Tiểu luận Phân tích tác động của thuế thu nhập cá nhân đối với thu nhập từ chuyển nhượng vốn

- Luật thuế TNCN phải là công cụ hữu hiệu để Nhà nước tăng thu ngân sách, đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế xã hội. Ở các quốc gia phát triển, tỉ trọng thuế TNCN trên tổng thu ngân sách là khá cao, trong khi đó tại Việt Nam số thu này là không đáng kể. So với các sắc thuế gián thu như thuế giá trị g ia tăng, thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu thì thuế TNCN đảm bảo công bằng tốt hơn, vì vậy, việc tăng nguồn thu từ thuế trực thu là yêu cầu hợp lí và cần thiết. Bên cạnh việc mở rộng đối tượng điều chỉnh, Luật thuế TNCN cần bao quát được các nguồn thu của cá nhân, đồng thời hạn chế hiện tượng tránh thuế, lậu thuế. Bên cạnh đó, cần xác định một mức thuế suất hợp lí đối với đối với thu nhập từ chuyển nhượng vốn để vừa đảm bảo nguồn thu cho ngân sách nhưng đồng thời cũng không gây áp lực lên chủ thể nộp thuế. - Luật thuế TNCN phải là công cụ để đảm bảo công bằng xã hội. Thực hiện công bằng xã hội là nhiệm vụ của bộ máy nhà nước nói chung và pháp luật luôn được coi là công cụ hữu hiệu. Luật thuế TNCN cần phải đảm bảo khả năng điều tiết thu nhập hợp lí đối với cá nhân có thu nhập. Về lí thuyết, pháp luật càng cá thể hoá nghĩa vụ nộp thuế bao nhiêu thì càng có thể đảm bảo công bằng bấy nhiêu. Tuy nhiên, vấn đề này cũng có tính hai mặt, bên cạnh việc đảm bảo công bằng tốt hơn, việc cá thể hoá nghĩa vụ nộp thuế cũng có thể làm sai lệch bản chất công bằng.

pdf23 trang | Chia sẻ: aquilety | Lượt xem: 2719 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Phân tích tác động của thuế thu nhập cá nhân đối với thu nhập từ chuyển nhượng vốn, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH KHOA ĐÀO TẠO SAU ĐẠI HỌC ĐỀ TÀI TIỂU LUẬN: PHÂN TÍCH TÁC ĐỘNG CỦA THUẾ THU NHẬP CÁ NHÂN ĐỐI VỚI THU NHẬP TỪ CHUYỂN NHƯỢNG VỐN Giáo viên hướng dẫn : PGS. TS. Nguyễn Ngọc Hùng Học viên thực hiện : Lê Minh Phú Lớp-Khóa : NGÂN HÀNG ĐÊM 6 – K20 Thành phố Hồ Chí Minh, Tháng 08 năm 2012 I. Phần mở đầu: 1. Lý do (tính cấp thiết của đề tài) : Bất kỳ một quốc gia nào có nền kinh tế vận động theo cơ chế thị trường đều coi thuế thu nhập cá nhân là một sắc thuế có tầm quan trọng lớn trong việc huy động nguồn thu cho ngân sách và thực hiện công bằng xă hội. Nền kinh tế Việt Nam ngày càng phát triển đã tạo môi trường cho hoạt động chuyển nhượng vốn diễn ra ngày càng phổ biến và mạnh mẽ, điều này đã tạo ra một lượng thu nhập lớn của các cá nhân từ hoạt động chuyển nhượng vốn. Nhà nước Việt Nam bổ sung thêm quy định đánh thuế thu nhập cá nhân (TNCN) đối với thu nhập từ chuyển nhượng vốn nhằm tăng thêm nguồn thu cho Ngân sách nhà nước. Đề tài này, nghiên cứu & phân tích tác động của thuế thu nhập cá nhân đối với thu nhập từ chuyển nhượng vốn để nhằm thấy được tích được mất của việc đánh thuế này. 2. Mục tiêu nghiên cứu : Làm rõ một số vấn đề liên quan tới cơ sở lý luận để đánh thuế thu nhập cá nhân đối với thu nhập chuyển nhượng vốn. Nghiên cứu luật thuế thu nhập cá nhân tại Việt Nam, các quan điểm đánh thuế thu nhập cá nhân đối với thu nhập chuyển nhượng vốn của các nhà làm luật Việt Nam. Nêu ra nhưng tồn tại, nguyên nhân của những tồn tại đó trong thuế thu nhập cá nhân đối với thu nhập từ chuyển nhượng vốn tại Việt Nam. Trên cơ sở những nguyên nhân đó, đề xuất các giải pháp để sửa đổi, bổ sung nhằm hoàn thiện luật thuế cho phù hợp với thực tế hơn, phù hợp với thông lệ cũng như chuẩn mực quốc tế. 3. Phương pháp nghiên cứu : Sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu khoa học kết hợp với các phương pháp thống kê, phân tích, … đi từ cơ sở lý thuyết đến thực tiễn nhằm giải quyết và làm sáng tỏ mục tiêu nghiên cứu của đề tài. 4. Phạm vi nghiên cứu : Trọng tâm nghiên cứu là luật thuế thu nhập cá nhân đối với thu nhập từ chuyển nhượng vốn ở Việt Nam. II. Phần nội dung: Chương 1: Khung lý thuyết chung về thuế thu nhập cá nhân, thuế thu nhập cá nhân đối với thu nhập từ chuyển nhượng vốn : 1.1Các khái niệm: 1.1.1 Khái niệm thuế thu nhập cá nhân: Thuế thu nhập cá nhân đã được áp dụng từ lâu ở các nước phát triển, đối tượng nộp thuế này là mọi dân cư trong nước và người nước ngoài có thu nhập phát sinh ở nước sở tại không phân biệt nghề nghiệp và địa vị xã hội. Ðồng thời, tùy theo tính chất của các khoản thu nhập cá nhân, người ta chia thu nhập làm hai loại: thu nhập thường xuyên và thu nhập không thường xuyên để tính thuế cho phù hợp. Lần đầu tiên ở Anh vào năm 1799 thuế thu nhập cá nhân được đưa vào thực hiện như một hình thức thu tạm thời nhằm mục đích trang trải cho cuộc chiến tranh chống Pháp và được chính thức áp dụng vào năm 1942. Sau đó nhiều nước tư bản phát triển khác cũng áp dụng thuế này như: ở Nhật năm 1887, Ðức 1899, Mỹ 1903, pháp 1916 và Liên Xô năm 1922. Hiện nay trên thế giới có 02 phương pháp đánh thuế: Có nước tính thuế vào từng khoản thu nhập thực tế của mỗi cá nhân, có nước tính thuế trên tổng thu nhập của cả hộ gia đình: • Cách thứ nhất được áp dụng phổ biến ở Anh, Nhật, Thụy Ðiển, các nước Châu Phi, Liên Xô, Hunggari, Tiệp khắc…Ưu điểm của cách này là đơn giản, dễ thực hiện, đảm bảo thu kịp thời vào ngân sách Nhà nước. Nhưng có nhược điểm là chưa đảm bảo yêu cầu phân phối lại thu nhập quốc dân qua thuế sao cho có hiệu qủa và đáp ứng được sự công bằng xã hội và nhất là đối với những cá nhân có nhiều khẩu ăn theo. • Cách thứ hai được áp dụng ở Pháp, Hà Lan…Các chuyên gia cho rằng cách này công bằng hơn về mặt đạo đức xã hội nhưng không kịp thời vì mỗi gia đình đều có ít nhất hai người trở lên. Ðã có nhiều người thì sẽ có nhiều khoản thu nhập khác nhau, do đó phải mở sổ sách kế toán, theo dõi từng nguồn thu nhập và phải đối chiếu với nơi phát sinh thu nhập, vì có nhiều phức tạp nên rất ít quốc gia áp dụng cách thứ hai. Như vậy, thuế thu nhập cá nhân là loại thuế trực thu đánh vào thu nhập chính đáng của từng cá nhân. 1.1.2 Khái niệm tổng thu nhập (Gross income) : Tổng thu nhập bao gồm tổng các nguồn khác nhau của một cá nhân bao gồm : tiền lương, thu nhập vốn, t iền lãi, cổ tức, thu nhập kinh doanh khác, ... 1.1.3 Khái niệm về cá nhân cư trú và cá nhân không cư trú: Cá nhân cư trú: Là cá nhân đáp ứng một trong hai điều kiện sau: - Cá nhân có mặt tại VN từ 183 ngày trở lên trong năm dương lịch hoặc trong 12 tháng liên tục kể từ ngày đầu tiên đến VN. - Cá nhân có nơi ở thường xuyên tại Vn như: có nơi để đăng ký thường trú, có thẻ thường trú thẻ tạm trú do BCA cấp hoặc có thuê nhà để ở từ 90 ngày trở lên trong năm tính thuế. Cá nhân không cư trú: Là người không đáp ứng điều kiện nêu trên. 1.2 Chức năng, vai trò của thuế thu nhập cá nhân : Tại sao phải đánh thuế thu nhập cá nhân nói chung cũng như đánh thuế thu nhập cá nhân đối với thu nhập từ chuyển nhượng vốn ? • Góp phần tăng nguồn thu cho ngân sách Nhà nước: Sự giảm dần các loại thuế xuất nhập khẩu do yêu cầu tự do hóa thương mại nên thuế thu nhập cá nhân ngày càng trở thành nguồn thu quan trọng cho ngân sách Nhà nước. Nền kinh tế nước ta ngày càng phát triển, thu nhập bình quân đầu người của cá nhân ngày càng tăng từ đó thuế thu nhập cá nhân sẽ góp phần quan trọng vào việc tăng thu cho ngân sách Nhà nước. • Góp phần thực hiện công bằng xã hội: Thông thường, thuế thu nhập cá nhân chỉ đánh vào thu nhập cao hơn mức khởi điểm thu nhập chịu thuế, không đánh thuế vào những cá nhân có thu nhập vừa đủ nuôi sống bản thân và gia đình ở mức cần thiết. Thêm vào đó khi thu nhập cá nhân tăng lên thì tỷ lệ thu thuế cũng tăng thêm. Ở nhiều nước còn có quy định miễn, giảm thuế cho những cá nhân mang gánh nặng xã hội. Ở nước ta hiện nay, thu nhập của các tầng lớp nhân dân có sự chênh lệch nhau, số đông dân cư có thu nhập còn thấp, nhưng cũng có một số cá nhân có thu nhập khá cao, nhất là những cá nhân làm việc trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, trong khu chế xuất hoặc có một số cá nhân người nước ngoài làm việc tại Việt Nam. Mặc dù thuế thu nhập cá nhân chưa mang lại số thu lớn cho ngân sách Nhà nước, song xét trên phương diện công bằng xã hội và phương diện công cụ quản lý vĩ mô của Nhà nước thì thuế thu nhập cá nhân có vị trí cực kỳ quan trọng, do đó việc điều tiết thuế thu nhập đối với những người có thu nhập cao là cần thiết, đảm bảo thực hiện chính sách công bằng xã hội. 1.3 Đối tượng chịu thuế : Đối tượng áp dụng thuế thu nhập cá nhân đối với thu nhập từ chuyển nhượng vốn là các cá nhân có thu nhập từ chuyển nhượng vốn. Chương 2: Thực trạng thuế thu nhập cá nhân đối với thu nhập từ chuyển nhượng vốn tại Việt Nam 2.1Khái quát về thuế thu nhập cá nhân đối với thu nhập từ chuyển nhượng vốn tại Việt Nam. Ở miền Nam Việt Nam trước 1975, chính quyền Sài Gòn đã áp dụng thuế thu nhập cá nhân nhưng với tên gọi là thuế lợi tức lương bổng năm 1962 và sau đó được cải cách vào năm 1972. Ngày 27/12/1990, Chủ tịch nước đã ký lệnh công bố Pháp lệnh Thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao (Income Tax on high – Income earner) và đã được ủy ban Thường vụ Quốc hội thông qua. Ðể cho phù hợp với tình hình thực tế của từng giai đoạn phát tr iển kinh tế- xã hội của đất nước, từ đó đến nay đã có 05 lần sửa đổi, bổ sung Pháp lệnh thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao: lần thứ nhất vào ngày 10/3/1992, lần thứ hai vào ngày 1/6/1994, lần thứ ba vào ngày 6/2/1997, lần thứ 4 vào ngày 30/6/1999 và lần thứ năm vào ngày 13/6/2001( có hiệu lực thi hành từ ngày 1/7/2001), và Luật Thuế TNCN năm 2007. 2.1.1 Thu nhập chịu thuế từ chuyển nhượng vốn theo Nghị định số 100/2008/NĐ-CP : Theo Nghị định số 100/2008/NĐ-CP ngày 08 tháng 9 năm 2008 quy định chi tiết một số điều của Luật Thuế thu nhập cá nhân, TT 84/2008 TT-BTC Hướng dẫn NĐ 100 thì các khoản thu nhập chịu thuế thu nhập cá nhân được liệt kê trong đó thể hiện rõ thu nhập từ chuyển nhượng vốn là khoản thu nhập phải chịu thuế, bao gồm: a) Thu nhập từ chuyển nhượng phần vốn trong các tổ chức kinh tế; b) Thu nhập từ chuyển nhượng chứng khoán; c) Thu nhập từ chuyển nhượng vốn dưới các hình thức khác. 2.1.2 Thu nhập chịu thuế từ chuyển nhượng vốn theo Thông tư số 84/2008 TT-BTC : Theo Thông tư số 84/2008 TT-BTC Hướng dẫn nghị định 100 thì thu nhập từ chuyển nhượng vốn: Là khoản tiền lãi nhận được từ v iệc chuyển nhượng vốn của cá nhân trong các trường hợp sau: + Thu nhập từ chuyển nhượng phần vốn góp trong các công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty hợp danh, công ty cổ phần, các hợp đồng hợp tác kinh doanh, hợp tác xã, tổ chức kinh tế, tổ chức khác. + Thu nhập từ chuyển nhượng chứng khoán bao gồm thu nhập từ việc chuyển nhượng cổ phiếu, trái phiếu, chứng chỉ quỹ và các loại chứng khoán khác theo quy định của Luật Chứng khoán. + Thu nhập từ chuyển nhượng vốn dưới các hình thức khác. Thu nhập chịu thuế từ chuyển nhượng vốn được xác định như thế nào? Xác định thu nhập từ chuyển nhượng vốn như sau (khoản 2 Mục II Phần B Thông tư 84/2008/TT-BTC): Căn cứ tính thuế đối với thu nhập từ chuyển nhượng phần vốn góp là thu nhập tính thuế và thuế suất. Tại khoản 4 Mục II Phần A Thông tư 84/2008/TT-BTC quy định: Thu nhập từ chuyển nhượng phần vốn góp trong các công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty hợp danh, công ty cổ phần, các hợp đồng hợp tác kinh doanh, hợp tác xã, tổ chức kinh tế, tổ chức khác. Trường hợp không xác định được giá mua và chi phí liên quan đến việc chuyển nhượng chứng khoán thì thu nhập chịu thuế được xác định là giá bán chứng khoán. 2.1.3 Thu nhập tính thuế: Thu nhập tính thuế từ chuyển nhượng phần vốn góp là thu nhập chịu thuế được xác định bằng giá chuyển nhượng trừ giá mua của phần vốn góp và các chi phí hợp lý liên quan đến việc tạo ra thu nhập từ chuyển nhượng vốn. 2.1. Giá chuyển nhượng : Theo tiết 2.1.1.a, điểm 2, Mục II, Phần B Thông tư số 84/2008/TT-BTC quy định giá chuyển nhượng là số tiền mà cá nhân nhận được theo hợp đồng chuyển nhượng vốn. Trường hợp hợp đồng chuyển nhượng không quy định giá thanh toán hoặc giá thanh toán trên hợp đồng không phù hợp với giá thị trường thì cơ quan thuế có quyền ấn định giá chuyển nhượng theo qui định của Luật Quản lý thuế và các văn bản hướng dẫn thực hiện Luật. 2.1.5 Giá mua : Giá mua của phần vốn góp được xác định đối với từng trường hợp như sau: - Nếu là chuyển nhượng vốn góp thành lập doanh nghiệp là trị giá phần vốn tại thời điểm góp vốn. Trị giá vốn góp được xác định trên cơ sở sổ sách kế toán, hoá đơn, chứng từ. - Nếu là phần vốn do mua lại thì giá mua là giá trị phần vốn đó tại thời điểm mua. Giá mua được xác định căn cứ vào hợp đồng mua lại phần vốn góp. 2.1.6 Các chi phí liên quan được trừ khi xác định thu nhập chịu thuế của hoạt động chuyển nhượng vốn: Là những chi phí hợp lý thực tế phát sinh liên quan đến việc tạo ra thu nhập từ chuyển nhượng vốn, có hoá đơn, chứng từ hợp lệ theo chế độ quy định. Cụ thể như sau: - Chi phí để làm các thủ tục pháp lý cần thiết cho việc chuyển nhượng; - Các khoản phí và lệ phí người chuyển nhượng nộp ngân sách khi làm thủ tục chuyển nhượng; - Các khoản chi phí khác có liên quan trực tiếp đến v iệc chuyển nhượng vốn có hoá đơn, chứng từ hợp lệ. 2.1.7 Thời điểm xác định thu nhập tính thuế : Thời điểm xác định thu nhập tính thuế là thời điểm giao dịch chuyển nhượng vốn hoàn thành theo quy định của pháp luật: thời điểm hoàn thành thủ tục thay đổi đăng ký kinh doanh đối với trường hợp phải đăng ký thay đổi đăng ký kinh doanh; hoặc thời điểm xác nhận của doanh nghiệp quản lý vốn đối với trường hợp không phải làm thủ tục thay đổi đăng ký kinh doanh. 2.1.8 Thuế suất : Thuế suất thuế thu nhập cá nhân đối với thu nhập từ chuyển nhượng vốn góp áp dụng theo biểu thuế toàn phần với thuế suất là 20%. Theo quy định tại điều 28 Luật thuế thu nhập cá nhân số 04/2007/QH12 ngày 21 tháng 11 năm 2007 của Quốc Hội khóa 12 thì Thuế đối với thu nhập từ chuyển nhượng vốn của cá nhân không cư trú được xác định bằng tổng số tiền mà cá nhân không cư trú nhận được từ việc chuyển nhượng phần vốn tại tổ chức, cá nhân Việt Nam nhân với thuế suất 0,1%, không phân biệt việc chuyển nhượng được thực hiện tại Việt Nam hay tại nước ngoài. 2.1.9 Cách tính thuế : Thuế thu nhập cá nhân phải nộp = Thu nhập tính thuế x Thuế suất (20%) 2.1.10 Đối tượng nộp thuế : Đối tượng nộp thuế bao gồm: • Cá nhân cư trú • Cá nhân không cư trú 2.1.11 Căn cứ tính thuế, kỳ tính thuế : a) Đối với cá nhân cư trú : Phần 1 : đối với thu nhập từ chuyển nhượng vốn : Căn cứ tính thuế: Thuế TNCN phải nộp = Thu nhập tính thuế x Thuế suất 20% Thu nhập tính thuế = Giá chuyển nhượng – Giá mua vốn góp – Chi phí 1. Giá chuyển nhượng: theo hợp đồng 2. Giá mua phần vốn góp: thời điểm góp vốn hoặc mua 3. Chi phí liên quan đến việc chuyển nhượng: chi phí pháp lý, phí và lệ phí của người chuyển nhượng, khác (có hóa đơn, chứng từ và liên quan đến việc chuyển nhượng) * Thời điểm xác định thu nhập: thời điểm giao dịch chuyển nhượng vốn hoàn thành (thời điểm làm thủ tục chuyển quyền sở hữu với cơ quan đăng ký kinh doanh) Kỳ tính thuế: theo từng lần phát sinh thu nhập Phần 2 : đối với thu nhập chuyển nhượng chứng khoán : Căn cứ tính thuế: Thuế TNCN phải nộp = Thu nhập tính thuế x Thuế suất Thu nhập tính thuế = Giá bán – giá mua – Chi phí – Chuyển lỗ Giá bán: đối với chứng khoán niêm yết là giá chuyển nhượng thành công tại công ty chứng khoán hoặc đối với chứng khoán chưa niêm yết là giá hợp đồng tại thời điểm bán. Hướng dẫn bổ sung theo Thông tư 62/2009/TT-BTC: (Ngày hiệu lực của Thông tư số 62: sau 45 ngày kể từ ngày ký và áp dụng cho các khoản thu nhập phát sinh từ ngày 1/1/2009.) Thay đổi cách xác định giá bán đối với cổ phiếu chưa niêm yết, chưa đăng ký giao dịch tại Trung tâm giao dịch chứng khoán: căn cứ theo giá ghi trên hợp đồng chuyển nhượng, nếu hợp đồng không ghi giá thì ghi chuyển nhượng do người chuyển nhượng tự khai (Trước đây, theo Thông tư số 84, căn cứ vào giá hợp đồng hoặc giá theo sổ sách kế toán của Doanh nghiệp có chứng khoán được chuyển nhượng tại thời điểm bán). Chuyển lỗ: không quá 5 năm kể từ năm phát sinh lỗ Thuế suất : Thu nhập chuyển nhượng chứng khoán có 2 thuế suất: 1. 20% trên Thu nhập hàng năm Phải đăng ký chậm nhất 31/3/2009 (mẫu số 15 ĐK/TNCN) vẫn phải tạm nộp 0.1% trên giá chuyển nhượng 2. 0.1% trên giá chuyển nhượng từng lần – không quyết toán Kỳ tính thuế : • Theo từng lần phát sinh thu nhập: đối với thu nhập từ đầu tư vốn; thu nhập từ chuyển nhượng vốn; • Theo từng lần chuyển nhượng hoặc theo năm đối với thu nhập từ chuyển nhượng chứng khoán; theo năm phải đăng ký từ đầu năm. b) Đối với cá nhân không cư trú : Căn cứ tính thuế: Thuế TNCN = Tổng số tiền nhận được từ việc chuyển nhượng X Thuế suất 0,1%Tổng số tiền mà cá nhân không cư trú nhận được từ việc chuyển nhượng phần vốn tại các tổ chức, cá nhân Việt Nam là tổng giá trị chuyển nhượng vốn không trừ bất kỳ khoản chi phí nào kể cả giá vốn. Kỳ tính thuế : Thời điểm hợp đồng chuyển nhượng vốn có hiệu lực hoặc thời điểm hoàn tất việc chuyển tên sở hữu (đối với chuyển nhượng phần vốn góp; chứng khoán chưa niêm yết và chưa đăng ký giao dịch) hoặc thời điểm Trung tâm giao dịch chứng khoán hoặc Sở giao dịch chứng khoán công bố giá thực hiện (đối với chứng khoán niêm yết và chứng khoán chưa niêm yết nhưng đã đăng ký giao dịch). 2.1.12 Khai thuế: Tại tiết 2.6, điểm 2, Mục II Phần D Thông tư này hướng dẫn cá nhân có thu nhập từ chuyển nhượng vốn (trừ thu nhập từ chuyển nhượng chứng khoán) có trách nhiệm khai thuế và nộp tờ khai thuế cho cơ quan thuế theo quy định sau đây: Thời điểm khai thuế: Cá nhân có thu nhập từ chuyển nhượng vốn phải khai thuế TNCN đồng thời với việc thực hiện các thủ tục chuyển quyền sở hữu phần vốn chuyển nhượng cho tổ chức, cá nhân khác theo quy định của pháp luật. Hồ sơ khai thuế gồm: (1) Tờ khai thuế TNCN áp dụng đối với cá nhân có thu nhập từ chuyển nhượng vốn theo mẫu số 12/KK-TNCN ban hành kèm theo Thông tư này; (2) Hợp đồng chuyển nhượng vốn (bản sao); (3) Các chứng từ chứng minh chi phí liên quan đến việc xác định thu nhập từ hoạt động chuyển nhượng vốn. Hồ sơ khai thuế TNCN đối với thu nhập từ chuyển nhượng vốn được nộp tại cơ quan thuế trực tiếp quản lý cơ sở kinh doanh có diễn ra giao dịch chuyển nhượng vốn hoặc Chi cục Thuế nơi cá nhân chuyển nhượng vốn (người bán) cư trú. Thời hạn nộp thuế : Thời hạn nộp thuế là thời hạn ghi trên Thông báo thuế theo mẫu số 12- 1/TB-TNCN ban hành kèm theo Thông tư này. Cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền hoặc doanh nghiệp có vốn chuyển nhượng chỉ làm thủ tục chuyển quyền sở hữu vốn cho tổ chức, cá nhân nhận chuyển nhượng vốn khi có chứng từ nộp thuế TNCN đối với hoạt động chuyển nhượng vốn. Thời hạn nộp thuế TNCN đối với hoạt động chuyển nhượng vốn góp, đầu tư vốn (trường hợp phải khai thuế trực tiếp với cơ quan thuế),… là ngày ghi trên thông báo nộp thuế của cơ quan thuế nhưng chậm nhất không quá 30 ngày kể từ ngày nhận được thông báo thuế. Trường hợp cá nhân đang sở hữu một phần vốn góp tại một Công ty cụ thể, khi cá nhân đó chuyển nhượng số vốn trên cho người khác, thì cá nhân đó phải có nghĩa vụ thực hiện đăng ký thuế (nếu chưa đăng ký thuế và chưa được cấp mã số thuế), nộp hồ sơ đăng ký thuế tại Chi cục Thuế nơi cá nhân cư trú và khai thuế, nộp thuế đối với thu nhập từ hoạt động chuyển nhượng vốn theo đúng quy định nêu trên. Trường hợp chuyển nhượng vốn theo đúng quy định của pháp luật về thuế TNCN nhưng không có thu nhập thì vẫn phải thực hiện khai thuế đối với thu nhập từ hoạt động chuyển nhượng vốn để cơ quan thuế có cơ sở xác định lại giá chuyển nhượng và cơ quan nhà nước có thẩm quyền hoặc doanh nghiệp có vốn chuyển nhượng làm thủ tục chuyển quyền sở hữu vốn. 2.2 Thuế thu nhập cá nhân đối với thu nhập từ chuyển nhượng chứng khoán tại Việt Nam: Tại công văn số 5050/TCT-TNCN ngày 08 tháng 12 năm 2010 Thu thuế TNCN đối với thu nhập từ chuyển nhượng chứng khoán được thực hiên như sau: Theo hướng dẫn tại Điều 1 của Thông tư số 160/2009/TT-BTC ngày 12/8/2009 của Bộ Tài chính hướng dẫn miễn thuế TNCN năm 2009 theo Nghị quyết số 32/2009/QH12 ngày 19/6/2009 của Quốc Hội thì cá nhân chuyển nhượng chứng khoán được miễn thuế thu nhập cá nhân từ ngày 01/01/2009 đến hết ngày 31/12/2009. Từ ngày 01/01/2010, cá nhân có thu nhập từ chuyển nhượng chứng khoán thực hiện nộp thuế TNCN theo qui định tại Luật Thuế TNCN và Thông tư số 84/2008/TT-BTC ngày 30/9/2008 của Bộ Tài chính hướng dẫn thi hành Nghị định số 100/2008/NĐ-CP ngày 8/9/2008 của Chính phủ qui định chi tiết một số điều của Luật Thuế TNCN và công văn số 42/BTC-TCT ngày 02/01/2009 của Bộ Tài chính hướng dẫn khấu trừ thuế TNCN đối với chuyển nhượng chứng khoán. Căn cứ hướng dẫn tại các văn bản nêu trên, Tổng cục Thuế lưu ý các Cục thuế một số vấn đề sau: Thời điểm tính thuế, khấu trừ thuế là thời điểm hoàn thành các giao dịch chuyển nhượng chứng khoán tính từ ngày 01/01/2010, cụ thể như sau: + Đối với chứng khoán niêm yết: là thời điểm Sở giao dịch chứng khoán hoặc Trung tâm giao dịch chứng khoán công bố giá thực hiện. + Đối với chứng khoán chưa niêm yết nhưng đã thực hiện đăng ký giao dịch tại Trung tâm giao dịch chứng khoán là thời điểm Trung tâm giao dịch chứng khoán công bố giá thực hiện. + Đối với chuyển nhượng chứng khoán không thuộc các trường hợp nêu trên là thời điểm hợp đồng chuyển nhượng chứng khoán có hiệu lực. Trường hợp không có hợp đồng chuyển nhượng chứng khoán thì thời điểm tính thuế là thời đ iểm đăng ký chuyển tên sở hữu chứng khoán. Công ty chứng khoán, Sở giao dịch chứng khoán hoặc Trung tâm giao dịch chứng khoán nơi nhà đầu tư mở tài khoản giao dịch có trách nhiệm khấu trừ thuế TNCN theo mức thuế suất 0,1% tính trên giá trị chứng khoán từng lần chuyển nhượng của nhà đầu tư theo từng trường hợp nêu trên và thông báo số thuế phải nộp cho người chuyển nhượng biết. - Phương pháp nộp thuế: + Công ty chứng khoán, Sở giao dịch chứng khoán hoặc Trung tâm giao dịch chứng khoán từ ngày 01/01/2010 có trách nhiệm khấu trừ thuế, khai thuế TNCN và nộp tờ khai cho cơ quan thuế trực tiếp quản lý chậm nhất là ngày 20 của tháng sau đồng thời thực hiện nộp số thuế đã khấu trừ vào Ngân sách Nhà nước. + Cá nhân chuyển nhượng chứng khoán nếu áp dụng nộp thuế thu nhập cá nhân đối với thu nhập từ chuyển nhượng chứng khoán theo thuế suất 20% thì phải thoả mãn điều kiện qui định tại khoản 2.2.2, tiết 2.2, điểm 2 Mục II Phần B Thông tư số 84/2008/TT-BTC và phải thực hiện đăng ký phương pháp nộp thuế với cơ quan thuế trực tiếp quản lý công ty chứng khoán mà cá nhân đăng ký giao dịch hoặc Chi cục Thuế nơi cá nhân cư trú, chậm nhất là 31/12/2009. Để triển khai thu thuế thu nhập cá nhân đối với thu nhập từ chuyển nhượng chứng khoán từ ngày 01/01/2010, Tổng cục Thuế đề nghị Cục Thuế các tỉnh thành phố triển khai ngay một số việc sau đây: 1. Tuyên truyền, phổ biến rộng rãi trên các phương tiện thông tin đại chúng về nghĩa vụ nộp thuế TNCN đối với thu nhập từ chuyển nhượng chứng khoán từ ngày 01/01/2010 để mọi cá nhân biết, nội dung tuyên truyền tập trung vào những nội dung mà Tổng cục Thuế gợi ý nêu trên. 2. Có văn bản thông báo đến các Công ty chứng khoán yêu cầu từ ngày 01/01/2010 phải thực hiện việc khấu trừ thuế, kê khai nộp thuế đối với các giao dịch chuyển nhượng chứng khoán theo hướng dẫn tại Thông tư số 84/2008/TT-BTC ngày 30/9/2008 và công văn số 42/BTC-TCT ngày 2/1/2009 nêu trên của Bộ Tài chính. Yêu cầu các Công ty chứng khoán niêm yết công khai các văn bản hướng dẫn của Bộ Tài chính và Tổng cục Thuế hướng dẫn về thuế TNCN đối với thu nhập từ chuyển nhượng chứng khoán để các nhà đầu tư là cá nhân biết và thực hiện. 3. Tổ chức phổ biến, hướng dẫn cho các Công ty chứng khoán hiểu rõ về đối tượng nộp thuế, về thuế suất và phương pháp xác định giá chuyển nhượng, về khấu trừ thuế, về kê khai nộp thuế bao gồm cả nội dung kê khai, thời điểm nộp tờ khai, nơi nộp tờ khai, thời gian nộp thuế và các nội dung đã hướng dẫn tại Thông tư số 84/2008/TT-BTC ngày 30/9/2008 và công văn số 42/BTC-TCT ngày 2/1/2009 của Bộ Tài chính để các Công ty chứng khoán biết và thực hiện. 4. Thường xuyên kiểm tra, giám sát việc chấp hành các qui định về kê khai thuế, nộp thuế của các Công ty chứng khoán. Kịp thời giải đáp các vướng mắc cũng như xử lý các sai phạm của Công ty chứng khoán trong quá trình thực hiện. 2.3 Những tồn tại cần hoàn thiện : Chưa kiểm soát được nguồn thu nhập từ chuyển nhượng vốn của từng cá nhân. Cùng với sự phát triển về thị trường chứng khoán tại Việt Nam, pháp luật về chứng khoán đã được ban hành để tạo ra hành lang pháp lý, mà điểm mốc là việc ban hành Luật Chứng khoán năm 2006. Ngoài ra, nhằm tập hợp các quy định rải rác trước đó, pháp luật thuế thu nhập cá nhân đã chính thức quy định v iệc thu thuế thu nhập cá nhân từ hoạt động chuyển nhượng chứng khoán và chuyển nhượng cổ phần trong Luật Thuế TNCN năm 2007, Nghị đ ịnh số 100/NĐ-CP ngày 08/09/2008 (“Nghị đ ịnh 100”) và Thông tư số 84/TT-BTC ngày 30/09/2008 (“Thông tư 84”). Tuy nhiên vẫn còn một số vướng mắc : + Cổ phiếu trong công ty cổ phần có phải là chứng khoán ? Theo quy định tại Nghị định 100 và Thông tư 84 thì chứng khoán gồm: chứng khoán niêm yết; chứng khoán của công ty đại chúng chưa niêm yết và chứng khoán của các đơn vị không thuộc hai trường hợp nêu trên. Cũng theo các văn bản này thì việc chuyển nhượng cổ phần trong công ty cổ phần nằm ở cả hai nội dung là chuyển nhượng chứng khoán hoặc chuyển nhượng phần vốn góp. Tuy nhiên, các văn bản này không làm rõ việc cổ phần trong trường hợp nào được xem là chứng khoán và trường hợp nào được xem là vốn góp. Trong khi đó, chính sách thuế TNCN của cá nhân cư trú áp dụng cho giao dịch chuyển nhượng chứng khoán và chuyển nhượng vốn hiện tại là tương đối khác nhau. Theo đó, nếu là “chuyển nhượng vốn” thì thuế TNCN là 20% trên lợi nhuận còn nếu xem là “chuyển nhượng chứng khoán” thì cá nhân chuyển nhượng chỉ được áp dụng cách tính thuế 20% trên lợi nhuận nếu đã đăng ký phương thức đóng thuế theo biểu thuế toàn phần với mức thuế suất 20% với cơ quan thuế trong năm trước năm giao dịch xảy ra, nếu không đăng ký thì áp dụng thuế suất 0,1% trên giá trị giao dịch. + Giải quyết bằng văn bản dưới luật – vẫn vướng : Để giải quyết vướng mắc này, ngày 02/6/2010 Tổng cục Thuế ban hành Công văn số 19109/TCT-TNCN giải thích về chính sách thuế TNCN (“Công văn 1919”). Theo đó, Tổng cục Thuế cho rằng để cổ phần được xem là chứng khoán thì có hai điều kiện: công ty cổ phần phải chia vốn điều lệ thành các phần bằng nhau và cổ phần đã được ghi nhận trong sổ kế toán hoặc công ty cổ phần đã phát hành cổ phiếu cho số cổ phần đó. Công văn 1919 được ban hành căn cứ theo các quy định về công ty cổ phần trong Luật Doanh nghiệp 2005 và quan trọng là đã vận dụng đúng theo định nghĩa về chứng khoán trong Điều 6.1 của Luật Chứng khoán, cụ thể: “Chứng khoán là bằng chứng xác nhận quyền và lợi ích hợp pháp của người sở hữu đối với tài sản hoặc phần vốn của tổ chức phát hành. Chứng khoán được thể hiện dưới hình thức chứng chỉ, bút toán ghi sổ hoặc dữ liệu điện tử, bao gồm các loại sau đây: a) Cổ phiếu, trái phiếu, chứng chỉ quỹ; b) Quyền mua cổ phần, chứng quyền, quyền chọn mua, quyền chọn bán v.v. Cổ phiếu là loại chứng khoán xác nhận quyền và lợi ích hợp pháp của người sở hữu đối với một phần vốn cổ phần của tổ chức phát hành”. Tuy nhiên, ngày 20/9/2010 Bộ Tài chính ban hành công văn số 12501/BTC-CST hướng dẫn về chính sách thuế đối với hoạt động chuyển nhượng cổ phần trong các công ty cổ phần (“Công văn 12501”). Theo đây, Bộ Tài chính cho rằng chỉ chuyển nhượng cổ phần trong công ty đại chúng theo quy định của Luật Chứng khoán mới được xem là chuyển nhượng chứng khoán, các trường hợp còn lại được xem là chuyển nhượng vốn. Quan điểm này khác biệt so với quan điểm của Tổng Cục thuế như đã nêu trên. Hơn nữa, Công văn 12501 chỉ nêu chung là căn cứ theo Luật Doanh nghiệp, Luật Chứng khoán mà không viện dẫn được căn cứ pháp lý cụ thể, cũng như không làm rõ định nghĩa về chứng khoán như Điều 6.1 trên. Ngoài ra, Bộ Tài chính cũng xác định nghĩa vụ nộp thuế TNCN trước ngày ban hành Công văn này mà trái với hướng dẫn trên thì cũng không phải đ iều chỉnh lại. Điều này phần nào cho thấy sự thiếu nhất quán trong cách nhìn nhận cũng như giải pháp tình thế của Bộ Tài chính. + Những hệ lụy trong chuyển nhượng cổ phần: Sự thiếu nhất quán trong giải thích chính sách thuế nói trên của các cơ quan thuế - tài chính cũng có thể gây ra những hệ lụy lớn cho các cá nhân chuyển nhượng cổ phần. Đơn cử, nhà đầu tư A chuyển nhượng một số lượng cổ phiếu có giá trị là 50 triệu đồng trong Công ty cổ phần X cho Nhà đầu tư B với g iá 100 triệu đồng. Công ty cổ phần X chưa phải công ty đại chúng nhưng vốn điều lệ đã được chia thành các phần bằng nhau và cổ phần đã được xác nhận bằng việc phát hành cổ phiếu. Nếu xem chuyển nhượng này là chuyển nhượng chứng khoán, nhà đầu tư A có thể đóng thuế TNCN với mức thuế suất 20% trên lợi nhuận trên tổng các giao dịch trong năm dương lịch (phương pháp 1) nếu A đã đăng ký phương thức đóng thuế theo biểu thuế toàn phần với mức thuế suất 20% với cơ quan thuế trong năm trước năm giao dịch xảy ra hoặc 0,1% trên giá giao dịch (phương pháp 2) nếu chưa đăng ký, cụ thể: Phương pháp 1: Số thuế A phải đóng = 20% x lợi nhuận = 20% x (giá bán – giá mua + chi phí) = 20% x (100 triệu – 50 triệu + (giả định chi phí bằng 0)) = 10.000.000 VND hoặc Phương pháp 2: Số thuế A phải đóng = 0,1% x giá chuyển nhượng = 0,1% x 100 triệu = 100 nghìn VND. Tuy nhiên, nếu xem đây là chuyển nhượng vốn thì nhà đầu tư A phải đóng thuế TNCN theo phương pháp 1 nêu trên, tức là phải đóng 10 tr iệu đồng. Nguyên tắc giải thích luật : Xét tính nhất quán của việc ban hành và hướng dẫn áp dụng các quy phạm pháp luật trong lĩnh vực này, chúng tôi cho rằng việc hiểu thế nào là chuyển nhượng chứng khoán thì phải tuân theo định nghĩa tại Điều 6.1 của Luật Chứng khoán bởi lẽ như đã đề cập thì pháp luật về thuế hiện chưa có quy định nào làm rõ nội dung này. Trường hợp cơ quan thuế có thay đổi chính sách tận thu thuế liên quan đến hoạt động chuyển nhượng cổ phẩn, về mặt logic cần thiết phải giải quyết các vấn đề mang tính kỹ thuật lập pháp trước. Cụ thể, cần sửa đổi quy định của Thông tư số 84 để xác định rõ cách hiểu về chứng khoán trong lĩnh vực thuế TNCN hoặc điều chỉnh quy định tại Điều 6.1 trên cho nhất quán về mặt chính sách thuế. Khi việc điều chỉnh nêu trên chưa được thực hiện thì hướng dẫn nêu tại Công văn 12501 chưa phù hợp với quy định pháp luật hiện hành. Thực trạng hiện nay là chúng ta tiếp tục sử dụng hệ thống “công văn” để điều chỉnh các quan hệ kinh tế - xã hội - pháp luật quan trọng và đặc biệt là trong lĩnh vực thuế không những gây ảnh hưởng đến nguồn thu ngân sách mà còn tác động tiêu cực đến hoạt động hoạch định kinh doanh của doanh dân, những người nộp thuế. Nhà nước cần phương án để phát huy vai trò giải thích pháp luật của cơ quan lập pháp, như Quốc hội, tạo cơ chế thẩm tra tính pháp lý của các văn bản hướng dẫn chính sách theo dạng công văn, cũng như xác định trách nhiệm của đơn vị đã ban hành văn bản không phù hợp với quy định pháp luật. Tại điểm 1 công văn số 12501/BTC-CST ngày 20/9/2010 của Bộ Tài chính về chính sách thuế đối với hoạt động chuyển nhượng cổ phần trong các công ty cổ phần đã hướng dẫn cụ thể việc phân biệt giữa chuyển nhượng chứng khoán và chuyển nhượng vốn đối với chuyển nhượng cổ phần trong công ty cổ phần. Ví dụ tham khảo : a) Nghĩa vụ thuế đối với v iệc ông A hoán đổi 5.913 CP của Công ty cổ phần C lấy 102.700 CP của Công ty D như sau: Giá bán: 416.844 đồng/cổ phần (2.464.800.000 đồng/5913 cổ phần) Giá vốn: 10.000 đồng/cổ phần (do ông A trước đây góp vốn và là thành viên HĐQT Công ty cổ phần C). - Tổng giá tr ị tính thuế = (5913 cổ phần x 416.844 đồng) – (5913 cổ phần x 10.000 đồng) = 2.346.538.572 đồng - Số thuế TNCN = 2.346.538.572 x 20 % = 469.307.714 đồng. b) Nghĩa vụ thuế đối với hoạt động của ông A chuyển nhượng 132.700 cổ phần cho Công ty D: - Giá bán: 25.000 đồng/cổ phần. - Giá vốn: 24.000 đồng/cổ phần (theo hợp đồng hoán đổi 102.700 cổ phần và theo các hợp đồng mua 30.000 cổ phần của các cá nhân khác cùng năm 2009). - Tổng giá trị tính thuế: 132.700 cổ phần x (25.000 đ/cp – 24.000 đồng/cổ phần) = 132.700.000 đồng - Số thuế TNCN = 132.700.000 đồng x 20% = 26.540.000 đồng (chưa tính đến các khoản chi phí liên quan đến việc chuyển nhượng) 2.4 Nguyên nhân : -Tình trạng trên xuất phát từ nhiều nguyên nhân, cả từ những bất cập trong quy định của luật thuế cũng như từ những yếu tố khác, như: - Nền kinh tế Việt Nam vẫn là một nền kinh tế ưa chuộng tiền mặt, phần lớn các khoản thu nhập cá nhân đều được chi trả bằng t iền mặt, do đó, khó có thể tạo ra cơ chế kiểm soát thu nhập cá nhân một cách chính xác và hiệu quả. - Chưa có sự phối hợp chặt chẽ giữa ngành thuế với các cấp chính quyền địa phương, với các tổ chức, cơ quan liên quan trong việc hợp tác triển khai Luật thuế TNCN, dẫn đến những khó khăn trong việc xác định và quản lý gia cảnh người nộp thuế, quản lý hoạt động của các cá nhân kinh doanh tự do, hành nghề độc lập,... - Hiện tượng tiêu cực và bất công trong việc nộp thuế TNCN vẫn chưa được xử lý triệt để, làm ảnh hưởng đến tính hiệu quả thực tế và công bằng của Luật thuế, gây một số bức xúc trong quần chúng nhân dân. - Trình độ hiểu biết và ý thức chấp hành Luật của một bộ phận lớn dân cư còn hạn chế, tâm lý trốn thuế còn lan truyền, trong khi lực lượng cán bộ thuế còn mỏng, không thể thực hiện thanh tra kiểm tra thuế TNCN trên diện rộng để phát hiện các hành vi vi phạm và xử lý. Chương 3: Kiến nghị phương hướng, một số giải pháp nhằm hoàn thiện luật thuế thu nhập cá nhân tại Việt Nam đối với thu nhập từ chuyển nhượng vốn 3.1 Phương hướng hoàn thiện pháp luật thuế TNCN ở Việt Nam : - Thuế TNCN đối với thu nhập từ chuyển nhượng vốn phải được quy định phù hợp với chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước. Nghị quyết Đại hội Đảng IX và X đã xác định: “Áp dụng thuế TNCN thống nhất và thuận lợi cho mọi đối tượng chịu thuế, bảo đảm công bằng xã hội và tạo động lực phát triển” và “Hoàn thiện hệ thống pháp luật về thuế theo nguyên tắc công bằng, thống nhất và đồng bộ… Điều chỉnh chính sách thuế theo hướng giảm và ổn định thuế suất, mở rộng đối tượng thu, điều tiết hợp lí thu nhập”. Như vậy, Luật thuế TNCN cần xác định phạm vi điều chỉnh rộng hơn nhằm đảm bảo thực hiện nguyên tắc công bằng, bình đẳng trong đánh thuế thu nhập theo hướng mọi cá nhân có thu nhập đều phải chịu thuế. Việc đánh thuế TNCN đối với thu nhập từ chuyển nhượng vốn sẽ không phân biệt cá nhân là người nước ngoài hay công dân Việt Nam. - Luật thuế TNCN phải là công cụ hữu hiệu để Nhà nước tăng thu ngân sách, đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế xã hội. Ở các quốc gia phát triển, tỉ trọng thuế TNCN trên tổng thu ngân sách là khá cao, trong khi đó tại Việt Nam số thu này là không đáng kể. So với các sắc thuế gián thu như thuế giá trị g ia tăng, thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu thì thuế TNCN đảm bảo công bằng tốt hơn, vì vậy, việc tăng nguồn thu từ thuế trực thu là yêu cầu hợp lí và cần thiết. Bên cạnh việc mở rộng đối tượng điều chỉnh, Luật thuế TNCN cần bao quát được các nguồn thu của cá nhân, đồng thời hạn chế hiện tượng tránh thuế, lậu thuế. Bên cạnh đó, cần xác định một mức thuế suất hợp lí đối với đối với thu nhập từ chuyển nhượng vốn để vừa đảm bảo nguồn thu cho ngân sách nhưng đồng thời cũng không gây áp lực lên chủ thể nộp thuế. - Luật thuế TNCN phải là công cụ để đảm bảo công bằng xã hội. Thực hiện công bằng xã hội là nhiệm vụ của bộ máy nhà nước nói chung và pháp luật luôn được coi là công cụ hữu hiệu. Luật thuế TNCN cần phải đảm bảo khả năng điều tiết thu nhập hợp lí đối với cá nhân có thu nhập. Về lí thuyết, pháp luật càng cá thể hoá nghĩa vụ nộp thuế bao nhiêu thì càng có thể đảm bảo công bằng bấy nhiêu. Tuy nhiên, vấn đề này cũng có tính hai mặt, bên cạnh việc đảm bảo công bằng tốt hơn, việc cá thể hoá nghĩa vụ nộp thuế cũng có thể làm sai lệch bản chất công bằng. - Luật thuế TNCN phải đảm bảo nguyên tắc hội nhập quốc tế. Luật thuế TNCN phải thể hiện được tinh thần của các hiệp định tránh đánh thuế hai lần hoặc chí ít cũng cần quy định các nguyên tắc áp dụng những hiệp định này trong việc xác định nghĩa vụ thuế của người nước ngoài có thu nhập tại Việt Nam hoặc thu nhập của công dân Việt Nam ở nước ngoài. Nguyên tắc này cũng cho phép áp dụng biểu thuế thống nhất đối với tất cả các cá nhân, không kể đó là công dân Việt Nam hay người nước ngoài. Cần quy định việc áp dụng các hiệp định tránh đánh thuế hai lần làm cơ sở đảm bảo quyền lợi đối với các đối tượng có thu nhập từ nhiều quốc gia khác nhau, không nên quy định chung chung về việc áp dụng điều ước quốc tế. - Đơn giản hóa thủ tục hành chính cho người nộp thuế Để thuận lợi cho người nộp thuế và giảm khối lượng phải quyết toán thuế không cần thiết, Bộ Tài chính đề xuất cá nhân có thu nhập chịu thuế có trách nhiệm tự kê khai, khấu trừ, nộp thuế vào ngân sách Nhà nước và quyết toán thuế theo quy định của Chính phủ. 3.2 Một số kiến nghị cụ thể đóng góp cho Luật thuế TNCN đối với thu nhập từ chuyển nhượng vốn : - Luật thuế TNCN quy định đánh thuế vào lãi góp vốn, cổ tức được chia là không hợp lí. Những khoản thu nhập này là phần còn lại được chia sau khi doanh nghiệp đã chịu thuế thu nhập doanh nghiệp. Về bản chất, khoản thu nhập từ lãi góp vốn, cổ tức được chia khác với lãi gửi ngân hàng, vì lãi gửi ngân hàng là khoản chi phí được khấu trừ khi xác định thu nhập chịu thuế của tổ chức tín dụng. Tuy nhiên, nếu nhà làm luật muốn điều tiết thu nhập, thì cần xác định những khoản thu nhập này vào thu nhập thường xuyên, chứ không phải thu nhập không thường xuyên như dự thảo quy định vì đây là khoản thu nhập có được theo định kì (thường là một năm). - Không nên quy định thu nhập từ lãi mua trái phiếu Chính phủ, tín phiếu kho bạc nhà nước vì như vậy sẽ không công bằng với những hình thức đầu tư khác như mua trái phiếu công ti, kì phiếu ngân hàng… Bởi lẽ, Nhà nước trong mối quan hệ với những người nắm giữ trái phiếu cũng giống như những tổ chức phát hành khác, đây là quan hệ dân sự nên không thể có đặc quyền dành riêng cho Nhà nước. Thiết nghĩ, Nhà nước cần thu hút nguồn vốn thông qua uy tín và niềm tin từ nhà đầu tư, chứ không phải là tạo ra vị thế cao hơn so với những tổ chức khác trong việc phát hành các công cụ vay nợ. - Việc phân biệt đối tượng cư trú và không cư trú chỉ nên giới hạn trong việc xác định các thủ tục hành chính thuế, không nên phân biệt về nghĩa vụ thuế, vì sẽ không đảm bảo sự bình đẳng giữa đối tượng cư trú và không cư trú đối với cùng một loại thu nhập (ví dụ: Thu nhập từ hoạt động kinh doanh phải cùng xác định trên thu nhập bằng doanh thu trừ chi phí, không thể áp dụng trên doanh thu đối với riêng đối tượng không cư trú). Do đó, trừ những quy định nhằm đảm bảo tránh đánh thuế hai lần thì việc xác định nghĩa vụ thuế đối với những khoản thu nhập phát sinh ở Việt Nam của người không cư trú cần phải quy định bình đẳng với người cư trú. Bên cạnh đó, về kĩ thuật lập pháp, nếu việc đánh thuế đối với người cư trú và không cư trú là như nhau thì không cần phải quy định nhắc lại làm cho văn bản luật dài dòng, chỉ cần dẫn chiếu trong một điều luật là được. - Cần quy định v iệc áp dụng các hiệp đ ịnh tránh đánh thuế hai lần làm cơ sở đảm bảo quyền lợi đối với các đối tượng có thu nhập từ nhiều quốc gia khác nhau, không nên quy định chung chung về việc áp dụng điều ước quốc tế. III. Phần kết luận Sau nhiều năm thực hiện, sửa đổi bổ sung Luật thuế TNCN Việt Nam cho phù hợp với thực tiễn. Luật thuế TNCN hiện đang áp dụng là Luật Thuế TNCN số 04/2007/QH12 được Quốc hội thông qua ngày 21/11/2007 và có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2009. Qua hơn 3 năm thực hiện, Luật thuế TNCN đã đạt được những mục tiêu đề ra khi ban hành Luật, cụ thể: - Đã bao quát và mở rộng được đối tượng nộp thuế, đối tượng chịu thuế, theo đó, số người nộp thuế đã tăng lên qua các năm, các loại thu nhập mới phát sinh trong nền kinh tế đã dần bao quát được. Cụ thể: Về đối tượng chịu thuế: Ngoài v iệc kế thừa có chọn lọc các chính sách điều t iết thu nhập trước đây (thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao, thuế thu nhập doanh nghiệp đối với hộ gia đình, cá nhân kinh doanh, thuế chuyển quyền sử dụng đất), Luật thuế TNCN đã bổ sung điều tiết đối với các khoản thu nhập mới phát sinh, như: thu nhập từ đầu tư vốn; thu nhập từ chuyển nhượng vốn, chuyển nhượng chứng khoán; thu nhập từ thừa kế, quà tặng là chứng khoán, phần vốn góp trong các tổ chức kinh tế, bất động sản và các tài sản khác phải đăng ký quyền sở hữu hoặc quyền sử dụng. Tiền thuế thu được do bổ sung điều tiết đối với các khoản thu nhập từ chuyển nhượng vốn, chứng khoán như sau: Chỉ tiêu Đơn vị Năm 2009 Năm 2010 Năm 2011 Thu từ chuyển nhượng vốn, chứng khoán Tỷ đồng 3,7 188,7 210,0 Trên đây đã phân tích thuế TNCN đối với thu nhập từ chuyển nhượng vốn. Từ đó tìm ra các điểm còn hạn chế, nguyên nhân của những hạn chế và đề ra các giải pháp đề xuất để hoàn thiện khung thuế TNCN hơn nữa trong thời gian tới. Bên cạnh đó, cơ quan lập pháp cũng cần có sự xem xét, nghiên cứu về những hạn chế, vướng mắc đồng thời đưa ra các biện pháp cho việc xử lý, giải quyết những vướng mắc nhằm nâng cao hiệu quả của thuế TNCN, phát huy tối đa ưu thế của loại thuế này.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdftrang_bihvb_8994.pdf
Luận văn liên quan