Tiểu luận Thành tựu của văn hóa Trung Hoa thời kỳ trung đại

Hầu hết các học giả hiện đại xem xét Neo-Nho giáo được các triết lý phát biểu quan trọng của Tokugawa Nhật Bản, một trong đó có nguồn gốc với Zhu Xi (+1130-1200; Chu Hsi), một học giả Trung Hoa trong thời gian Song phía Nam của Trung Hoa. Lời dạy của ông đã được đưa đến Nhật Bản bằng tiếng Nhật Zen nhà sư người đã viếng thăm Trung Hoa trong lần thứ 15 và th ế kỷ thứ 16. Zhu Xi nhấn mạnh sự thống nhất "của ba creeds," sự thống nhất của ba triết lý tuy ệt vời của Phật giáo, Khổng giáo, và Đạo giáo, vốn đã cho đến khi đó được coi là loại trừ lẫn nhau và mâu thuẫn. Điều này ba cách thống nhất đã được gọi là Sankio tại Nhật Bản (Chn. = San Jiao), và có nghĩa là "Ba tôn giáo" Ở Trung Hoa và Nhật Bản. Tác phẩm nghệ thuật, nó đẻ ra chủ đề ảnh được gọi là Ba Patriarchs, cùng với hai khác liên quan chủ đề (xem phần kế tiếp), mỗi nhấn mạnh ý niệm rằng "ba creeds là một trong những" Tại Nhật Bản., một số thích một bộ ba khác bao gồm Shinto, Khổng giáo, và Phật giáo

pdf23 trang | Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2814 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Thành tựu của văn hóa Trung Hoa thời kỳ trung đại, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ang, hôn tế lễ, triều sính, luật lệ, hình pháp...Lễ được coi là hình thức biểu hiện của nhân. Mặc dù kiên trì bảo vệ lễ của nhà Chu , nhưng Khổng Tử cũng đưa thêm những nội dung mới và phát triển nó lên, biến lễ thành một phạm trù có ý nghĩa xã hội và nhân văn sâu sắc. Mục đích của Khổng Tử là xây dựng một xã hội có tôn ty trật tự, kỷ cương. Để làm đươc điều đó cần phải có “lễ” và “chính danh”. “Chính danh là làm mọi việc cho ngay thẳng”(Luận ngữ, Nhan Uyên ); “Chính danh thì người nào có địa vị, bổn phận chính đángcủa người ấy, trên dưới, vua tôi, cha con trật tự phân minh, vua lấy lễ mà khiến tôi, tôi lấy trung mà thờ vua”(Luận ngữ, Bát Dật, 19)...Theo Khổng Tử, muốn trị nước trước tiên phải sửa mình cho chính danh, vì “danh không chính thì lời nói không thuận; lời nói không thuận thì sự việc không thành công; sự việc không thành công thì lễ nhạc không hưng thịnh; lễ nhạc không hưng thịnh thì hình phạt không đúng; hình phạt không đúng thì dân không biết theo ai?” (Luận ngữ, Tử Lộ, 3). Xuất phát từ tình hình loạn lạc của xã hội Trung Hoa thời Xuân Thu, Khổng Tử đã nêu lên thuyết “chính danh”, nhưng trên thực tế, học thuyết này mang tính bảo thủ, bảo vệ cho lợi ích của quý tộc nhà Chu. Để thực hiện mục đích của mình, Khổng Tử chống việc duy trì ngôi vua theo huyết thống và chủ trương “thượng hiền”, dùng người không phân biệt đẳng cấp xuất thân của họ. Trong việc 10 chính trị, vua phải biết “trọng dụng người hiền đức, tài cán và rộng lượng với những kẻ cộng sự” (Luận ngữ, Tử Lộ). Việc ông mở trường dạy học chính là nhằm mục đích đào tạo ra những người có tài, đức tham gia vào công cuộc cai trị. Toàn bộ học thuyết về nhân, lễ, chính danh... của Khổng Tử là nhằm phục vụ mục đích chính trị là “Đức trị”. Ông phản đối việc dùng hình phạt để trị dân vì làm như vậy, dân sợ mà phải theo chứ không phục. Theo ông, làm chính trị mà dùng đức cảm hóa người thì giống như sao Bắc Đẩu ở một nơi mà các sao khác đều chầu đến. *Tóm lại: So với các học thuyết khác, Nho gia có nội dung phong phú và mang tính hệ thống hơn cả; hơn thế nữa, nó còn là hệ tư tưởng chính thống của giai cấp thống trị Trung Hoa suốt hơn hai ngàn năm của xã hội phong kiến. Để trở thành hệ tư tưởng chính thống, Nho gia đã được bổ sung và hoàn thiện qua nhiều giai đoạn lịch sử trung đại: Hán, Đường, Tống, Minh, Thanh, nhưng tiêu biểu hơn cả là dưới triều đại nhà Hán và nhà Tống, gắn liền với tên tuổi của các bậc danh Nho như Đổng Trọng Thư (thời Hán), Chu Đôn Di, Trương Tải, Trình Hạo, Trình Di, Chu Hy (thời Tống). Quá trình bổ sung và hoàn thiện Nho gia thời trung đại được tiến hành theo hai xu hướng cơ bản: Một là, hệ thống hóa kinh điển và chuẩn mực hóa các quan điểm triết học của Nho gia theo mục đích ứng dụng vào đời sống xã hội, phục vụ lợi ích thống trị của giai cấp phong kiến; vì thế Đổng Trọng Thư đã làm nghèo nàn đi nhiều giá trị nhân bản và biện chứng của Nho gia cổ đại. Tính duy tâm thần bí của Nho gia trong các quan điểm về xã hội cũng được đề cao. Tính khắc nghiệt một chiều trong các quan hệ Tam cương, Ngũ thường thường được nhấn mạnh. Hai là, hoàn thiện các quan điểm triết học về xã hội của Nho gia trên cơ sở bổ sung bằng các quan điểm triết học của thuyết Âm Dương - Ngũ hành, những quan niệm về bản thể của Đạo gia, tư tưởng về pháp trị của Pháp gia v.v. Vì vậy, có thể nói: Nho gia thời trung đại là tập đại thành của tư tưởng Trung Hoa. Nho gia còn có sự kết hợp với cả tư tưởng triết học ngoại lai là Phật giáo. Sự kết hợp các tư tưởng triết học của Nho gia với những tư tưởng triết học ngoài Nho gia đã có ngay từ thời Hán và ít nhiều có cội nguồn từ Mạnh Tử. Tuy nhiên, sự kết hợp đạt tới mức nhuần nhuyễn và sâu sắc chỉ có dưới thời nhà Tống (960 - 1279). b. Đạo gia Người sáng lập ra Đạo gia là Lão Tử (khoảng thế kỷ VI tr. CN). Học thuyết của ông được Dương Chu và Trang Chu thời Chiến quốc hoàn thiện và phát triển theo hai hướng ít nhiều khác nhau. Những tư tưởng triết học của Đạo gia được khảo cứu chủ yếu qua Đạo đức kinh và Nam hoa kinh. Tư tưởng cốt lõi của Đạo gia là học thuyết về "Đạo" với những tư tưởng biện chứng, cùng với học thuyết "Vô vi" về lĩnh vực chính trị - xã hội. Về bản thể luận, tư tưởng về Đạo là nội dung cốt lõi trong bản thể luận của Đạo gia. Phạm trù Đạo bao gồm những nội dung cơ bản sau: - "Đạo" là bản nguyên của vạn vật. Tất cả từ Đạo mà sinh ra và trở về với cội nguồn của Đạo. - "Đạo" là cái vô hình, hiện hữu là cái "có"; song Đạo và hiện hữu không thể tách rời nhau. Trái lại, Đạo là cái bản chất, hiện hữu là cái biểu hiện của Đạo. Bởi vậy, có thể nói: Đạo là nguyên lý thống nhất của mọi tồn tại. "Đạo" là nguyên lý vận hành của mọi hiện hữu. Nguyên lý ấy là "đạo pháp tự nhiên". Chính trong quan niệm về "Đạo" đã thể hiện một trình độ tư duy khái quát cao về những vấn đề bản nguyên thế giới, nhìn nhận thế giới trong tính chỉnh thể thống nhất của nó. Quan niệm về tính biện chứng của thế giới không tách rời những quan niệm về "Đạo", trong đó bao hàm những tư tưởng chủ yếu sau: Mọi hiện hữu đều biến dịch theo nguyên tắc "bình quân" và "phản phục" (cân bằng và quay trở lại cái ban đầu). - Các mặt đối lập trong thể thống nhất, quy định lẫn nhau, là điều kiện tồn tại của nhau, trong cái này đã có cái kia. 11 Do nhấn mạnh nguyên tắc "bình quân" và "phản phục" trong biến dịch nên Đạo gia không nhấn mạnh tư tưởng đấu tranh với tư cách là phương thức giải quyết mâu thuẫn nhằm thực hiện sự phát triển; trái lại, đã đề cao tư tưởng điều hòa mâu thuẫn, coi đó là trạng thái lý tưởng. Bởi vậy triết học Đạo gia không bao hàm tư tưởng về sự phát triển. Học thuyết chính trị - xã hội với cốt lõi là luận điểm "Vô vi". Vô vi không phải là cái thụ động, bất động hay không hành động mà có nghĩa là hành động theo bản tính tự nhiên của "Đạo". c. Mặc gia Phái Mặc gia do Mặc Tử, tức Mặc Địch (khoảng từ 479 -381 tr.CN) sáng lập thời Xuân Thu. Sang thời Chiến Quốc dã phát triển thành phái Hậu Mặc. Đây là một trong ba học thuyết lớn nhất đương thời (Nho - Đạo - Mặc). Tư tưởng triết học trung tâm của Mặc gia thể hiện ở quan niệm về "Phi thiên mệnh". Theo quan niệm này thì sự giàu, nghèo, thọ, yểu...không phải là do định mệnh của Trời mà là do người. Nếu người ta nỗ lực làm việc, tiết kiệm tiền của thì ắt giàu có, tránh được nghèo đói. Đây là quan niệm khác với quan niệm Thiên mệnh có tính chất thần bí của Nho giáo dòng Khổng - Mạnh. Học thuyết "Tam biểu" của Mặc gia mang tính cách là một học thuyết về nhận thức, có xu hướng duy vật và cảm giác luận, đề cao vai trò của kinh nghiệm, coi đó là bằng chứng xác thực của nhận thức. Thuyết "Kiêm ái" là một chủ thuyết chính trị - xã hội mang đậm tư tưởng tiểu nông. Mặc Địch phản đối quan điểm của Khổng Tử về sự phân biệt thứ bậc, thân sơ...trong học thuyết "Nhân". Ông chủ trương mọi người yêu thương nhau, không phân biệt thân sơ, đẳng cấp... Phái Hậu Mặc đã phát triển tư tưởng của Mặc gia sơ kỳ chủ yếu trên phương diện nhận thức luận. d. Pháp gia Là một trường phái triết học lớn của Trung Hoa cổ đại, chủ trương dùng những luật lệ, hình pháp của nhà nước là tiêu chuẩn để điều chỉnh hành vi đạo đức của con người và củng cố chế độ chuyên chế thời Chiến quốc. Là tiếng nói đại diện cho tầng lớp quý tộc mới, đấu tranh kiên quyết chống lại tàn dư của chế độ công xã gia trưởng truyền thống và tư tưởng bảo thủ, mê tín tôn giáo đương thời. Đại diện của phái Pháp gia là Hàn Phi Tử (280 - 233 tr. CN). Tư tưởng Pháp trị của Hàn Phi Tử dựa trên những luận cứ triết học cơ bản sau: + Về tự nhiên: Ông giải thích sự phát sinh, phát triển của vạn vật theo tính quy luật khách quan mà ông gọi là Đạo. Đạo là quy luật phổ biến của giới tự nhiên vĩnh viễn tồn tại và không thay đổi. Còn mỗi sự vật đều có "Lý" của nó. "Lý" là sự biểu hiện khác nhau của Đạo trong mỗi sự vật cụ thể và là cái luôn luôn biến hóa và phát triển. Từ đó, ông yêu cầu mọi hành động của con người không chỉ dựa trên quy luật khách quan, mà còn phải thay đổi theo sự biến hóa của "Lý", chống thái độ cố chấp và bảo thủ. + Về lịch sử: Ông thừa nhận sự biến đổi của đời sống xã hội, khẳng định rằng không thể có chế độ xã hội nào là không thay đổi. Do đó không thể có khuôn mẫu chung cho mọi xã hội. Ông đã phân chia sự tiến triển của xã hội làm 3 giai đoạn chính, mỗi giai đoạn đó xã hội có những đặc điểm và tập quán riêng ứng với trình độ nhất định của sản xuất và văn minh. Đó là: - Thời Thượng cổ: Con người biết lấy cây làm nhà và phát minh ra lửa để nấu chín thức ăn. - Thời Trung cổ: Con người đã biết trị thủy, khắc phục thiên tai. - Thời Cận cổ: Bắt đầu xuất hiện giai cấp và xảy ra các cuộc chinh phạt lẫn nhau. Động lực căn bản của sự thay đổi xã hội được ông quy về sự thay đổi của dân số và của cải xã hội. + Về thuyết "Tính người": Ông theo quan niệm của Tuân Tử coi tính người là ác, đưa ra học thuyết luân lý cá nhân vị lợi, luôn có xu hướng lợi mình hại người, tránh hại cầu lợi...Kẻ thống trị phải nương theo tâm lý 12 vị lợi của con người để đặt ra pháp luật, trọng thưởng, nghiêm phạt để duy trì trật tự xã hội. + Tư tưởng về pháp trị. Trên cơ sở những luận điểm triết học cơ bản ấy, Hàn Phi Tử đã đề ra học thuyết Pháp trị, nhấn mạnh sự cần thiết phải cai trị xã hội bằng luật pháp. Ông cũng phản đối thuyết nhân trị, đức trị của Nho giáo, phép "vô vi trị" của Đạo gia. Phép trị quốc của Hàn Phi Tử bao gồm 3 yếu tố tổng hợp là pháp, thế và thuật, trong đó pháp là nội dung của chính sách cai trị, thế và thuật là phương tiện để thực hiện chính sách đó. - "Pháp" là một phạm trù của triết học Trung Hoa cổ đại. Theo nghĩa hẹp, là quy định, luật lệ có tính chất khuôn mẫu mà mọi người trong xã hội phải tuân thủ; theo nghĩa rộng, pháp được coi là một thể chế, chế độ chính trị và xã hội. Vì vậy, pháp được coi là tiêu chuẩn, căn cứ khách quan để định rõ danh phận, giúp cho mọi người thấy rõ được bổn phận, trách nhiệm của mình. - "Thế" là địa vị, thế lực, quyền uy của người cầm đầu chính thể. - "Thuật" cũng là chính danh, là phương sách trong thuật lãnh đạo của nhà vua nhằm lấy danh mà tránh thực 1.2.5. Về khoa học tự nhiên Cách ngày nay trên 4000 năm, khoa học tự nhiên của Trung Hoa đã có những thành tựu rực rỡ: * Thời cổ đại: Thiên văn học: Ra đời từ rất sớm và đạt được nhiều tiến bộ ở thời Xuân thu - Chiến quốc (770 – 221 TCN). Đó là sự ghi chép lại các lần nhật thực (37 lần trong vòng 242 năm ( nay đã chứng minh được 33 lần hoàn toàn chính xác)), các vì tinh tú ( 800 vì tinh tú, trong đó có 120 vì tinh tú được xác định). Bảng ghi chép các hành tinh của người Trung Hoa - “Cam Thạch Tinh” có từ thời Xuân Thu, được coi là bảng ghi chép các vì sao xưa nhất thế giới. Thế kỉ VII TCN, người Trung Hoa đã biết dung một cái “cọc” đứng để đo bóng mặt trời (gọi là Thổ khuê), qua đó đã xác định được ngày hạ chí và đông chí, làm cho cách tính lịch ngày càng chính xác. Lịch: Yêu cầu của hoạt động sản xuất nông nghiệp đã làm cho người Trung Hoa biết làm lịch từ rất sớm. Đến đời Thương, họ đã phát minh ra lịch- âm lịch( lịch kết hợp với vòng quay của mặt trăng xung quanh quả đất với vòng quay của quả đất xung quanh mặt trời. Để tính năm, tháng, tháng thiếu, tháng đủ, họ lấy tuần trăng tròn và trăng khuyết để tính. Theo đó một năm được chia làm 12 tháng, tháng đủ có 30 ngày, tháng thiếu có 29 ngày. Người đời Thương đã biết thêm tháng nhuận để cho khớp với vòng quay của quả đất xung quanh mặt trời. Lịch pháp âm lịch, cho đến nay, vẫn còn đang được sử dụng song song với dương lịch ở Trung Hoa( kể cả ở Việt Nam và một số nước khác ảnh hưởng văn hóa Trung Hoa). Y học : Từ thời Chiến Quốc các thầy thuốc Trung Hoa đã biết giải phẫu cơ thể người biết nội tạng và bộ máy tuần hoàn của người; chuẩn đoán bệnh qua bắt mạch; châm cứu, sắc thuốc để chữa bệnh. Đặc biệt, thời kì này đã xuất hiện nhiều cuốn sách có tính chất tổng kết về Y học và dược học, như: “ Hoàng đế nội kinh”, “ Sơn hải kinh”… Ngoài các lĩnh vực khoa học trên, những tri thức về toán học, lý học, nông học, sinh vật học cũng đạt tới trình độ cao. * Thời trung đại + Bốn phát minh lớn Giấy: do Do Thái Luân phát minh ra vào thời Đông Hán ( thế kỉ VIII SCN ) Đến thời Đường, kĩ thuật làm giấy đã hoàn chỉnh: pha thêm hồ bột với nhựa cây, tạo ra giấy chắc hơn và dễ thấm mực. Giấy làm được nhiều màu khác nhau (trong khi đến thế kỉ 13 ở châu Âu vẫn viết trên da cừu). Nghề in Bắt nguồn từ thói quen kí tên bằng con dấu 13 Lúc đầu là in chữ liền: khắc chữ lên bảng gỗ, cứ một bảng là một tờ giấy nên rất tốn kém Thời Tống chuyển sang kĩ thuật in chữ, khắc trên đất sét rồi đem nung ( trong khi châu Âu đến thế kỉ 15 kĩ thuật in chữ mới ra đời) Kĩ thuật in này có hạn chế là chữ xấu, không rõ màu. Kĩ thuật này sau đó được truyền bá sang Triều Tiên. Người triều đã cải tiến, thay chữ rời bằng đất sét nung rồi đến chữ rời bằng đồng. Thứ chữ này lại được truyền bá trở lại Trung Hoa. La Bàn Có từ rất sớm, khoảng thời Tây Chu Thời Chiến quốc ( cuối thời Đông Chu), Người Trung Hoa đã tìm ra nam châm ( từ thạch). Cửa ra vào của cung A Phòng của Tần Thủy Hoàng có gắn một thanh nam châm rất lớn, ai mang vũ khí đi qua sẽ bị hút lại ) Đến thời Đường thì La bàn đã khá hoàn chỉnh ( phát hiện ra thêm tính chất sắt nhiễm từ). Thời Nguyên: La bàn đã hoàn chỉnh ( được Crixtop Colombo sử dụng ) sau đó truyền bá sang châu Âu, và chính nhờ hệ thống La bàn này mà người châu Âu mới thực hiện được những phát kiến địa lí. Thuốc súng Phát minh rất tình cờ, ngẫu nhiên. Người Trung Hoa quan niệm con người có thể trưởng sinh bất tử. thời Nam Bắc triều có rất nhiều đạo sĩ tìm cách chế tạo thuốc trường sinh bất tử ( từ diêm sinh, lưu huỳnh, than củi…, họ tình cờ để lửa bén vào gây nổ ). Đến thời Đường, thuốc nổ mới chỉ được sử dụng để làm pháo. Đến thời Tống mới dùng để làm đạn lửa, cầu lửa. Người châu Âu đã nhanh chống tiếp thu và sử dụng phát minh này của người Trung Hoa một cách hữu hiệu để làm súng trường, hỏa mai…Thứ vũ khí này đã góp phần phá vỡ nền tảng phonmg kiến ở châu Âu đẩy nhanh quan hệ TBCN (vì chỉ có dùng thuốc nổ mới có thể phá được lâu đài của phong kiến. Thuốc súng còn đóng vai trò quan trọng trong các cuộc phát kiến địa lí của châu Âu. *Không kể bốn phát minh quan trọng, đóng góp cho nền văn minh nhân loại đã nói ở trên, thời trung đại, trên cơ ở kế thừa những thành tựu rực rỡ của thời cổ đại, Trung Hoa đã có những cống hiến xuất sắc cho nền văn minh của nhân loại ở các lĩnh vực toán học, thiên văn học và y dược. * Toán học Từ thời hán truyền lại có quyển Cửu chương toán thuật trong đó nêu ra các phương pháp tính ruộng tích ruộng đất theo các hình thức khác nhau, tính khối lượng đất đắp thành đào hào, tính toán tiền khi mua bán gia súc, lương thực….Trong khi tính toán các vấn đề nói trên, sách này đã đề cập đến một số mặt của đại số học, như phương pháp giải phương trình bậc một có chứa nhiều ẩn số … Đến thời Nam- Bắc triều, Tổ Xung Chi (429- 500) lại có một cống hiến lớn về toán học. Ông đã tìm được số Pi chính xác có 7 số lẻ nằm giữa hai số 3,1415926 và 3,1415927. Phát minh này của Tổ Xung Chi sớm hơn những nhà toán học các nước khác trên 1000 năm. Vì vậy, có học giả Nhật Bản đề nghị gọi số Pi là “số Tổ”. *Thiên văn học Trung Hoa vốn có nhiều hiểu biết từ rất sớm. Từ thời Tần Hán, người Trung Hoa đã phát minh ra nông lịch, tức là chia một năm thành 24 tiết để căn cứ vào đó nông dân biết các thời vụ sản xúât. Đồng thời phép làm lịch ngày càng tiến bộ , do vậy từ thời Tây Hán về sau, các triều đại đã nhiều lần điều chỉnh lịch, nên ngày một chính xác. Nhà Thiên văn học nổi tiếng thời Đông Hán là Truơng Hành (78- 139). Ông đã biết ánh sang của mặt trăng là nhận từ mặt trời. Ông cho rằng thiên thể hình cầu như vỏ trứng mà quả đất thì như lòng đỏ, một vòng của bầu trời là 365◦ ¼ một nửa ở trên quả đất, một nửa ở dưới quả đất. Căn cứ theo suy nghĩ ấy của mình, ông làm một mô hình thiên thể gọi là “ hồn thiên nghi ”. Khi mô hình này chuyển động thì các vì sao trên đó cũng di chuyển giống như tình hình thực ngoài bầu trời. 14 Trương Hành còn có nhiều hiểu biết về địa lí- địa chất học. Ông chế được một dụng cụ đo động đất gọi là “ địa động nghi”, có thể đo một cách chính xác phương hướng của động đất. *Y dược Từ thời Hán đã xuất hiện nhiều thầy thuốc giỏi và nhiều sách thuốc. Thương hàn luận nói về cách chữa bệnh thương hàn của Trương Trọng Cảnh cho đến nay vẫn là liệu tham khảo có giá trị trong ngành đông y của Trung Hoa. Thầy thuốc nổi tiếng nhất cuối thời Đông Hán là Hoa Đào ông là người đầu tiên ở Trung Hoa đã biết dung phẫu thuật để chữa bệnh. Ông còn chủ chương phải luyện tập than thể cho huyết mạnh được lưu thong và chính ông đã soạn ra bài thể dục “ ngũ cầm hí” tức là động tác bắt trước năm loài động vật là Hổ, Hươu, Gấu, Vượn và Chim Đến thời Minh nhà Y học nổi tiếng là Lý Thời Trân. Tác phẩm Bản thảo cương mục của ông là một quyển sách thuốc rất có giá trị tác phẩm giới thiệu 1.558 vị thuốc do người đời trước tìm ra, và them vào 374 viên thuốc mới. Tác giả đã phan loại một cách khoa học, đặt tên, giới thiệu tính chất, công dụng và vẽ hình các cây thuốc đó. Vì thế, sách này không chỉ là một tác phẩm dược học có giá trị mà còn là một tác phẩm thực vật học quan trọng. Sự ra đời của quyển Bản thảo cương mục đã đẩy ngành y dược của Trung Hoa phát triển trên một bước rất lớn .1.2.6. Về nghệ thuật. Hai lĩnh vực đạt nhiều thành tựu là kiến trúc và hội hoạ 1.2.6.1. Kiến trúc Những công trình kiến trúc của Trung Hoa cổ trung đại có những đặc điểm : - Sử dụng nhiều nguyên vật liệu khác nhau và chủ yếu là vật liệu bằng gỗ - Kiến trúc bao giờ cũng có nhiều mái, thường theo lối mái cong. - Từng quần thể kiến trúc có hình thức độc đáo . - Hình tượng kiến trúc và trang trí kiến trúc đại để, rung động lòng người. - Phong cách dân tộc và phong cách địa phương muôn màu muôn sắc. - Bố cục đạt tính nghiêm chỉnh và linh hoạt - Phong cách độc đáo và trình độ nghệ thuật cao - Kĩ thuật thi công và phương pháp thiết kế tiên tiến của thời cổ đại - Gắn liền với kiến trúc là điêu khắc. trên các công trình kiến trúc có nhiều tác phẩm điêu khắc - Nhìn chung thời Tần Hán, thời Ngụy Tấn, Nam – Bắc triều, thời Đường, Thời Tống và thời Minh Thanh là những thời kì có nhiều công trinh kiến trúc tiêu biểu nhất * Những công trình kiến trúc tiêu biểu + Vạn lí trường thành: do 3 nước Tần, Yên, Triệu thời Chiến quốc xây dựng nhằm ngăn chặn thời hung Nô từ phương Bắc tràn xuống. Khi Tần Thuỷ Hoàng thống nhất Trung Hoa đã cho nổ 3 đoạn thành lại dài hơn 5000 km, cao từ 6- 12m rộng 5- 10m, cứ 360 m có một tháp canh. + Cố đô Bắc Kinh (Tử Cấm Thành ): Xây dựng khoảng 1406- 1420 ( đời vua Vĩnh Lạc) Cố Kinh từ đó trở thành nơi ở của 24 triều vua Minh Thanh. Hiện nay vẫn còn 100 toà cung điện, và 8600 gian. Trong quần thể kiến trúc này lớn nhất là điện Thái Hoà ( nơi tổ chức thi đình, yến tiệc, đón khách) và điện Trung Hoà (nơi vua và các quan chuẩn bị cho buổi thuyết triều). + Di Hoà Viên: một vườn hoa xây dựng cách thành phố Bắc Kinh 18km về phía tây bắc xây dựng vào thời Minh Thanh. + Định Lăng: ngôi mô của vua Vạn Lịch được xây dựng trong khu thập tam lăng, ở phía tây bắc thủ đô Bắc Kinh. Đặc điểm cách 14km/1km tường bao quanh. Khu thập tam lăng có nhiều kiến trúc như nhà thờ nhà để bia. * Điêu khắc Nghệ thuật điêu khắc Trung Hoa gắn bó chặt chẽ với tập tục tôn giáo. Về chất liệu phần lớn các tác phẩm điêu khắc Trung Hoa tạc bằng đá hoa cương. Nhiều bức bộ tượng nhỏ được tìm thấy trong bức tượng người chết đời Đường. Nhiều di tích điêu khắc phật giáo cổ được giữ gìn trong các đền thờ trong hang đá. Tìm thấy các bức tượng Phật tạc trên đá tảng. Khác với phật của Ấn Độ siêu thoát khỏi trần tục, Phật của Trung Hoa người hơn trần thế hơn. 15 Ở Trung Hoa cũng phân thành các ngành riêng như: Ngọc điêu, thạch điêu, mộc điêu. Những tác phẩm nổi tiếng như cặp tượng Tần ngẫu đời Tần, tượng Lạc sơn đại Phật đời Tây Hán ( pho tượng cao nhất thế giới ), tượng Phật nghìn mắt nghìn tay. 1.2.6.2. Hội hoạ Hội hoạ Trung Hoa có lịch sử 5000 - 6000 năm với các loại hình: bạch hoạ, bản hoạ, bích hoạ. Đặc biệt là nghệ thuật vẽ tranh thuỷ mạc, có ảnh hưởng nhiều tới các nước ở Châu Á. Cuốn Lục pháp luận của Tạ Hách đã tổng kết những kinh nghiệm hội hoạ từ đời Hán đến đời Tuỳ. Các hang đá còn lưu lại những hình vẽ trên vách về chủ đề các lời răn của phật. Bức hoạ Trung Hoa đặc sắc với các gam màu vàng tranh Chương 2: Những ảnh hưởng của văn hóa Trung Hoa đến thế giới, chủ yếu ở Đông Bắc Á và Việt Nam. 2.1. Ảnh hưởng của văn hoá Trung Hoa đối với thế giới Trong suốt 3500 phát triển, nền văn hóa vĩ đại của Trung Hoa đã có nhiều lần vượt lên trên nền văn hóa các nước khác. Chính người Trung Hoa đã cống hiến cho nhân loại cách sản xuất ra giấy, kĩ thuật in ấn, chế ra thuốc nổ và la bàn. Xuyên suốt lịch sử phát triển văn hóa Trung Hoa là khát vọng trường kì hoàn thiện tư duy của nhân loại. Nhà nước xuất hiện sớm cùng với những thành tựu lớn lao của nền văn hóa, văn hóa Trung Hoa thời cổ trung đại đã làm cho Trung Hoa trở thành một trung tâm văn hóa quan trọng trên thế giới, có ảnh hưởng rất lớn đến khu vực Đông Bắc Á và Đông Nam Á (Việt Nam)Từ cuối thế kỉ XII đến thế kỉ XIII La bàn được truyền sang A Rập,từ đó sang Châu Âu và đã đóng góp rất nhiều cho nghành hàng hải thế giới. Sau thế kỉ VI kĩ thuật làm giấy của Trung Hoa được truyền sangTriều Tiên,Việt Nam và Nhật Bản. Đến thế kỉ VIII, phương pháp này qua Thổ Nhĩ Kì truyền vào A Rập, sau đó được truyền sang châu Âu. Kĩ thuật in ấn của Trug Hoa cũng dần được truyền sang các nước láng giềng như Triều Tiên, Nhật Bản sau đó truyền sang A Rập và Châu Âu. Vào thế kỉ XIII thuôc súng và vã khí mang thuốc súng của Trung Hoa đã lần lượt đưa vào Ấn Độ, A Rập và vào cuối thế kỉ XIII, đầu thế kỉ XIV được truỳên sang châu Âu. Ngoài bốn phát minh trên một số thành tựu khoa học kĩ thuật khác của Trung Hoa cũng có ảnh hưởng nhất định đối với văn minh nhân loại. Thuật luyện đơn (bào chế thuốc) của Trung Hoa sau khi truyền vào A Rập, đã góp phần thúc đẩy kĩ thuật chế biến thuốc của nước này phát triển, sau đó kĩ thuật chế biến thuốc của Châu Âu lại chịu ảnh hưởng của A Rập và nền khoa học hiện đại sau này chính là được phát triển trên cơ sở kĩ thuật chế biến thuốc ở Châu Âu thời Trung Cổ. Đồ sứ tinh sảo của Trung Hoa từ lâu đã nổi tiếng trên thế giới. Vào nửa cuối thế kỉ XV, kĩ thuật làm đồ sứ của Trung Hoa đã được truyền sang Italia, mở ra một kỉ nguyên mớ cho lịch sử ché tạo đồ sứ của Châu Âu và còn ảnh hưởng cho tới ngày nay. Nền văn học rực rỡ và đồ sộ của Trung Hoa cũng ảnh hưởng rất lớn đến thế giới những tác phẩm văn học nổi tiếng ( Tam quóc diễn nghĩa, Tây du kí, Hồng lâu mộng, Thuỷ Hử, Liêu trai chí dị, Kim bình mai), đã được dịch ra rất nhiều thứ tiếng và được học giả nước ngoài đánh giá cao. Nền nghệ thuật phong phú và thần bí của Trung Hoa đã khiến bao nhiêu triết gia và nghệ thuật gia của Châu Âu thán phục. ở Thế kỉ XVIII. Nhà Khải mông tư tương Pháp Voltaire đã gọi Trung Hoa của phương Đông là “cái nôi của nền nghệ thuật”. Triết học Trung Hoa cung có ảnh hưởng sâu sắc ở châu Âu vào thế kỉXVII – XVIII. Triết gia, Gottfdied Von Lebniz, người tiên phong của triết học cổ điển Đức là triết gia đầu tiên nhìn ra tầm quan trọng của văn hoá Trung Hoa đối với sự phát triển của châu Âu. Ở Đức, trào lưu lấy “tôn giáo triết học” thay thế tôn giáo thần học cũng chịu ảnh hưởng của văn hoá Trung Hoa. 2.2. Ảnh hưởng của văn hóa Trung Hoa đối với Đông Bắc Á và Việt Nam 2.2.1.Ảnh hưởng của chữ viết 16 2.2.1.1. Đối với Việt Nam Có nhiều tác giả cho rằng chữ Hán du nhập vào Việt Nam khoảng thế kỉ thứ I TCN, ngay sau khi Trung Hoa chiếm xong Việt Nam. Trong suốt một nghìn năm, từ thế kỷ thứ I TCN đến năm 938, tiếng việt bị ảnh hưởng mạnh mẽ bởi chữ Hán (hay còn gọi là chữ Nho). Trong suốt thời gian bắc thuộc với chính sách hán hóa của nhà hán, tiếng Hán đã được giảng dạy ở Việt Nam và người Việt Nam đã chấp nhận ngôn ngữ mới đó song song với ngôn ngữ tiếng Việt. Việt Nam trước khi chữ Hán du nhập một số học giả cho rằng người Việt cho chữ viết kiểu nút gọi là “chữ khoa đậu”. Theo các nhà nghiên cứu thì không phải người Việt dùng kiểu thắt nút để trị quốc như các nhà sử học của Trung Hoa mà người Việt có văn tự riêng của mình; bằng chứng là các văn tự được tìm thấy ở các văn bia miền núi phía bắc có chữ viết ngoằn ngoèo như lửa nên goi là chứ Hỏa tự. Tiến việt cổ đại cũng là một ngôn ngữ thuộc họ Mường- Khmer của Nam Á, khác hẳn với hệ ngôn ngữ của tiếng Hán. Nhiều tác giả cho rằng chữ Hán du nhập vào Việt Nam vào khoảng thế kỷ I TCN, ngay sau khi Trung Hoa chiếm xong Việt Nam. Tuy người Việt Nam tiếp thu tiếng Hán và chữ Hán nhưng cũng đã Việt hóa nhiều từ của tiếng Hán thành từ Hán - Việt. Từ đó đã có nhiều từ Hán – Việt đi vào trong từ vựng của tiếng Việt. Sự phát triển của tiếng hán của Việt Nam trong thời kỳ bắc thuộc song song với sự phát triển của tiếng Hán ở chính Trung Hoa thời đó. Tuy nhiên, năm 938, sau chiến thắng Bạch Đằng củn Ngô Quyền, Việt Nam đã độc lập và không phụ thuộc vào phương Bắc nữa, nhưng ngôn ngữ vẫn còn ảnh hưởng nặng nề của tiếng Hán. Sau ngày giành được độc lập, mặc dù tiếng Hán là ngôn ngữ được sử dụng chính thức nhưng đã phát triển theo hướng khác với sự phát triển tiếng Hán ở Trung Hoa. Tiếng Hán vẫn tiếp tục được dùng và phát triển nhưng cách phát âm các chữ Hán lại theo cách phát âm của người Việt, hay âm Hán – Việt. Do nhu cầu phát triển, người Việt đã sử dụng chữ Hán để tạo ra chữ viết cho mình, đó là chữ Nôm không phải là bộ chữ hoàn thiện, cũng giống như người Quảng Đông vậy. Họ có thể viết chữ Hán Quảng Đông trong trò chuyện bình thường nhưng họ cũng phải sự dụng chữ Hán chuẩn trong văn thư để tỏ lòng trân trọng, dù đối tượng tiếp nhận văn thư là người Quảng Đông. 2.2.1.2. Đối với Triều Tiên Đối với văn hóa một dân tộc, chữ viết đóng vai trò vừa là một thành tố của văn hóa, vừa là nền tảng thúc đẩy văn hóa đó phát triển. Trong giai đoạn đầu hình thành nền văn hóa, Triều Tiên chưa sáng tạo ra chữ viết riêng nên phải vay mượn chữ của Trung Hoa. Nhưng điều đó không có nghĩa là họ sử dụng chữ Hán một cách bê nguyên xi mà biến đổi thành các loại chữ phù hợp với ngôn ngữ và văn hóa nước mình. Hán ngữ được du nhập vào bán đảo Triều Tiên khá sớm từ thiên niên kỷ thứ hai TCN (nhưng cũng có nhiều học giả cho rằng từ thiên niên kỉ thứ IV-V) xuất hiện các văn bản viết tay của người Hán. Các bản viết tay được sử dụng chữ Hán. Tiếng Hán là thứ ngôn ngữ khó, dùng chữ Hán để viết tiền Triều Tiên trở nên phức tạp cho nên các học giả người Hán đã tìm cách cải biến chữ Hán để phù hợp với âm đọc của tiếng Triều Tiên. Vào khoảng thế kỷ XV, ở Triều Tiên xuất hiện chữ kí âm, được gọi là Hangul hay Chosŏngŭl, chữ này trải qua nhiều thế kỷ phát triển thăng trầm, cuối cùng chính thức được dùng thay thế cho chữ Hán. Cho tới ngày nay Chosŏngŭl lúc ban đầu gồm 28 kí tự, sau đó còn 24 kí tự giống như bảy chữ cái Latinh, và được dùng để kí âm tiếng Triều Tiên. Tuy Chosŏngŭl đã xuất hiện nhưng chữ Hán vẫn còn được giảng dạy trong trường học. Tóm lại, từ việc sử dụng chữ Hán, người Triều Tiên đã sáng tạo ra chữ viết cho riêng mình. “ngôn ngữ, văn tự là ngưng kết lao động sáng tạo của dân tộc trong thời gian dài”. Còn đối với người Triều Tiên thì đó là thành tựu quan trọng không gì sánh được trong lịch sử, văn hóa, một minh chứng xác thực nhất cho sự ảnh hưởng và tiếp biến văn hóa Trunng Hoa. 2.2.1.3. Đối với Nhật Bản Chữ Hán du nhập vào Nhật Bản thông qua con đường Triều Tiên được gọi là Kanji và được du nhập vào Nhật theo con đường giao lưu buôn bán giữa Nhật Bản và Triều Tiên vào khoảng thế kỷ IV, V. Tiếng Nhật cổ đại vốn không có chữ viết, nên khi chữ Hán du nhập vào Nhật người Nhật dùng chữ Hán để viết tiềng nói của họ. Dạng chữ đầu tiên của người Nhật sáng 17 tạo từ chữ Hán để viết tiếng Nhật là chữ Man – yogana. Hệ thống chữ viết này khá phức tạp. Man – yogana được đơn giản hóa thành Hiragana và Katahana. Cả hai loại chữ này trải qua nhiều chỉnh lí và hoàn thiện mới trở thành chữ viết ngày nay của Nhật. Tiếng Nhật hiện đại được viết bằng bốn loại kí tự chữ hán (Kanji) chữ mềm (Hiragana) chữ cứng (Katakara) chữ Latinh (hay Rômaji). Chữ Hán trong tiếng Nhật thường có ít nhất hai cách đọc, cách đọc theo âm hán cổ, được gọi là On – yomi và cách đọc theo âm tiếng Nhật được gọi là Kun – yomi. Trong quá trình phát triển chữ viết cho tiếng Nhật, người Nhật còn sáng tạo ra một số chữ ( khoảng vài trăm chữ ) và mỗi chữ này chỉ có một cách đọc theo âm tiếng Nhật; các chữ này được gọi là Kôkuji. Tháng 11 năm 1946, Bộ Giáo Dục Nhật đã đề nghị đưa vào giảng dạy 1850 chữ Hán cơ bản trong trường học và được Quốc Hội thông qua năm 1947. Đến năm 1981 thì lượng chữ Hán thông dụng được điều chỉnh lại gồm 1945 chữ thường dùng, khoảng 300 chữ thông dụng khác, dùng để viết tên người. Đến năm 2000, các chữ Hán dùng đẻ viết tên người được điều chỉnh thêm, số lượng tăng lên 400 chữ các chữ Hán này được lập thành bảng gọi là Bảng chữ Hán thường dùng và Bảng chữ Hán dùng để viết tên người. 2.2.2. Ảnh hưởng của Văn học 2.2.2.1. Đối với Triều Tiên Cũng như chữ viết văn học Triền Tiên chịu ảnh hưởng trực tiếp từ văn học Trung Hoa song không vì thế mà nó bị xem là “ một phụ lục của văn hoc Trung Hoa”. Ngược lại người Triều Tiên đã tạo ra một nền văn học phong phú, đa dạng mang phong cách rất riêng và “đáng để các đất nước trong vùng Đông Á nể trọng”. + Tiếp biến về mặt hình thức Về chữ viết: trong nền văn học Triều Tiên, dòng văn học chữ Hán chiếm vị trí chủ đạo xuyên suốt thời kì cổ trung đại. Đặc biệt từ giai đoạn vương triều Tân La các học giả Triều Tiên xưa ca ngợi chữ Hán là “ chân thư”, là thứ chữ cao quý chữ viết đặc thù của các nho sĩ tầng lớp trên trong xã hội. Văn học chữ Hán chiếm khối lượng lớn và đồ sộ trong toàn bộ nền văn hoc Triều Tiên. Tuy nhiên từ sự tiếp biến về mặt chữ viết các tầng lớp dưới trong xã hội đã sử dụng chữ IDU và chữ Hangul để sáng tác tạo nên một dòng văn học riêng biệt. Về mặt thể loại: Triều Tiên một mặt sử dụng các thể loại sáng tác trong văn hoc Trung Hoa, mạt khác tạo ra những thể loại mới phù hợp với phong cách của mình trong văn xuôi Triều Tiên sử dụng các thể loại của Trung Hoa: Sử kí, truyền kì, văn biền ngẫu, tiển thuyết một cách nhuần nhuyễn, điêu luyện. Thế kỷ XIV, xuất hiện trong văn học Triều Tiên các tác phẩm theo lối truyền kì tiêu biểu như “ Kim ngao tân thoại” (của Kim Thời Tập). Nhưng tiếp sau đó thế kỷ XV – XVII khi các tiểu thuyết Minh – Thanh ra đời ngay lập tức nó cũng được vận dụng để sáng tác ở Triều Tiên. Trong thơ ca: hầu hết các thể thơ Trung Hoa đều được sử dụng để sáng tác ở Triều Tiên. Tuy nhiên, những thể loại văn hoc Trung Hoa không đủ để truyền tải những cảm xúc tinh tế nên người Triều Tiên đã sáng tạo ra nhiều thể loại mới. Đặc biệt tới thời kì vương triều Cao ly, vương triều Lý các thi sĩ Triều Tiên đã sáng tao ra thể thơ Sijo và Kasa. Tóm lại, để đánh giá vấn đề này, xin dẫn lời nhận xét của giáo sư ngữ văn Kimyulkyu (dại học tổng hợp Hàn Quốc): “Người Triều Tiên đã sử dụng chữ Trung Hoa và các kĩ thuâth thơ Trung Hoa điêu luyện hơn bất cứ dân tộc không phải Trung Hoa nào khác, và đã phát triển được một truyền thống đặc văn chương, do đó tạo nên một sự hình thành lịch sử thơ ca Hàn – Trung lâu đời”. + Tiếp biến về mặt nội dung Cũng như văn học Trung Hoa, văn học Triều Tiên phản ánh hai đề tài thơ chủ đạo là lịch sử và cảnh thiên nhiên. Đặc điểm độc đáo nhất trong văn học Triều Tiên là không dừng lại ở khuôn mẫu hình tượng văn học Trung Hoa, người Triều Tiên dám mạnh dạn nói lên ước vọng, khát khao đến trần tục của con người mà văn hoc đại lục không bao giờ dám đề cập. 18 Hay tiến xa hơn nữ, văn học Triều Tiên phản ánh đậm nét nhân tình thế thái, phản ảnh tình yêu mang tính dục vọng mãnh liệt. Từ sự tiếp nhận văn học Trung Hoa, Triều Tiên đã tiếp biến sáng tạo để hình thành nền văn học độc đáo của dân tộc mình. Ở đó, những cung bậc tình cảm được trân trọng, mạnh dạn đề cập chứ không bị gò bó kì thị như ở Trung Hoa. Do vậy, văn học ở Triều Tiên không chỉ đọc, ngâm mà được nâng lên thành những bài hát chữ tình sâu đậm. 2.2.2.2. Đối với Việt Nam Hai dạng ảnh hưởng trực tiếp là ảnh hưởng gián tiếp của văn học Trung Hoa với thơ ca dân gian người Việt + Ảnh hưởng trực tiếp Thơ ca dân gian người Việt (còn gọi là ca dao) được sáng tác từ rất sớm, song việc ghi chép lại mới chỉ được tiến hành từ cuối thế kỉ XVIII trở lại đây. Căn cứ vào những tài liệu đã được sưu tầm, hiện có khoảng 13.000 bài ca dao. Ca dao người Việt có khi chịu ảnh hưởng của văn học Trung Hoa một cách trực tiếp. Ví dụ dưới đây là lời của một chàng trai ở Nam Bộ: Cô Tô thành ngoại Hàn Sơn tự Dạ bán trung thanh đáo khách thuyền Ai hỏi đón chi đó giống in tiếng con bạn hiền Đây anh lo phản mại kiếm tiền nuôi thân Hai dòng đầu của bà ca dao là hai câu thơ trong bài Phong Kiều Dạ Bạc của Trương Kế (đời Đường). Có thể nói đây là trường hợp vận dụng văn học chữ Hán không thật nhuần nhuyễn, bởi vì xét cho kĩ nội dung giữa hai dòng đầu với hai dòng sau không có mối liên hệ hữu cơ. Nhiều nhà nghiên cứu đã nhận xét rằng trong các cuộc hát đối đáp ngày trước , nhiều câu mở đầu chỉ có tính chất bắt vần đưa đẩy để cho cuộc hát không bị gián đoạn. + Ảnh hưởng gián tiếp Ca dao người Việt còn chịu ảnh hưởng của văn học Trung Hoa một cach gián tiếp. Qúa trình này diễn ra như sau: Lúc đầu nhứng điển tích, tên đất, tên người của tác phẩm văn học Trung Hoa đi vào những tác phẩm lớn của văn học viết của người Việt, sau đó các tác giả thơ ca dân gian người Việt đã tiếp thu những điển tích này. Ví dụ, Kim Vân Kiều truyện là tác phẩm cua Thanh Tâm Tài Nhân (đời Thanh _Trung Hoa). Tác phẩm này đã vào Việt Nam khoảng những năm 60, 70 của thế kỉ XVIII. Dựa theo nó, Nguyễn Du đã viết truyện Kiều với 3254 câu thơ lục bát. Ca dao người Việt đã tiếp thu văn học Trung Hoa qua Truyện Kiều. Đây là bài ca dao, lời chàng trai dặn dò người yêu hãy gìn giữ mối tình chung thủy. 2.2.2.3. Đối với Nhật Bản Văn học Nhật Bản chịu ảnh hưởng rất nhiều từ Trung Hoa. Đặc biệt là từ khi chữ Hán có mặt tại Nhật Bản. Ảnh hưởng của văn hoạc Trung Hoa tới Nhật Banr “phần lớn thông qua các học tăng và phái bộ ngoại giao”nhất là sau khi thâu nhận “tư tưởng kinh điển nho giáo, việc tiếp thu thi ca Trung Hoa đóng vai trò quan trọng đối với văn học Nhật Bản”. Từ khi chữ Hán xâm nhập vào xã hội Nhật Bản, đã đánh dấu một bước chuyển mới trong nền văn học Nhât Bản. Một nền văn học viết ra đời và ngày càng phát triển. Về thơ ca viết bằng chữ Hán gồm các tuyển tập như Kaifusô ra đời năm 751, với 126 bài thơ chữ Hán làm theo thể Đường luật. Khoảng thời gian từ thế kỉ VII- VIII, nền văn học Hán khá phát triểnở Nhật Bản. ở đời Đường nền văn học Trung Hoa phát triển khá rực rỡ. lúc bấy giờ giao lưu Trung Hoa đã đạt đến đỉnh cao. Nhiều nhà thơ Nhật Bản đã góp mặt trong nền văn minh Trung Hoa Xét về quan điểm, văn học Nhật Bản chịu ảnh hưởng rất lớn từ nền văn minh Trung Hoa. Đặc biệt là quan điểm văn học phải gắn liền với đạo đức. Xét về nội dung và hình thức. Nhiều tác phẩm văn học Nhật Bản sử dụng nhiều đề tài, điển tích Trung Hoa, thấm nhuần tư tưởng triết lí nho giáo…Ví dụ bài thơ “Hà Dương Hoa”của Thiên Hoàng Saga (Tha Nga), vào thế kỉ thứ IX. Từ thế kỉ trở đi, nền văn học chữ Hán ở Nhật Bản từng bước cách tân hoá và phải rẽ bước đi theo con đường của riêng mình. 19 2.2.3. Ảnh hưởng của Nghệ thuật 2.2.3.1. Đối với Triều Tiên * Hội hoạ Hội hoạ Triều Tiên chịu ảnh hưởng của hội hoạ Trung Hoa từ rất sớm.Từ thế kỉ thứ IV đã xuất hiện các bức bích hoạ theo phong cảnh Trung Hoa trên các vách lăng mộ ở phía Bắc bắc đảo. Đến thế kỉ thứ VII, hội hoạ Trung Hoa lại càng tác động mạnh mẽ vào Triều Tiên làm xuất hiện dòng tranh phong cảnh. Cũng thời gian đó phong cách tranh Phật giáo cũng được thâm nhập. Vẫn sử dụng những kĩ thuật và lí thuyết hội hoạ Trung Hoa, song nội dung biểu hiện các bức tranh ở Triều Tiên mang tính “tả thực cao”, nhất là tranh ở cuối thời Choson. Các bức tranh Phật ở đây mang vẻ duyên dáng thanh tú chứ không mang vẻ huyền bí kinh sợ như ở Trung Hoa. * Điêu khắc Cũng như hội họa, điêu khắc Triều Tiên chịu ảnh hưởng mạnh mẽ các kĩ thuật điêu khắc của Trung Hoa. Song trên nề tảng lí thuyết đó điêu khắc Triều Tiên tạo dựng của riêng mình. Nghệ thuật điêu khắc Triều Tiên gắn liền với hinh ảnh Đức Phật Về phong cách, từ thế kỉ VIII trở đi tượng Phật Trung Hoa có xu hướng béo, mập thậm chí má chảy xệ xuống. do vậy chúng đã làm mất đi vòng hào quang tinh thần vốn có. Trái lại tượng Phật Triều Tiên lại có vẻ đẹp tinh thần cao quý với khuôn mặt thanh nhã, mũi dài thẳng, nhiều đường nét chạy dài. * kiến trúc Kiến trúc Triều Tiên gồm hai loại chủ đạo là kiến trúc cung đình đền chùa và kiến trúc nhà ở thường dân. Cả hai loại đều xây dựng trên cơ sở lí thuyết về thuật phong thủy (xuất phát từ triết học Trung Hoa) cho đến kĩ thuật, cấu trúc. Dù vậy, kiến trúc Triều Tiên vẫn mang dáng vẻ riêng. Các công trình không bề thế, nguy nga như ở Trung Hoa, mà hòa vào cảnh tự nhiên, tạo nên vẻ đẹp thầm kín, cổ truyền. 2.2.3.2. Đối với Nhật Bản Từ rất sớm, Nhật Bản sáng tạo cho mình nhiều loại hình nghệ thuật khá đặc sắc. Trong khi đó, Trung Hoa là một đất nước có nền nghệ thuật phát triển lâu đời và đạt nhiều thành tựu rực rỡ đã cung cấp cho kho tàng văn hóa nhân loại nhiều mẫu hình đặc sắc và độc đáo. Điều này, cho phép Nhật Bản tiếp thu những yếu tố từ nghệ thuật Trung Hoa làm cơ sở thúc đẩy nghệ thuật Nhật Bản phát triển. Nghệ thuật Nhật bản có nhiều điểm giống với nghệ thuật Trung Hoa. Điều nay thể hiện rất rõ ở đường nét kiến trúc đến điêu khắc, chạm trổ…nhưng có sự kết hợp tài tình với yếu tố bản địa. Nghệ thuật Nhật Bản luôn chú ý đến vẻ đẹp tinh tê, phù hợp với vẻ đẹp tâm linh của người Nhật 2.2.4. Ảnh hưởng của Khoa học – Kĩ thuật 2.2.4.1. Đối với Triều Tiên: * Kĩ thuật làm giấy và kĩ thuật in: Đến thế kỉ IV nghề làm giấy truyền sang Triều Tiên. Kĩ thuật in được xác định ra đời ở Trung Hoa nhưng chưa rõ từ bao giờ và truyền sang Triều tiên từ khi nào. Song theo nghiên cứu, ở triều Tiên phát hiện bản in kinh Đà La Ni, in từ năm 706-751. đây được coi là ấn phẩm cổ nhất trên thế giới được phát hiện đến nay. Điều này chứng tỏ kĩ thuật làm giấy và kĩ thuật in từ trung Hoa vào Triều Tiên từ rất sớm qua con đường du nhập của Phật giáo. Kĩ thuật làm giấy và in tại Triều Tiên tiếp nhận đã phát triển hơn cả nơi xuất phát cuả nó. Triều Tiên đã phát triển kĩ thuật lên cao hơn và hoàn thiện kĩ thuật làm giấy. bên cạnh loại giấy được sản xuất theo cách Trung Hoa, Triều Tiên còn sang tạo ra loại giấy Hanji làm từ vỏ cấy dâu. Do đó, nó được người nước ngoài ưa chuộng và được xuất khẩu sang Trung Hoa, Nhật Bản. 20 Với kĩ thuật in, từ kĩ thuật in ván gỗ, người Trung Hoa đã sang tạo ra cachs in chữ rời bằng đất sét nung, nhưng khi in ra chữ hay mòn khó khô mực, chữ không sắc nêt. Trên cơ sở đó năm 1234, người Triều Tiên đã phát minh ra kiểu mẫu chữ kim loại di động chứ rời đầu tiên trên thế giới, và phổ biến trên khắp thế giới. * Lịch pháp Lịch Trung Hoa truyền sang Triều Tiên vào khoảng thế kỉ I. từ việc xem xét bầu trời và khí hậu bán đảo, Triều Tiên đã chỉnh sửa một số điểm trong lịch pháp cảu Trung Hoa thành lịch Triều Tiên. 2.2.5. Ảnh hưởng của Tư tưởng - Triết học 2.2.5.1. Đối với Việt Nam a. Ảnh hưởng của nho giáo Trung Hoa đến nền văn hóa truyền thống’ Nho giáo thống lĩnh tư tưởng văn hóa Việt Nam từ thế kỷ 15 đến thế kỷ 19, suốt hai triều đại Lê Nguyễn. Nho giáo Việt Nam về cơ bản là sự tiếp thu Nho giáo Trung Hoa, nhưng không còn giữ nguyên trạng thái nguyên sơ của nó nữa mà có những biến đổi nhất định. Quá trình du nhập và tiến tới xác lập vị trí Nho giáo trong đời sống xã hội Việt Nam cũng là quá trình tiếp biến văn hóa hết sức sáng tạo của người Việt Nam trong suốt chiều dài lịch sử dựng nước và giữ nước, góp phần tạo nên tính đa dạng, nhưng thống nhất và độc đáo của văn hóa Việt Nam. * Ảnh hưởng của Nho giáo đến sự phát triển của xã hội cổ đại Việt Nam có những tích cực và tiêu cực + Tích cực : Nho giáo với hệ thống tư tưởng chính trị của mình đã góp phần xây dựng các nhà nước phong kiến trung ương, tập quyền vững mạnh, góp phần xây dựng một hệ thống quản lý thống trị xã hội chặt chẽ, nâng cao sức mạnh quân sự và kinh tế quốc gia. Nho giáo rất coi trọng trí thức, coi trọng học hành. Khổng Tử là người “học nhi bất yếm, hối nhân bất nguyện”. Hàng nghìn năm qua, nhà nước Việt Nam đều lấy Nho học - Nho giáo làm nền tảng lý luận để tổ chức nhà nước, pháp luật và đặc biệt là giáo dục. Nội dung giáo dục của Nho giáo là dạy đức và dạy tài vẫn còn có ý nghĩa. Nho giáo coi trọng đức là coi trọng cách làm người, coi trọng con người là yếu tố quyết định. Giáo dục Nho giáo góp phần nâng cao văn hóa con người đặc biệt về văn hóa, sử học, triết học. Với phương châm “học nhi ưu tắc sĩ”, học để có thể tìm ra một nghề nghiệp mới và nâng cao vị trí xã hội của bản thân là động lực hiếu học trong nhân dân. Hiếu học là đặc điểm của Nho giáo. Hiếu học đã trở thành truyền thống văn hóa Á Đông trong đó có Việt Nam. Nho giáo hướng quản đạo quần chúng nhân dân vào việc học hành, tu dưỡng đạo đức theo Ngũ Thường “Nhân, Lễ, Nghĩa, Trí, Tín” làm cho xã hội ngày càng phát triển văn minh hơn. Nho giáo góp phần xây dựng mối quan hệ xã hội rộng rãi hơn, bền chặt hơn, có tôn tri trật tư… vượt quá phạm vi cục bộ là các làng xã, thô, ấp hướng tới tầm mức quốc gia, ngoài ra nó góp phần xây dựng mối quan hệ gia đình bền chặt hơn, có tôn ty hơn… nhờ tuân theo Ngũ Luân “Vua-tôi, cha-con, chồng-vợ, anh-em, bạn-bè”. Nho giáo vốn đặt mối quan hệ vua tôi ở vị trí cao nhất trong năm quan hệ giữa người với người. Các Nho sĩ Việt Nam cũng nhấn mạnh mối quan hệ này, xây dựng tinh thần trung quân, ái quốc nhưng không mù quáng trung quân mà vẫn đặt ái quốc lên hàng đầu. Họ đòi hỏi nhà vua trước hết phải trung thành với tổ quốc và trung hậu với nhân dân. Nhân nghĩa trong Khổng giáo là tình cảm sâu sắc, nghĩa vụ thiêng liêng của bề tôi đối với nhà vua, của con đối với cha, của vợ đối với chồng, nhưng đối với Nguyễn Trãi và các trí thức Việt Nam thì điều cốt yếu của nhân nghĩa là phải đem lại cho nhân dân cuộc sống thanh bình, và đội quân chính nghĩa phải nhằm tiêu diệt những quân tàn bạo. + Tiêu cực : - Không như Nho giáo Trung Hoa, tuy không coi trọng thương nghiệp nhưng cũng không phản đối. Nho giáo Việt Nam quá coi trọng nông nghiệp mà bài xích thương nghiệp, quá chú trọng đến tự sản, tự tiêu mà quên đi sự trao đổi mua bán, kềm hãm tính năng động, sáng tạo dẫn 21 đến quan liêu, bảo thủ trong cả kinh tế lẫn chính trị. Trong những giai đoạn đầu của chế độ phong kiến, nó tạo sự ổn định, phát triển nhưng sau đó chính nó lại tạo ra sức ỳ quá lớn khiến đất nước không thể phát triển. - Nho giáo quá bảo thủ không tiếp thu những cái mới ưu việt hơn dẫn đến bị cái mới ưu việt hơn tiêu diệt. - Nho giáo đưa con người quá hướng nội, chuyên chú suy xét trong tâm mà không hướng dẫn con người hướng ra bên ngoài, thực hành những điều tìm được, chinh phục thiên nhiên, vạn vật xung quanh. Điều này làm cho nền văn minh, khoa học tư nhiên, kỷ thuật sau một thời gian phát triển đã bị chựng lại so với nền văn minh phương Tây vốn xuất hiện sau. Nho giáo được Việt Nam hóa, trí thức Nho giáo đã có những đóng góp đáng kể vào việc củng cố những truyền thống tốt đẹp của dân tộc, nâng nó lên thành những tư tưởng ổn định thúc đẩy sự phát triển của đất nước, tạo nên một sức mạnh to lớn để suốt một ngàn năm giữ vững độc lập và chiến thắng mọi kẻ xâm lược. Bước sang thế kỷ thứ 19, Việt Nam và các nước phương Đông phải đối đầu với sự xâm lược của chủ nghĩa đế quốc có trình độ kỷ thuật, tiềm năng kinh tế, tổ chức quân đội và chất lượng vũ khí. Nho giáo lúc bấy giờ tỏ ra bất lực cả về tư tưởng và hành động. Trên con đường cách mạng của dân tộc Việt Nam, Hồ Chí Minh đã sáng suốt không thể không gạt đi cái cốt lõi lạc hậu của Nho giáo và giữ gìn, phát huy những nhân tố hợp lý của nó nhằm phục vụ cho sự nghiệp cách mạng. - Nhà Nho tôn thờ nhất chính là cái mà cách mạng lên án và đánh đổ. Hồ Chí Minh không thể chấp nhận cái chữ Trung của Nho giáo, không thể chấp nhận lòng trung thành tuyệt đối của nhân dân bị áp bức đối với chính kẻ áp bức mình. Chữ Trung ở Nho giáo là trung thành tuyệt đối với nhà vua và chế độ phong kiến, còn ở Hồ Chí Minh, Trung là trung thành với sự nghiệp cách mạng của nhân dân, lên án chế độ phong kiến và lật đổ nhà vua. - Nho giáo vốn coi nhân dân là những người nghèo hèn cần được bề trên chăn dắt và sai khiến, Hồ Chí Minh đòi hỏi người cán bộ phải là “đày tớ của dân”, phải học hỏi nhân dân, và yêu quý nhân dân. Với tinh thần ấy, cách mạng đã xây dựng được khối đại đoàn kết toàn dân, biến nhân dân thành sức mạnh vô địch để giành độc lập và xây dựng tổ quốc. - Nho giáo đã nuôi dưỡng hàng ngàn năm tinh thần “trọng nam khinh nữ”, từ chổ khinh rẽ phụ nữ đến chổ áp bức họ, trói buộc họ trong bếp núc gia đình. Cách mạng Việt Nam đã sớm xóa bỏ những tử tưởng lạc hậu ấy để cho phụ nữ cùng bình đẳng với nam giới trên mọi lĩnh vực chiến đấu, sản xuất và quản lý đất đai. - Nho giáo luôn quay về với quá khứ, đời này không bằng đời xưa, người ít tuổi không bằng người nhiều tuổi. Cách mạng luôn nhìn về phía trước, đặt niền tin vào thanh niên và tiền đồ dân tộc. - Đảo ngược lại học thuyết của Nho giáo, nhằm mục tiêu trái hẳn với mục tiêu của Nho giáo, Hồ Chí Minh không xóa bỏ toàn bộ nội dung của Nho giáo mà giữ lại những nhân tố hợp lý vốn phục vụ cho chế độ cũ thành những công cụ chống lại chế độ cũ và xây dựng chế độ mới. Với tinh thần nói trên mà trong quá trình lãnh đạo Cách mạng tháng tám, Hồ Chí Minh đã sử dụng rất nhiều câu chữ của Nho giáo, nhiều kinh nghiệm giáo dục và tu dưỡng của Nho giáo, nhiều biện pháp động viên tinh thần và ý chí của Nho giáo để cổ vũ nhân dân đứng lên chiến đấu giành lại độc lập tự do với một khí phách kiên cường, tinh thần mưu trí và sáng tạo. Nho giáo từ khi ra đời đến nay đã trên 2500 năm và đã từng ảnh hưởng toàn diện và sâu sắc đến xã hội Việt Nam đã góp phần xây dựng một xã hội thịnh vượng, ổn định, có trật tự, có pháp luật, một quốc gia thống nhất. 2.2.5.2. Đối với Nhật Bản Tại Nhật Bản, như trước đây tại Trung Hoa, những lý tưởng Nho giáo đã đóng một vai trò quan trọng trong sự phát triển của triết lý đạo đức và chính trị. Điều này đã được đặc biệt là vì vậy trong những năm hình thành của Nhật Bản (+ 6 đến 9 thế kỷ), khi Nho giáo và Phật giáo đã được giới thiệu đến Nhật Bản từ Hàn Quốc và Trung Hoa. Hoàng tử Thánh Đức Thái tử Thái 22 Sử (+ 547-622), người đầu tiên lớn bảo trợ của Nho giáo và Phật giáo tại Nhật Bản, ban hành một Điều 17-Hiến pháp mà được thành lập lý tưởng, đạo đức Phật giáo như là nền tảng đạo đức của dân tộc Nhật Bản trẻ. Điều này đã phục vụ trong nhiều thế kỷ như các kế hoạch Nhật Bản cho phép xã giao tòa án và sự đoan trang. Nhiều sau đó, tại Nhật Bản của Thời kỳ Edo (1.600-1.868), còn được gọi là thời kỳ Tokugawa, đạo đức Nho giáo là một kinh nghiệm phục hồi loại. Trong thời kỳ này, một hình thức sửa đổi của Nho giáo, được gọi là Neo-Nho giáo (Jp. Shushigaku), được kháng cáo tuyệt vời giữa các lớp chiến binh và tầng lớp quản. Neo-Nho giáo mang lại sự chú ý gia hạn đến con người và xã hội thế tục, với trách nhiệm xã hội trong bối cảnh thế tục, và đã phá vỡ Việt từ uy quyền đạo đức của các tu viện Phật giáo lớn mạnh. Hầu hết các học giả hiện đại xem xét Neo-Nho giáo được các triết lý phát biểu quan trọng của Tokugawa Nhật Bản, một trong đó có nguồn gốc với Zhu Xi (+1130-1200; Chu Hsi), một học giả Trung Hoa trong thời gian Song phía Nam của Trung Hoa. Lời dạy của ông đã được đưa đến Nhật Bản bằng tiếng Nhật Zen nhà sư người đã viếng thăm Trung Hoa trong lần thứ 15 và thế kỷ thứ 16. Zhu Xi nhấn mạnh sự thống nhất "của ba creeds," sự thống nhất của ba triết lý tuyệt vời của Phật giáo, Khổng giáo, và Đạo giáo, vốn đã cho đến khi đó được coi là loại trừ lẫn nhau và mâu thuẫn. Điều này ba cách thống nhất đã được gọi là Sankio tại Nhật Bản (Chn. = San Jiao), và có nghĩa là "Ba tôn giáo" Ở Trung Hoa và Nhật Bản. Tác phẩm nghệ thuật, nó đẻ ra chủ đề ảnh được gọi là Ba Patriarchs, cùng với hai khác liên quan chủ đề (xem phần kế tiếp), mỗi nhấn mạnh ý niệm rằng "ba creeds là một trong những" Tại Nhật Bản., một số thích một bộ ba khác bao gồm Shinto, Khổng giáo, và Phật giáo KẾT LUẬN Như vậy, suất thời kỳ cổ trung đại nền văn hóa Trung Hoa phát triển rự rỡ (đặc biệt là bắt đầu từ thời Xuân thu - Chiến quốc). Những thành tựu lớn lao trên lĩnh vực này đã làm cho Trung Hoa Trở thành một trung tâm văn minh quan trọng ở vùng Viễn Đông và trên thế giới. Những thành tựu văn hóa Trung Hoa cổ trung đại là nền tảng của văn hóa khoa học ngày nay. Đó là niềm tự hào của con người Trung Hoa nói riêng và đối với thế giới nói chung. Có thể nói ngay từ khi xuất hiện con người Trung Hoa đã có một trí tuệ, một trí óc sáng tạo tuyệt vời. Văn hóa Trung Hoa với những tinh hoa đáng được các thế hệ sau gìn giữ và truyền bá ra thế giới. Các nước đã tiếp thu văn hóa Trung Hoa một cách có chọn lọc dựa trên nền tảng văn hóa vốn có của dân tộc mình tạo ra sự phong phú đa dạng nhưng vẫn giữ được bản sắc riêng, đồng thời tô điểm thêm cho nền văn hóa Trung Hoa. 23

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfbai_nhom_3_6798.pdf
Luận văn liên quan