đẹp năm Chủ tịch luân phiên năm 2010, Việt Nam đã được thừa nhận như một trong những nước có nhiều đóng góp tích cực tới sự trưởng thành và phát triển của Hiệp hội. Từ vị trí của nước mới gia nhập, Việt Nam giờ đã là thành viên nổi bật của ASEAN và có tiếng nói ngày càng quan trọng. Đồng thời, Việt Nam được đánh giá là nhân tố đoàn kết nội bộ trong ASEAN. Trích lời ông Marty Natalegawa, Bộ trưởng Bộ Ngoại Giao Indonesia: “Việt Nam nên hãnh diện vì là thành viên của ASEAN trong 15 năm qua, vì Việt Nam không những là thành viên có nhiều đóng góp tích cực mà còn là một lãnh đạo chủ chốt trong khối ASEAN và đã thể hiện tốt vai trò của mình”. Có thể thấy, cùng với những thành tựu phát triển trong nước và sự tích cực, chủ động hợp tác trong khu vực, Việt Nam đang ngày càng có vị thế vững vàng hơn trong tiến trình hội nhập ASEAN. 2. Nhận định của Việt Nam về tương lai của Cộng đồng ASEAN Nhìn về tương lai, vượt lên trên rất nhiều khó khăn thách thức, với sự nỗ lực không ngừng và ngày một lớn của Việt Nam nói riêng và các nước ASEAN nói chung, triển vọng về Cộng đồng ASEAN được hình thành năm 2015 là khả thi. 6 nước ASEAN cũ đã cơ bản thực hiện mức thuế quan 0%, 4 nước còn lại sẽ hướng tới chỉ tiêu này vào 2015. Một thị trường ASEAN với hơn 580 triệu dân, GDP trên 1500 tỉ USD và trao đổi thương mại trên 1700 tỉ USD đang ngày càng phát huy các tiềm năng của mình, cũng như vai trò của liên kết Đông Á. Theo đánh giá của Thứ Trưởng Bộ Ngoại Giao Việt Nam Phạm Quang Vinh, từ Hiến chương ASEAN và Lộ trình Cộng đồng, có thể phác họa ra những nét chính sau: Đến 2015, ASEAN sẽ trở thành một cộng đồng gắn kết trên cả ba trụ cột chính trị- an ninh, kinh tế và văn hóa xã hội. Cộng đồng ASEAN tiếp tục dựa trên nền tảng căn bản liên chính phủ, nhưng tính gắn kết các mặt sẽ ngày càng cao và đi vào chiều sâu. Bước đột phá có thể cảm nhận được ngay vào 2015 là ở cộng đồng kinh tế, với mục tiêu căn bản là đưa ASEAN trở thành một thị trường duy nhất và không gian sản xuất thống nhất. Việc xây dựng Cộng đồng ASEAN còn tiếp tục kể cả sau 2015.31 Những nỗ lực và đóng góp tích cực của Việt Nam cho sự phát triển và lớn mạnh của ASEAN thêm một lần nữa khẳng định chính sách nhất quán của chúng ta. Việt Nam luôn luôn coi trọng ASEAN cả về hợp tác đa phương và quan hệ song phương, luôn nỗ lực hết mình vì một ASEAN vững mạnh, đoàn kết và liên kết ngày càng chặt chẽ hơn. Đây cũng chính là lợi ích chiến lược lâu dài của Việt Nam, là một bộ phận quan trọng trong đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ, chủ động hội nhập khu vực và quốc tế của chúng ta. 31 “ASEAN: Hiện thực hóa ước mơ Cộng đồng vào năm 2015”, Thế giới và Việt Nam, số Xuân Tân Mão 2011. 18 Lời kết Trong bối cảnh khu vực và quốc tế diễn ra những chuyển biến vô cùng nhanh chóng và phức tạp, Việt Nam đã có những điều chỉnh chính sách đối ngoại trong đó có các nước láng giềng và khu vực. Năm 1995, việc gia nhập ASEAN đã đánh dấu bước ngoặt to lớn trong chính sách của Việt Nam, cải thiện quan hệ với các nước trong khu vực Đông Nam Á. Từ đó, ASEAN luôn là một trong những hướng ưu tiên trong quá trình hoạch định chính sách đối ngoại của ta. Việt Nam luôn khẳng định mình là một thành viên thực sự, một bộ phận hữu cơ của ASEAN. Điều này được thể hiện trong nhiều văn kiện cũng như các phát biểu của các vị lãnh đạo cấp cao nhà nước. Có thể khẳng định rằng việc các nước ASEAN nhất trí cùng nhau “xây dựng Cộng đồng ASEAN 2020” trên cơ sở ba trụ cột chính (sau đó được rút ngắn 5 năm đến năm 2015 trong tuyên bố Cebu 2007) tiếp đó là việc xây dựng Hiến chương ASEAN được các nước kí kết, thông qua cuối năm 2008 là bước đột phá trên con đường hợp tác, liên kết giữa các nước Đông Nam Á. Với tư cách là một nước thành viên, trong tiến trình phát triển của Hiệp hội, nhất là với công cuộc xây dựng Cộng đồng ASEAN, Việt Nam đã tham gia rất tích cực, có những hành động cụ thể và đem lại nhiều kết quả tốt không chỉ trên lĩnh vực chính trị, an ninh mà còn trên lĩnh vực kinh tế và văn hóa, xã hội, phản ánh nỗ lực và vai trò của Việt Nam - một “thành viên chủ động, tích cực, có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế”. Hiện nay, các nước ASEAN đã coi Việt Nam là một thành viên đáng tin cậy và có trách nhiệm cao trong khu vực. Với vai trò, vị trí đang ngày càng được củng cố trong hợp tác ASEAN đặc biệt qua năm chủ tịch ASEAN năm 2010, ta cần phải tích cực, chủ động, linh hoạt hơn nữa, nỗ lực cùng các nước ASEAN giải quyết những vấn đề, thách thức trong tiến trình hội nhập, liên kết khu vực. Hơn nữa, qua thực tiễn đánh giá, Việt Nam cũng nhận định công cuộc xây dựng Cộng đồng ASEAN vẫn còn gặp rất nhiều khó khăn, thách thức như khác biệt về chế độ chính trị, văn hóa, xã hội, chênh lệch về trình độ phát triển giữa các quốc gia vẫn còn tồn tại lại thêm nguyên tắc chủ quyền làm nên đặc trưng của khu vực. Vậy để góp phần hiện thực hóa ý tưởng cộng đồng, tạo ra được một khu vực hòa bình, ổn định với những điều kiện thuận lợi cho sự phát triển kinh tế, Việt Nam đã, đang và sẽ tham gia tích cực hơn nữa, chung tay cùng các nước ASEAN hành động vì một mục tiêu chung: xây dựng cộng đồng ASEAN. Việt Nam sẽ cần phải hợp tác và đoàn kết với các nước láng giềng ASEAN ở mức độ cao hơn theo phương châm độc lập tự chủ nhưng vẫn phải có chính sách rộng mở, đa dạng hóa, đa phương hóa, chủ động hội nhập quốc tế và khu vực cả về kinh tế, chính trị và văn hóa xã hội. Cộng đồng ASEAN có trở thành hiện thực được hay không? Câu trả lời còn tùy thuộc vào những nỗ lực, đóng góp của tất cả các nước trong Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á trong đó có Việt Nam. 19 Danh mục tài liệu tham khảo: 1) “Chính sách đối ngoại Việt Nam tập II (1975-2006)” – TS.Nguyễn Vũ Tùng – Học viện Quan hệ quốc tế. 2) “Ngoại giao Việt Nam hiện đại vi sự nghiệp đổi mới (1975-2002)” – TS.Vũ Dương Huân (Chủ biên) - Học viện Quan hệ quốc tế. 3) “Ngoại giao Việt Nam 1945-2000” – Nhà xuất bản chính trị quốc gia - Hà Nội – 2005. 4) Hiến chương ASEAN. 5) “Hiến chương ASEAN và việc xây dựng cộng đồng ASEAN” – Nguyễn Hùng Sơn – Tạp chí nghiên cứu quốc tế số 4 (79) (tháng 12/2009). 6) “Chiều kích hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á và mục tiêu hướng tới Cộng đồng ASEAN” – Trần Cao Thành – Tạp chí nghiên cứu Đông Nam Á số 11 (92)/2007. 7) “Cộng đồng ASEAN trong nhận thức của ASEAN 5” – Nguyễn Thu Mỹ - Tạp chí nghiên cứu Đông Nam Á số 5 (98)/2008. 8) “Hiến chương ASEAN và vai trò của nó đối với việc hình thành Cộng đồng ASEAN” – Trần Thị Lan Hương, Phạm Ngọc Tân - Tạp chí nghiên cứu Đông Nam Á số 12 (93)/2007. 9) “Tiến trình xây dựng cộng đồng ASEAN và vai trò của Việt Nam” – Hà Anh Tuấn - Tạp chí Nghiên cứu quốc tế số 71. 10) “Cộng đồng an ninh ASEAN: Từ ý tưởng đến hiện thực” - Nguyễn Thu Mỹ -tạp chí nghiên cứu Đông Nam Á 4/2006. 11) “Hợp tác chính trị - an ninh ASEAN: Việt Nam sẽ nỗ lực hết mình” - Phó Thủ tướng Phạm Gia Khiêm – đặc san báo Thế giới và Việt Nam, Hà Nội (8/2007). 12) “Philippin và tiến trình xây dựng cộng đồng ASEAN” - Võ Xuân Vinh - tạp chí nghiên cứu Đông Nam Á 9/2007. 13) “Indonexia và tiến trình xây dựng cộng đồng ASEAN” - Lê Thanh Hương - tạp chí nghiên cứu Đông Nam Á 9/2007. 14) Trích trả lời phỏng vấn của Thủ tướngNguyễn Tấn Dũng cho Thông tấn xã Việt Nam ngày 22/11/2007. 15) “Chính sách của Malayxia đối với việc xây dựng Cộng đồng ASEAN” – Nguyễn Văn Hà - tạp chí nghiên cứu Đông Nam Á 9/2007. 16) “Thông điệp của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng gửi nhân dân các nước ASEAN”. 17) Đặc san của báo “Thế giới và Việt Nam”, số ra nhân kỉ niện 40 năm ngày thành lập ASEAN. 18) Phát biểu của Phó Thủ tướng Phạm Gia Khiêm nhân kỉ niệm 40 năm ngày thành lập ASEAN 19) “ASEAN bước vào giai đoạn phát triển mới” - Phó Thủ tướng Phạm Gia Khiêm - Báo Nhân dân 8/8/2008. 20) Trong bài phát biểu của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng về đầu tư và kinh doanh tổ chức tại Singapore ngày 18/11/2007. 21) “ASEAN bước vào giai đoạn phát triển mới và phương hướng tham gia của Việt Nam” - Phó Thủ tướng Phạm Gia Khiêm - tạp chí nghiên cứu quốc tế số 73. 22) “Phát biểu của Thủ tướngNguyễn Tấn Dũng nhân dịp 41 năm thành lập ASEAN”, tạp chí ngiên cứu quốc tế số 73. 20 23) “Việt Nam và công cuộc xây dựng cộng đồng ASEAN” – Nguyễn Thu Mỹ, Lê Phương Hòa – Tạp chí nghiên cứu Đông Nam Á 7/2008. 24) “Hướng tới cộng đồng an ninh ASEAN: Triển vọng và vai trò của Việt Nam” – Luận Thùy Dương – Tạp chí nghiên cứu quốc tế số 62 (9/2005). 25) “Việt Nam với hợp tác, liên kết ASEAN trong lĩnh vực chính trị-an ninh” – Nguyễn Hoàng Giáp – Tạp chí nghiên cứu quốc tế số 74 (9/2008). 26) “Ngoại giao Việt Nam tích cực, chủ động hội nhập quốc tế vì sự phát triển bền vững của đất nước” - Phó Thủ tướng Phạm Gia Khiêm. 27) Trích lời Thứ trưởng Ngoại giao Việt Nam, trưởng SOM Việt Nam Phạm Quang Vinh trong bài viết: “ASEAN: Hiện thực hóa ước mơ Cộng đồng vào năm 2015”, Thế giới và Việt Nam, số Xuân Tân Mão 2011. 28) “Hợp tác phát triển Tiểu vùng Mê Công mở rộng và vai trò tác động xây dựng cộng đồng ASEAN” – Trần Cao Thành – Tạp chí Nghiên cứu Đông Nam Á 6/2008. 29) “ASEAN bước vào giai đoạn phát triển mới và phương hướng tham gia của Việt Nam” – Phó Thủ tướng Phạm Gia Khiêm – Tạp chí nghiên cứu quốc tế số 73 (tháng 6/2008). 30) “Sự tiến triển quan điểm của ASEAN về Cộng đồng ASEAN” – Nguyễn Thành Văn, Viện nghiên cứu Đông Nam Á – Tạp chí nghiên cứu Đông Nam Á 1/2008 31) “Văn kiện Đại hội Đảng X” – Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam. 7892 32) “Cộng đồng ASEAN trong nhận thức và quan điểm của Việt Nam” – PGS.TS Nguyễn Thu Mĩ – Viện nghiên cứu Đông Nam Á. 33) “Đánh giá về những kết quả đạt được trong trụ cột cộng đồng kinh tế ASEAN 2010 và đóng góp của Việt Nam trên cương vị Chủ tịch HĐKT ASEAN” - Bài viết của Bộ trưởng Bộ Công Thương Vũ Huy Hoàng - Chủ tịch luân phiên Hội đồng Cộng đồng Kinh tế ASEAN 2010. duoc-trong-tru-cot-cong-dong-kinh-te-ASEAN-2010-va-dong-gop-cua-Viet-Nam-tren- cuong-vi-Chu-tich-HDKT-ASEAN 34) “Việt Nam là một trụ cột cộng đồng văn hóa-xã hội ASEAN” – Bài viết của Bộ trưởng bộ Lao Động–Thương binh và Xã hội Nguyễn Thị Kim Ngân. tru-cot-cong-dong-van-hoaxa-hoi-ASEAN/4664735.epi 35) “Những đóng góp tích cực của Việt Nam vào quá trình xây dựng Cộng đồng ASEAN” - Phó Thủ tướng Phạm Gia Khiêm. 3/nr090311143408/ns100525110153#5HGoO2H0sVgi 36) “Đường lối đối ngoại của Đảng Cộng sản Việt Nam: sự thể hiện trách nhiệm trước dân tộc và cộng đồng quốc tế” – Thứ trưởng thường trực Bộ Ngoại Giao Phạm Gia Khiêm. 37) “Cộng đồng ASEAN 2015” - Luận Thùy Dương, Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu chiến lược Ngoại giao. 21 37) “Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN)” – Nguồn Bộ Ngoại giao. ml 38) “Mục tiêu và nguyên tắc hoạt động của ASEAN” – Viện nghiên cứu phát triển Thành phố Hồ Chí Minh.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfvn_1154.pdf
Luận văn liên quan