Tiểu luận Môn kế hoạch hóa - Đánh giá thực hiện kế hoạch thương mại quốc tế giai đoạn 2001 -2010

Đánh giá thực hiện kế hoạch thương mại quốc tế giai đoạn 2001 - 2005, 2006 - 2008 và đưa ra giải pháp thực hiện KH thương mai quốc tế cho giai đoạn 2009 - 2010 Có 2 bài viết khác nhau để bạn tham khảo! Dưới đây là đề cương của file "ke hoach TMQT". PHẦN MỞ ĐẦU PHẦN THỨ NHẤT: NHỮNG VẤN ĐỀ LÍ LUẬN VỀ KẾ HOẠCH THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ CỦA VIỆT NAM 1. THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ-VAI TRÒ VÀ SỰ CẦN THIẾT. 1.1. Tổng quan về thương mại quốc tế. 1.2. Vai trò của thương mại đối với sự phát triển kinh tế trong nền kinh tế thị trường hiện nay. 1.3. Các nhân tố chính ảnh hưởng đến thương mại quốc tế. 1.3.1. Các nhân tố bên ngoài 1.3.2. Các nhân tố bên trong 2. KẾ HOẠCH THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ. 2.1. Khái quát về kế hoạch thương mại quốc tế. 2.2. Nhiệm vụ của kế hoạch thương mại quốc tế. 2.3. Nội dung kế hoạch thương mại quốc tế. 2.3.1. Phân tích đánh giá thực trạng hoạt động ngoại thương trong thời gian qua. 2.3.2. Định hướng, mục tiêu và các mục tiêu thương mại quốc tế. 2.2.3. Chính sách và các giải pháp cho thương mại quốc tế. a.Chính sách điều tiết kinh tế vĩ mô, hỗ trợ cho kế hoạch thương mại quốc tế. b.Các giải pháp cụ thể nhằm đẩy mạnh thương mại quốc tế của quốc gia PHẦN THỨ HAI: KẾ HOẠCH THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2006-2010, ĐÁNH GIÁ THỰC HIỆN KẾ HOẠCH GIAI ĐOẠN 2006-2008 1. ĐÁNH GIÁ THỰC HIỆN KẾ HOẠCH THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2001-2005 QUA MỘT SỐ CHỈ TIÊU CHỦ YẾU 2. KẾ HOẠCH THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2006-2010 2.1. Quan điểm phát triển 2.2. Mục tiêu phát triển và quy mô tăng trưởng 2.3. Cơ cấu hàng hóa xuất nhập khẩu 2.4. Cơ cấu thị trường xuất nhập khẩu 3. ĐÁNH GIÁ THỰC HIỆN KẾ HOẠCH THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2006-2008 (tính đến hết tháng 9/2008) 3.1. Đánh giá thực hiện kế hoạch về quy mô và tốc độ tăng trưởng 3.2. Đánh giá thực hiện kế hoạch về cơ cấu hàng hóa xuất nhập khẩu 3.3. Đánh giá thực hiện kế hoạch về cơ cấu thị trường xuất nhập khẩu PHẦN THỨ BA CÁC GIẢI PHÁP THỰC HIỆN KẾ HOẠCH THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2006-2010 (Áp dụng cho 2 năm còn lại 2009-2010) 1. DỤ BÁO KIM NGẠCH XUẤT NHẬP KHẨU GIAI ĐOẠN 2009-2010 2. CƠ HỘI VÀ THÁCH THỨC CỦA XUẤT NHẬP KHẨU VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2009-2010 2.1. Cơ hội 2.2. Thách thức 3. CÁC GIẢI PHÁP THỰC HIỆN KẾ HOẠCH THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ 3.1. Nhóm giải pháp thúc đẩy xuất khẩu. 3.1.1. giải pháp về các mặt hàng xuất khẩu chủ lực 3.1.2. giải pháp về thị trường xuất khẩu 3.1.3. giải pháp về hoàn thiện hệ thống chính sách hỗ trợ xuất khẩu 3.2. Giải pháp cân đối thương mại quốc tế qua hoạt động nhập khẩu. 3.3. Nhóm giải pháp về chính sách và hỗ trợ hoạt động ngoại thương. 3.3.1. giải pháp đẩy mạnh các chương trình xúc tiến thương mại 3.3.2 giải pháp về cải cách thủ tục hành chính PHẦN KẾT LUẬN

doc35 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 2434 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Môn kế hoạch hóa - Đánh giá thực hiện kế hoạch thương mại quốc tế giai đoạn 2001 -2010, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
và tương lai.Một cơ cấu không hợp lý dẫn đến giá trị và tỉ trọng nhập siêu cao, làm thâm hụt cán cân thương mại…Vì vậy cần phải có những mục tiêu phù hợp cho danh mục các mặt hàng nhập khẩu. Thứ ba: là các mục tiêu về danh mục các thị trường nhập khẩu hàng hóa Với xu hướng hội nhập kinh tế quốc tế, hoạt động nhập khẩu diễn ra dường như sôi động hơn, sự đa dạng hóa các thị trường nhập khẩu là một yêu cầu trong tiến trình hội nhập. Do đó cần có những mục tiêu hướng thị trường nhập khẩu vào quan hệ kinh tế bền vững giữa các quốc gia để tận dụng được những lợi thế về giá, chất lượng, công nghệ hàng nhập khẩu… 2.2.3. Chính sách và các giải pháp cho thương mại quốc tế. a.Chính sách điều tiết kinh tế vĩ mô, hỗ trợ cho kế hoạch thương mại quốc tế. Cơ cấu thị trường thế giới thay đổi do tác động trực tiếp và gián tiếp của cách mạng khoa học kỹ thuật theo xu hướng: Thứ nhất : Giảm đáng kể tỉ trọng nhóm lương thực thực phẩm trên thị trường thế giới. Thứ Hai : Tỷ trọng nhóm hàng truyền thống giảm mạnh trên thị trường thế giới. Thứ Ba : Do giá nguyên liệu tăng cao nên một số nước nhập khẩu chính đã chuyển sang tăng cường khai thác trong nước nhằm giảm bớt sự phụ thuộc vào bên ngoài. Thứ Tư : Tăng tỉ trọng sản phẩm công nghiệp chế biến, đặc biệt là máy móc thiết bị. Chính sách xuất khẩu là hệ thống các nguyên tắc, biện pháp kinh tế hành chính, pháp luật dùng để thực hiện các mục tiêu đã được xác định trong lĩnh vực xuất khẩu của mỗi một quốc gia trong thời ký nhất định. Chính sách xuất khẩu là một bộ phận trong hệ thống các chính sách về thương mại quốc tế nói chung. Xác định các chính sách xuất khẩu có ý nghĩa rất quan trọng trong việc thực hiện kế hoạch xuất khẩu nói riêng và kế hoạch về thương mại quốc tế nói chung. Qua đó giúp xây dựng chính sách điều tiết thương mại quốc tế có hiệu quả. Nắm vững thâm nhập thị trường và lựa chọn hình thức bành trướng kinh tế bên ngoài. Để hoạt động ngoại thương có thể đi theo những định hướng cơ bản trong kế hoạch, cần phải có những chinh sách điều tiết để hướng dẫn hoạt động ngoại thương, bao gồm: các chính sách sau a.1. Chính sách về tỉ giá hối đoái Tỉ giá hối đoái là tỉ lệ chuyển đổi đơn vị tiền tệ của nước này ra những đơn vị tiền tệ của nước khác, tỉ giá này phản ánh giá trị đồng tiền một nước so với giá trị đồng ngoại tệ trong từng thời kì nhất định. Tỉ giá hối đoái có thể tác động lớn đến hoạt động thương mại quốc tế cua quốc gia. Khi tỉ giá hối đoái tăng tức là đồng tiền trong nước sẽ giảm giá trị so với đồng tiền nước ngoài thì hàng hóa xuất khẩu sang nước khác tính theo giá cả của đồng tiền nước ngoài sẽ giảm, làm tăng khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế, tạo điều kiện thuận lợi cho xuất khẩu hàng hóa và có tiacs dụng hạn chế nhập khẩu. và ngược lại. Thông thường có ba chính sách về tỉ giá hối đoái: Thứ nhất: Chính sách tỉ giá hối đoái cố định, là chính sách do Nhà nước quy định, không thay đổi theo sự biến động cung cầu ngoại tệ trong nước và quốc tế, tức là không theo sự biến động của thị trường. Chính sách này thường áp dụng ở các quốc gia theo cơ chế kế hoạch hóa tập trung, Nhà nước thường trực tiếp xác định tỉ giá hối đoái và hoạt động xuất khẩu do nhà nước độc quyền. Trong điều kiện này, tỉ giá hối đoái thường ít có tác động với việc điều tiết thương mại quốc tế nói chung và hoạt động xuất khẩu hàng hóa nói riêng. Thứ hai: Chính sách tỉ giá hối đoái thả nổi tự do, là tỉ giá hối đoái hoàn toàn do cung cầu trên thị trường tự do quyết định, không có bất cứ sụ can thiệp nào của Chính phủ. Trong chế độ tỉ giá hối đoái này, Chính phủ để cho thị trường ngoại hối quyết định giá trị đồng tiền trong nước. Thứ ba: Chính sách tỉ giá hối đoái theo thị trường có sự điều tiết của Nhà nước, là tỉ giá không được thả nổi tự do trên thị trường, khi Chính phủ can thiệp vào thị trường ngoại hối để tác động đến tỉ giá hối đoái thì việc hình thành tỉ giá này được gọi là tỉ giá thả nổi có quản lý. Chính phủ có thể can thiệp bằng mua hoặc bán các đồng ngoại tệ, hoặc các biện pháp kiểm soát thị trường ngoại hối. Mức độ tác động điều tiết của tỉ giá hối đoái còn phụ thuộc vào trình độ phát triển của thị trường và mức độ mở của nền kinh tế. a.2. Chính sách thuế quan và phi thuế quan. Công cụ thuế bao gồm cả thuế xuât khẩu và thuế nhập khẩu. Thứ nhất: Thuế xuất khẩu hàng hóa: Thuế xuất khẩu thường hướng tới việc nâng cao khả năng cạnh tranh cho các sản phẩm xuất khẩu ra thị trường quốc tế. Do đó, trong thời kì đầu xuất khẩu các sản phẩm thường chỉ chịu thuế suất thấp, thuê suất thường ở mức xấp xỉ hoặc bằng 0. Hiện nay, ở nhiều quốc gia trên thế giới không chỉ giảm thuế với hàng hóa xuất khẩu mà còn hoàn thuế đối với nguyên, vật liệu nhập khẩu để sản xuất sản phẩm xuất khẩu. Thứ hai: Thuế nhập khẩu phục vụ cho hoạt động ngoại thương và sản xuất trong nước được gọi là thuế bảo hộ. Đó là việc đánh thuế cao vào những hàng nhập khẩu có sức cạnh tranh với hàng trong nước. Hình thức này áp dụng cho các quốc gia thực hiện chiến lược thay thế nhập khẩu. Nhiều nước phát triển thực hiện việc thay thế nhập khẩu có điều kiện, tức là bảo hộ hàng sản xuất trong nước với những thời gian nhất định, tạo điều kiện cho những ngành hàng nâng cao khả năng cạnh tranh, sau đó sẽ tiến hành xuất khẩu. Công cụ phi thuế quan gồm: hạn ngạch, các ưu đãi tín dụng,… Thứ nhất: Hạn ngạch là hình thức hạn chế nhập khẩu hoặc xuất khẩu. Đây là những hạn mức do nhà nước trực tiếp quyết định. Theo đó bãi bỏ những hạn mức đối với các mặt hàng có lợi thế của quốc gia trên thị trường quốc tế, hay nghiêm cấm xuất khẩu một số mặt hàng theo quy định quốc gia…Đồng thời hạn ngạch xuất khẩu cũng phụ thuộc vào quốc gia nhập khẩu của các các mặt hàng đó. Cùng với đó là các hạn ngạch nhập khẩu. Các mặt hàng cấm nhập khẩu sẽ tương ứng với hàng cấm xuất khẩu. Và hạn ngạch nhập khẩu cũng phụ thuộc vào hạn ngạch xuất khẩu của nước mà quốc gia tiến hành nhập khẩu. Thứ hai: Ưu tiên vay vốn cho các đơn vị sản xuất hàng xuất khẩu. Các biện pháp thường được sử dụng như ưu đãi tín dụng, trợ giúp các doanh nghiệp tăng cường khả năng tiếp cận với thông tin thương mại quốc tế, đào tạo kĩ năng xúc tiến thương mại cho cán bộ hoạt động xuất khẩu. Định hướng thị trường cho các ngành hàng xuất khẩu. Mua tạm trữ hàng hóa cho những sản phẩm xuất khẩu có tính thời vụ (gạo, cà phê). b.Các giải pháp cụ thể nhằm đẩy mạnh thương mại quốc tế của quốc gia Thứ nhất: Nâng cao năng lực cạnh tranh, hiệu quả và chất lường sản phẩm hàng hóa, dịch vụ; từng bước nâng cao hiệu quả xuất khẩu. Giải quyết tốt các vấn đề về thương hiệu hàng hóa để tăng thêm khả năng cạnh tranh của hàng hóa trên thị trường quốc tế. Một trong những vấn đề trọng tâm là ”Xây dựng các mặt hàng xuất khẩu chủ lực”. Mặc dù có chính sách đa dạng hóa mặt hàng xuất khẩu nhằm tăng cường các quan hệ thương mại.Tuy vậy để tạo ra một lợi thế so sánh trong hoạt động xuất khẩu của quốc gia thì việc tập trung vào các mặt hàng chủ lực là cơ sở để quốc gia đó chủ động hơn trong định hướng phát triển kinh tế thương mại của quốc gia mình, tăng vị thế của quốc gia trên trường quốc tế, nâng cao chất lượng cũng như giá trị của kim ngạch xuất khẩu. Tạo ra sự tăng trưởng ổn định của kim ngạch xuất khẩu nói riêng và giữ vững được cán cân thương mại trong bối cảnh đầy biến động của kinh tế toàn cầu . Thứ hai: Phát triển thị trường trên cơ sở phát triển mạnh xúc tiến thương mại, thực hiện các cam kết hội nhập kinh tế quốc tế. Tích cực mở rộng thị trường, đa phương hóa và đa dạng hóa quan hệ với các đối tác; tận dụng mọi khả năng để tăng mức xuất khẩu trên tất cả các thị trường đã có, song song với việc đẩy mạnh xuất khẩu vào các thị trường tiềm năng là củng cố thị trường truyền thống và phát triển thị trường mới. Thứ ba: Đầu tư cho xuất khẩu, hạn chế nhập khẩu tạo cán cân thương mại tích cực. Nhà nước áp dụng các biện pháp khuyến khich đầu tư sau nhằm hướng vào xuất khẩu: - Khuyến khích đầu tư qua thuế. - Khuyến khích đầu tư bằng chính sách tạo nguồn vốn. - Khuyến khích đầu tư qua chính sách tín dụng. - Khuyến khích đầu tư qua khu công nghệ cao và khu chế xuất. Thứ tư: Hoàn thiện cơ chế chính sách xuất nhập khẩu, từng bước nâng cao hiều quả xuất nhập khẩu thông qua việc hoàn thiện toàn bộ hệ thống thuế, phí theo hướng khuyến khích xuất khẩu và sản xuất hàng xuất khẩu, hạn chế nhập khẩu, khuyến khích sử dụng các vật tư, nguyên liệu, sản phẩm công nghiệp sản xuất trong nước cho nhu cầu sản xuất nói chung và sản xuất hàng xuất khẩu nói riêng . Triển khai các công cụ quản lý nhập khẩu phù hợp với quy định của thị trường quốc tế. PHẦN THỨ HAI KẾ HOẠCH THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2006- 2010 ĐÁNH GIÁ THỰC HIỆN KẾ HOẠCH GIAI ĐOẠN 2006-2008 1. ĐÁNH GIÁ THỰC HIỆN KẾ HOẠCH THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2001-2005 QUA MỘT SỐ CHỈ TIÊU CHỦ YẾU Hoạt động xuất nhập khẩu cuả nước ta đã phát triển đến khắp các châu lục. Đến năm 2005, nước ta đã có quan hệ thương mại với hơn 160 quốc gia và vùng lãnh thổ. Bảng 1: Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu và tốc độ tăng bình quân Giai đoạn 2001-2005 Kim ngạch (triệu USD) Tốc độ tăng trưởng (%) Xuất khẩu 110830 17,5 Nhập khẩu 130151 18,8 Cán cân thương mại -19321 Trong giai đoạn 2001-2005, trong khi xuất khẩu tăng bình quân 17,5%/năm (vượt 16%/năm), nhưng nhập khẩu đã tăng vượt trội 18,8% (vượt xa mục tiêu 15%/năm), cho nên nhập siêu đạt mức khổng lồ 19,321 tỷ USD và tỷ lệ nhập siêu vẫn là 17,38%, bằng khoảng 9,4% GDP. Tuy tốc độ tăng của xuất khẩu có xu hướng cao hơn nhiều so với tốc độ tăng của nhập khẩu (năm 2005, tăng xuất khẩu là 21,6%, nhập khẩu là 15,7%), song kim ngạch nhập khẩu luôn lớn hơn xuất khẩu, cán cân thương mại của Việt Nam vẫn đang ở tình trạng thâm hụt. Về cơ cấu hàng hóa xuất nhập khẩu có sự chuyển biến nhưng vẫn tồn tại nhiều hạn chế trong khả năng đóng góp vào tăng trưởng. Cơ cấu xuất khẩu lại hầu như không có nhiều thay đổi, chỉ thiên về xuất khẩu nông sản chưa chế biến (lúa gạo, cà phê, thủy sản,…) và khoáng sản (chủ yếu là dầu thô), những mặt hàng có hàm lượng công nghệ, chất lượng cao xuất khẩu còn ít. Tỷ trọng hàng nhập khẩu phục vụ cho tiêu dùng và nguyên, vật liệu trong cơ cấu hàng nhập khẩu tuy đã giảm nhưng vẫn chiếm tỷ trọng lớn; tỷ trọng nhập khẩu máy móc, thiết bị, công nghệ còn khiêm tốn. 2. KẾ HOẠCH THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2006-2010 2.1. Quan điểm phát triển - Tích cực thực hiện chủ trương khuyến khích xuất khẩu hàng hóa nhằm góp phần vào thúc đẩy tốc độ tăng trưởng GDP chung của toàn nền kinh tế. Phát triển sản xuất, thu hút lao động phù hợp với các quy định của tổ chức thương mại thế giới WTO và các cam kết quốc tế mà Việt Nam là thành viên. - Gắn kết thị trường trong nước và thị trường ngoài nước theo hướng: phát triển thị trường trong nước để tạo nguồn hàng xuất khẩu, đồng thời mở rộng thị trường xuất khẩu để kích thích sản xuất trong nước, cải thiện tích cực quan hệ kinh tế trong nước với nước ngoài. Mở rộng và đa dạng hóa thị trường xuất nhập khẩu đi đôi với việc mở rộng và đẩy mạnh khai thác thị trường trong nước để hỗ trợ, giảm rủi ro cho xuất khẩu khi thị trường thế giới biến động. - Nhập khẩu hàng hóa phải phải phù hợp với xuất khẩu hàng hóa, đảm bảo sự tương quan với xuất khẩu và tiến tới cân bằng được cán cân xuất nhập khẩu, sau đó là xuất siêu. 2.2. Mục tiêu phát triển và quy mô tăng trưởng Phát triển xuất khẩu với tốc độ cao và bền vững, làm động lực thúc đẩy tăng trưởng GDP. Đẩy mạnh đầu tư phát triển sản xuất và xuất khẩu các mặt hàng xuất khẩu có lợi thế cạnh tranh, có khả năng chiếm lĩnh thị phần đáng kể trên thị trường thế giới, đồng thời tích cực phát triển các mặt hàng khác có tiềm năng thành những mặt hàng xuất khẩu chủ lực mới, theo hướng nâng cao hiệu quả xuất khẩu. Chuyển dịch cơ cấu xuất khẩu theo hướng đẩy mạnh xuất khẩu những mặt hàng có giá trị gia tăng cao; tăng sản phẩm chế biến, chế tạo, sản phẩm có hàm lượng công nghệ và chất xám cao, giảm dần tỉ trọng hàng xuất khẩu thô. Kiềm chế được nhập siêu, phấn đấu tiến tới cân bằng hợp lí cán cân xuất nhập khẩu. Ưu tiên nhập khẩu vật tư, thiết bị và công nghệ tiên tiến, giữ thế chủ động trong nhập khẩu, tập trung vào nhập thiết bị hiện đại từ các nước có công nghệ nguồn; giảm nhanh và tiến tới hạn chế nhập thiết bị công nghệ lạc hậu hoặc công nghệ trung gian; hạn chế nhập khẩu hàng hóa vật tư thiết bị cũng như hàng tiêu dùng trong nước có thể sản xuất và đáp ứng được. Bảng 2: Chỉ tiêu kế hoạch thương mại quốc tế giai đoạn 2006-2010 Thời kì 2001-2005 Thời kì 2006-2010 Giá trị (tỷ USD) Tốc độ tăng (%) Giá trị (tỷ USD) Tốc độ tăng (%) Xuất khẩu 110,8 17,5 258,7 16,0 Nhập khẩu 130,2 18,8 286,5 14,7 Giảm cán cân thương mại, mục tiêu cán cân thương mại giảm xuống còn -4,5 tỷ USD năm 2010. Tính chung cho cả giai đoạn là -27,8 tỷ USD. 2.3. Cơ cấu hàng hóa xuất nhập khẩu Bảng 3 : Cơ cấu hàng hóa xuất khẩu Việt Nam giai đoạn 2006-2010 Danh mục hàng hóa Thời kỳ 2001-2005 Thời kỳ 2006-2010 Giá trị (Tỷ USD) Tỷ trọng (%) Giá trị (Tỷ USD) Tỷ trọng (%) Khoáng sản, nhiên liệu 37,7 34,0 86,0 33,2 Nông – lâm – thủy sản 28,6 25,8 61,5 23,8 Chế biến, chế tạo 44,6 40,2 111,2 43,0 Tổng 110,9 100,0 258,7 100,0 Nguồn : Số liệu thống kê Bộ KH&ĐT Trong đó: Nhóm hàng khoáng sản, nhiên liệu Dự kiến lượng xuất khẩu sẽ tăng chậm, tiến tới hạn chế dần xuất khẩu để sử dụng cho sản xuất trong nước. Nhóm hàng nông – lâm – thủy sản Tập trung thúc đẩy phát triển những sản phẩm lợi thế có năng suất cao; đảm bảo chất lượng theo tiêu chuẩn quốc tế; nâng cao giá trị gia tăng thông qua việc tăng hàm lượng chế biến trong các sản phẩm xuất khẩu … Nhóm hàng chế biến, chế tạo Ngoài hai mặt hàng chủ lực là dệt may và giày dép, cần tăng cường phát triển các mặt hàng mới như đóng tàu biển, các sản phẩm cơ khí, điện, các sản phẩm có nhiều tiềm năng như thủ công mĩ nghệ, thực phẩm chế biến, sản phẩm gỗ, hóa phẩm tiêu dung, sản phẩm nhựa … Trong thời kỳ bùng nổ và phát triển của công nghệ thông tin như hiện nay thì cần chú trọng phát triển vào các mặt hàng xuất khẩu có hàm lượng chất xám cao như sản phẩm điện tử tin học, các sản phẩm phần mềm. Bảng 4 : Cơ cấu hàng hóa nhập khẩu Việt Nam giai đoạn 2006-2010 Danh mục hàng hóa Thời kỳ 2001-2005 Thời kỳ 2006-2010 Giá trị (tỷ USD) Tỷ trọng (%) Giá trị (tỷ USD) Tỷ trọng (%) Máy móc thiết bị phụ tùng 41,1 31,6 93,4 32,6 Nguyên nhiên vật liệu 79,8 61,3 174,2 60,8 Hàng tiêu dùng 9,3 7,1 18,9 6,6 Tổng 130,2 100 286,5 100 Nguồn : Số liệu thống kê Bộ KH&ĐT Trong đó: Nhóm máy móc, thiết bị và phụ tùng Gồm các lọa như ôtô, linh kiện ôtô, xe máy và các loại máy móc thiết bị dụng cụ phục vụ sản xuất. Cần ưu tiên nhập khẩu của các nước phát triển có nền công nghiệp chế tạo tiên tiến. Chú trọng dây chuyền công nghệ vừa đáp ứng được chất lượng, giá cả và điều kiện của Việt Nam. Nhóm nguyên, nhiên vật liệu Bao gồm xăng dầu, Urê, thép thành phẩm và phôi thép; các mặt hàng nguyên vật liệu phục vụ sản xuất như bông sợi, chất dẻo, giấy, tân dược, hóa chất, nguyên phụ liệu may, giày dép, vải …. 2.4. Cơ cấu thị trường xuất nhập khẩu Định hướng xuất khẩu của Việt Nam trong giai đoạn này là tiếp tục đa dạng hóa thị trường, gia tăng xuất khẩu sang các nước châu Âu, châu Mỹ và giảm xuất khẩu sang các nước châu Á. Trong khi đó, tăng cường nhập khẩu hàng hóa từ các nước có trình độ công nghệ cao, tiên tiến như Mỹ, EU. 3. ĐÁNH GIÁ THỰC HIỆN KẾ HOẠCH THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2006-2008 (tính đến hết tháng 9/2008) 3.1. Đánh giá thực hiện kế hoạch về quy mô và tốc độ tăng trưởng Tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa trong 3 năm 2006, 2007, 2008 (9 tháng đầu năm) vẫn liên tục tăng cả về chất và lượng. Bảng 5 : Kim ngạch xuất khẩu Việt Nam giai đoạn 2006-2008 Năm 2006 Năm 2007 9 tháng 2008 (ước tính) Tổng KNXK (tỷ USD) 39,6 48,4 48,6 Tốc độ tăng KNXK (%) 22,1 21,5 39 Lượng tăng KN tuyệt đối (tỷ USD) 7,2 8,8 13,64 Tỷ trọng KNXK trong GDP (%) 64,9 67,7 - Kế hoạch (tỷ USD) 37,8 46,8 58,6 % đạt được so với kế hoạch 104,9 103,4 82,9 Nguồn : Tổng cục thống kê & Thời báo kinh tế Việt Nam 2007-2008 Qua số liệu thống kê trong 3 năm qua có thể thấy tổng kim ngạch xuất khẩu đã đạt 136,6 tỷ USD, so với kế hoạch cho cả giai đoạn là 259 tỷ USD thì đã hoàn thành được 52,74% sau hơn nửa chặng đường. Con số này cho thấy tỷ lệ hoàn thành kế hoạch theo thời gian là khá tốt. Trước hết yêu cầu đặt ra là hoàn thành nhiệm vụ trong 3 tháng còn lại của năm 2008, và sau đó tiếp tục phấn đấu và có các giải pháp để hoàn thành kế hoạch cho cả giai đoạn 5 năm. Mặt khác, mục tiêu phấn đấu đến năm 2010 đạt kim ngạch xuất khẩu là 68-69 tỷ USD là điều hoàn toàn có thể thực hiện được nếu chúng ta tiếp tục duy trì tốc độ tăng trưởng như trên. Để đánh giá tình hình thực hiện kế hoạch năm 2006 có thể dung hai chữ “Ấn tượng”. Với tổng kim ngạch trên 39,5 tỷ USD, tăng 22,1% so với năm 2005, nếu không kể dầu thô, con số này là 24,5%, cao hơn tốc độ tăng trưởng chung của cả nước, điều này cho thấy sự giảm phụ thuộc vào xuất khẩu dầu thô của tăng trưởng xuất khẩu so với các năm trước. Tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu vượt 4,9% so với kế hoạch đề ra, xuất khẩu bình quân đạt 3,3 tỷ USD/tháng. Có thể thấy rằng xuất khẩu đã thực sự trở thành một trong những điểm sáng của bức tranh toàn cảnh kinh tế trong nước năm 2006. Đây là thành tích rất đáng tự hào trước khi kinh tế đất nước bước sang một giai đoạn phát triển mới, giai đoạn hội nhập toàn diện. Đây được xem là bước đệm và mốc phát triển quan trọng trong hoạt động xuất khẩu của Việt Nam. Kết quả này đã góp phần không nhỏ vào mức tăng trưởng kinh tế (GDP 8,2%) chung của đất nước. Tốc độ tăng trưởng trên được xếp vào mức cao nhất trong khu vực, chỉ đứng sau Trung Quốc. Từ chỗ chỉ chiếm tỉ trọng nhỏ so với tổng thu nhập quốc dân (24% GDP năm 1991), đến nay xuất khẩu đã chiếm 64,9% trong GDP, đứng thứ 5 so với các nước trong khu vực Đông Nam Á, thứ 6 ở Châu Á, thứ 8 trên thế giới. Đây chính là biểu hiện rõ nét cho sự đóng góp của xuất khẩu trong tổng thu nhập quốc dân. Lượng tăng tuyệt đối của xuất khẩu trong năm 2006 đạt 7,2 tỷ USD, trong đó đóng góp của nhân tố tăng khối lượng xuất khẩu là 58,9% (giá trị tuyệt đối là 4,2 tỷ USD), còn nhân tố tăng giá chiếm 41,1% (giá trị tuyệt đối là 3 tỷ USD). Việc tăng trưởng của xuất khẩu phụ thuộc nhiều vào yếu tố lượng là dấu hiệu tích cực, lượng hàng hóa xuất khẩu thể hiện quy mô sản xuất đã được mở rộng, là yếu tố giúp duy trì nhịp độ tăng trưởng xuất khẩu một cách bền vững. Xuất khẩu năm 2007- năm đầu tiên trở thành thành viên WTO – quy mô và tốc độ tăng trưởng tiếp tục được duy trì ở mức cao. Kim ngạch xuất khẩu năm 2007 đạt quy mô cao nhất từ trước đến nay. Tổng kim ngạch xuất khẩu đạt 48,4 tỷ USD, bình quân 4 tỷ USD/tháng (cao hơn mức bình quân kế hoạch 3,9 tỷ USD và mức bình quân năm 2006 3,3 tỷ USD). Tốc độ tăng trưởng đạt 21,5%, nếu không tính dầu thô con số này là 26,4%, điều đó tiếp tục cho thấy sự giảm phụ thuộc vào xuất khẩu dầu thô trong tăng trưởng xuất khẩu. Mặc dù tốc độ tăng trưởng có thấp hơn tốc độ tăng trưởng của các năm trước, nhưng về lượng tăng tuyệt đối lại thuộc loại cao (8,8 tỷ USD so với 7,2 tỷ USD năm 2006). Kim ngạch xuất khẩu bình quân đầu người đạt 570 USD, cao nhất từ trước đến nay, gấp 3 lần năm 2000, gấp 1,5 lần năm 2005. Tỷ lệ kim ngạch xuất khẩu hàng hóa trong GDP vẫn tiếp tục đà tăng trưởng. 67,7 % là tỷ lệ thuộc loại cao so với tỷ lệ 22% của thế giới. Tỷ lệ trên chỉ đứng sau 4 nước trong khu vực là Singapore 169%, Malaysia 107%, Brunei 99%, Thái Lan 91%; đứng thứ 6 Châu Á (thêm Hồng Kông 159%), đứng thứ 7 thế giới (thêm Bỉ 88%). Trong năm 2007, hệ số co giãn giữa tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu và tốc độ tăng GDP đạt 2,6 lần. Các chỉ số trên đã chứng tỏ xuất khẩu là định hướng, đồng thời là động lực của tăng trưởng kinh tế. Mặc dù mới là năm đầu tiên tham gia vào WTO, nhưng những thành tựu đạt được đã cho thấy khả năng tận dụng cơ hội rất tốt của Việt Nam, nó chứng tỏ Việt Nam hoàn toàn có thể phát huy lợi thế thành viên WTO để đẩy mạnh xuất khẩu. Xuất khẩu 9 tháng đầu năm 2008 vẫn tiếp tục đà tăng trưởng. Tuy nhiên cũng phải đối mặt với rất nhiều khó khăn do những biến động trên thế giới. Ước tính kim ngạch xuất khẩu trong 9 tháng sẽ đạt 48,6 tỷ USD, tăng 39% so với cùng kì năm ngoái, đạt 82,9% so với kế hoạch để ra (58,6 tỷ USD). Có thể thấy rằng mới qua 9 tháng, tổng kim ngạch xuất khẩu đã vượt so với kết quả của cả năm 2007, tuy nhiên để đạt và vượt mục tiêu kế hoạch đề ra cũng cần phải rất cố gắng trong 3 tháng cuối năm, đặc biệt là trong tình hình thế giới đang có nhiều biến động phức tạp. Trong những tháng cuối năm này đã xuất hiện những yếu tố thực sự đáng lo ngại về khả năng suy trì mức xuất khẩu tăng trưởng cao. Trong số 39% tăng trưởng thì phần lớn là do chịu ảnh hưởng của yếu tố giá cả, nếu loại trừ yếu tố tăng giá thì tổng kim ngạch hàng hóa xuất khẩu 9 tháng năm 2008 chỉ tăng 14,8% so với cùng kỳ năm trước. Tổng kim ngạch nhập khẩu trong 3 năm 2006-2007-2008 vẫn tiếp tục có sự tăng trưởng mạnh. Cùng với đó tỷ lệ nhập siêu tăng nhanh trong giai đoạn này Bảng 6 : Kim ngạch nhập khẩu và cán cân thương mại Việt Nam giai đoạn 2006-2008 Năm 2006 Năm 2007 9 tháng 2008 (Ước tính) Tổng KNNK (Tỷ USD) 44,89 62,68 64,4 Tốc độ tăng (%) 20,1 35,5 48,3 Tỷ trọng KNNK trong GDP (%) 73,57 87,67 - Cán cân thương mại (Tỷ USD) - NX -5,29 -14,28 -15,8 (X+M)/GDP 1,38 1,55 - NX/GDP -0,087 -0,2 - NX/X (%) 13,36 29,5 32,51 Trong giai đoạn vừa qua, do tăng trưởng kinh tế và xuất khẩu hàng hóa tăng khá nên quy mô và tốc độ nhập khẩu tăng đều qua các năm. Về cơ bản nhập khẩu vẫn tiếp tục tăng trưởng theo hướng phục vụ có hiệu quả cho phát triển sản xuất và đổi mới công nghệ, thúc đẩy nâng cao chất lượng và sức cạnh tranh của hàng hóa, đáp ứng nhu cầu trong nước và xuất khẩu. Tuy nhiên trong giai đoạn 2006-2008 thì tốc độ tăng kim ngạch nhập khẩu là rất lớn, lớn hơn nhiều so với tốc độ tăng của xuất khẩu. Sở dĩ nhập siêu cao là do năm 2006, Việt Nam chính thức gia nhập WTO, một thị trường chung cho 150 quốc gia trên thế giới, vì vậy theo những yếu tố luật định, các thể chế kinh tế chung trong đó yêu cầu nới lỏng hạn ngạch nhập khẩu, cắt giảm các hàng rào thuế quan đối với các hàng hóa nhập khẩu là điều kiện để VN hội nhập sâu và rộng. Đồng thời nhu cầu nhập khẩu tăng là cách thức tốt cho mục tiêu đẩy nhanh tốc độ công nghiệp hóa đất nước. Mặt khác giá của nhiều mặt hàng nhập khẩu chủ yếu đều tăng cao như sắt thép, xăng dầu, chất dẻo. Năm 2007, tổng kim ngạch nhập khẩu đạt 62,68 tỷ USD, cũng là mức kỷ lục từ trước tới nay, tăng tới 35,5% so với năm 2006. Do tốc độ tăng nhập khẩu cao gấp rưỡi tốc độ tăng xuất khẩu, nên nhập siêu đã gia tăng so với cùng kỳ năm trước về kim ngạch tuyệt đối (14,28 tỷ USD so với gần 5,29 tỷ USD). Mức nhập siêu như thế là rất cao, vượt xa so với năm 2006 và cao gấp hơn hai lần so với kế hoạch, có những lĩnh vực không thể coi là hợp lý hay cần thiết, bởi có nhiều loại mà trong nước có thể sản xuất được. Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu so với GDP liên tục tăng trong cả giai đoạn liên tục tăng và giữ tỉ lệ lớn hơn 80%, chính vì vậy nền kinh tế của chúng ta là rất mở. Tuy nhiên cán cân thương mại của chúng ta luôn trong tình trạng thâm hụt (NX<0) cho thấy xu hướng mở của nền kinh tế là mở ra hơn là mở vào. 3.2. Đánh giá thực hiện kế hoạch về cơ cấu hàng hóa xuất nhập khẩu Quá trình chuyển dịch cơ cấu mặt hàng tiếp tục tiếp diễn theo xu thế vận động chung là tăng cường đẩy mạnh xuất khẩu mặt hàng có giá trị gia tăng cao, xuất khẩu sản phẩm thô giảm, sản lượng hàng hóa có hàm lượng công nghệ và chất xám cao được xuất khẩu tăng. Bảng 5 : Cơ cấu xuất khẩu theo mặt hàng giai đoạn 2006-2007 Đơn vị tính : % Năm 2006 Năm 2007 9 tháng 2008 (Ước tính) Khoáng sản – Nhiên liệu 35,4 35,25 32,7 Chế biến – Chế tạo 44,0 44,45 44,5 Nông – lâm – thủy sản 20,6 20,3 22,8 Tổng 100 100 100 Nguồn : Niên giám thống kê Có thể nói con số kim ngạch xuất khẩu 39,6 tỷ USD trong năm 2006 là nhờ những thành tích “kỷ lục” của nhiều ngành hàng xuất khẩu, đặc biệt trong bối cảnh xuất khẩu gặp phải không ít khó khăn. Trước hết là nhóm hàng hóa thủy sản Bên cạnh khó khăn nội tại về nguồn nguyên liệu, thị trường giá trong nước biến động…, xuất khẩu thủy sản vấp phải khó khăn lớn, đó là việc đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm hàng xuất khẩu. Chính vì vậy, việc sau 11 tháng, xuất khẩu thủy sản đã hoàn thành vượt kế hoạch, đạt  3,11 tỷ USD, tăng 24,6% được xem là thành tích kỷ lục. Và cả năm 2006, xuất khẩu thủy đã đạt con số 3,4 tỷ USD, tăng 25,35%, góp 8,6% trong tổng kim ngạch xuất khẩu chung của cả nước. Cùng với đó, xuất khẩu nhiều mặt hàng công nghiệp cũng tăng trưởng khá Sản phẩm giày dép đã vấp phải một rào cản lớn, đó là hàng xuất khẩu vào EU bị áp thuế chống bán phá giá. Xu hướng chuyển sang các thị trường ngách được xem là bước chuyển hướng thành công của giày dép năm 2006. Nhờ đó kim ngạch xuất khẩu mặt hàng này vẫn đạt thành tích ấn tượng 3,5 tỷ USD, tăng trưởng 16,9% và chiếm 8,8% tổng kim ngạch chung. Hàng dệt may tiếp tục đứng ở vị trí đầu tiên (nếu trừ dầu thô), mặc dù vẫn bị áp hạn ngạch vào thị trường Mỹ, nhưng kim ngạch năm 2006 đạt 5,8 tỷ USD, tăng 22% so với cùng kỳ, góp 14,9% vào tổng  kim ngạch xuất khẩu cả nước. Đến cuối năm 2006, đã có 9 mặt hàng tham gia vào câu lạc bộ 1 tỷ USD, ngoài các mặt hàng truyền thống (dầu thô, dệt may, giày dép, thủy sản, gỗ, điện tử, gạo) đạt kim ngạch cao, lần đầu tiên hai mặt hàng cà phê và cao su có kim ngạch xuất khẩu đạt trên 1 tỷ USD. Tiếp tục đà tăng trưởng của năm 2006, cùng với cơ hội mới khi đây là năm đầu tiên Việt Nam gia nhập vào tổ chức thương mại quốc tế WTO, tăng trưởng xuất khẩu vẫn đạt hầu hết trên các mặt hàng xuất khẩu chủ yếu. Một trong số các thành tựu đáng chú ý của xuất khẩu trong năm 2007 là cơ cấu hàng hoá xuất khẩu đã có những chuyển dịch tích cực theo hướng tăng dần tỷ trọng nhóm hàng chế biến, chế tạo, nhóm hàng có hàm lượng công nghệ và chất xám cao, giảm dần xuất khẩu hàng thô. Cụ thể, nhóm hàng hóa nông lâm thủy sản đạt 10,6 tỷ USD (tăng 1,7 tỷ), nhóm sản phẩm khoáng sản và nhiên liệu đạt 9,8 tỷ USD (tăng 0,2 tỷ) và có mức tăng cao nhất là nhóm hàng hóa thuộc lĩnh vực chế biến chế tạo – 3,7 tỷ USD, đạt kim ngạch 28 tỷ USD. Điều đáng chú ý trong năm là nhóm các mặt hàng xuất khẩu trên 1 tỷ USD đã có 10 thành viên. Ngoài 9 thành viên quen thuộc thì đã xuất hiện thêm thành viên mới là than đá (1,02 tỷ USD). Trong số đó có 4 nhóm hàng trên 3 tỷ USD, 2 nhóm hàng trên 2 tỷ USD. Như vậy, kim ngạch của 10 “đại gia” trên đạt 34,24 tỷ USD, chiếm đến 70,7% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước, và tăng 16,7% so với năm trước. 9 tháng đầu năm 2008, chuyển dịch cơ cấu mặt hàng tiếp tục diễn ra theo hướng tích cực. Tuy nhiên chịu nhiều ảnh hưởng của yếu tố giá. Kim ngạch xuất khẩu của hầu hết các mặt hàng chủ lực vẫn tiếp tục tăng cao, nhóm các mặt hàng trong “Câu lạc bộ 1 tỷ USD” tiếp tục có sự tăng trưởng, đóng góp phần lớn vào tốc độ tăng trưởng chung của kim ngạch xuất khẩu. Mặc dù có được tốc độ tăng trưởng cao trong giai đoạn này, nhưng nhìn chung cơ cấu xuất khẩu của nước ta vẫn chưa có chuyển biến theo hướng tăng tỷ lệ hàng chế biến, giảm tỷ lệ hàng sơ chế và khoáng sản. Hầu hết các mặt hàng xuất khẩu có kim ngạch lớn được lợi do yếu tố giá cả, có thể thấy xuất khẩu tăng trưởng nhanh nhưng chưa vững chắc và rất dễ bị tổn thương bởi sự biến động giá cả trên thị trường thế giới hay sự xuất hiện của các rào cản thương mại mới của nước ngoài. Cơ cấu mặt hàng xuất khẩu chưa hợp lý, thể hiện trên cả 3 phương diện: chủng loại hàng hoá xuất khẩu còn đơn điệu, chậm xuất hiện những mặt hàng xuất khẩu mới có đóng góp kim ngạch đáng kể, các mặt hàng xuất khẩu có giá trị gia tăng còn thấp. Xuất khẩu chủ yếu vẫn phụ thuộc vào các mặt hàng như khoáng sản, nông, lâm, thuỷ, hải sản, trong khi các mặt hàng công nghiệp như dệt may, da giày, điện tử và linh kiện máy tính... chủ yếu vẫn còn mang tính chất gia công đã làm cho giá trị gia tăng trong số mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam còn thấp; quá trình chuyển dịch cơ cấu mặt hàng xuất khẩu theo hướng công nghiệp hóa diễn ra chậm và chưa có giải pháp cơ bản, triệt để. Về thực chất, cơ cấu hàng xuất khẩu thời gian qua chủ yếu chuyển dịch theo chiều rộng, chưa đi vào chiều sâu, xuất khẩu chủ yếu dựa vào khai thác lợi thế so sánh sẵn có mà chưa khai thác được lợi thế cạnh tranh thông qua việc xây dựng các ngành hàng có mối liên kết chặt chẽ với nhau để hình thành chuỗi giá trị gia tăng xuất khẩu lớn. Ngoài ra, trong số các mặt hàng chủ lực trên 1 tỷ USD chỉ có một mặt hàng thuộc lĩnh vực công nghệ (điện tử, linh kiện máy tính) có hàm lượng công nghệ cao. Cơ cấu hàng hóa nhập khẩu cũng có sự chuyển biến tích cực.Tăng cường nhập khẩu tu liệu sản xuất phục vụ cho nền kinh tế trong nước, hạn chế dần nhập khẩu hàng tiêu dùng, các sản phẩm mà chúng ta có khả năng sản xuất và có khả năng cạnh tranh cao. Trong 2 năm 2006-2007, các mặt hàng máy móc thiết bị, nguyên liệu cho sản xuất (trừ xăng dầu, phôi thép và phân urê) đều tăng nhanh về kim ngạch nhập khẩu. Và đến 9 tháng đầu năm 2008, tỷ trọng của nhóm mặt hàng tư liệu phục vụ cho sản xuất là 94,3%, trong khi đó tỷ trọng của nhóm mặt hàng tiêu dùng nhập khẩu là 5,7%. Bảng 6 : Tốc độ tăng trưởng của một số mặt hàng nhập khẩu chủ yếu Đơn vị : % Năm 2006 Năm 2007 Máy móc thiết bị 24,1 56,5 Xăng dầu 16,4 25,7 Vải 23,1 33,6 Sắt thép -0,9 66,2 Chất dẻo 26,8 34,3 Hóa chất 18,6 39,1 Nguyên phụ liệu dệt -14,1 12,1 Nguồn : Tổng cục thống kê Trước hết, kim ngạch nhập khẩu máy móc, thiết bị và phụ tùng chiếm tỷ trọng khá lớn và tăng trưởng với tốc độ khá cao. Có hai vấn đề đặt ra là: Trong tổng kim ngạch nhập khẩu máy móc, thiết bị, dụng cụ và phụ tùng có một phần (nhất là dụng cụ, phụ tùng) có thể sản xuất được ở trong nước. Và đáng chú ý hơn là có một phần đáng kể máy móc, thiết bị được nhập khẩu từ một số nước không thuộc công nghệ nguồn, thậm chí còn là máy móc, thiết bị, công nghệ cũ, hoặc đang trong quá trình thải loại của các nước xuất khẩu. Vì vậy, một mặt cần tăng cao hơn nữa tỷ trọng nhập khẩu máy móc, thiết bị, nhưng mặt khác cần lựa chọn trình độ kỹ thuật - công nghệ tiên tiến để tránh thiệt hại "kép": vừa tốn ngoại tệ, vừa biến Việt Nam trở thành bãi rác công nghệ của thế giới như đã từng xảy ra đối với mía đường, xi măng lò đứng, nhập khẩu tàu cũ... Thứ hai, kim ngạch nhập khẩu nguyên vật liệu cũng khá lớn và tăng khá cao. Ở đây cũng có hai vấn đề đặt ra: Một mặt, lượng nhập khẩu tăng lại gặp lúc giá nhập khẩu tăng nên làm cho kim ngạch tăng "kép". Mặt khác, có một số loại nhập khẩu tăng chủ yếu do công nghiệp phụ trợ và việc nội địa hóa chậm phát triển, hoặc hiệu quả sức cạnh tranh thấp; điều này tác động đến cơ cấu xuất khẩu làm cho xuất khẩu tăng thấp hơn nhập khẩu và nhập siêu gia tăng mạnh. Những mặt hàng xuất khẩu có tính gia công, có giá trị gia tăng thấp nhưng lại tăng cao (như dệt may, giày dép, điện tử máy tính, dây điện và cáp điện, sản phẩm nhựa…), còn những sản phẩm giá trị gia tăng cao lại có quy mô nhỏ hơn và tăng thấp hơn (như thủy sản, chè, rau quả...). Thứ ba, kim ngạch nhập khẩu hàng tiêu dùng đã tăng với tốc độ cao hơn tốc độ chung. Vấn đề đặt ra là tăng hiệu quả sức cạnh tranh hàng sản xuất trong nước. Do hiệu quả và sức cạnh tranh của sản xuất trong nước, nên nhiều mặt hàng đã thua ngay trên sân nhà. 3.3. Đánh giá thực hiện kế hoạch về cơ cấu thị trường xuất nhập khẩu Giảm dần sự phụ thuộc vào khu vực thị trường Châu Á, ổn định xuất khẩu vào thị trường Châu Âu, tăng xuất khẩu vào thị trường Châu Mỹ, ngoài ra còn thâm nhập được nhiều thị trường mới có nhiều tiềm năng như thị trường châu Phi. Tuy nhiên, khu vực thị trường Châu Á vẫn chiếm tỷ trọng lớn nhất về xuất khẩu của nước ta, tuy nhiên có xu hướng giảm dần. Đó là những nét khái quát nhất về thị trường xuất khẩu hàng hóa trong giai đoạn 2006-2008. Năm 2006, tổng kim ngạch xuất khẩu vào thị trường Châu Á đạt 16,5 tỷ USD, tăng khoảng 12% so với năm 2005, chiếm tỷ trọng 41,67% trong tổng kim ngạch xuất khẩu. Tổng kim ngạch xuất khẩu vào khu vực thị trường EU năm 2006 đạt khoảng 6,4 tỷ USD, chiếm tỷ trọng khoảng 16,2%, tăng 21% so với năm 2005. Khu vực Châu Mỹ, năm 2006 tỷ trọng gần 26,8% tổng kim ngạch xuất khẩu (10,6 tỷ USD. Thị trường xuất khẩu hàng hoá tiếp tục phát triển trong năm 2007, hầu hết các thị trường lớn đều tăng so với năm trước. Đã có 10 thị trường đạt giá trị xuất khẩu trên 1 tỷ USD, trong đó Mỹ 10 tỷ USD, tiếp đến là EU 8,7 tỷ USD; ASEAN 8 tỷ USD; Nhật Bản 5,5 tỷ USD và Trung Quốc 3,2 tỷ USD. Bên cạnh đó, trong năm 2007 một số thị trường có xu hướng giảm như Ôx-trây-li-a, I-rắc. Bảng 7 : Kim ngạch xuất khẩu của một số thị trường chủ yếu Thị trường Năm 2006 Năm 2007 Giá trị (Tỷ USD) Tỷ trọng (%) Giá trị (Tỷ USD) Tỷ trọng (%) Mỹ 7,9 19,9 10 20,66 EU 6,4 16,2 8,7 17,98 ASEAN 6,26 15,8 8 16,53 Nhật Bản 5,2 13,1 5,5 11,36 Trung Quốc 2,9 7,3 3,2 6,6 Nguồn : Tổng cục thống kê và Ngân Hàng Nhà Nước Việt Nam Có thể thấy xuất khẩu vào các thị trường Châu Á có xu hướng giảm rõ rệt trong 2 năm, cùng với đó là sự gia tăng mạnh mẽ hàng hóa xuất khẩu vào thị trường Mỹ và EU. Hàng hoá xuất khẩu 9 tháng đầu năm sang các thị trường lớn đều tăng so với cùng kỳ năm trước, trong đó thị trường Mỹ đạt giá trị cao nhất với 8,5 tỷ USD, tăng 17%; thị trường ASEAN đạt 8,4 tỷ USD, tăng 42%; EU đạt 7,8 tỷ USD, tăng 21%; Ôx-trây-li-a đạt 3,5 tỷ USD, tăng 67%; Trung Quốc 3,3 tỷ USD, tăng 43%. Tuy nhiên, thị trường xuất khẩu tăng trưởng không đều, trong khi thị trường ASEAN, EU, Hoa Kỳ tăng trưởng khá cao thì một số thị trường quan trọng khác tăng chậm hoặc giảm như Trung Quốc, Nhật Bản và Australia. Trong khi chúng ta xuất siêu với thị trường châu Mỹ, EU ... thì lại nhập siêu lớn đối với các nước trong khu vực, nhất là Trung Quốc, Hàn Quốc, Thái Lan Bảng 8 : Nhập khẩu tại một số thị trường chủ yếu Kim ngạch NK (Tỷ USD) Tỷ trọng trong tổng KNNK (%) Tốc độ tăng KNNK (%) ASEAN 15,7 24,4 70 Trung Quốc 12 18,6 44,6 EU 4,1 6,4 13,8 Nguồn : Tổng cục thống kê PHẦN THỨ BA CÁC GIẢI PHÁP THỰC HIỆN KẾ HOẠCH THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2006-2010 (Áp dụng cho 2 năm còn lại 2009-2010) 1. DỤ BÁO KIM NGẠCH XUẤT NHẬP KHẨU GIAI ĐOẠN 2009-2010 Bảng 9 : Dự báo kim ngạch xuất khẩu Việt Nam Năm KNXK (Tỷ USD) KNNK (Tỷ USD) 1997 9,185 11,592 1998 9,360 11,499 1999 11,541 11,742 2000 14,483 15,636 2001 15,029 16,217 2002 16,706 19,745 2003 20,149 25,255 2004 26,485 31,968 2005 32,447 36,761 2006 39,826 44,89 2007 48,4 62,68 Nguồn : Thời báo kinh tế Việt Nam 2007-2008 Bằng phương pháp bình phương nhỏ nhất (OLS) ta dự báo được tốc độ tăng trưởng kim ngạch xuất nhập khẩu bình quân giai đoạn 2008-2010 là gtb(X)=18,5% ; gtb(N)=19,1% Giá trị dự báo cho các năm như sau: X2008 = 48,4.(1+0,185) = 57,354 (Tỷ USD); N2008 = 62,68. (1+0,191) = 74,65 (Tỷ USD) X2009 = 48,4.(1+0,185)2 = 67,964 (Tỷ USD); N2009 = 62,68. (1+0,191)2 = 88,91 (Tỷ USD) X2010 = 48,4.(1+0,185)3 = 80,538 (Tỷ USD); N2010 = 62,68. (1+0,191)3 =105,89 (Tỷ USD) Theo đà tăng trưởng vượt bậc của xuất khẩu nhu hiện nay thì mục tiêu kế hoach đến năm 2010 đạt kim nghạch xuất khẩu 68-69 tỷ USD là hoàn toàn có thể đạt được. Tuy vậy hiện tượng nhập siêu lại là quá lớn vượt xa mục tiêu 73.5 tỷ USD vào năm 2010. Như vậy tình trạng thâm hụt cán cân thương mại trong 2 năm tới là không thể tránh khỏi. Nhà nước cần đưa ra những giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu và giảm mạnh nhập siêu. 2. CƠ HỘI VÀ THÁCH THỨC CỦA XUẤT NHẬP KHẨU VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2009-2010 2.1. Cơ hội Thị trường được mở rộng : không những kinh tế nước nhà phát triển, sức mua của nhân dan tăng lên, mà cơ hội tiếp cận thị trường rộng lớn hơn với 150 thành viên WTO chiếm 85% thương mại hàng hóa và 90% thương mại dịch vụ toàn cầu. Trên thị trường rộng lớn ấy những rào cản về hạn ngạch, giấy phép, thuế quan,..sẽ dần dần bị gỡ bỏ, hàng hóa nước ta có điều kiện đi ra nước ngoài, thâm nhập thị trường toàn cầu, bình đẳng với hàng hóa các nước khác.Quan hệ thương mại giữa các quốc gia và các khối kinh tế ngày càng sôi động và bình đẳng hơn. Đó là cơ hội để ta khẳng định lợi tế so sánh trên thị trường quốc tế. Đồng thời nhập khẩu cũng ra tăng về quy mô và có cấu các mặt hàng nhập khẩu. Yếu tố này mang một ý nghĩa tích cực về việc tiếp nhận vốn, công nghệ,giải quyết các mặt hạn chế của quốc gia về sự thiếu hụt nguyên vật liệu cho sản xuất, đặc biệt sản xuất các sản phẩm có giá trị gia tăng cao. Và theo chuỗi giá trị sản phẩm có thể đóng góp tiếp vào kim ngạch xuất khẩu của quốc gia. Môi trường kinh doanh được cải thiện thiện, doanh nghiệp có điều kiện tiếp cận một cách bình đẳng công nghệ, vốn tín dụng và nhân lực từ bên ngoài. Đồng thời hội nhập thúc đẩy các thể chế, chính sách, tổ chức quản lý hiệu quả hơn. Tiếp thu kinh nghiêm nước ngoài, tổ chức lại sản xuất, sắp xếp lại doanh nghiệp phù hợp với yêu cầu nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm hàng hóa và dịch vụ. Do vậy chất lượng các mặt hàng tham gia xuất khẩu theo đó mà tăng giá trị, nâng cao chất lượng, tăng năng lực cạnh tranh trên thị trường quốc tê, hạn chế được xuất khẩu các sản phẩm thô. Đồng thời sản xuất được các sản phẩm thay thế nhập khẩu. Cải thiện đáng kế cán cân thương mại quốc tế nói riêng và phát triển kinh tế mở theo hướng công nghiệp hóa hiện đại hóa nói riêng. Các cuộc tranh chấp thương mại sẽ được giải quyết công bằng hơn. Trước đây doanh nghiệp ta bị kiện, đó là trên sân chơi của nước sở tại, theo luật của nước họ, thường không công bằng ; ngày nay, là thành viên của WTO, các giao dịch quốc tế sẽ được bảo vệ trước những tranh chấp thương mại theo các điều lệ của WTO ; được đối xử công bằng hơn. Chu trình của hoạt động xuất khẩu sẽ hiệu quả hơn. Đồng thời hoạt động nhập khẩu cũng bình đẳng hơn, giảm sự phụ thuộc vào các nước xuất khẩu. Điều đó tạo nên vị thế của quốc gia trong cả quan hệ thương mại quốc tế. Về đối ngoại, vị trí địa - kinh tế, nhất là địa vị chính trị của nước ta được các nước lớn ngày càng coi trọng, dần dần trở thành một khâu quan trọng trong chiến lược của các nước lớn. Trong số này có thể kể đến Trung Quốc, Nhật Bản, Mỹ và các nước Tây Âu. Sự ổn đinh về chính trị cũng là cơ sở thúc đẩy kinh tế thương mại quốc tế của quốc gia được bền vững. Về đối nội, tình hình chính trị - xã hội nước ta ổn định, sự cải thiện liên tục tình hình kinh tế, pháp luật chính sách thông thoáng, đó là những nhân tố tạo niềm tin cho các doanh nghiệp xuất khẩu trong nước và sức hấp dẫn trong các đối tác nước ngoài. 2.2. Thách thức Yêu cầu của thị trường khắt khe hơn. Yêu cầu của thị trường toàn cầu, người tiêu dùng có thêm nhiều lựa chọn về hàng hóa họ cần, những đòi hỏi về chất lượng, kiểu dáng, an toàn sức khỏe, vệ sinh thực phẩm, bảo vệ môi trường…Đó là thách thức rất lớn đối với sản phẩm của Việt Nam khi cung ứng trên thị trường thế giới, trong khi công nghệ chưa hoàn thiện, sản phẩm không được kiểm định theo đúng quy trình. Do đó năng lực cạnh tranh chưa cao, cũng khó khăn hơn khi tham gia vào các thị trường khó tính…Mặt khác, sự ồ ạt của hàng nhập khẩu do phải thỏa mãn các điều kiện kinh tế mở, bên cạnh yếu tố kinh tế tăng trưởng, thu nhập tăng, nhu cầu tiêu dùng tăng lên, hướng tiêu dùng các sản phẩm cuối cùng nhập khẩu tăng. Nên chiến lược thay thế nhập khẩu cũng gặp những thách thức lớn do phải cạnh tranh với hàng ngoại nhập chất lượng cao mà giá thành phù hợp. Như vậy chiến lược thương mại theo hướng thúc đẩy xuất khẩu trong thời gian tới mang một thách thức không nhỏ. Doanh nghiệp chưa đủ thành thạo trong luật chơi chung, các tranh chấp kinh tế với nước ngoài là một rào cản để Việt Nam tham gia thương mại hiệu quả trên trường quốc tế. Bên cạnh đó nhiều ưu đãi hiện hành trái với các cam kết trong WTO để bảo hộ doanh nghiệp trong nước bị xóa bỏ, thương mại tăng nhanh, đầu tư tăng nhanh. Nhập khẩu theo đó mà mở rộng quy mô, cơ cấu. Vì vậy chiến lược phát triển thương mại quốc tế khó đảm bảo được xu hướng nhập siêu ngoài đinh mức. Khủng hoảng tài chính thế giới đang diễn biến phức tạp mà không dự đoán được trước, tác động mạnh đến thị trường hối đoái, ngoại tệ có xu hướng mất giá. Do đó giảm lợi thế so sánh về giá đối với các mặt hàng xuất khẩu. Trong khi nhập khẩu lại có xu hướng tăng cao. Tác động tiêu cực đến cân đối cán cân thương mại quốc tế . 3. CÁC GIẢI PHÁP THỰC HIỆN KẾ HOẠCH THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ Trước các cơ hội và thách thức của Việt Nam trong thời gian tới, cùng với các bài học kinh nghiệm rút ra sau hơn nửa chặng đường thực hiện kế hoạch giai đoạn 2006-2010, để hoàn thành tốt kế hoạch đề ra cho cả giai đoạn thì trong 2 năm còn lại 2009-2010 nhằm cải thiện tích cực cán cân thương mại quốc tế, em xin đề xuất ra một số các giải pháp thực hiện như sau: 3.1. Nhóm giải pháp thúc đẩy xuất khẩu. 3.1.1. giải pháp về các mặt hàng xuất khẩu chủ lực Tiếp tục tạo dựng những mặt hàng chủ lực, nhưng không giới hạn vào những mặt hàng cố định mà linh hoạt đáp ứng nhu cầu thị trường và biến động giá cả, ở đây trọng tâm cần đặt vào các mặt hàng công nghiệp chế biến (chủ yếu là nông, lâm, thuỷ sản) và hàng công nghiệp nhẹ (hàng dệt, may, da và giả da...), công nghiệp lắp ráp, sử dụng nhiều lao động có tay nghề khá. Đồng thời cần tăng nhanh tỷ trọng sản phẩm xuất khẩu có hàm lượng công nghệ cao, nhiều chất xám, có công nghệ mới để tạo cho nhóm hàng này có vị trí quan trọng trong cơ cấu hàng xuất khẩu trong thời gian tới. 3.1.2. giải pháp về thị trường xuất khẩu Tìm kiếm và đa dạng hoá thị trường, đẩy mạnh xuất khẩu vào các thị trường tiềm năng, các thị trường có sức mua lớn nhưng hiện còn chiếm tỷ trọng thấp, đối với mỗi thị trường phải có những nghiên cứu, thu thập và phân tích thông tin để đề ra những giải pháp thật cụ thể, rõ ràng. Cụ thể như: Đàm phán, ký các thoả thuận song phương và đa phương nhằm tăng khối lượng và giá trị hàng Việt Nam xuất khẩu vào thị trường các nước. Thiết lập các hệ thống thu nhập và xử lý thông tin thương mại, nâng cao khả năng dự báo và định hướng thị trường bảo đảm cung cấp kịp thời và chính xác các thông tin cho các doanh nghiệp có căn cứ để phát triển buôn bán và đầu tư. Tiến hành các chương trình, các chiến dịch nhằm cải thiện hình ảnh hàng hóa xuất khẩu Việt Nam ở nước ngoài. Chú trọng vào các thị trường có chung đường biên giới với Việt Nam với chủ trương đa phương hoá, đa dạng hoá thị trường thông qua việc xem xét điều chỉnh những quy định không phù hợp hạn chế xuất khẩu thời gian qua, có chính sách xuất khẩu cụ thể đẩy mạnh xuất khẩu vào từng khu vực, từng thị trường. 3.1.3. giải pháp về hoàn thiện hệ thống chính sách hỗ trợ xuất khẩu Điều tiết tỷ giá hối đoái và lạm phát. Điều tiết sự thay đổi tỷ giá hợp lý sao cho thu hút được vốn nước ngoài và khuyến khích doanh nghiệp đầu tư hướng tới khuyến khích xuất khẩu, hạn chế nhập khẩu phục vụ cho việc tăng trưởng kinh tế và vẫn kiểm soát được lạm phát ở mức hợp lý. Mặt khác, các Bộ ngành sản xuất cần thực hiện các biện pháp hỗ trợ nâng cao hiệu quả đầu tư sản xuất, nâng cao chất lượng hàng hoá xuất khẩu để đáp ứng nhu cầu nhập khẩu của các nước bạn hàng làm cho tỷ lệ tăng trưởng xuất khẩu có thể tăng lên khi tăng khả năng cạnh tranh của hàng xuất khẩu thông qua tăng tỷ giá. Với Việt nam, là một nước nhỏ nên hiệu ứng từ việc phá giá đến xuất khẩu là không lớn trong khi áp lực lên lạm phát là rõ rệt hơn nên cần cân nhắc mức độ phá giá ở mức hợp lý khi điều hành tỷ giá trong các bối cảnh cụ thể để tránh áp lực lạm phát quá lớn gây ảnh hưởng đến sự tăng trưởng kinh tế nói chung. Giảm dần tỷ trọng thu thuế xuất khẩu trong tổng nguồn thu của ngân sách nhà nước, từ đó góp phần nâng cao lợi nhuận tái đầu tư cho lĩnh vực xuất khẩu. Hoàn thiện các chính sách thu hút đầu tư phục vụ xuất khẩu. Tiếp tục thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, đi đôi với việc đa dạng hóa nguồn vốn, khuyến khích mạnh vốn đầu tư cho sản xuất hàng xuất khẩu. Thành lập Quỹ bảo hiểm xuất khẩu. Hình thức bảo hiểm xuất khẩu chưa được áp dụng tại Việt Nam, trong khi thực tiễn kinh doanh xuất khẩu của doanh nghiệp Việt Nam đang gặp nhiều rủi ro. Do vậy, áp dụng biện pháp bảo hiểm xuất khẩu để hỗ trợ doanh nghiệp, khuyến khích đẩy mạnh xuất khẩu là cần thiết và phù hợp với các quy định của WTO. 3.1.4 giải pháp về phát triển nguồn nhân lực phục vụ xuất khẩu Xây dựng kế hoạch cụ thể và tổ chức thực hiện các chương trình đào tạo nghề, giải quyết vấn đề thiếu hụt và nâng cao chất lượng nguồn lao động trong một số ngành sản xuất hàng xuất khẩu đang gặp khó khăn về nguồn lao động như lĩnh vực sản xuất hàng dệt may, da giày, sản phẩm gỗ, sản phẩm nhựa, sản phẩm cơ khí … Cần xã hội hoá công tác đào tạo, theo đó những doanh nghiệp lớn cũng được xem xét cấp kinh phí đào tạo công nhân cho mình và cung cấp cho những doanh nghiệp khác. Đồng thời, chú trọng khâu thiết kế, tạo dáng sản phẩm; Tổ chức nghiên cứu, đào tạo đội ngũ nhân viên thiết kế để đa dạng hoá và không ngừng nâng cao chất lượng, mẫu mã sản phẩm chế biến cho phù hợp với thị hiếu khách hàng trong và ngoài nước. 3.2. Giải pháp cân đối thương mại quốc tế qua hoạt động nhập khẩu. Phải có những biện pháp để nhập siêu vẫn nằm trong tầm kiểm soát, thậm chí là lành mạnh. Cơ cấu các mặt hàng nhập khẩu phải thay đổi sao cho phù hợp với mục tiêu phát triển sản xuất trong nước, thay thế dần nhập khẩu các mặt hàng tiêu dùng. Tăng tỉ trọng các hàng trung gian, máy móc thiết bị, đảm báo đóng góp tích cực vào chiến lược công nghiệp hóa đất nước. Cân đối được nhập khẩu và sản xuất, tác dụng thương mại trong nước vẫn hiệu quả, thậm chí đóng góp thêm vào kim ngạch xuất khẩu bằng việc sản xuất chính các mặt hàng xuất khẩu có giá trị gia tăng cao. Cam kết tuân thủ các nguyên tắc WTO về rào cản kỹ thuật đối với thương mại, tiêu chuẩn vệ sinh an toàn thực phẩm, các điều khoản cấp phép nhập khẩu cần phải đảm bảo minh bạch, giảm bớt cơ hội bảo hộ trá hình hay bị lạm dụng. Mức độ thuế quan cũng phải giảm xuống, chủ yếu thông qua độ phân tán ở cuối chuỗi phân phối. 3.3. Nhóm giải pháp về chính sách và hỗ trợ hoạt động ngoại thương. 3.3.1. giải pháp đẩy mạnh các chương trình xúc tiến thương mại Đẩy mạnh hơn nữa các hoạt động xúc tiến thương mại cấp cao để thúc đẩy hợp tác, đầu tư và buôn bán giữa Việt Nam với các nước, thu hút các tập đoàn đa quốc gia đầu tư vào Việt Nam để từ đó tạo nên những làn sóng chuyển dịch đầu tư vào Việt Nam trong các lĩnh vực sản xuất hàng xuất khẩu có nhiều tiềm năng. Đổi mới công tác tổ chức các chương trình xúc tiến thương mại theo hướng chú trọng vào khâu tổ chức và cung cấp thông tin thị trường, giảm bớt các chương trình khảo sát thị trường mang tính nhỏ lẻ. Tập trung xúc tiến thương mại tại các thị trường trọng điểm (ASEAN, Nhật Bản, Hoa Kỳ, EU, Trung Quốc, Hàn Quốc) có kim ngạch nhập khẩu lớn…, các mặt hàng trọng điểm mà khả năng sản xuất trong nước không bị hạn chế, sử dụng nhiều nguyên liệu trong nước như: hàng thủ công mỹ nghệ, sản phẩm cao su, hàng thực phẩm chế biến, hoá mỹ phẩm, sản phẩm cơ khí, dịch vụ phần mềm… nhưng thiếu thị trường tiêu thụ. Tập trung nguồn vốn xúc tiến thương mại đối với những mặt hàng có sự tăng trưởng, có sự đóng góp lớn cho kim ngạch xuất khẩu. 3.3.2 giải pháp về cải cách thủ tục hành chính Xây dựng và thực hiện chương trình hiện đại hoá và cải cách thủ tục hải quan, lộ trình rút ngắn thời gian tiến hành các thủ tục hải quan cho hàng hoá xuất khẩu để giảm thời gian tiến hành các thủ tục hải quan cho hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam xuống đạt mức trung bình của khu vực ASEAN thông qua việc tăng cường áp dụng các biện pháp để tiến hành hải quan điện tử, hải quan một cửa ... Tiếp tục đẩy mạnh công cuộc cải cách hành chính đi đôi với việc tăng cường hợp tác phối hợp giải quyết vụ việc liên quan giữa các Bộ, ngành, giữa các cơ quan quản lý với Hiệp hội ngành hàng nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống cơ quan quản lý nhà nước ngành thương mại trong việc hỗ trợ doanh nghiệp tiếp cận thị trường, phát triển xuất khẩu. Hoàn thiện cơ chế chính sách xuất nhập khẩu, từng bước nâng cao hiều quả xuất nhập khẩu thông qua việc hoàn thiện toàn bộ hệ thống thuế, phí theo hướng khuyến khích xuất khẩu và sản xuất hàng xuất khẩu, hạn chế nhập khẩu, khuyến khích sử dụng các vật tư, nguyên liệu, sản phẩm công nghiệp sản xuất trong nước cho nhu cầu sản xuất nói chung và sản xuất hàng xuất khẩu nói riêng PHẦN KẾT LUẬN Nhìn vào bức tranh tăng trưởng của thương mại quốc tế đặc biệt là hoạt động xuất khẩu của Việt Nam trong những năm qua (đặc biệt từ thời điểm hội nhập WTO). Cũng thấy đươc tiềm năng kinh tế trong hoạt động xuất khẩu của Viêt Nam. Đóng góp đáng kể trong việc cải thiện hố thâm hụt thương mại quốc tế, là điểm phản ánh rõ nét bước đầu hội nhập kinh tế thành công của Việt Nam. Quy mô sản phẩm xuất khẩu tăng qua các năm, theo đó đóng góp vào GDP cũng tăng đáng kể nhờ tăng kim nghạch xuất khẩu. Cơ cấu sản phẩm chuyển dịch tích cực theo hướng tăng dần tỷ trọng mặt hàng có giá trị gia tăng cao. Thị trường mở rộng theo hướng củng cố thị trường truyền thống, phát triển thị trường mới, chú trọng thị trường tiềm năng. Cơ cấu thị trường đang chuyển dịch tích cực, phát huy được năng lực cạnh tranh trên các thị trường được coi là khó tính như Mỹ, Nhật, EU…Điều này khẳng định Việt Nam đang cơ những định hướng mạnh vào thị trường mở mà cụ thể là chiến lược thúc đẩy xuất khẩu có hiệu quả và thay thế dần các mặt hàng nhập khẩu. Tuy nhiên tình trạng nhập siêu trong thời gian qua vẫn không ngừng tăng do nhiều nguyên nhân xuất phát từ tiến trình hội nhập. Là một điểm yếu trong cán cân thương mại quốc tế. Bên cạnh đó, nằm trong quan hệ kinh tế toàn cầu, những dấu hiệu của sự suy giảm kinh tế thế giới cũng đã tác động đáng kể đến hoạt động xuất khẩu trong kì kế hoạch. Những suy giảm trong xu hướng tiêu dùng cận biên của thế giới, sự mất giá của đồng tiền mạnh, khủng hoảng tài chính Mỹ… tác động làm kim nghạch xuất khẩu có chiều hướng giảm. Do vậy để thúc đẩy hoạt động xuất khẩu, đưa xuất khẩu là một trong những giải pháp cho tăng trưởng kinh tế của Việt Nam thì lĩnh vực thương mại quốc tế cần phải xác định hướng chiến lược phù hợp, đảm bảo đúng vai trò và vị trí của xuất khẩu trong kinh tế thương mại nói riêng và kinh tế đất nước nói chung.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docke hoach TMQT.doc
  • docKH TMQT 2.doc
Luận văn liên quan