Tiểu luận Tìm hiểu chính sách tỷ giá của Việt Nam từ 1997 - 2011. Liên hệ với chính sách tỷ giá của Thái Lan, Trung Quốc

Thứ nhất: Tiếp tục duy trì cơ chế tỷ giá thả nổi có quản lý của Nhà nước. Trong xu thế toàn cầu hóa Việt Nam cần lựa chọn một chính sách tỷ giá thả nổi có quản lý để thích ứng và tạo ra động lực phát triển nền kinh tế nước ta trong tiến trình hội nhập vì chế độ tỷ giá thả nổi có ưu điểm là tỷ giá luôn gắn liền với quan hệ cung cầu và tỷ giá này thích ứng với điều kiện toàn cầu hóa của thị trường tài chính quốc tế. Bên cạnh đó Nhà nước vẫn có thể quản lý được mức độ biến động của tỷ giá. Thứ hai: Chính sách TGHĐ phải đóng vai trò tích cực trong việc bảo hộ một cách hợp lý các doanh nghiệp trong nước. Thứ ba: Kết hợp hài hòa lợi ích giữa hoạt động xuất khẩu và nhập khẩu theo hướng đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu các sản phẩm mà mình có lợi thế so sánh, nhưng mặt khác cũng cần gia tăng nhập khẩu các sản phẩm không có lợi thế so sánh để thỏa mãn tốt hơn nhu cầu ngày càng tăng về sản xuất và tiêu dùng nội địa.

pdf47 trang | Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2247 | Lượt tải: 4download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Tìm hiểu chính sách tỷ giá của Việt Nam từ 1997 - 2011. Liên hệ với chính sách tỷ giá của Thái Lan, Trung Quốc, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ập khẩu tăng và xuất khẩu giảm. NHNN cũng đã tung VNĐ để mua USD với mục đích tăng dự trữ ngoại hối, điều này đã làm cho lạm phát của Việt Nam tăng nhanh chóng, và đến năm 2008 đạt mức cao nhất trong vòng 20 năm trở lại đây ( trên 20%). Ngày 20/12/2006, Quy chế thương mại bình thường vĩnh viễn (PNTR - Permanent Normal Trade Relations) Việt Nam – Hoa Kỳ chính thức được thiết lập và ngày 11/01/2007, Việt Nam chính thức trở thành thành viên thứ 150 của WTO là những thay đổi hứa hẹn về một nền kinh tế thị trường bước đầu hội nhập. 24 Gia nhập WTO mang tới những cơ hội và thách thức mới cho Việt Nam khi hội nhập kinh tế quốc tế: thị trường xuất khẩu mở rộng, các rào cản thương mại Việt Nam với các nước thành viên WTO được dỡ bỏ hoặc hạn chế, tạo điều kiện thu hút đầu tư nước ngoài…. Trong năm 2007, lượng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tăng vọt, đạt 20,3 tỷ USD (năm 2006 là 12 tỷ USD), vốn đầu tư gián tiếp khoảng 5,3 tỷ USD, vốn ODA cam kết tài trợ 5,4 tỷ USD, và kiều hối cũng xấp xỉ 8 tỷ USD. Cuối năm 2007, nền kinh tế thế giới bắt đầu bước vào giai đoạn suy khoái kéo dài mà nguyên nhân bắt nguồn từ 2 cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu ( bắt đầu từ Mỹ) và khủng hoảng nợ công châu Âu ( bắt đầu tư Hy Lạp 2010) 2.3.2.Diễn biến chính sách tỷ giá Chế độ tỷ giá trong giai đoạn này vẫn là neo với biên độ điều chỉnh. Cụ thể là từ cuối 2006, công cụ biên độ dao động bắt đầu được điều chỉnh với tần suất cao hơn và với chiều hướng gia tăng cho đến đầu năm 2009. Sau đó, từ tháng 11/2009, biên độ dao động bắt đầu giảm xuống ± 3%, rồi ±1% vào năm 2011. Ngày 11/2/2011, lần đầu tiên Ngân hàng Nhà nước điều chỉnh mức tăng tỷ giá USD/VND bình quân liên ngân hàng lên 9,3%. Đây là mức điều chỉnh mạnh nhất trong lịch sử qua một lần điều chỉnh, gần với cả mức tăng của cả một năm trong những năm gần đây. Bước đi đột phá này nhằm kéo giá USD trên thị trường liên ngân hàng và thị trường tự do sát lại gần nhau. Số quyết định Ngày hiệu lực Tỷ giá BQLNH BĐDĐ được phép 65/1999/QĐ-NHNN 25/02/1999 ±0,10% 679/2002/QĐ-NHNN 01/07/2002 ±0,25% 2554/QĐ-NHNN 02/01/2007 16 101 ±0,55% 3039/QĐ-NHNN 25/12/2007 16 113 ±0,75% 504/QĐ-NHNN 10/03/2008 16 025 ±1% 1436/QĐ-NHNN 27/06/2008 16 451 ±2% 2635/QĐ-NHNN 07/11/2008 16 511 ±3% 25 672/QĐ-NHNN 24/03/2009 16 980 ±5% 2666/QĐ-NHNN 26/11/2009 17 961 ±3% Thông tư 03/2010/TT- NHNN 11/02/2010 17 941 lên 18 544 ±3% 19/08/2010 18 544 lên 18 932 ±3% Thông tư 11/2011 – NNNN 11/02/2011 18.932 lên 20.693 ±1% Ngoài ra, khá nhiều các công cụ khác, bao gồm cả trực tiếp và gián tiếp, được NHNN Việt Nam áp dụng trong thời gian này nhằm đối phó với tình hình lạm phát tăng cao, không ổn định, như tỷ lệ dự trữ bắt buộc bằng ngoại tệ; giảm giá đồng nội tệ; lãi suất huy động tối đa đối với ngoại tệ; hạn mức cho vay với ngoại tệ; kết hối ngoại tệ đối với các công ty lớn…. Trong năm 2009, khi nguồn cung ngoại tệ trong nền kinh tế không đáp ứng nhu cầu ngoại tệ thậm chí với nhu cầu nhập khẩu những mặt hàng chiến lược, ngày 23/12/2009 chính phủ đã ban hành văn bản 2578/TTg-KTTH buộc 7 tập đoàn là tập đoàn dầu khí VN, tập đoàn công nghiệp than – khoáng sản VN, tổng công ty (TCT) lương thực miền Nam, TCT lương thực miền Bắc, TCT lắp máy VN, TCT cảng hàng không miền nam, TCT hóa chất - bán ngoại tệ. Theo số liệu thống kê từ NHNN cho biết, đến cuối ngày 30/11/2009, tổng tiền gửi ngoại tệ của các tổ chức doanh nghiệp là 10,3 tỉ USD, trong đó tiền gửi có kì hạn của 7 tập đoàn này là 1,2 tỉ USD và tiền gửi không kì hạn khoảng 700 triệu USD. Cần lưu ý là quỹ dự trữ ngoại hối của VN năm 2009 khoảng 14 tỉ USD. Việc buộc kết hối đã ko làm hài lòng các tập đoàn, tuy nhiên, vì các tập đoàn đã được hưởng nhiều ưu đãi từ chính sách hỗ trợ lãi suất 4% trong gói kích cầu số 1 của chính phủ nên đây là nghĩa vụ của họ trong việc cân đối ngoại tệ, bình ổn tỉ giá trong nền kinh tế. Thật vậy, ngay khi ý tưởng buộc các tập đoàn kết hối, tình trạng găm giữ chờ ngoại tệ lên giá của các tổ chức trong nền kinh tế giảm đáng kể. theo vụ quản lí ngoại hối, từ 11 đến 17/11/2009 trước khi chính phủ ban hành văn bản 2578 doanh số giao dịch liên ngân hàng đạt mức 2,03 tỉ USD tương đương 406 triệu USD/ ngày, tăng trung bình 580 triệu USD so với tuần trước đó. Việc làm này đã góp phần hạn chế căng thẳng ngoại tệ và kiềm chế sự biến động của tỉ giá. 26 Ngày 18/1/2010, Ngân hàng Nhà nước có Quyết định số 74/QĐ-NHNN giảm mạnh tỷ lệ dự trữ bắt buộc bằng ngoại tệ đối với các tổ chức t ín dụng . Việc g iảm tỷ lệ dự t rữ bắt buộc bằng ngoại tệ từ 7% xuống 4% đối với kỳ hạn dưới 12 tháng, từ 3% xuống 2% đối với kỳ hạn trên 12 tháng đã làm tăng nguồn vốn khoảng 500 triệu USD (9.000 tỷ đồng) cho các ngân hàng thương mại để cho vay trên thị trường. Ngay sau đó, NHNN tiếp tục ban hành Thông tư số 03/2010/TT-NHNN, quy định mức lãi suất tiền gửi tối đa bằng USD của tổ chức kinh tế tại tổ chức tín dụng là 1%/năm. Đây được xem là một “cú hích” mạnh khi ảnh hưởng trực tiếp đến lợi ích của các tổ chức kinh tế có tiền gửi bằng USD, khi lãi suất trước đó được hưởng có từ 4%-4,5%/năm. Quy định được coi như là đặt các tổ chức đó vào thế “tự xử”, phải tính toán lợi ích và xem xét bán lại ngoại tệ, chuyển sang VND để có lãi suất tiền gửi cao hơn. Khớp với chính sách này, các ngân hàng thương mại đồng loạt tăng giá USD mua vào để thu hút nguồn ngoại tệ tiềm năng này. 2.3.3. Tác động của chính sách tỷ giá đến kinh tế Việc NHTW liên tục nới biên độ dao động của tỷ giá từ năm 2005 đến năm 2009 làm cho các ngân hàng, doanh nghiệp và nhà đầu tư có được sự chủ động và linh hoạt hơn trong tính toán hiệu quả đầu tư, làm cho tỷ giá sát với điều kiện thị trường hơn, hỗ trợ khó khăn cho các doanh nghiệp xuất khẩu, đồng thời hạn chế doanh nghiệp nhập khẩu. Bên cạnh đó, tỷ giá thực thấp hơn tỷ giá danh nghĩa trên thị trường cũng khuyến khích xuất khẩu, kiểm soát nhập khẩu. Một tỷ giá thực thấp hơn kết hợp với sự đa dạng của các sản phẩm tín dụng đã giúp cho vay đầu tư mở rộng, các doanh nghiệp vừa và nhỏ có điều kiện thuận lợi tiếp cận nguồn vốn vay để phát triển sản xuất, tạo công ăn việc làm, giảm tỷ lệ thất nghiệp góp phần ổn định xã hội, cho vay phát triển nông nghiệp nông thôn, hỗ trợ hộ sản xuất kinh doanh khó khăn cũng được mở rộng góp phần tích cực thực hiện mục tiêu xóa đói giảm nghèo. Tuy nhiên chính sách giảm giá VND cũng không tránh khỏi một số rủi ro nhất định: Thứ nhất, nhiều doanh nghiệp Việt Nam đã vay USD từ các ngân hàng trong và ngoài nước, gánh nặng tỷ giá lên khoản nợ tăng lên, rủi ro không trả được nợ và ngân hàng phải chịu thêm các khoản nợ xấu. Thứ hai, giá nội tệ giảm làm hàng nhập khẩu trở nên đắt hơn, mà trong khi có nhiều sản phẩm trong nước không thể sản xuất do đó phải nhập khẩu, kết quả là nền kinh tế sẽ nhập khẩu lạm phát từ bên ngoài khi VND giảm giá. Thứ ba, tỷ giá VND/USD có thể bị tăng quá mức khi người trong nước và các nhà đầu tư nước ngoài mất niềm tin vào khả năng quản lý cung tiền của cơ quan điều hành chính sách tiền tệ. Khi đó người dân và các doanh nghiệp đua nhau mua vàng và ngoại tệ khi đồng nội tệ mất giá, trong nỗ lực bảo toàn tài sản, người ta có thể chấp nhận bất kỳ mức giá nào miễn là mua được ngoại tệ. 27 Từ năm 2009, tác động của việc thu hẹp biên độ dao động nhằm đưa tỷ giá chính thức tiến sát tỷ giá trên thị trường ngăn ngừa đầu cơ tiền tệ, hạ nhiệt trên thị trường ngoại hối, tránh nguy cơ dẫn đến khủng hoảng tài chính như ở Thái Lan năm 1997 là: - Ổn định tâm lý người dân: Điều chỉnh tỷ giá đã ổn định tâm lý và kỳ vọng của người dân. Trước đó, tỷ giá trần đã cao hơn khá nhiều so với tỷ giá đang giao dịch trên thị trường phi chính thức. Bằng việc điều chỉnh này tỷ giá sẽ được giao dịch dựa trên cung cầu thị trường và người dân sẽ không còn tâm lý đầu cơ, tích trữ USD. Do đó cầu ảo về ngoại tệ sẽ giảm xuống. Ngoài ra việc điều chỉnh này còn “giải thoát” tâm lý người dân và ngân hàng lúc nào cũng nơm nớp lo sợ vì lách luật. Quy mô thị trường chợ đen cũng được thu hẹp, các giao dịch USD trở nên minh bạch hơn. - Tạo sự minh bạch cho thị trường ngoại hối: Việc điều chỉnh tỷ giá sẽ giúp cho thị trường ngoại tệ phản ứng một cách linh hoạt hơn theo cơ chế thị trường, giúp thu hẹp chênh lệch giữa tỷ giá niêm yết và giao dịch thực tế. Quy mô thị trường chợ đen giảm xuống, hạch toán các giao dịch tỷ giá tại ngân hàng và doanh nghiệp trở nên minh bạch hơn. Bên cạnh đó tác động của chính sách tỷ giá còn được thể hiện qua các chỉ số kinh tế như sau: 28 CHƯƠNG III LIÊN HỆ CHÍNH SÁCH ĐIỀU HÀNH TỶ GIÁ CỦA TRUNG QUỐC VÀ THÁI LAN 3.1 Chính sách tỷ giá của Trung Quốc và Thái Lan 3.1.1 Chính sách tỷ giá của Trung Quốc 3.1.1.1. Giai đoạn từ năm 1997-2005 Nhìn chung trong giai đoạn này Trung Quốc luôn duy trì ở chính sách đồng NDT yếu – được định giá thấp hơn thực tế (mặc dù đã được điều chỉnh tăng nhiều lần) nhằm hướng tới mục tiêu thúc đẩy xuất khẩu hàng hóa ra nước ngoài, kích thích SX trong nước nhằm phục hồi nền KT sau khủng hoảng và giảm các cú sốc từ các nền KT khác. Đồng Nhân dân tệ thời kì khủng hoảng tài chính Châu Á Tháng 7/1997, cuộc khủng hoảng tài chính châu Á bắt đầu từ Thái Lan sau đó đã lan rộng ra toàn khu vực và trên thế giới. Trong đó, chịu ảnh hưởng nặng nề nhất là các nước Thái Lan, Hàn Quốc, Indonesia sau đó là Malaysia, Lào, HongKong và Philippines.Mặc dù cuộc khủng hoảng này tác động không mạnh tới Trung Quốc nhưng ít nhiều nó cũng đã làm ảnh hưởng tới nền kinh tế Trung Quốc thông qua hoạt động xuất khẩu và đầu tư nước ngoài . Nhu cầu đối với hàng xuất khẩu giảm, vấn đề sản xuất dư thừa ngày càng trở nên trầm trọng đối với nền công nghiệp chế biến tại Trung Quốc, giá thị trường liên tục giảm xuống và dần có dấu hiệu giảm phát. 29 Khác với Thái Lan giai đoạn trước năm 1997 khi tỷ giá đồng Baht được neo cố định ở mức quá cao thì Trung Quốc lại định giá đồng NDT ở mức thấp nên vẫn duy trì thặng dư thương mại. Cuộc khủng hoảng năm 1997 cũng đã gây sức ép phá giá lên đồng Nhân dân tệ rất nhiều, tuy nhiên nhờ sức mạnh sẵn có của nền kinh tế cộng với một lượng ngoại tệ dữ trữ tương đối lớn (gần 150 tỷ đôla) mà Trung Quốc đã thành công trong việc duy trì chính sách tỷ giá của mình ở mức 8,3 NDT/USD cho tới năm 2005. Đây là thành công trong việc ổn định tỷ giá của Trung Quốc khi mà các nền kinh tế khác trong khu vực đã phải chấp nhận phá giá đồng nội tệ dẫn đến lạm phát. Điều này cũng đã giúp Trung Quốc không bị chìm sâu vào khủng hoảng. Cũng trong giai đoạn này, Trung Quốc sử dụng Chính sách thắt chặt quản lý ngoại hối bằng việc đưa ra Quy định về hạn chế cho vay ngoại tệ trong nước & Chính sách kết hối ngoại tệ. Quy định về hạn chế cho vay ngoại tệ trong nước Từ năm 1994 đến năm 2002, các ngân hàng thương mại Trung Quốc không được phép cho các doanh nghiệp trong nước vay ngoại tệ. Đến ngày 6/12/2002 Cục Quản lý ngoại hối mới có văn bản (Chỉ thị số 125 về cải cách cơ chế cho vay ngoại tệ trong nước) cho phép các ngân hàng thương mại cho các tổ chức kinh tế trong nước vay ngoại tệ. Chính sách kết hối ngoại tệ Cuối năm 1997, khi dự trữ ngoại hối của Trung Quốc tăng lên 139,89 tỷ USD, Trung Quốc mới nới lỏng chính sách kết hối ngoại tệ. Ngày 15/10/1997, Ngân hàng nhân dân Trung Quốc ban hành Chỉ thị số 402 cho phép một số doanh nghiệp (Công ty xuất nhập khẩu và doanh nghiệp sản xuất có giấy phép kinh doanh xuất nhập khẩu) được giữ lại một phần ngoại tệ trên tài khoản với mức tối đa không quá 15% tổng kim ngạch xuất nhập khẩu hàng năm. Năm 2002, dự trữ ngoại hối của Trung Quốc tăng lên 286,4 tỷ USD, chính sách kết hối ngoại tệ tiếp tục được nới lỏng. Tại Chỉ thị số 87 của Cục Quản lý ngoại hối Trung Quốc ban hành ngày 9/9/2002 quy định các công ty và doanh nghiệp được giữ ngoại tệ trên tài khoản, mức tối đa không quá 20% tổng nguồn thu ngoại tệ từ giao dịch vãng lai. 3.1.1.2. Giai đoạn từ năm 2005-2008 Tháng 7/2005, nâng giá đồng NDT, Trung Quốc công bố rổ tiền tệ. 30 Tháng 7/2005, Trung Quốc ngưng việc neo đồng NDT so với đồng USD đã kéo dài suốt một thập kỷ trước đó, với lý do đang hoàn thiện cơ chế tỷ giá mà thực chất là do chịu sức ép từ những chỉ trích của các nước phương Tây. Nhiều nước tố cáo Trung Quốc đang cố tình ngăn không cho đồng NDT tăng giá bất chấp nền kinh tế của nước này đang đi lên. Tính đến tháng 7/2008 thì giá trị đồng NDT đã được nâng lên 21% so với đồng USD. Trong năm 2005, Ngân hàng Trung ương (NHTW) Trung Quốc đã công bố thay đổi chế độ tỷ giá. Tỷ giá sẽ được xác định dựa trên một rổ các đồng tiền (Basket), đồng thời NHTW Trung Quốc cho phép biên độ dao động hàng ngày của các tỷ giá song phương là 0,3%. Ngày 9/8/2005, Thống đốc NHTW Trung Quốc ZhouXia Chuan đã công bố 11 đồng tiền trong rổ, trong đó các đồng tiền chính là đôla Mỹ, Euro, Yên Nhật và đồng Won Hàn Quốc, ngoài ra các đồng Bảng Anh, Ruble Nga và Baht Thái… cũng có mặt trong rổ tiền tệ nhưng có tỷ trọng nhỏ hơn nhiều. Tuy nhiên, căn cứ vào số liệu thực tế của tỷ giá đa phương danh nghĩa NDT, Guonan và McCauley đã cho rằng tỷ giá này đã dao động với biên độ 2%/ năm (B – Band) và mức độ thay đổi theo ngày là 0,06% (C – Crawl). Nhằm tránh khỏi áp lực nặng nề từ các buộc của Mỹ và các nước nước phương Tây cho rằng Trung Quốc đang thực hiện hành vi thao túng đồng nhân dân tệ, Trung Quốc cần phải đưa tỷ giá hối đoái trở nên linh động hơn. Tuy nhiên, Bắc Kinh lại không muốn đồng nội tệ của mình bị dao động quá lớn, điều đó sẽ ảnh hưởng lớn tới thương mại nước này. Vì vậy có thể thấy, Trung Quốc đang thực hiện 1 chế độ tỷ giá mà theo cách Singapore đã từng thành công – đó là một dạng của “chế độ tỷ giá BBC” (Basket, Band and Crawl Regime) – là chế độ tỷ giá dựa vào rổ tiền tệ với biên độ dao động rộng được điều chỉnh định kì. So với lý thuyết thì biên độ dao động của tỷ giá (B-band) là khá nhỏ chỉ là 2%/ năm. Mặc dù tỷ giá song phương NDT/USD giảm nhưng tỷ giá đa phương danh nghĩa của NDT lại có xu hướng tăng dần. Như vậy, Trung Quốc vẫn duy trì được lợi thế cạnh tranh thương mại quốc tế so với các quốc gia bạn hàng. Do đó, đã góp phần tích cực vào tăng trưởng kinh tế và thặng dư của cán cân thương mại của Trung Quốc. Tháng 8/2007, Trung Quốc chính thức xóa bỏ chính sách kết hối ngoại tệ Đến năm 2007, Dự trữ ngoại hối Trung Quốc đã tăng lên tới 1.528,249 tỷ USD. Ngày 13/8/2007 Cục Quản lý ngoại hối ban hành Chỉ thị số 48 cho phép các tổ chức kinh tế căn cứ nhu cầu sử dụng ngoại tệ phục vụ cho sản xuất kinh doanh được quyền giữ lại số ngoại tệ từ giao dịch vãng lai trên tài khoản. Như vậy, sau 13 năm Trung Quốc mới xóa bỏ chính sách kết hối ngoại tệ, chính sách này được xóa bỏ khi nền kinh tế nhiều năm tăng trưởng mạnh, tỷ lệ lạm phát thấp, CCTT, CCTM dư thừa lớn, dự trữ ngoại hối cao. 31 3.1.1.3 Giai đoạn từ năm 2008 đến nay Tháng 7/2008, Trung Quốc trở lại neo tỷ giá cố định vào đồng USD Cuối năm 2007, nền kinh tế thế giới đối mặt với cuộc khủng hoảng tài chính nổ ra tại Mỹ nhưng tầm ảnh hưởng của nó đã lan rộng ra hầu hết tất cả các quốc gia trên toàn TG. Chịu ảnh hưởng từ suy thoái kinh tế toàn cầu, thặng dư thương mại của TQ giảm đáng kể do đồng USD suy yếu, nhu cầu hàng hóa nhập khẩu Trung Quốc của người tiêu dùng Mỹ cũng như các quốc giá khác thuộc khu vực châu Âu giảm. Tính đến tháng 7/2008, Trung Quốc lại quay trở lại neo tỷ giá cố định đồng NDT/USD = 6,8 nhằm mục tiêu kích thích tăng trưởng xuất khẩu, khôi phục lại nền kinh tế sau cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu. Tuy nhiên, việc Trung Quốc kéo dài chính sách đồng tiền yếu trong khi nền KT thế giới đang phục hồi chậm chạp lại tác động tiêu cực tới sự mất cân đối cán cân thương mại toàn cầu. Trong khi nền kinh tế Trung Quốc đạt thặng dư thương mại cao thì các nước khác bao gồm Mỹ, Đức, Nhật.. lại phải chịu thâm hụt đối với Trung Quốc, tỷ lệ thất nghiệp gia tăng, nhu cầu tiêu dùng trong nước suy giảm. Tháng 6/2010, Trung Quốc chính thức công bố áp dụng tỷ giá linh hoạt Tháng 6/2010, trước thềm hội nghị thượng đỉnh G20 Trung Quốc đã chính thức công bố chấm dứt chính sách tỷ giá áp dụng trong thời kì khủng hoảng khi nền kinh tế hồi phục trở lại và áp lực lạm phát tăng lên. Đây được cho là biện pháp mà NHTW Trung quốc đưa ra nhằm thực hiện mục tiêu kiềm chế lạm phát cao, kích cầu, bước đi mới cho việc chuyển hướng từ xuất khẩu sang tiêu dùng nội địa. Tỷ lệ lạm phát tại Trung Quốc tháng 5/2010 leo lên mức 3,1%, cao nhất trong 19 tháng và vượt mức mục tiêu của chính phủ. Tỷ lệ lãi suất cơ bản ở mức 5,31%. Tỷ lệ thất nghiệp 4,2%. Như vậy sau khi đồng NDT được điều chỉnh linh hoạt, đồng nhân dân tệ đã tăng 1,8% lên mức 6,7081 nhân dân tệ/USD từ mức 6,8202 nhân dân tệ/USD sau 23 tháng tỷ giá neo cố định. Tính đến ngày 11/8/2011, tỷ giá NDT/USD đã tăng lên 6,39. Đây là mức tăng cao nhất kể từ tháng 6/2010. Một ngày trước đó, Fed cam kết giữ lãi suất ở mức thấp kỷ lục 0 – 0,25% đến giữa năm 2013. Số liệu công bố ngày 10/8 cũng cho thấy thặng dư thương mại tại Trung Quốc tháng 7/2011 lên mức cao nhất trong 2 năm. Tháng 7/2011, chỉ số giá tiêu dùng của Trung Quốc tăng 6,5% so với cùng kỳ năm trước, mức độ cao nhất trong 3 năm. Việc Trung Quốc cho phép đồng NDT của mình tăng giá so với các đồng tiền khác phần nào đã làm giảm áp lực đối với Trung Quốc từ phía các nước phương Tây, tuy nhiên theo các chuyên gia đánh giá thì đồng NDT vẫn đang ở mức thấp hơn so với thực tế tới 30-40% 32 3.1.2. Bài học từ chính sách tỷ giá của Trung Quốc. Việc duy trì chính sách đồng Nhân dân tệ yếu trong thời gian dài bên cạnh việc phối hợp đồng bộ với các công cụ tỷ giá, các chính sách tiền tệ đã giúp nền kinh tế Trung Quốc có những lợi thế nhất định về mặt thương mại quốc tế, tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên, Trung Quốc cũng đang phải hứng chịu những hệ lụy từ chính sách tỷ giá của mình. Tác động tích cực: - Tạo ưu thế cạnh tranh thương mại cho các hàng hóa xuất khẩu của Trung Quốc trên trường Quốc tế, kích thích sản xuất trong nước. - Chính sách duy trì đồng NDT yếu được xem như là một biện pháp bảo hộ của Trung Quốc đối trong thương mại quốc tế: một mặt vừa kích thích xuất khẩu, mặt khác lại hạn chế nhập khẩu. ( Hàng hóa XK của TQ trở nên rẻ đi đối với nước ngoài, hàng hóa nhập khẩu vào TQ trở nên đắt đỏ hơn)  Đạt thặng dư thương mại liên tiếp nhiều năm góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, đưa Trung Quốc trở thành nền kinh tế lớn thứ 2 trên thế giới. Năm 2007 2008 2009 2010 Xuất khẩu 1.218,85 1.428,55 1.201,67 1.577,93 Nhập khẩu 956,19 1.133,08 1.005,6 1.394,83 CCTM 262,66 295,47 196,07 183,1 Cán cân XNK của Trung Quốc từ 2007-2010 (Đơn vị: tỷ USD) Tác động tiêu cực: - Làm cho nền kinh tế Trung Quốc chịu sự phụ thuộc vào xuất khẩu hàng hóa sang nước ngoài; không kích thích tiêu dùng nội địa – không khai thác thị trường tiềm năng trong nước. - Các khoản nợ nước ngoài của doanh nghiệp trong nước sẽ bị đẩy lên cao khi đồng NDT bị đánh giá thấp. Gây khó khăn cho các doanh nghiệp trong nước. - Để duy trì chính sách neo tỷ giá vào đồng USD khi đồng USD bị giảm giá thì NHTW Trung Quốc sẽ phải mua ngoại tệ vào, bán nội tệ ra ngoài thị trường dẫn đến làm tăng lượng cung tiền, gây áp lực lạm phát. - Gây cẳng thẳng trong quan hệ kinh tế với các quốc gia khác do mâu thuẫn về mặt lợi ích. 33 Nhận xét:Các quốc gia khác có phải là người được lợi nếu đồng NDT tăng giá? Việc thúc ép Trung Quốc nâng giá đồng NDT nhanh chóng sẽ có thể cải thiện được tình hình thương mại của Mỹ và nhiều nước hiện nay. Tuy nhiên nếu để đồng NDT tăng giá quá nhanh và với quy mô lớn có thể sẽ gây tác động trái chiều tới nền kinh tế toàn cầu. Các nước lâu nay đang là đối tác thương mại lớn của Trung Quốc sẽ chịu ảnh hưởng lớn khi hàng hóa xuất khẩu của Trung Quốc trở nên đắt đỏ hơn rất nhiều; các quốc gia đang là con nợ của Trung Quốc như Mỹ sẽ phải chịu tác động khi các khoản nợ lớn dần ra. Đồng thời, khi đồng NDT tăng giá cũng sẽ tạo điều kiện thu hút dòng vốn đầu tư nước ngoài (FDI) chảy vào Trung Quốc đồng nghĩa với việc dòng FDI chảy vào các quốc gia khác cũng sẽ giảm theo khi bị đánh giá là môi trường đầu tư có hiệu quả kém hơn. Tỷ giá NDT/USD tăng thì đầu tư Trung Quốc ra nước ngoài sẽ tăng lên, mà khi Trung Quốc đầu tư vào nước nào nhiều thì cạnh tranh cho doanh nghiệp nước đó sẽ xảy ra. 3.2 Chính sách tỷ giá của Thái Lan 3.2.1 Chính sách tỷ giá của Thái Lan sau cuộc khủng hoảng kinh tế 1997 Thái lan được xem là nơi châm ngòi cho cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ tại Châu Á vào năm 1997-1998. Sau cuộc khủng hoảng này, chính quyền Thái Lan đã áp dụng chính sách tỷ giá thả nổi cùng một số biện pháp xiết chặt nhằm mục tiêu “kiềm chế lạm phát”. Điểm đáng chú ý nhất của Thái Lan là sau khi phá giá đồng Baht, thặng dư thương mại ngày càng gia tăng. Hơn thế nữa, dòng vốn nước ngoài đang quay trở lại ngày một nhiều hơn. Hệ quả tất yếu của điều này là áp lực tăng giá đồng tiền trong nước tác động tiêu cực đến hoạt động xuất khẩu. Ngày 18/12/2006, Thái Lan đã quyết định áp dụng các biện pháp hành chính nhằm hạn chế dòng dòng tiền đổ vào. Hậu quả tức thời là ngay ngày thứ Ba hôm sau, thị trường chứng khoán sụt giảm 15%, mức cao nhất kể từ năm 1990 (Financial Times, 20/12/2006). Cuối chiều 18/12, Ngân hàng Trung ương Thái Lan yêu cầu các nhà băng tư nhân phong tỏa tối thiểu 30% trị giá các tài khoản tiền gửi ngoại tệ được lập để đầu tư tài chính. Việc phong tỏa này có hiệu lực từ 19/12 và kéo dài trong vòng 1 năm. Nếu nhà đầu tư muốn rút trước hạn quy định, chỉ được giải ngân tối đa 2/3 khoản tiền bị giữ lại đồng thời chịu phạt 10% tổng số tiền gửi ban đầu. Bên cạnh đó, chính phủ quân sự Thái Lan yêu cầu các nhà đầu tư nước ngoài chỉ được phép dùng tối đa 70% tiền trong tài khoản của mình để đầu tư chứng khoán, các giấy tờ có giá và bất động sản. Trước đó, các doanh nghiệp và ngân hàng thương mại đã được 34 khuyến cáo không bán những khoản nợ ngắn hạn bằng đồng baht cho nhà đầu tư nước ngoài. Các biện pháp trên đây được đưa ra nhằm chặn đà tăng giá của đồng baht so với đôla Mỹ (từ đầu năm 2006, baht Thái tăng 16% và đạt mức cao nhất trong vòng 9 năm kể từ khi xảy ra cuộc khủng hoảng năm 1997). Tuy nhiên, ngay trong ngày đầu tiên quy định kiểm soát tiện tệ có hiệu lực, thị trường chứng khoán Thái Lan rơi vào thế hoảng loạn. Tác nhân chính là cơn tháo chạy hoảng loạn của các nhà đầu tư nước ngoài. Hiệu ứng ngày thứ ba đen tối ở Thái Lan nhanh chóng lan rộng sang các thị trường khu vực. Lo sợ trước đà tháo chạy của các nhà đầu tư nước ngoài, Chính phủ Thái Lan ngay lập tức có sự điều chỉnh. Ngay ngày hôm sau, Bangkok tuyên bố sẽ dỡ bỏ quy định hạn chế đối với việc đầu tư cổ phiếu của các nhà đầu tư nước ngoài. Song tỷ lệ trần 70% với việc đầu tư vào trái phiếu chính phủ và các giấy tờ có giá vẫn được duy trì, bởi Thái Lan coi đây là biện pháp quan trọng ngăn đà tăng giá đồng nội tệ. 3.2.2 Bài học từ chính sách tỷ giá của Thái Lan Có thể thấy rằng, cuộc khủng hoảng Tài chính tiền tệ Châu Á năm 1997 là điều tất yếu và một trong những nguyên nhân chính là do Thái Lan và các nước trong khu vực đã quá vội vã trong việc tự do hóa tài khoản vốn và áp dụng cơ chế tỷ giá cố định trong suốt thời gian dài khi mà nền kinh tế chưa thực sự ổn định, khu vực tài chính ngân hàng bộc lộ nhiều yếu kém. Ở Thái lan, khi tài khoản vốn được tự do cộng với kỳ vọng quá lớn của các nhà đầu tư và sự lỏng lẻo trong việc kiểm soát các khoản nợ vay đã làm cho dòng vốn ồ ạt chảy vào. Chỉ trong vòng 10 năm từ 1987 – 1996 đã có đến 100 tỷ dolla được đổ vào Thái Lan. Nghiêm trọng hơn, trên 70% số tiền này là vốn vay với hơn nửa là vay ngắn hạn do các tổ chức tài chính, nhất là các công ty tài chính trong nước vay để đầu tư dài hạn và bất động sản chiếm một tỷ trọng không nhỏ. Thêm vào đó, với tỷ giá được giữ gần như cố định ở mức 25 Baht ăn 1 đôla quá lâu khi mà thâm hụt thương mại kéo dài đã làm cho áp lực giảm giá đồng Baht ngày càng gia tăng. Áp lực của những khoản nợ đến hạn, áp lực của thâm hụt ngoại thương liên tục đã vượt quá sức chịu đựng của nền kinh tế, nhu cầu ngoại tệ gia tăng đột biến. Mặc dù đã bán ra gần 15 tỷ đôla trong gần 40 tỷ dự trữ ngoại hối, nhưng Thái Lan đã không đủ sức giữ được tỷ giá. Đồng Baht bị phá giá và khủng hoảng xảy ra với những hậu quả khôn lường. 35 CHƯƠNG IV GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN VÀ ĐỊNH HƯỚNG 4.1. Giải pháp hoàn thiện: a) Loại bỏ dần các công cụ kiếm soát tỷ giá mang tính hành chính. Hiện nay, NHNN đang áp dụng chính sách tỷ giá thả nổi có sự điều tiết của chính phủ để điều hành chính sách tiền tệ. Tỷ giá chính thức do NHNN được thiết lập trên cơ sở tỷ giá bình quân của thị trường ngoại tệ liên ngân hàng và tỷ giá kinh doanh ngoại tệ của các ngân hàng thương mại không được lớn hơn biên độ do NHNN quy định. Đây là cách điều tiết mang nặng tính áp đặt lên tỷ giá. Ưu điểm của cách tính này NHNN khống chế được sự biến động thất thường của tỷ giá; tuy nhiên, hạn chế của nó là tỷ giá không phản ảnh đúng cung- cầu tiền tệ trên thị trường, làm cho hoạt động kinh doanh tiền tệ của các ngân hàng gượng ép, giả tạo. Thiết nghĩ, trong tương lai, NHNN cần thay đổi cơ chế điều hành tỷ giá theo hướng gắn liền với các quy luật của nền kinh tế thị trường. Nói cách khác, tỷ giá phải được thả nổi và hoàn toàn được xác định dựa trên cung – cầu tiền tệ, NHNN không được áp đặt trực tiếp lên tỷ giá mà chỉ được quyền tác động gián tiếp đến tỷ giá thông qua hoạt động mua bán ngoại tệ trên thị trường ngoại hối. Muốn vậy, bên cạnh việc điều chỉnh linh hoạt tỷ giá cơ bản, NHNN cần nới lỏng biên độ giao dịch trong xác định tỷ giá của các NHTM. Tạo điều kiện cho các NHTM kinh doanh tiền tệ theo cơ chế thị trường và quen dần với các công cụ phòng chống rủi ro tỷ giá. Sau đó, NHNN tiến đến việc loại bỏ hoàn toàn các quy định mang tính hành chánh trong xác định tỷ giá kinh doanh của các NHTM. Các NHTM được quyền tự quyết giá mua bán ngoại tệ trên cơ sở biến động cung – cầu của thị trường ngoại hối. Được như vậy, các NHTM mới phát huy tính tự chủ, năng động trong kinh doanh; qua đó nâng dần sức cạnh tranh tranh của họ trong lãnh vực kinh doanh tiền tệ. b) Áp dụng tỷ giá trung bình để xác định giá trị bản tệ Trong những năm qua, giá trị đồng tiền Việt Nam chủ yếu được đánh giá thông qua sự biến động của nó với USD. Điều này phản ảnh đúng thực trạng giao dịch ngoại hối 36 của Việt Nam là các hoạt động mua bán bằng USD chiếm tỷ trọng cao. Tuy nhiên, nếu chỉ dựa vào một đồng tiền duy nhất để xác định giá trị bản tệ là việc làm khá mạo hiểm đối với các nhà thiết lập chính sách vĩ mô. Thiết nghĩ, bên cạnh việc theo dõi diễn biến tỷ giá VND/USD, để xác định cung- cầu USD trên thị trường, NHNN nên quan tâm đến sự biến động của VND so với nhiều ngoại tệ mạnh khác như EUR, JPY, SDR, CNY; nói cách khác, Chính phủ nên áp dụng tỷ giá trung bình trong việc xác định giá trị đồng tiền Việt Nam. Bên cạnh việc sử dụng tỷ giá song phương của bản tệ so với từng đồng tiền mạnh, việc tham khảo tỷ giá trung bình trong xác định giá trị bản tệ mang lại nhiều lợi điểm. Trước hết, cách tính này giúp đánh giá sự biến động của giá trị đồng tiền Việt Nam một cách khách quan và chính xác hơn. Thứ hai, nó góp phần hạn chế tâm lý sùng bái đô- la Mỹ trong nền kinh tế. Thứ ba, qũy dự trữ ngoại tệ quốc gia có thể được đa dạng hoá. Cuối cùng, rủi ro tỷ giá và chi phí qủan trị rủi ro được hạ thấp do việc phân tán rủi ro trong kinh doanh tiền tệ của doanh nghiệp và ngân hàng thương mại. c) Gia tăng tính độc lập trong điều hành chính sách tiền tệ của NHNN NHNN thuộc Chính phủ có nhiệm vụ chính là ban hành và thực hiện chính sách tiền tệ. Chính sách tiền tệ là một bộ phận của chính sách kinh tế vĩ mô. Vì vậy, mục tiêu của chính sách tiền tệ được quyết định bởi mục tiêu của chính sách kinh tế vĩ mô. Để điều hành kinh tế vĩ mô, chính phủ sử dụng nhiều chính sách: đầu tư, thương mại, tài chính, tiền tệ, ngoại giao vv.. Do đặc điểm riêng có, mỗi chính sách đều được triển khai với những thời gian khác nhau và có mức độ tác động khác nhau đến nền kinh tế. Tùy vào hoàn cảnh cụ thể mà Chính phủ phối hợp hài hòa các chính sách; đôi lúc chú trọng chính sách này hơn chính sách kia và ngược lại. Tuy nhiên, việc lạm dụng một chính sách nào đó trong một thời gian dài sẽ đem lại nhiều bất lợi cho nền kinh tế mà chính sách tiền tệ là một minh chứng. Thị trường tiền tệ là thị trường cấp cao, năng động và diễn biến phức tạp. Để nâng cao hiệu quả điều hành chính sách tiền tệ nói chung và tỷ giá nói riêng; Chính phủ nên 37 giao cho NHNN mục tiêu chung như tỷ lệ lạm phát mục tiêu, mức tăng trưởng cung tiền trong từng năm (hoặc từng quý) tài chính Việc điều hành các công cụ của chính sách tiền tệ như lãi suất, tỷ lệ dự trữ bắt buộc, tăng trưởng tín dụng, biên độ xác định tỷ giá kinh doanh, việc công bố tỷ giá cơ bản .v.v… là hoạt động thường xuyên hằng ngày của NHNN. NHNN chủ động trong việc điều hành các công cụ trên theo biến động của thị trường và bám sát các chỉ số mục tiêu do Chính phủ hoạch định. Chính phủ tăng cường hệ thống giám sát qua hệ thống đánh giá và dự báo kinh tế vĩ mô của Chính phủ. Được như vậy, trách nhiệm và nghĩa vụ của NHNN được nâng lên. Hiệu quả của chính sách tiền tệ, chính sách tỷ giá được nâng cao đáng kể. d) Giám sát chặt chẽ nợ công: Nợ công bao gồm nợ chính phủ, nợ chính phủ bảo lãnh cho các tổ chức cá nhân khác vay và nợ của các tổ chức sở hữu công. Trong quản lý nợ, nợ công thường phân thành nợ trong nước và nợ nước ngoài; nợ ngắn hạn và nợ dài hạn và theo đồng tiền vay. Trước hết, đối với các khoản nợ của Chính phủ. Với phần lớn quốc gia trên Thế giới, đặc biệt là với các nước đang phát triển, nhu cầu chi ngân sách thường vượt xa mức thu ngân sách. Phần thiếu hụt được bù đắp từ việc vay mượn dưới hình thức ODA; phát hành tín phiếu, trái phiếu chính phủ; từ vay NHTW. Chi ngân sách hiệu quả sẽ làm tăng trưởng kinh tế, tạo công ăn việc làm vừa ổn định cuộc sống nhân dân, ổn định đất nước vừa tăng thu nhập tạo cơ sở gia tăng thu ngân sách góp phần cân bằng ngân sách trong tương lai. Việt Nam cũng không ngoại lệ. Thâm hụt NSNN trong những năm qua không ngừng gia tăng. Thâm hụt ngân sách góp phần làm thâm hụt cán cân thương mại kéo dài, làm cung – cầu ngoại tệ mất cân đối, làm ảnh hưởng xấu đến điều hành tỷ giá của NHNN Về lý thuyết, mối quan hệ giữa thâm hụt thương mại và ngân sách được thể hiện qua cân đối sau: TB = (S – I) + (T – G) Trong đó:TB là cán cân thương mại, S là ký hiệu của tiết kiệm, I là đầu tư, T và G là biểu hiện của thu và chi ngân sách 38 Với cách tính như trên, hai nguyên nhân làm gây TB thâm hụt là đầu tư vượt trội tiết kiệm và/ hoặc thâm hụt ngân sách lớn. Trước hết, nếu TB thâm hụt chỉ vì lượng vốn dành cho đầu tư vượt quá tiền tiết kiệm của nền kinh tế thì các nhà lãnh đạo không phải lo ngại; bởi vì, đầu tư hiệu quả sẽ góp phần tạo ra sản phẩm có khả năng xuất khẩu và TB có thể quân bình trong tương lai. Tuy nhiên, nếu TB thâm hụt do đầu tư nhiều nhưng kém hiệu quả và/ hoặc bội chi ngân sách lớn thì muốn giảm thâm hụt TB, chính phủ cần thắt chặt chi tiêu và kiểm soát đầu tư. Trong những năm qua, nguồn vốn đầu tư trong nền kinh tế Việt Nam tăng vượt trội; tuy nhiên hiệu quả đầu tư vẫn chưa đáp ứng sự kỳ vọng của nền kinh tế. Tình trạng lãng phí trong đầu tư còn phổ biến, chiến lược kinh doanh không tốt v.v.. kết quả cuối cùng là năng lực cạnh tranh của hàng hóa Việt Nam trên thị trường Thế giới chưa cao. Về chi tiêu ngân sách, trong những năm gần đây, Chính phủ đã đưa ra nhiều gói hỗ trợ để kích thích nền kinh tế phát triển. Tuy nhiên, thâm hụt ngân sách của Việt Nam năm 2010 đã lên đến con số 5,8%/GDP. Hiệu quả chi ngân sách chưa cao, các dự án về đô thị, hạ tầng kém chất lượng; chương trình cải tổ thể chế, thủ tục hành chính chậm chạp, tham nhũng v.v… tạo sức ì, làm giảm lòng tin của công chúng, làm cản trở tiến trình tăng trưởng bền vững của quốc gia, và làm căng thẳng ngoại tệ. Để cân bằng cán cân thương mại, ngày 17.8.10, NHNN buộc phá giá VND 2%. Tỷ giá bình quân liên ngân hàng từ 18.544 đã tăng lên 18.932 VND/USD. Với mức giá này, ngày 18.8.10 các NHTM được phép mua bán USD ở mức giá 19500 VND/USD, tăng 400VND/USD so với ngày trước đó. Hậu quả là USD trên thị trường chợ đen biến động mạnh. Gía vàng trong nước tăng nhanh so với mức tăng của thị trường Thế giới. Chỉ số chứng khóan đang trong giai đoạn giảm tiếp tục bị điều chỉnh sâu. Nhà đầu tư hoang mang. Các doanh nghiệp lo lắng. Vì vậy, trong điều kiện hiện nay của Việt Nam, để ổn định tỷ giá, nâng cao hiệu quả đầu tư và kiểm soát chặt chẽ chi ngân sách là điều Chính phủ cần làm ngay. Kế tiếp, đối với các khoản nợ được Chính phủ bảo lãnh. Đến cuối năm 2009, nợ được Chính phủ bảo lãnh trên 1,1 tỷ USD chiếm gần 22% tổng nợ nước ngoài của Chính phủ. Toàn bộ các khoản bảo lãnh này là các khoản vay thương mại với lãi suất thỏa thuận 39 và có kỳ hạn ngắn. Các đơn vị được bảo lãnh chủ yếu là các doanh nghiệp, tập đoàn kinh tế lớn đang thực hiện các dự án chiến lược của quốc gia. Như đã nói ở trên, vì đây là các khoản nợ ngắn hạn nên áp lực của nó đến cung – cầu ngoại tệ trong nền kinh tế rất lớn. Ngoài ra, nhiều tổng công ty, tập đoàn, doanh nghiệp sở hữu nhà nước kinh doanh kém hiệu quả. Mặc dù nhận được nhiều sự hỗ trợ về vốn, chính sách, đất đai, tài chuyên của Chính phủ nhưng các tổ chức này đầu tư không trọng điểm, chiến đầu tư dàn trãi, kém hiệu quả, nhân lực kém, có hiện tượng tham ô, lãng phí vv.. Các tổ chức này không những không hoàn thành nhiệm vụ “đầu tàu” trong nền kinh tế mà còn có nguy cơ lỗ, mất vốn- mà Vinashin là một điển hình. Khoản nợ 750 triệu USD trái phiếu quốc tế của Chính phủ phát hành chuyển năm 2005 cho Vinashin đang được sử dụng đến nay như thế nào? Khả năng trả nợ ra sao vẫn còn chờ kết quả kiểm toán của các tổ chức có thẩm quyền. Nguồn vốn của nhà nước không được sử dụng hiệu quả, không tạo lợi nhuận và nguy cơ mất tạo áp lực gia tăng nợ công của Việt Nam Quản lý công nợ quốc tế không chỉ là nhiệm vụ của Bộ Tài chánh, của NHNN mà là nhiệm vụ chung của các cơ quan quản lý vĩ mô, của các bộ, các ngành, các địa phương có liên quan đến thương mại và đầu tư quốc tế. e) Ổn định họat động kinh tế đối ngoại:  Tiếp tục đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu hàng hoá, dịch vụ . Trong nền kinh tế phát triển theo xu hướng toàn cầu hoá, xuất khẩu là hoạt động kinh tế quan trọng của đất nước và đem lại nguồn ngoại hối chính cho nền tài chính quốc gia. Trong những năm vừa qua, hoạt động xuất khẩu của Việt Nam đã có nhiều chuyển biến. Tuy nhiên, so với tiềm năng của nền kinh tế và mức độ phát triển của các nước trong khu vực, tốc độ tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam vẫn nằm ở mức độ thấp. Các sản phẩm xuất khẩu chủ yếu là tài nguyên, nông, hải sản, dầu thô, hàng may mặc, giầy da v.v.. Thị trường hàng xuất khẩu còn hạn hẹp và thiếu ổn định. Như vậy, điều hành nền kinh tế trong giai đoạn hiện nay là việc làm khó khăn, nó đòi hỏi nhiều nỗ lực và quyết tâm của Chính phủ. Bối cảnh hiện nay tạo ra nhiều thách thức 40 cho mục tiêu phát triển Việt Nam, nhưng chính nó cũng mang lại nhiều cơ hội. Nếu làm tốt, khả năng cạnh tranh và vị thế của Việt Nam trên thị trường Thế giới được cải thiện. Bốn biện pháp nên được tiến hành trong giai đoạn này là: Thứ nhất, thực hiện nhanh chương trình đổi mới cơ cấu kinh tế đã được thông qua trong Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần XI. Việt Nam nên tận dụng thời cơ kinh tế toàn cầu đang tăng trưởng chậm để cải tổ nền sản xuất trong nước nhằm giảm chi phí, tạo cơ hội cho các doanh nghiệp xuất nhập khẩu và các nhà đầu tư tư nhân nâng cao khả năng cạnh tranh Thứ hai, phát triển khu vực kinh tế tư nhân nhằm đẩy mạnh xuất khẩu. Cụ thể, các ngân hàng cần hỗ trợ tín dụng cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ, xoá bỏ những hạn chế trong cấp phép kinh doanh của một số ngành, tạo điều kiện thành lập các hiệp hội kinh doanh tư nhân v.v. Thứ ba, giữ vững và nâng cao tính an toàn của Việt Nam. Thật vậy, sự ổn định về kinh tế, chính trị là yếu tố quan tâm hàng đầu của các nhà đầu tư trên Thế giới. Những thành quả trong công cuộc đổi mới kinh tế của Việt Nam được Thế giới đánh giá cao. Thứ tư, thăm dò thị trường mới. Bên cạnh các thị trường lớn như Mỹ, EU, Nhật với những chuẩn mực cao với nhiều hàng rào phi mậu dịch, các doanh nghiệp Việt Nam cần mở rộng thị trường mới với mức độ cạnh tranh thấp hơn như Nam Mỹ, Châu Phí, Nam Á, Trung Đông. Chính phủ nên mở rộng chính sách hỗ trợ xuất khẩu; gia tăng qũy bình ổn, nâng cao chất lượng và mở rộng nguồn thông tin từ các Tham tán thương mại đang hoạt động ở hải ngoại; giảm tỷ trọng hàng thô trong tổng kim ngạnh xuất khẩu; hạn chế nhập khẩu các mặt hàng tiêu dùng xa xỉ, lương thực, thực phẩm; khuyến khích nhập các mặt hàng thuộc nhóm tư liệu sản xuất, máy móc thiết bị; đấu tranh triệt để đối với hoạt động buôn lậu, gian trá trong thương mại quốc tế v.v. Nếu các giải pháp này được thực hiện một cách đồng bộ, Việt Nam sẽ vừa tận dụng lợi thế so sánh của quốc gia vừa bảo vệ, ổn định nền sản xuất trong nước, làm lành mạnh hoá nền tài chính, tiền tệ. 41  Thu hút và sử dụng hiệu quả nguồn vốn nước ngoài Để tăng trưởng kinh tế, vốn là yếu tố quan trọng. Mặc dù nguồn vốn trong nước đóng vai trò quyết định nhưng cần phải nhìn nhận rằng khả năng huy động vốn trong nước của Việt Nam trong thời gian sắp tới sẽ gặp không ít khó khăn. Bởi vì, thứ nhất, nguồn vốn ngân sách hạn chế do tình trạng NSNN bị thâm hụt kéo dài, các khoản nợ công ngày càng lớn. Thứ hai, nguồn vốn đầu tư của các doanh nghiệp không cao do nhiều đơn vị đang gặp khó khăn do khủng hoảng, khả năng tự tích lũy thấp. Thứ ba, nguồn vốn trong dân cư thiếu ổn định do nhu cầu đầu tư vào vàng, ngoại tệ, bất động sản v.v.. đang gia tăng. Như vậy, Chính phủ Việt Nam luôn khẳng định nguồn vốn nước ngoài đóng vai trò quan trọng và là nguồn cung cấp ngoại tệ lớn cho nhu cầu ổn định và tăng trưởng nền kinh tế. Ngoài ra, mức thặng dư trên cán cân vốn trong tương lai có nguy cơ giảm sút mà nguyên nhân chủ yếu là cạnh tranh trong việc thu hút và sử dụng hiệu quả khoản vay ODA đã hết thời gian ân hạn; các nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài chuyển cổ tức, lợi nhuận, trả nợ vốn vay v.v.. sau một thời kỳ kinh doanh; các doanh nghiệp trong nước có nhu cầu chuyển vốn ra nước ngoài đầu tư v.v.. Tất cả sẽ tạo áp lực lớn lên cán cân thanh toán. Đối với nguồn vốn ODA ODA là nguồn vốn quốc tế ưu đãi và là nguồn cung ngoại tệ lớn cho quốc gia. Trong nền kinh tế phát triển theo xu hướng toàn cầu hoá, tính cạnh tranh trong huy động vốn ODA ngày càng gia tăng. Tại Việt Nam, nguồn ODA trong những năm qua có tăng nhưng tỷ lệ giải ngân thấp, tốc độ giải ngân chậm. Trong phạm vi toàn cầu, vốn ODA nguồn ODA có xu hướng suy giảm. Nguyên nhân của vấn đề, trước hết là do sự suy thoái của nền kinh tế toàn cầu. Nhật- nhà tài trợ ODA lớn nhất cho Việt Nam vẫn chưa thoát sự trì trệ nền kinh tế. Ngoài ra, sự thiếu ổn định và không đồng bộ trong chính sách phát triển kinh tế vĩ mô, sức trì trệ của tệ quan liêu, sự chậm chạp trong cải cách thủ tục hành chánh, v.v.. đã ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng vốn và làm nản lòng các nhà tài trợ quốc tế. Vì vậy, để có thể khơi tăng nguồn vốn hỗ trợ 42 phát triển chính thức, ngay từ bây giờ, Chính phủ phải quan tâm các lãnh vực sau: Thứ nhất, tiếp xúc với nhà tài trợ. Mỗi nhà cung cấp ODA có mục tiêu tài trợ khác nhau; chẳng hạn, Nhật quan tâm đến các lãnh vực năng lượng, giao thông, cơ sở hạ tầng v.v., ADB thích các dự án về cải cách chính sách và phát triển thể chế, phát triển nông thôn, phát triển nguồn nhân lực v.v., WB thiên về các chương trình xóa đói, giảm nghèo; môi trường; xã hội v.v.. Tìm hiểu, tiếp xúc với từng nhà đầu tư và thuyết phục họ cung ứng vốn là hoạt động còn mới lạ đối với nhiều địa phương, nhiều ngành. Chính phủ cần phân định rõ chức năng của cơ quan trung ương và địa phương theo hướng, đơn vị trung ương là đầu mối trong việc tiếp cận và giới thiệu nhà tài trợ cho các địa phương, cơ quan địa phương được chủ động trong việc quản lý và sử dụng vốn. Thứ hai, cải cách thủ tục phê duyệt trong nước và phân cấp mạnh mẽ hơn trong việc lập kế hoạch giải ngân và đấu thầu dự án. Trình duyệt một dự án là điều không đơn giản mà vấn đề khó khăn lại xuất phát từ nội bộ Việt Nam. Thực tế đã chứng minh rằng có nhiều quan điểm khác nhau về cách lập báo cáo khả thi, tiêu chí ưu tiên lựa chọn đầu tư, tiêu chuẩn kỹ thuật v.v.. làm ảnh hưởng đến tiến độ thực hiện dự án. Ngoài ra, có quá nhiều cấp, ngành tham gia vào quá trình phê duyệt và quản lý dự án mà hậu quả của nó là giảm, thậm chí mất cơ hội nhận vốn. Cơ quan trung ương nên giao thêm quyền chủ động cho địa phương trong việc phê duyệt, đánh giá dự án. Cấp trung ương chỉ nên chịu trách nhiệm giám sát và điều hành tổng thể dự án. Thứ ba, quan tâm đến công tác đào tạo cán bộ trong việc thực hiện dự án cấp địa phương, đặc biệt, về các lãnh vực: quản lý hợp đồng, thủ tục giải ngân, quản lý đấu thầu. Đây chính là nguyên nhân quan trọng dẫn đến tình trạng đấu thầu kém hiệu quả, thậm chí có trường hợp kết quả đấu thầu không được WB công nhận, không được giải ngân. Đó là chưa kể tình trạng tham ô, móc ngoặc trong đấu thầu. Quản lý kém cũng là nguyên nhân làm giảm chất lượng công trình, thực hiện không đúng thiết kế, vật liệu không đủ tiêu chuẩn, tư vấn giám sát thiếu trách nhiệm, nhà thầu không thực hiện đúng tiêu chuẩn kỹ thuật, chạy theo lợi nhuận. 43 Ngoài ra, Chính phủ nên khuyến khích nhân dân địa phương tham gia vào quá trình giám sát thi công, duy trì bảo dưỡng công trình nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư; đồng thời, triệt để xoá bỏ tệ quan liêu, tham nhũng trong quản lý, sử dụng vốn đầu tư nước ngoài, đặc biệt là nguồn ODA. Đối với nguồn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Trong lãnh vực ngoại hối, vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài không chỉ là nguồn cung ngoại tệ cho nền kinh tế mà còn làm nảy sinh cầu ngoại tệ trong kỳ. Thật vậy, sau một thời gian kinh doanh, các chủ đầu tư có nhu cầu chuyển ngoại tệ ra hải ngoại để thanh toán cổ tức, trả nợ gốc và lãi vay, chuyển lợi nhuận về nước, hoặc thanh lý dự án đầu tư v.v..Theo tính toán của IMF, cầu ngoại tệ phát sinh từ lãnh vưc này trong vài năm kế tiếp khá lớn, nếu không được quan tâm đúng mức nó sẽ tạo áp lực xấu lên cán cân thanh toán của quốc gia. Vì vậy, để tiếp tục thu hút nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, mở rộng nguồn ngoại hối cho quốc gia, trước hết, bên cạnh việc thiết lập một chính sách đối ngoại phù hợp, Chính phủ cần cải cách triệt để bộ máy hành chánh, tạo môi trường cạnh tranh công bằng, lành mạnh giữa các thành phần, loại hình kinh tế theo cơ chế thị trường v.v. được như vậy, thị trường Việt Nam mới thật sự trở thành điểm đến của các nhà đầu tư quốc tế, đồng thời khuyến khích các doanh nghiệp Việt Nam mở rộng quy mô sản xuất. Thứ hai, Chính phủ cần chấn chỉnh và nâng cao hiệu quả hoạt động của các khu công nghiệp, khu chế xuất, tránh tình trạng mỗi tỉnh đều có một hoặc một vài khu chế xuất gây lãng phí trong đầu tư; thiết lập chiến lược phát triển dài hạn giúp các nhà đầu tư thuận lợi trong khảo sát, xây dựng dự án đầu tư; nâng cao chất lượng dịch vụ tư vấn đầu tư; cung cấp đầy đủ thông tin cần thiết cho chủ đầu tư, nhằm tạo sức hấp dẫn các nhà đầu tư quốc tế. Thứ ba, về cơ cấu vốn đầu tư. Thông thường vốn nước ngoài phải được dùng vào đầu tư phát triển, gia tăng giá trị. Nhưng trong thời gian qua, Việt Nam tập trung vào những phát triển, gia tăng giá trị. Nhưng trong thời gian qua, Việt Nam tập trung vào những 44 ngành thâm dụng lao động, thâm dụng vốn như sản xuất hàng gia công, sơ chế nông hải sản, khai thác tài nguyên. Những yếu tố này không còn là lợi thế của Việt Nam trong tương lai. Vì vậy, Chính phủ cần thiết lập chính sách thu hút nguồn vốn vào các ngành tạo ra giá trị gia tăng, tận dụng “chất xám” của nền kinh tế. Mặt khác, do thiếu một chiến lược phát triển tổng thể về kinh tế- xã hội nên hiệu quả hoạt động của các khu chế xuất, khu công nghiệp thấp; quá nhiều dự án đầu tư vào các lãnh vực tiêu dùng, một số công trình chậm đưa vào sử dụng hoặc không phù hợp nhu cầu của xã hội, gây lãng phí lớn cho nền kinh tế. Thứ tư, tạo môi trường đầu tư thuận lợi. Môi trường đầu tư tốt, ổn định tạo tâm lý tốt cho các nhà đầu tư quốc tế. Trong thời gian qua, Chính phủ đã ban nhiều văn bản pháp lý để tạo điều kiện phát triển đầu tư quốc tế. Tuy nhiên, hệ thống luật của Việt Nam vẫn chưa theo kịp và phù hợp với thông lệ quốc tế, điều này ít nhiều kiềm hãm khả năng thu hút vốn đầu tư nước ngoài của Việt Nam. Trong tương lai, Chính phủ cần thiết lập môi trường đầu tư thuận lợi với cơ sở hạ tầng đầy đủ, hiện đại; hệ thống luật pháp công minh, rõ ràng, ổn định, môi trường xã hội an toàn v.v.. Thứ năm, nâng cao khả năng sinh lợi của vốn đầu tư. Hiệu quả đầu tư là mối quan tâm hàng đầu của các nhà kinh doanh quốc tế. Tuy nhiên, trong thời gian qua, nhiều công trình sử dụng vốn nước ngoài không được thẩm định kỹ càng nên không phát huy tốt hiệu quả kinh doanh. Hệ số sử dụng công suất thấp, hệ số thất thoát kinh phí đầu tư cao v.v. làm nản lòng các nhà tài trợ và giảm sức hấp dẫn với thị trường vốn quốc tế. Ngoài ra, Chính phủ cần đấu tranh triệt để với tệ quan liêu, cửa quyền trong thủ tục cấp phép, thẩm định dự án đầu tư của Việt Nam; nâng cao tay nghề, năng suất, kỷ luật làm việc của đội ngũ công nhân, giảm các chi khác như đi lại, thông tin… Đối với nguồn vốn đầu tư gián tiếp Trong những năm gần đây Việt Nam đã thu hút một nguồn vốn đầu tư gián tiếp đang kể. Vốn đầu tư gián tiếp đã đóng góp đang kể vào việc làm thị trường tài chính nói chung và thị trường chứng khoán nói riêng phát triển ngoạn mục. Thị trường chứng khoán phát 45 triển đã đẩy nhanh tiến độ cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước, làm chu chuyển vốn trong nền kinh tế hiệu quả hơn, đó là thành quả đáng ghi nhận. Tuy nhiên, một đặc điểm nổi trội của luồng vốn đầu tư gián tiếp là ngắn hạn, dễ đảo chiếu khi thị trường có dấu hiệu bất ổn. Điều này tạo áp lực mạnh và bất ngờ lên tỷ giá. Đối với quốc gia thả nổi tỷ giá thì đây không phải là lo ngại lớn, nhưng đối với đất nước còn kiểm soát chặt tỷ giá như Việt Nam đây là vấn đề đặc biệt quan tâm. Khủng hoảng tài chính Thái Lan năm 2007 vẫn là bài học lớn cho nhiều nước trên Thế giới. Đó là không thể cùng lúc vừa ổn định (hoặc kiểm soát chặt tỷ giá), vừa tự do giao dịch vốn, vừa độc lập trong điều hành chính sách tiền tệ. Điều này có nghĩa, trước mắt, khi tỷ giá còn bất ổn, chính phủ không nên khuyến khích phát triển luồng vốn này. Khi tỷ giá được thả nổi, nền tiền tệ ổn định, đầu tư gián tiếp nước ngoài sẽ trở thành nguồn vốn lớn cho quốc gia. f) Tham gia tích cực vào các họat động tài chính tiền tệ trong khu vực: Bên cạnh các nỗ lực trong nước, Việt Nam cần dựa vào sức mạnh của khối ASEAN để phát triển nền kinh tế và tạo vị thế riêng cho mình. Trong những năm vừa qua, các nước Đông Nam Á cùng với Nhật Bản, Trung Quốc, Hàn Quốc đang đẩy nhanh tiến trình hoà nhập tài chánh- tiền tệ trong khu vực mà bước đầu là thiết lập Qũy Tiền tệ Châu Á với số vốn ban đầu dự kiến khoảng 1 tỷ USD. Nếu dự án này được thực hiện, việc thiết lập một hệ thống tiền tệ chung phục vụ cho các giao dịch nội khối là việc làm mang tính khả thi. Điều này có ý nghĩa quan trọng trong việc củng cố vị thế đồng tiền Việt Nam trên thương trường quốc tế. Sự phối hợp chặt chẽ giữa lợi thế của khu vực với các chính sách trong nước sẽ góp phần gia tăng sức mạnh cho đồng tiền Việt Nam trong một tương lai không xa. 4.2. Mục tiêu và định hướng: Mục tiêu của chính sách tỷ giá nước ta trong thời gian tới là: - Chính sách tỷ giá phải giữ vững thế cân bằng nội và cân bằng ngoại. 46 - Ổn định tỷ giá trong mối tương quan cung cầu trên thị trường xuất khẩu, kích thích xuất khẩu, hạn chế nhập khẩu , cải thiện cán cân thanh toán quốc tế và tăng dự trữ ngoại tệ. - Từng bước nâng cao uy tín VND, tạo điều kiện cho VND có thể trở thành đồng tiền chuyển đổi. - Phối hợp với chính sách ngoại hối để chống hiện tượng đô la hoá. Để đạt được mục tiêu trên phải thực hiện một số định hướng hoàn thiện chính sách TGHĐ như sau: Quá trình mở cửa và hội nhập kinh tế quốc tế đòi hỏi chính sách TGHĐ phải liên tục được hoàn thiện và điều chỉnh thích ứng với môi trường trong nước và quốc tế thường xuyên thay đổi. Để góp phần khai thác tối đa những lợi ích và giảm thiểu những tổn thất từ hội nhập kinh tế quốc tế, chính sách TGHĐ ở Việt Nam trong thời gian tới cần hoàn thiện theo những định hướng cơ bản sau: Thứ nhất: Tiếp tục duy trì cơ chế tỷ giá thả nổi có quản lý của Nhà nước. Trong xu thế toàn cầu hóa Việt Nam cần lựa chọn một chính sách tỷ giá thả nổi có quản lý để thích ứng và tạo ra động lực phát triển nền kinh tế nước ta trong tiến trình hội nhập vì chế độ tỷ giá thả nổi có ưu điểm là tỷ giá luôn gắn liền với quan hệ cung cầu và tỷ giá này thích ứng với điều kiện toàn cầu hóa của thị trường tài chính quốc tế. Bên cạnh đó Nhà nước vẫn có thể quản lý được mức độ biến động của tỷ giá. Thứ hai: Chính sách TGHĐ phải đóng vai trò tích cực trong việc bảo hộ một cách hợp lý các doanh nghiệp trong nước. Thứ ba: Kết hợp hài hòa lợi ích giữa hoạt động xuất khẩu và nhập khẩu theo hướng đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu các sản phẩm mà mình có lợi thế so sánh, nhưng mặt khác cũng cần gia tăng nhập khẩu các sản phẩm không có lợi thế so sánh để thỏa mãn tốt hơn nhu cầu ngày càng tăng về sản xuất và tiêu dùng nội địa. 47

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfnhom_5_tim_hieu_chinh_sach_ty_gia_cua_viet_nam_tu_1997_2011_lien_he_voi_chinh_sach_ty_gia_cua_thai_lan_trung_quoc_4955.pdf
Luận văn liên quan