Tiểu luận Những bài học kinh nghiệm cho Việt Nam từ mô hình kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa ở Trung quốc

Xây dựng thể chế kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa tại Trung Quốc là một thành quả cải cách cực kỳ quan trọng mà Đảng Cộng sản Trung Quốc đã rút ra từ việc tổng kết bài học kinh nghiệm xây dựng xã hội chủ nghĩa trong và ngoài nước và trải qua sự tìm tòi gian khổ kể từ Hội nghị Trung ương 3 khoá XI của Đảng Cộng sản Trung Quốc trở lại đây. Phát triển kinh tế thị trường trong điều kiện xã hội chủ nghĩa là sáng tạo vĩ đại, là cống hiến lịch sử của những người cộng sản Trung Quốc đối với sự phát triển của chủ nghĩa Mác, thể hiện dũng khí to lớn của Đảng Cộng sản Trung Quốc trong việc kiên trì sáng tạo lý luận, tiến cùng thời đại. Những thành tựu trên đây của hơn 20 năm cải cách, chuyển đổi nền kinh tế không chỉ đưa Trung Quốc thoát khỏi khủng hoảng, mà còn đưa sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội thực sự tiến lên về phía trước. Tuy nhiên, đây cũng mới chỉ là một cuộc thử nghiệm mới trong quá trình vận dụng chủ nghĩa Mác-Lênin vào thực tiễn Trung Quốc.

pdf32 trang | Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 3544 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Những bài học kinh nghiệm cho Việt Nam từ mô hình kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa ở Trung quốc, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
a toàn Đảng, nêu ra cương lĩnh cơ bản trong giai đoạn đầu của chủ nghĩa xã hội, xác lập chế độ kinh tế cơ bản lấy chế độ công hữu xã hội chủ nghĩa làm chủ thể, kinh tế nhiều loại sở hữu cùng phát triển, yêu cầu rõ ràng phải kiên trì phương hướng cải cách kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa. Hơn 10 năm từ Đại hội XIV trở lại đây, Trung Quốc tiếp tục đi sâu cải cách kinh tế nông thôn, đẩy mạnh cải cách doanh nghiệp quốc hữu, chuyển biến chức năng quản lý kinh tế của chính quyền, hình thành và phát triển hệ thống thị trường, kiện toàn và hoàn thiện hệ thống điều tiết vĩ mô, tăng cường xây dựng chế độ pháp luật của kinh tế thị trường, đẩy nhanh một loạt các cải cách về tài chính, thuế, tiền tệ, ngoại thương, ngoại hối, đầu tư, giá cả, bảo đảm xã hội, nhà ở, việc làm…, việc xây dựng thể chế kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa đã giành được những bước tiến. Năm 2002, Đại hội XVI của Đảng Cộng sản Trung Quốc đưa ra mục tiêu trong 20 năm đầu của thế kỷ này phải xây dựng nên thể chế kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa hoàn thiện và hệ thống kinh tế có sức sống hơn, mở cửa hơn. 2. Hàm nghĩa và đặc trưng của kinh tế thị trường xó hội chủ nghĩa ở Trung Quốc Kể từ khi Đại hội XIV của Đảng Cộng sản Trung Quốc đưa ra mục tiêu cải cách xây dựng thể chế kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa đến nay, giới lý luận và cơ quan công tác thực tế của Trung Quốc đã tiến hành tìm tòi, thảo luận sâu sắc về hàm nghĩa của kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa. Hiện nay, thông thường người Trung Quốc cho rằng: kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa là nền kinh tế mà thị trường đóng vai trò nền tảng đối với phân phối tài nguyên trong điều kiện xã hội chủ nghĩa, là nền kinh tế kết hợp giữa cơ chế vận hành kinh tế thị trường với chế độ xã hội chủ nghĩa. Xuất phát từ những quan điểm trên, so với kinh tế thị trường trong điều kiện tư bản chủ nghĩa và kinh tế kế hoạch trước đây, đặc trưng của kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa có thể quy nạp vào mấy điểm như sau: - Kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa là nền kinh tế mà thị trường đóng vai trò điều tiết nền tảng trong việc phân phối tài nguyên, chứ không phải là nền kinh tế mà biện pháp hành chính đóng vai trò điều tiết nền tảng trong việc phân phối tài nguyên. - Kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa là nền kinh tế kết hợp giữa cơ cấu sở hữu lấy chế độ công hữu là chủ thể, nhiều chế độ sở hữu cùng tồn tại và cơ chế thị trường. Nếu không lấy chế độ công hữu làm chủ thể, có thể gọi là kinh tế thị trường, nhưng nhất thiết không thể gọi là kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa. - Kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa là nền kinh tế có sự điều tiết vĩ mô của nhà nước, nó không phải là kinh tế bị bỏ mặc tự do, cũng không phải kinh tế mệnh lệnh hành chính. Trong điều kiện kinh tế thị trường, điều tiết vĩ mô là một khái niệm đặc định, nó phải lấy bù đắp thiếu sót của thị trường làm chính, lấy biện pháp gián tiếp làm chính, lấy điều tiết tổng lượng làm chính, lấy thu được hiệu quả vĩ mô tương đối tốt làm chính. - Kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa là nền kinh tế lấy thực thể kinh tế độc lập hoặc tương đối độc lập đa dạng hoá làm nền tảng vi mô và chủ thể cạnh tranh, là nền kinh tế với tiền đề là con người theo đuổi hiệu quả kinh tế và lợi ích vật chất. Nếu con người không quan tâm, không theo đuổi lợi ích vật chất thì vừa không cần thiết xây dựng thể chế kinh tế thị trường, cơ chế thị trường cũng không phát huy được tác dụng. - Kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa là nền kinh tế ưu tiên hiệu suất, chiếu cố đến công bằng, không phải là nền kinh tế chủ nghĩa bình quân “ăn nồi cơm chung”, cũng không phải là nền kinh tế dẫn đến phân hoá hai cực. - Kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa là nền kinh tế “chữ tín” và kinh tế pháp chế. - Kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa là nền kinh tế mở cửa đối với cả trong và ngoài nước, cạnh tranh công bằng, không phải là nền kinh tế bảo hộ khu vực, độc quyền hành chính, bế quan toả cảng. - Kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa mà Trung Quốc theo đuổi hiện nay thực tế là nền kinh tế thị trường trong giai đoạn đầu của chủ nghĩa xã hội, là nền kinh tế chuyển từ thể chế kinh tế kế hoạch sang thể chế kinh tế thị trường. Nó không phải là thể chế kinh tế thị trường phát triển, cũng không phải là kinh tế thị trường tự nhiên phát triển. Bởi vậy, trong quá trình xây dựng thể chế kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa, phải dự kiến đầy đủ tính phức tạp và tính gian khổ của cải cách. Vừa phải chú ý kiên trì phương hướng xã hội chủ nghĩa, lại phải nới lỏng để kinh tế thị trường nhanh chóng trưởng thành; vừa phải tiến hành chuyển đổi căn bản thể chế, lại phải chú trọng chuyển biến căn bản quan niệm. 3. Thành tựu và những vấn đề cũn tồn tại của mụ hỡnh kinh tế thị trường xó hội chủ nghĩa ở Trung Quốc 3.1. Thành tựu của mụ hỡnh kinh tế thị trường xó hội chủ nghĩa ở Trung Quốc Xây dựng thể chế kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa, tức là phải làm cho thị trường đóng vai trò cơ sở trong việc phân phối tài nguyên dưới sự điều tiết vĩ mô của Nhà nước, làm cho hoạt động kinh tế tuân theo yêu cầu của quy luật giá trị, thích ứng với sự thay đổi của quan hệ cung cầu; thông qua chức năng của cán cân giá cả và cơ chế cạnh tranh để phân phối tài nguyên vào những khâu có hiệu quả tương đối tốt, gây sức ép và tạo động lực cho doanh nghiệp, thực hiện việc “đào thải tự nhiên”; vận dụng ưu điểm phản ứng nhạy bén của thị trường đối với các loại thông tin kinh tế, thúc đẩy điều chỉnh kịp thời giữa sản xuất và nhu cầu. Trong những năm qua, Trung Quốc không ngừng đi sâu cải cách các mặt, tích cực thúc đẩy việc sáng tạo về thể chế, cố gắng xoá bỏ những cản trở mang tính thể chế làm ảnh hưởng đến sự phát triển của sức sản xuất, đã thu được thành quả to lớn và bước đầu xây dựng nên thể chế kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa. - Thứ nhất, cục diện lấy chế độ công hữu làm chủ thể, kinh tế nhiều loại sở hữu cùng phát triển đã cơ bản hình thành. Lấy chế độ công hữu làm chủ thể, kinh tế nhiều loại sở hữu cùng phát triển là một chế độ kinh tế cơ bản của Trung Quốc trong giai đoạn đầu của chủ nghĩa xã hội, cũng là bộ phận cấu thành quan trọng của thể chế kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa. Phát triển kinh tế quốc hữu lớn mạnh, kinh tế quốc hữu khống chế mạch máu của nền kinh tế quốc dân, có vai trò then chốt đối với việc phát huy tính ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa, tăng cường thực lực kinh tế, sức mạnh quốc phòng và sức gắn bó dân tộc của Trung Quốc. Kinh tế tập thể là bộ phận cấu thành quan trọng của kinh tế công hữu, có vai trò quan trọng đối với việc thực hiện cùng nhau làm giàu. Kinh tế phi công hữu gồm các hình thức cá thể và tư doanh… là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế xã hội chủ nghĩa, có vai trò quan trọng đối với việc huy động đầy đủ tinh thần tích cực của mọi mặt xã hội và tăng nhanh phát triển sức sản xuất. Qua cố gắng trong hơn 10 năm qua, một mặt, kinh tế quốc hữu của Trung Quốc được phát triển lớn mạnh thêm một bước, khả năng kiểm soát và sức cạnh tranh tăng cường rõ rệt, tổng tài sản quốc hữu đã đạt 12.000 tỷ NDT. Kinh tế quốc hữu chiếm vị trí chủ đạo trong các lĩnh vực then chốt liên quan đến quốc kế dân sinh. Theo yêu cầu về việc xây dựng chế độ doanh nghiệp hiện đại, Trung Quốc đẩy nhanh bước đi cải cách của doanh nghiệp quốc hữu, thể chế quản lý và cơ chế kinh doanh của doanh nghiệp đã có sự biến đổi sâu sắc, chế độ cạnh tranh “đào thải tự nhiên” của doanh nghiệp bước đầu hình thành, xuất hiện một loạt những doanh nghiệp mạnh có thực lực, có sức sống và có sức cạnh tranh. Kinh tế tập thể ở thành thị và nông thôn cũng không ngừng phát triển. Mặt khác, các doanh nghiệp dân doanh và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài được trưởng thành “ngoài thể chế” chiếm tỷ trọng tăng vọt lên, trở thành chủ thể thị trường sôi động nhất trong kinh tế thị trường Trung Quốc, cơ cấu của chế độ sở hữu hợp lý hơn. Theo tính toán, 72% giá trị gia tăng công nghiệp của năm 1999 là do kinh tế phi quốc hữu tạo ra. Tỷ trọng của kinh tế phi quốc hữu trong kinh tế quốc dân đã đạt gần 2/3, phát triển đặc biệt nhanh chóng trong các ngành nghề công nghiệp, xây dựng, nội thương, vận tải đường bộ, dịch vụ ăn uống, và đã chiếm địa vị chủ đạo. - Thứ hai, thị trường đóng vai trò cơ sở rõ rệt trong việc phân phối tài nguyên. Đó là nội dung bản chất của cuộc cải cách thể chế kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa. Trong những năm qua, qua cải cách thể chế về các mặt kế hoạch, giá cả, lưu thông…, vai trò của cơ chế thị trường trong việc phân phối tài nguyên đã thay đổi về căn bản. Trước đây, kế hoạch có tính pháp định không chỗ nào là không có, không chỗ nào là không thực hiện, bao trùm trong các lĩnh vực kinh tế quốc dân. Hiện nay, việc sản xuất sản phẩm cũng như việc hình thành giá cả hàng hoá và dịch vụ chủ yếu là do thị trường quyết định. Kế hoạch mệnh lệnh đối với sản xuất nông sản đã hoàn toàn xoá bỏ, kế hoạch mệnh lệnh đối với sản xuất hàng công nghiệp chỉ còn giới hạn ở năm loại như gỗ, vàng, thuốc là, muối và khí đốt thiên nhiên. Bên cạnh thị trường sản phẩm hàng hoá và dịch vụ, thị trường vốn và quyền sở hữu phát triển nhanh chóng, thị trường lao động không ngừng hoàn thiện, lượng giao dịch của thị trường kỹ thuật và thị trường đất đai không ngừng tăng lên. Môi trường của thị trường không ngừng cải thiện, một số lượng lớn các thị trường giao dịch hàng hoá hiện đại với kim ngạch giao dịch đạt hàng chục tỷ NDT đã trở thành kênh quan trọng liên hệ sản xuất với tiêu thụ, nối liền thành thị với nông thôn. Trung tâm lưu thông hàng hoá, trung tâm điều phối và vận chuyển hàng hoá cũng như thương mại điện tử có những bước phát triển nhất định. Pháp quy của thị trường từng bước kiện toàn, cơ quan giám sát thị trường và cơ quan chứng nhận từng bước hoàn thiện, sự đóng cửa khu vực và sự lũng đoạn của ngành nghề dần dần bị xoá bỏ, trật tự cạnh tranh thị trường công khai, công bằng đang được hình thành. Đa số kết quả tính toán của các học giả trong nước đều cho thấy: Cuối những năm 90 thế kỷ XX, trình độ thị trường hoá của kinh tế Trung Quốc đã đạt 69%. Theo “Báo cáo về mức độ tự do của kinh tế thế giới năm 2001” do Canada xuất bản, thì chỉ số về mức độ tự do của kinh tế Trung Quốc đã nâng từ 3,2 lên 5,8 trong thời kỳ 1980-1999 (chỉ số này từ 1 đến 10, chỉ số càng lớn thì mức độ tự do càng cao), từ vị trí thứ 101 nâng lên thứ 81. - Thứ ba, bước đầu đã xây dựng nên hệ thống điều tiết vĩ mô chủ yếu áp dụng biện pháp kinh tế và biện pháp pháp luật. Vai trò điều tiết vĩ mô của nhà nước và cơ chế thị trường đều là yêu cầu bản chất của thể chế kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa, hai mặt gắn bó với nhau, bổ trợ cho nhau và thúc đẩy lẫn nhau. Mục tiêu chính của sự điều tiết vĩ mô là thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, tạo thêm việc làm, ổn định giá cả, gìn giữ cân bằng của thu chi quốc tế. Thông qua cải cách, Trung Quốc bước đầu xác định rõ chủ thể của sự điều tiết vĩ mô của nhà nước, biện pháp điều tiết vĩ mô đã thay đổi về thực chất, về cơ bản đã thực hiện sự chuyển biến từ kế hoạch pháp lệnh sang chủ yếu vận dụng các biện pháp kinh tế, pháp luật và hành chính cần thiết, thực hiện sự chuyển biến từ điều hành trực tiếp sang điều hành gián tiếp, và vận dụng tổng hợp các chính sách thuế, lãi suất, giá cả và đầu tư để điều hành sự vận động của nền kinh tế. Vào lúc xuất hiện kinh tế “quá nóng” đầu những năm 90 của thế kỷ trước, Trung Quốc thực hiện chính sách tài chính tiền tệ chắt chặt vừa phải, làm cho nền kinh tế “hạ cánh mềm”, tránh xảy ra bấp bênh lớn. Năm 1997, sau khi khủng hoảng tài chính tiền tệ châu á bùng nổ, trong tình hình thiếu nhu cầu hữu hiệu, Trung Quốc thực hiện phương châm kích cầu trong nước, sử dụng chính sách tài chính tích cực và chính sách tiền tệ ổn định, phát huy vai trò điều tiết của các đòn bẩy kinh tế, làm cho nền kinh tế phát triển bền vững, nhanh chóng và lành mạnh. - Thứ tư, chế độ phân phối lấy phân phối theo lao động làm chủ thể, nhiều hình thức phân phối cùng tồn tại càng được hoàn thiện hơn. Chế độ kinh tế cơ bản trong giai đoạn đầu của chủ nghĩa xã hội ở Trung Quốc đã thực hiện chế độ phân phối lấy phân phối theo lao động làm chủ thể, nhiều hình thức phân phối cùng tồn tại. Theo yêu cầu về “ưu tiên hiệu suất, tính đến công bằng”, Trung Quốc đi sâu cải cách chế độ phân phối, xác định phân phối theo sự đóng góp các yếu tố sản xuất như lao động, vốn, kỹ thuật và quản lý. Lấy cùng nhau làm giàu làm mục tiêu, tăng cường chức năng điều tiết của chính quyền đối với việc phân phối thu nhập, không ngừng nâng cao tỷ trọng của những người có thu nhập trung bình, nâng cao mức thu nhập của những người có thu nhập thấp. Hiện nay, hình thức thu nhập của cư dân Trung Quốc có xu hướng đa dạng hoá. Lao động vẫn là hình thức chủ yếu nhất để con người có được nguồn thu nhập, nhưng tỷ trọng của thu nhập phi lao động dần dần tăng lên. Theo điều tra mẫu, trong thu nhập hàng năm bình quân đầu người của gia đình cư dân thành thị, tỷ trọng của thu nhập có tính tài sản, thu nhập có tính chuyển giao và các thu nhập khác đã nâng từ 19,4% (năm 1995) lên 26,2% (năm 2001), tỷ trọng của các loại thu nhập lao động thì giảm tương ứng từ 80,6% xuống còn 73,8%. Nhà nước đã tăng cường sự điều tiết đối với việc phân phối lại thu nhập, thu nhập có tính chuyển giao trở thành nguồn thu nhập quan trọng của một bộ phận cư dân. - Thứ năm, bộ khung của hệ thống bảo đảm xã hội thích ứng với trình độ phát triển kinh tế đã cơ bản được xây dựng. Hệ thống đảm bảo xã hội hoàn thiện là trụ cột quan trọng của thể chế kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa. Hệ thống đảm bảo xã hội của Trung Quốc gồm bảo hiểm xã hội, cứu tế xã hội, phúc lợi xã hội, ưu đãi, chăm sóc và ổn định cuộc sống cho người có công, tương trợ xã hội, đảm bảo bằng tiền gửi tiết kiệm cá nhân… Hơn 10 năm qua, theo mục tiêu chung về xây dựng hệ thống bảo đảm xã hội tách riêng ra khỏi đơn vị doanh nghiệp và sự nghiệp, có nguồn vốn đa dạng hoá, đảm bảo chế độ quy phạm hoá, quản lý và dịch vụ xã hội hoá, tham khảo kinh nghiệm nước ngoài, kết hợp với tình hình trong nước, thông qua nhiều trường hợp thí điểm, việc xây dựng hệ thống bảo đảm xã hội không ngừng được thúc đẩy đi lên. Chế độ bảo hiểm dưỡng lão cơ bản của công nhân viên ở thành thị đã được xây dựng, cải cách chế độ bảo hiểm y tế đã khởi động toàn diện, chế độ bảo hiểm thất nghiệp được hoàn thiện thêm. Chế độ y tế hợp tác kiểu mới ở nông thôn bắt đầu thí điểm. Cư dân khó khăn thuộc diện chính sách trong thành phố đã từng bước được bảo đảm mức sống tối thiểu. Nhìn chung, hệ thống bảo đảm xã hội mà nội dung chính là bảo hiểm dưỡng lão, thất nghiệp và y tế đã bước đầu hình thành, số thuộc diện của bảo đảm xã hội không ngừng được mở rộng. Cho đến nay, số cư dân thành thị nằm trong chế độ cần đảm bảo về mức sống tối thiểu đạt hơn 21 triệu, số người tham gia bảo hiểm dưỡng lão vượt quá 150 triệu, số người tham gia bảo hiểm y tế và thất nghiệp đều đạt hơn 100 triệu. - Thứ sáu, cục diện mở cửa với bên ngoài đa phương hoá, nhiều tầng nấc, lĩnh vực rộng không ngừng hoàn thiện. Mở cửa với bên ngoài là một quốc sách cơ bản, lâu dài của Trung Quốc, cũng là con đường tất yếu trong tiến trình đẩy nhanh hiện đại hoá xã hội chủ nghĩa. Xây dựng thể chế kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa cần phải kiên trì mở cửa với bên ngoài. Trong thời kỳ đầu mới cải cách, Trung Quốc xây dựng bốn đặc khu kinh tế, mở cửa 14 thành phố cảng ven biển, mở cửa hàng loạt các cửa khẩu biên giới, mở cửa thành phố nội địa và khu khai phát, cơ bản hình thành cục diện mở cửa đối ngoại nhiều tầng lớp, đa hình thức, toàn phương vị và nhiều lĩnh vực, cơ chế vận hành kinh tế đối ngoại thích ứng với thông lệ quốc tế bước đầu được hình thành. Thể chế ngoại thương không ngừng được cải cách. Năm 2001, Trung Quốc chính thức gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới, đánh dấu việc mở cửa với bên ngoài bước sang giai đoạn mới. Trung Quốc thực hiện chính sách “thu hút vào” kết hợp với “đi ra ngoài”, tận dụng đầy đủ hai thị trường và hai tài nguyên trong và ngoài nước, lấy mở cửa thúc đẩy cải cách, thúc đẩy phát triển. Năm 2002, tổng kim ngạch xuất khẩu ngoại thương của Trung Quốc đạt 620,8 tỷ đôla Mỹ, vươn lên xếp thứ 5 trên thế giới. Dự trữ ngoại tệ đã đạt hơn 340 tỷ đôla Mỹ. Kể từ năm 1993, liên tiếp 9 năm Trung Quốc đứng đầu trong các nước đang phát triển về việc thu hút vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài và khu vực. Trong quá trình mở cửa với bên ngoài, Trung Quốc chú ý giải quyết tốt mối quan hệ giữa việc mở rộng mở cửa với bên ngoài, và kiên trì tự lực gánh sinh, luôn luôn đứng trên nền tảng dựa vào sức mình, chú ý bảo vệ quyền quốc gia và an ninh kinh tế – xã hội, chú ý phòng ngừa và khắc phục tác động của rủi ro quốc tế. Nói tóm lại, việc bước đầu xây dựng thể chế kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa đã đưa nền kinh tế Trung Quốc đến những thay đổi mang tính lịch sử. Chỉ tiêu pháp lệnh và phương thức phân phối nguồn lực theo kế hoạch chồng chéo về cơ bản đã chuyển biến theo phương thức cạnh tranh, phân phối nguồn thị trường theo chiều ngang; thực hiện bước chuyển biến từ thị trường bán hàng hoá tem phiếu, thương phẩm thiếu thốn chuyển sang thị trường với các sản phẩm phong phú, chủng loại đa dạng; thực hiện bước chuyển biến kinh tế từ đóng cửa, bán mở cửa sang nền kinh tế mở với nhiều tầng bậc, đa phương vị; vận hành nền kinh tế chuyển từ mô hình cung cấp với đặc trưng cơ bản là “thiếu thốn” chuyển sang mô hình lấy nhu cầu thị trường làm chính và kết hợp với những ràng buộc về nguồn lực; phương thức tăng trưởng kinh tế chuyển từ kinh doanh rời rạc sang kinh doanh tập trung; nền kinh tế quốc dân từ bất ổn định chuyển sang phát triển bền vững, nhanh và mạnh. Trong 13 năm (1989-2002), GDP của Trung Quốc bình quân hàng năm tăng 9,3%, đứng đầu các nước trên thế giới trong cùng thời kỳ. Năm 2002, GDP của Trung Quốc đạt 10.200 tỷ NDT, đứng thứ 6 trên thế giới. Thu nhập bình quân đầu người của gia đình nông dân tăng từ 630 NDT (1990) lên 2476 NDT (2002); thu nhập bình quân đầu người của cư dân thành thị tăng từ 2150 NDT (1990) lên 7703 NDT (2002). Mức sống của nhân dân không ngừng nâng cao, đã thực hiện bước nhảy vọt lịch sử, từ ấm no lên khá giả, sự nghiệp giáo dục, khoa học, văn hoá và dân số, môi trường cũng như các sự nghiệp xã hội khác đều đạt được thành tựu mang tính lịch sử. Mọi người đều công nhận rằng mười mấy năm đó là thời kỳ mà quốc lực tổng hợp của Trung Quốc được tăng cường mạnh mẽ, nhân dân được hưởng lợi ích thực tế nhiều nhất, là thời kỳ xã hội Trung Quốc yên ổn đoàn kết lâu dài và “chính trị thông suốt, nhân dân hoà thuận”, là thời kỳ ảnh hưởng của Trung Quốc đối với quốc tế được nâng cao rõ rệt và sức tập hợp dân tộc được tăng cường mạnh mẽ. 3.2. Những trở ngại chính trong việc đi sâu hơn nữa cải cách theo hướng thị trường hoá của thể chế kinh tế thị trường xó hội chủ nghĩa ở Trung Quốc Bước đầu hình thành thể chế kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa không có nghĩa là thể chế kinh tế thị trường đã hoàn toàn được xây dựng nên và vận hành có hiệu quả, cũng không có nghĩa là nhiệm vụ cải cách thể chế kinh tế của Trung Quốc đã hoàn thành. Trên thực tế, thể chế kinh tế thị trường của Trung Quốc hiện nay vẫn là một thể chế kinh tế thị trường chưa hoàn thiện, vẫn tồn tại nhiều nhân tố cản trở sự phát triển sức sản xuất. Nói chung, chuyển đổi chức năng chính quyền còn tụt hậu so với tiến trình chuyển đổi của thể chế kinh tế, tình trạng chức năng quản lý công cộng của chính quyền lẫn lộn không rõ ràng với chức năng của người sở hữu tài sản Nhà nước vẫn chưa có thay đổi căn bản. Thể chế kinh tế hiện hành vẫn tồn tại nhiều yếu kém, cần từng bước giải quyết thông qua đi sâu cải cách, cụ thể là: Trước hết, chức năng quản lý công cộng của chính quyền lẫn lộn không rõ ràng với chức năng của người sở hữu tài sản Nhà nước, thể chế kinh tế thị trường quá ưu tiên cho doanh nghiệp quốc hữu và chính quyền can thiệp quá mức đã làm đảo lộn cơ chế phân phối tài nguyên bằng thị trường, làm giảm hiệu quả phân phối tài nguyên, cản trở kinh tế tăng trưởng, làm tổn hại đến an ninh kinh tế Nhà nước. Hiện nay, những vấn đề như kinh tế quốc hữu chiếm tỷ trọng quá cao, mặt trận quá dài, phân bố quá rộng, hiệu quả không cao vẫn rất nổi cộm. Năm 2000, trong tổng số 190 nghìn doanh nghiệp quốc hữu, có 9 nghìn doanh nghiệp cỡ lớn và siêu lớn, 181 nghìn doanh nghiệp vừa và nhỏ, chiếm 94,8% tổng số doanh nghiệp quốc hữu, trong đó, 94 nghìn doanh nghiệp thua lỗ, chiếm 52%. Đồng thời, có 85 nghìn doanh nghiệp ăn cả vào gốc (tức nợ lớn hơn tài sản) và “trống rỗng” (tức tổn thất lớn hơn số vốn của người sở hữu) chiếm 44,5% tổng số doanh nghiệp quốc hữu. Bởi vì hiệu quả của doanh nghiệp quốc hữu không cao nhưng lại chiếm nhiều tài nguyên, còn hiệu quả của doanh nghiệp thuộc chế độ sở hữu khác lại khá cao nhưng không được giúp đỡ về tài nguyên hiện có. Vì vậy, tài nguyên của xã hội không được sử dụng hiệu quả và đầy đủ, làm cho tốc độ phát triển kinh tế bị kìm chế, và khiến tỷ lệ tăng trưởng thực tế của kinh tế quốc dân không đạt tỷ lệ tăng trưởng tiềm năng. Điều quan trọng hơn là kinh tế phi quốc hữu không được phát triển đầy đủ, đã làm cho hơn 10 nghìn tỷ tiền vốn trong dân không được sử dụng, dẫn đến sự nhàn rỗi và lãng phí của tài nguyên thiếu thốn nhất này. Trong khi đó, trong kinh tế tiền tệ hoá, sự tiêu hao tài nguyên quá mức này sẽ tích tụ lại bằng hình thức bề nổi hoặc tiềm ẩn, và nếu tích tụ đến mức độ nào đó thì sẽ bùng nổ khủng hoảng tài chính tiền tệ, hoặc chuyển thành lạm phát tiêu cực, làm tổn hại đến an ninh kinh tế của Nhà nước. Thứ hai, thể chế quản lý tài sản quốc hữu quy phạm và hiệu quả chưa được xây dựng nên, chính quyền can thiệp quá mức, làm cho doanh nghiệp quốc hữu ở vào tình trạng “chính quyền và doanh nghiệp không tách ra”, doanh nghiệp quốc hữu không thể thực sự trở thành chủ thể của thị trường, thiếu sức cạnh tranh. Cải cách về thể chế quản lý tài sản quốc hữu tụt hậu. Một mặt là vì nhiều bộ ngành đều có chức năng bổ vốn, quản lý người và quản lý việc tách rời khỏi quản lý tài sản, vấn đề “không ai chịu trách nhiệm” tồn tại song song với vấn đề “ngũ long trị thuỷ”, “nhiều đầu mối can thiệp hành chính”, làm cho doanh nghiệp quốc hữu rất lúng túng. Mặt khác, chính vì “ai cũng quản, mà cũng chẳng ai quản”, “người sở hữu thực sự vắng mặt”, làm cho doanh nghiệp quốc hữu bị “người trong nội bộ khống chế”. Vì vậy, dù có cải tạo theo chế độ cổ phần hoá và xây dựng doanh nghiệp theo chế độ doanh nghiệp hiện đại, thì cũng thường là “đẹp mà không bền”. Thứ ba, chính quyền can thiệp quá mức và tính tuỳ tiện trong hành vi của chính quyền đã làm cho các hiện tượng chức năng chính quyền “việt vị”, “sai vị” và “khuyết vị” (vượt quá vị trí, đứng sai vị trí, thiếu vắng vị trí) vẫn nghiêm trọng, vẫn tồn tại vấn đề “quyền lực lớn hơn pháp luật”, thiếu cơ chế ràng buộc mạnh đối với “quyền lực”, quyết sách không nghiêm túc và can thiệp tuỳ tiện vẫn thường xuyên xảy ra. Phân chia quyền hạn xử lý công việc và quyền hạn tài chính giữa Trung ương và địa phương đến nay chưa thật rõ ràng, chính quyền Trung ương và địa phương đều chưa rõ mình cần chịu trách nhiệm về việc gì. Phương thức xử phạt như “chế độ trách nhiệm của người đứng đầu” hoặc “hỏng một việc thì hỏng hết” làm cho chính quyền và quan chức các cấp phải quản lý rộng, quản lý sâu và quản lý mạnh. Nhiều chính quyền địa phương còn phải gánh vác nhiều trách nhiệm không phải của mình. Thứ tư, thể chế quản lý hành chính vẫn nặng về “quản lý theo ngành nghề và địa bàn”, không những làm cho một số bộ ngành xuất hiện khuynh hướng “lợi ích tập đoàn hoá” và chức năng công cộng yếu đi, mà còn làm cho chủ nghĩa bảo hộ địa phương lan rộng. Bởi vì hành vi của chính quyền thiếu cơ chế ràng buộc và thiếu công khai, nhiều bộ ngành rất dễ thông qua “gọi thuê” để thu hút “người nhận thuê” dưới chiêu bài đàng hoàng, và qua đó kiếm lời cho bộ ngành và cá nhân. Xuất phát từ lợi ích bản thân và nhu cầu về thành tích, chính quyền địa phương cũng rất ít suy nghĩ về phân công và hợp tác với các vùng xung quanh, xây dựng trùng lặp, bày ra nhiều dự án do chính quyền trực tiếp đầu tư hay xúi giục đầu tư đã trở thành “cạm bẫy thua lỗ” hoặc “cạm bẫy nợ nần”. Thứ năm, khoảng cách chênh lệch giữa miền Đông và miền Tây, giữa thành phố và nông thôn giãn ra, chế độ bảo hiểm xã hội tụt hậu, mâu thuẫn về phân phối ngày càng nổi cộm. Lấy ví dụ về khoảng cách thu nhập giữa thành phố và nông thôn, năm 1980, khoảng cách thu nhập bình quân đầu người giữa thành phố và nông thôn toàn quốc là 1:0,44; đến năm 2000 đã mở rộng ra đến 1:0,36. III. NHỮNG BÀI HỌC KINH NGHIỆM CHO VIỆT NAM TỪ Mễ HèNH KINH TẾ THỊ TRƯỜNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở TRUNG QUỐC Cùng với sự phát triển về lý luận, thể chế kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa của Trung Quốc đã dần hình thành và phát triển ổn định, vững chắc hơn 10 năm qua, với những thành tựu không thể nghi ngờ. Sẽ là rất thiết thực nếu có những tổng kết, đúc rút kinh nghiệm về mô hình kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa ở Trung Quốc. Bởi nó không chỉ có tác dụng cung cấp luận chứng cho việc lý giải hướng đi đó là đúng hay sai, là hiệu quả hay không hiệu quả, mà hơn thế, nó còn giúp Việt Nam chắt lọc những kinh nghiệm sát thực, có giá trị trong quá trình thực hiện cải cách kinh tế, xây dựng cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. 1. Bài học về sự kiờn trỡ kết hợp những nguyờn lý cơ bản của chủ nghĩa Mác với thực tiễn cụ thể của đất nước, kiên trỡ sự chỉ đạo của lý luận khoa học, kiờn trỡ đi theo con đường của mỡnh. Trong diễn văn của Tổng bí thư Đảng Cộng sản Trung Quốc Giang Trạch Dân tại lễ kỷ niệm 80 năm ngày thành lập Đảng Cộng sản Trung Quốc ngày 1 tháng 7 năm 2001, ông đã tổng kết 12 thành quả lớn mà nhân dân Trung Quốc giành được trong suốt 80 năm dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Trung Quốc. Trong 12 thành tựu đó, ông đặc biệt nhấn mạnh thành tựu số 10 là: “Luôn luôn kiên trì kết hợp những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác với thực tiễn cụ thể của Trung Quốc, kiên trì sự chỉ đạo của lý luận khoa học, kiên định đi theo con đường của mình” và coi đây là “kinh nghiệm cơ bản nhất tổng kết từ lịch sử của Đảng Cộng sản Trung Quốc”. Điều này hoàn toàn đúng với “cuộc trường chinh sau Mao” – cuộc cải cách kinh tế vĩ đại của Trung Quốc theo hướng xây dựng mô hình kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa từ sau năm 1978 đến nay. Sau khi Đảng Cộng sản Trung Quốc được thành lập năm 1921, để có thể đưa cuộc cách mạng Trung Quốc đến thành công, Đảng Cộng sản Trung Quốc đã kết hợp nguyên lý của chủ nghĩa Mác với thực tiễn Trung Quốc và do đó đã hình thành tư tưởng chỉ đạo có hiệu quả, đem lại thắng lợi cho cách mạng Trung Quốc năm 1949. Nhưng khi bước vào công cuộc xây dựng kinh tế, chính trị, xã hội, đáp ứng bước phát triển mới, trải qua bao nhiêu cam go, khúc khuỷu, nhận thức sáng tạo, Đảng Cộng sản Trung Quốc lại dẫn dắt dân tộc Trung Hoa đi vào một cuộc “trường chinh mới”, đã đề ra lý luận xây dựng chủ nghĩa xã hội mang đặc sắc Trung Quốc và bước vào giai đoạn xây dựng thể chế kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa. Những thành tựu mà nhân dân Trung Quốc đã đạt được trong cuộc cách mạng kinh tế đã chứng tỏ sự đúng đắn của Đảng Cộng sản Trung Quốc trên con đường đi tìm lời giải đáp cho con đường phát triển của đất nước. Trung Quốc đang tiến với tốc độ đáng ngạc nhiên, trước con mắt thán phục của thế giới. Bài học kinh nghiệm của Trung Quốc về tính khoa học, thực tiễn, sáng tạo như ngày càng rõ nét. Không có con đường sẵn, không có công thức nào đúng cho mọi chỗ mọi nơi. Cách mạng là sáng tạo. 2. Bài học về sự kết hợp cơ chế kinh tế thị trường với chế độ xó hội chủ nghĩa Lựa chọn mô hình kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa không phải là sự gán ghép chủ quan giữa kinh tế thị trường và chủ nghĩa xã hội, mà là sự nắm bắt và vận dụng xu thế vận động khách quan của kinh tế thị trường trong thời đại ngày nay. Ngay sau Hội nghị Trung ương 3 khoá XI (1978) của Đảng Cộng sản Trung Quốc, Trung Quốc đã từng bước chuyển từ kinh tế kế hoạch sang kinh tế thị trường, trải qua mấy bước: từ kinh tế kế hoạch đơn thuần sang “kinh tế kế hoạch là chủ yếu, điều tiết thị trường là bổ sung” (1978); từ kinh tế kế hoạch là chủ yếu sang “kinh tế hàng hoá có kế hoạch” (1978-1984); từ kinh tế hàng hoá có kế hoạch sang “kết hợp kinh tế kế hoạch với điều tiết thị trường” (1984-1989); từ kết hợp kinh tế kế hoạch với điều tiết thị trường sang “kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa” (1989-1992). Chủ nghĩa xã hội thực hiện qua kinh tế thị trường, đó là một vấn đề chưa từng có, là một vấn đề phức tạp cả về lý luận và thực tiễn. Vấn đề khó là kinh tế thị trường thực hiện như thế nào trong điều kiện xã hội chủ nghĩa. Theo lý luận của Đặng Tiểu Bình, kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa ở Trung Quốc có tính đặc thù của nó so với kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa, đó là kinh tế thị trường trên cơ sở chế độ công hữu. Để từng bước thiết lập thể chế kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa, từ sau Đại hội XIV của Đảng Cộng sản Trung Quốc (1992) đến nay, Trung Quốc đã tiến hành hàng loạt các biện pháp cải cách: chuyển cơ chế kinh doanh của các doanh nghiệp nhà nước; tăng nhanh nhịp độ mở rộng hệ thống thị trường; đi sâu cải cách chế độ phân phối và chế độ bảo hiểm xã hội; đẩy mạnh cải cách quản lý vĩ mô, chuyển đổi chức năng của chính quyền… Có thể nói, lý luận về kinh tế xã hội chủ nghĩa là một đóng góp mới vào kho tàng lý luận về kinh tế của chủ nghĩa Mác; mở đường cho công cuộc cải cách, mở cửa và phát triển kinh tế của Trung Quốc tiến lên giành được những thành tựu như ngày nay. Từ bài học kinh nghiệm này của Trung Quốc, trải qua nhiều năm nghiên cứu, tổng kết thực tiễn ở Việt Nam, Đại hội VIII của Đảng Cộng sản Việt Nam (1996) đã kết luận: “Sản xuất hàng hoá không đối lập với chủ nghĩa xã hội mà là thành tựu phát triển của nền văn minh nhân loại, tồn tại khách quan cần thiết cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và cả khi chủ nghĩa xã hội đã được xây dựng”. Và Đại hội IX của Đảng Cộng sản (2001) chính thức đưa ra khái niệm “kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa” với lời khẳng định: phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là đường lối chiến lược nhất quán, là mô hình kinh tế tổng quát trong suốt thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Có thể nói, sự phát triển kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa ở Trung Quốc và kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam đều là tất yếu khách quan, và do lợi ích sống còn của chế độ xã hội chủ nghĩa qud, phù hợp với tình hình mỗi nước. 3. Bài học về việc kiờn trỡ sỏch lược cải cách kiểu tiến dần từng bước Ngay từ khi mới bắt đầu cải cách, Trung Quốc đã xác định không dung phương án cải cách kiểu “bùng nổ” mà kiên trì phương án “dò đá qua sông”, áp dụng phương châm trước dễ sau khó, tiến dần từng bước, giảm bớt rủi ro. Thực tiễn chứng minh cách làm này là phù hợp với Trung Quốc, mang lại kết quả rõ rệt, tránh được những va chạm xã hội lớn và sự phân hoá hai cực quá nhanh như đã xảy ra ở Liên Xô cũ và các nước Đông Âu do thực hiện “liệu pháp sốc”. Cải cách kiểu tiến dần từng bước phải trả giá nhất định như thời gian cải cách tương đối dài, tác dụng tiêu cực của thể chế cũ kéo dài dai dẳng, song cuộc cải cách được thúc đẩy trong điều kiện xã hội tương đối ổn định, tuyệt đại đa số nhân dân được hưởng lợi ích của cải cách. Bài học cải cách theo phương thức tiến dần của Trung Quốc được thể hiện trên mấy phương diện quan trọng như sau: - Sau khi cải cách ở nông thôn thu được những kết quả thực tế mới mở rộng ra thành phố, đến năm 1984 cuộc cải cách mới lấy thành phố làm trung tâm. - Ra sức thúc đẩy sự phát triển kinh tế không thuộc sở hữu nhà nước, biến nó thành động lực quan trọng thúc đẩy sự phát triển kinh tế 20 năm qua; sau đó thực hiện có trọng điểm cải tổ chiến lược khu vực kinh tế nhà nước và cải cách các xí nghiệp nhà nước. - Trong việc xây dựng hệ thống thị trường, thỡ trước hết phát triển thị trường hàng hoá tiêu dùng rồi đến hàng hoá tư liệu sản xuất, sau đó mới chú ý phát triển thị trường các yếu tố sản xuất như thị trường vốn, sức lao động, kỹ thuật , thông tin v.v… - Cải cách giá cả, được coi là mấu chốt, quan hệ đến sự thành bại của toàn bộ cải cách thể chế kinh tế, vỡ vậy đó được tiến hành rất thận trọng, kết hợp giữa điều chỉnh và thả lỏng, điều chỉnh trước, thả lỏng sau, sau đó mới gắn với giá cả của thị trường quốc tế. - Về kế hoạch hoá các khâu sản xuất, lưu thông, giá cả… thỡ trước hết cho phép một phần tồn tại ngoài kế hoạch, rồi dần dần mở rộng ra; phần theo kế hoạch thỡ thu hẹp lại dần. Khi điều kiện đó chớn muồi thỡ thực hiện sự điều tiết của thị trường. Việc từng bước hợp nhất chế độ hai giá của tư liệu sản xuất là ví dụ nổi bật về sự quá độ yên ổn từ thể chế cũ sang thể chế mới một cách tiên tiến. - Trong mở cửa đối ngoại, mở đầu là xây dựng các đặc khu kinh tế, các thành phố ven biển, sau đó dần dần mở cửa sâu vào nội địa, và đến nay mới hỡnh thành cục diện mở cửa ra mọi hướng, mọi cấp độ. 4. Bài học về chế độ sở hữu trong nền kinh tế thị trường xó hội chủ nghĩa Điều chỉnh cơ cấu, chế độ sở hữu và cải cách doanh nghiệp quốc hữu là khâu then chốt trong xây dựng thể chế kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa. Thực tiễn chứng minh trong điều kiện xã hội chủ nghĩa, nếu không thực hiện cơ cấu nhiều loại chế độ sở hữu, nếu không cải cách hình thức chế độ công hữu truyền thống, nếu không làm cho doanh nghiệp quốc hữu trở thành doanh nghiệp thực sự và là chủ thể cạnh tranh thị trường, thì thể chế kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa sẽ khó có thể xây dựng được. Đại hội XV của Đảng Cộng sản Trung Quốc (9/1997) đã khẳng định: Chế độ kinh tế cơ bản trong giai đoạn đầu chủ nghĩa xã hội ở Trung Quốc là “chế độ công hữu làm chủ thể, nhiều loại sở hữu kinh tế cùng phát triển”, trong đó:  Nền kinh tế chế độ công hữu không chỉ bao gồm kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể, mà còn bao gồm thành phần quốc doanh và thành phần tập thể trong kinh tế sở hữu hỗn hợp.  Địa vị chủ thể của chế độ công hữu chủ yếu thể hiện ở chỗ: tài sản công hữu chiếm ưu thế trong tổng tài sản xã hội, kinh tế quốc doanh kiểm soát huyết mạch của nền kinh tế quốc dân, có tác dụng chủ đạo phát triển kinh tế.  Kinh tế chế độ phi công hữu không phải chỉ đóng vai trò bổ sung, mà là thành phần quan trọng của nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa, cùng tồn tại và phát triển lâu dài bên cạnh kinh tế công hữu. Để nhận thức được bài học này, cả Trung Quốc và Việt Nam đều phải trải qua nhiều thập kỷ để tìm ra con đường hợp quy luật khách quan nhằm xây dựng cơ sở vật chất cho chủ nghĩa xã hội. Trước đây, do sự chủ quan nóng vội và nhận thức chưa đầy đủ, hơn nữa do chế độ tư hữu phát triển rất mạnh ở các nước tư bản chủ nghĩa dẫn đến hình thành một sai lầm khá phổ biến khi cho rằng chủ nghĩa xã hội chỉ tồn tại chế độ công hữu đơn nhất, dẫn tới việc phủ nhận vị trí của sở hữu tư nhân và thành phần kinh tế tư nhân (bao gồm kinh tế cá thể và kinh tế tư doanh). Từ năm 1978 đến nay, cùng với việc xác định lại Trung Quốc đang “ở trong giai đoạn đầu của chủ nghĩa xã hội”, vị trí và vai trò của chế độ sở hữu tư nhân được nhìn nhận ngày một đầy đủ và khoa học hơn, từ chỗ được thừa nhận vị trí “hợp pháp” đã được đánh giá là có vai trò “quan trọng” đối với sự phát triển kinh tế – xã hội của Trung Quốc. Nhận thức được bài học về sự phát triển khu vực kinh tế tư nhân, Việt Nam đã quan tâm và tạo điều kiện cho bộ phận kinh tế này phát triển. Chính sách đối với thành phần kinh tế tư nhân đã có nhiều chuyển biến tích cực. Văn kiện của Đại hội IX Đảng Cộng sản Việt Nam đã khẳng định “kinh tế nhà nước phát huy vai trò chủ đạo, là lực lượng vật chất quan trọng và là công cụ để nhà nước định hướng và điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Kinh tế cá thể, tiểu chủ cả ở nông thôn và thành thị có vị trí quan trọng lâu dài… Khuyến khích phát triển kinh tế tư bản tư nhân rộng rãi trong những ngành nghề sản xuất, kinh doanh mà pháp luật không cấm. Tạo môi trường kinh doanh thuận lợi về chính sách, pháp lý để kinh tế tư bản tư nhân phát triển trên những hướng ưu tiên của nhà nước, kể cả đầu tư ra nước ngoài”. Tuy nhiên, những đóng góp của khu vực kinh tế tư nhân cho nền kinh tế ở Việt Nam chưa mạnh bằng Trung Quốc, nhìn chung kinh tế tư nhân ở Việt Nam vẫn còn yếu về thực lực, nhỏ về quy mô và dàn trải trong lĩnh vực hoạt động. 5. Bài học về phân phối thu nhập trong nền kinh tế thị trường xó hội chủ nghĩa Từ Hội nghị Trung ương 3 khoá XI của Đảng Cộng sản Trung Quốc đến Đại hội XVI của Đảng Cộng sản Trung Quốc, chính sách phân phối thu nhập của Trung Quốc đã trải qua sáu giai đoạn. Từ việc khắc phục chủ nghĩa bình quân, trước lấy nông thôn làm khâu đột phá, thi hành chế độ khoán sản phẩm tới hộ, từng bước Trung Quốc phá bỏ cơ chế bao cấp, thực hiện nguyên tắc “ưu tiên hiệu suất, tính tới công bằng” nhằm huy động tính chủ động và sáng tạo của đông đảo các tầng lớp nhân dân, vừa chống chủ nghĩa bình quân, lại phòng ngừa thu nhập chênh lệch quá lớn. Trung Quốc đã lần lượt xây dựng chế độ phân phối kết hợp giữa phân phối theo lao động với phân phối theo yếu tố. Phân phối lần đầu phải coi trọng hiệu suất, phát huy tác dụng của thị trường, khuyến khích một bộ phận người giàu lên trước, thông qua lao động thành thực và kinh doanh hợp pháp. Tái phân phối cần phải coi trọng công bằng, tăng cường chức năng điều tiết của nhà nước trong phân phối thu nhập, điều tiết chênh lệch quá lớn về thu nhập. Tìm mọi cách làm phồn vinh kinh tế nông thôn, tăng thêm thu nhập cho nông dân, thực hiện chiến lược Đại khai phá miền Tây, xây dựng hệ thống bảo đảm xã hội, đẩy mạnh xoá đói giảm nghèo, nâng cao tỷ trọng của những người có thu nhập trung bình, cộng thêm việc dùng biện pháp như chuyển chi ngân sách và đòn bẩy, thu thuế để không ngừng điều tiết khoảng cách thu nhập và khoảng cách khu vực quá lớn, khiến các loại mâu thuẫn không quá gay gắt. Những thành công mà chính sách phân phối thu nhập trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Trung Quốc đã thu được chính là kinh nghiệm quý giá mà Việt Nam đã và đang học hỏi để xây dựng một chế độ phân phối vừa đảm bảo tính hiệu quả, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, vừa đảm bảo tính công bằng, giữ vững ổn định xã hội. 6. Bài học về sự kết hợp chặt chẽ giữa cải cách trong nước với mở cửa ra thế giới Trong một thời kỳ dài trước đây, Trung Quốc đã thực hiện bế quan toả cảng, hậu quả là không thành công trong việc hiện đại hoá kinh tế, trì trệ, lạc hậu kéo dài, không tiếp thu được thành quả văn minh của loài người, không tận dụng được nguồn vốn bên ngoài, không tham gia được vào sự hợp tác và cạnh tranh quốc tế. Rút bài học cay đắng đó, từ thập kỷ 80, Trung Quốc thay đổi cách nghĩ, nhận thức lại là chủ nghĩa xã hội phải tiếp thu mọi thành quả văn minh của nhân loại, đặc biệt là của các nước phát triển phương Tây; chủ nghĩa tư bản là một giai đoạn lịch sử vô cùng quan trọng của tiến trình phát triển lịch sử của loài người, nền văn minh vật chất và văn minh tinh thần mà nó sáng tạo ra trong mấy trăm năm qua vượt qua tất cả những gì mà loài người đã tạo ra trước đó. Trung Quốc xây dựng chủ nghĩa xã hội trên cơ sở kinh tế văn hoá lạc hậu, càng phải thực hiện mở cửa, tiếp thu thành quả văn minh của thế giới, do đó không những phải cải tạo thể chế cũ, xây dựng thể chế mới, mà còn phải tiếp thu khoa học kỹ thuật tiên tiến và phương pháp quản lý kinh doanh của các nước tư bản phát triển. Nhưng tất nhiên, trong quá trình đó, Trung Quốc đã có chọn lọc để không tiếp thu những mặt không tốt của các nước này. Bài học về sự mở cửa của Trung Quốc cũng rất có ý nghĩa đối với Việt Nam. Những thành công bước đầu của chúng ta trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực đã chứng tỏ điều đó. 7. Bài học về sự lónh đạo của Đảng trong nền kinh tế thị trường xó hội chủ nghĩa Trung Quốc đã chủ trương thực hiện “chính trị thông suốt, nhân dân hoà thuận”, “quyết không thực hiện chế độ đa đảng và tam quyền phân lập”, “quyết không làm tư hữu hoá”. Đảng Cộng sản Trung Quốc luôn luôn là hạt nhân lãnh đạo của sự nghiệp xã hội chủ nghĩa đặc sắc Trung Quốc… đại diện cho lợi ích căn bản của đông đảo nhân dân Trung Quốc. Phát triển kinh tế thị trường vừa mang lại sức sống mới cho việc xây dựng bản thân Đảng Cộng sản Trung Quốc, đồng thời cũng khiến Đảng đứng trước những thách thức gay go. Đảng phải cải cách theo phương thức lãnh đạo và phương thức cầm quyền, chủ yếu là phải quản lý đất nước theo pháp luật và xử lý tốt mối quan hệ giữa Đảng với chính quyền. Sự phân hoá về lợi ích xã hội đòi hỏi Đảng phải điều hoà tốt mối quan hệ lợi ích giữa các nhóm có lợi ích khác nhau. Hàng loạt vấn đề như tư tưởng mơ hồ, dao động trong môi trường kinh tế thị trường, hiện tượng tham nhũng nghiêm trọng… đã xuất hiện, đặt ra yêu cầu Đảng phải có biện pháp lãnh đạo, ngăn chặn tác động của mặt trái cơ chế thị trường. Từ bài học của Trung Quốc, Việt Nam nhận thức sâu sắc rằng: Càng đi sâu vào kinh tế thị trường, thực hiện dân chủ hoá xã hội, mở rộng hợp tác quốc tế, càng phải tăng cường và đổi mới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng chính là tăng cường sự tác động chính trị xã hội chủ nghĩa đối với kinh tế thị trường, để thúc đẩy kinh tế thị trường phát triển đúng định hướng xã hội chủ nghĩa; ngược lại, sự phát triển của kinh tế thị trường sẽ buộc Đảng phải tự đổi mới, tự chỉnh đốn, nhất là đổi mới phương thức lãnh đạo cho phù hợp với yêu cầu, quy luật của kinh tế thị trường. 8. Bài học về vai trũ quản lý của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường xó hội chủ nghĩa Phát triển kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa cần phải tăng cường và điều hành vĩ mô của nhà nước về kinh tế, mà chủ yếu là giữ cho nền kinh tế tăng trưởng nhanh và ổn định. Ví dụ, năm 1998, đứng trước cục diện khó khăn khi môi trường kinh tế quốc tế khắc nghiệt và nhu cầu hữu hiệu trong nước suy giảm, Trung Quốc đã quyết đoán và kịp thời chuyển trọng điểm điều hành vĩ mô từ thi hành chính sách tài chính – tiền tệ thắt chặt vừa phải, chấn chỉnh lạm phát, sang thi hành phương châm mở rộng nhu cầu trong nước và chính sách tài chính – tiền tệ tích cực, vững mạnh, khống chế xu thế thiểu phát, đã đảm bảo nền kinh tế tăng trưởng tương đối nhanh. Đi đôi với việc tăng cường điều hành vĩ mô, Trung Quốc đã dần chuyển dịch chức năng của chính quyền theo yêu cầu của nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa, tinh giản bộ máy nhà nước. Trong điều kiện kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa, những việc có thể giải quyết qua cơ chế thị trường thì để cho thị trường làm, chức năng của chính quyền chủ yếu là điều tiết kinh tế, giám sát và quản lý thị trường, quản lý xã hội và phục vụ công cộng. Những công việc gì mà nhà nước cần nắm thì phải nắm cho tốt, còn những công việc gì không cần nắm thì kiên quyết không nắm, tránh gây phương hại cho hiệu quả thị trường do sự can thiệp quá mức của chính quyền. Thực tiễn đã chứng minh rằng, đột phá điểm khó khăn nhất của xây dựng thể chế kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa và giải quyết nhiều vấn đề tầng sâu trong cải cách thể chế kinh tế, cuối cùng được quyết định bởi việc liệu có thực hiện được hay không việc chuyển biến căn bản chức năng của chính quyền và cải cách bộ máy triệt để theo yêu cầu của phát triển kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa. Kết luận Xây dựng thể chế kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa tại Trung Quốc là một thành quả cải cách cực kỳ quan trọng mà Đảng Cộng sản Trung Quốc đã rút ra từ việc tổng kết bài học kinh nghiệm xây dựng xã hội chủ nghĩa trong và ngoài nước và trải qua sự tìm tòi gian khổ kể từ Hội nghị Trung ương 3 khoá XI của Đảng Cộng sản Trung Quốc trở lại đây. Phát triển kinh tế thị trường trong điều kiện xã hội chủ nghĩa là sáng tạo vĩ đại, là cống hiến lịch sử của những người cộng sản Trung Quốc đối với sự phát triển của chủ nghĩa Mác, thể hiện dũng khí to lớn của Đảng Cộng sản Trung Quốc trong việc kiên trì sáng tạo lý luận, tiến cùng thời đại. Những thành tựu trên đây của hơn 20 năm cải cách, chuyển đổi nền kinh tế không chỉ đưa Trung Quốc thoát khỏi khủng hoảng, mà còn đưa sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội thực sự tiến lên về phía trước. Tuy nhiên, đây cũng mới chỉ là một cuộc thử nghiệm mới trong quá trình vận dụng chủ nghĩa Mác-Lênin vào thực tiễn Trung Quốc. Thắng lợi hoàn toàn của chủ nghĩa xã hội ở Trung Quốc đang còn ở phía trước. Mặc dầu trên con đường đi còn hàng loạt vấn đề đặt ra, đòi hỏi phải tiếp tục nghiên cứu, giải quyết, nhưng những thành tựu trên đây chứng tỏ đường lối phát triển kinh tế xã hội chủ nghĩa của Trung Quốc hoàn toàn phù hợp với hoàn cảnh nước này. Những bài học rút ra từ mô hình kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa của Trung Quốc vô cùng quý giá, bởi nó không chỉ cho thấy sức sống của chủ nghĩa xã hội hiện thực mà còn có giá trị tham khảo vô cùng bổ ích cho các quốc gia có hướng phát triển tương tự như Việt Nam. Từ kinh nghiệm của Trung Quốc trên con đường xây dựng thể chế kinh tế mới, Việt Nam cũng đang vạch ra cho mình con đường đi riêng. Với phương châm “Hãy bắt tay vào hành động, thực tiễn sẽ cho câu trả lời”, hy vọng rằng từng bước, từng bước, thực tiễn sẽ làm sáng tỏ được các vấn đề nêu trên, góp phần làm phong phú thêm lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội phù hợp với điều kiện Việt Nam trong thời đại ngày nay. TÀI LIỆU THAM KHẢO Lê Hữu Tầng, Chủ nghĩa xã hội - Từ lý luận đến thực tiễn - Những bài học kinh nghiệm chủ yếu, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội – 2003. Lý Hưng Sơn, Lý luận và thực tiễn kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa, Hội thảo lý luận giữa Đảng Cộng sản Trung Quốc và Đảng Cộng sản Việt Nam: Chủ nghĩa xã hội và kinh tế thị trường – Kinh nghiệm của Trung Quốc, kinh nghiệm của Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội – 2003. Lý Thiết ánh, Kinh tế Đông Bắc á thực hiện vĩ đại, kinh nghiệm thành công – Nhìn lại và tổng kết công cuộc cải cách mở cửa của Trung Quốc. [] Nguyễn Minh Hằng, Những bài học của cuộc cải cách thể chế kinh tế ở Trung Quốc, Kỷ yếu hội thảo: Trung Quốc - Cải cách và phát triển, Trung tâm Khoa học xã hội và nhân văn quốc gia, Trung tâm nghiên cứu Trung Quốc. [] Nguyễn Văn Hồng, Trung Quốc cải cách mở cửa - Những bài học kinh nghiệm, Đại học Quốc gia Hà Nội, Trung tâm nghiên cứu Trung Quốc, Nxb. Thế giới, Hà Nội – 2003. Mục lục Mục lục ....................................................................................................................... 1 Lời nói đầu .................................................................................................................. 2 I. Lí LUẬN CHUNG VỀ KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ................................................... 4 1. Khái niệm kinh tế thị trường ................................................................................ 4 2. Những điều kiện hỡnh thành kinh tế thị trường .................................................... 4 3. Đặc trưng của kinh tế thị trường .......................................................................... 5 II. Mễ HèNH KINH TẾ THỊ TRƯỜNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở TRUNG QUỐC ... 7 1. Quỏ trỡnh hỡnh thành và xõy dựng thể chế kinh tế thị trường xó hội chủ nghĩa ở Trung Quốc ............................................................................................................. 7 1.1. Quá trình hình thành mục tiêu xây dựng thể chế kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa ở Trung Quốc (giai đoạn 1978-1992) ......................................................... 7 1.2. Quá trình xây dựng thể chế kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa ở Trung Quốc (giai đoạn 1992-2003) ........................................................................................10 2. Hàm nghĩa và đặc trưng của kinh tế thị trường xó hội chủ nghĩa ở Trung Quốc ..11 3. Thành tựu và những vấn đề cũn tồn tại của mụ hỡnh kinh tế thị trường xó hội chủ nghĩa ở Trung Quốc ................................................................................................13 3.1. Thành tựu của mụ hỡnh kinh tế thị trường xó hội chủ nghĩa ở Trung Quốc ..13 3.2. Những trở ngại chính trong việc đi sâu hơn nữa cải cách theo hướng thị trường hoá của thể chế kinh tế thị trường xó hội chủ nghĩa ở Trung Quốc .....................18 III. NHỮNG BÀI HỌC KINH NGHIỆM CHO VIỆT NAM TỪ Mễ HèNH KINH TẾ THỊ TRƯỜNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở TRUNG QUỐC ........................................21 1. Bài học về sự kiờn trỡ kết hợp những nguyờn lý cơ bản của chủ nghĩa Mác với thực tiễn cụ thể của đất nước, kiên trỡ sự chỉ đạo của lý luận khoa học, kiờn trỡ đi theo con đường của mỡnh. ....................................................................................................21 2. Bài học về sự kết hợp cơ chế kinh tế thị trường với chế độ xó hội chủ nghĩa ......22 3. Bài học về việc kiờn trỡ sỏch lược cải cách kiểu tiến dần từng bước ...................23 4. Bài học về chế độ sở hữu trong nền kinh tế thị trường xó hội chủ nghĩa .............25 5. Bài học về phân phối thu nhập trong nền kinh tế thị trường xó hội chủ nghĩa .....26 6. Bài học về sự kết hợp chặt chẽ giữa cải cách trong nước với mở cửa ra thế giới .27 7. Bài học về sự lónh đạo của Đảng trong nền kinh tế thị trường xó hội chủ nghĩa .27 8. Bài học về vai trũ quản lý của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường xó hội chủ nghĩa ......................................................................................................................28 Kết luận .....................................................................................................................30

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf100105_9396.pdf