Tiểu luận Triết học - chương trình cao học - Nho giáo trong văn học Việt nam

A. MỞ ĐẦU I. Lý do chọn đề tài Từ thế kỷ thứ III (TCN), dưới triều đại Vua Thục An Dương Vương, nước Âu Lạc đã là quốc gia có quy củ. Hình thức nhà nước quân chủ có tính chất tập quyền đã ra đời. Khối thống nhất dân tộc hình thành từ đó. Dân tộc Việt Nam là một trong những dân tộc hình thành sớm bằng con đường tự nguyện của các bộ tộc. Và khối đoàn kết dân tộc luôn luôn được tăng cường. Từ buổi đầu dựng nước đến nay, người Việt Nam đã liên tục chiến đấu để giành chủ quyền dân tộc, bảo vệ Tổ quốc đấu tranh chống nạn cát cứ, chống áp bức, bóc lột, chống lại các lực lượng phá hoại của giới tự nhiên, xây dựng cuộc sống ấm no, công bằng hơn và đấu tranh giải quyết các mâu thuẫn giữa các thành viên trong các cộng đồng lớn nhỏ. Trong cuộc chiến đấu trường kỳ và vô cùng gian nan ấy người Việt Nam đã sớm hình thành những quan điểm, tư tưởng, những tri thức chung của giới tự nhiên, xã hội, về con người và phương pháp tư duy. Những tri thức đó đã vai trò thế giới quan, phương pháp luận chi phối tư tưởng, hành động của hàng trăm thế hệ. Dưới thời phong kiến, từ thời Âu Lạc đến cuối thế kỷ XIX, người Việt Nam ít có các trước tác về triết học, về tư tưởng quy mô lớn, ít có người chuyên bàn về triết học như những nước khác, nhưng cộng đồng người Việt Nam đã đông, biết suy nghĩ, hành động theo những nguyên tắc nhất quán, điều đó chứng tỏ thế giới quan của người Việt Nam đã suy nghĩ và hành động rất thống nhất trong quan niệm về bổn phận và nghĩa vụ: bổn phận với gia đình, nghĩa vụ với Tổ quốc. Có lẽ không có dân tộc nào mà số anh hùng hy sinh đời mình để bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ giống nòi đông như ở Việt Nam: “Ra ngỏ gặp anh hùng”. Người Việt Nam coi trọng đạo lý, coi trọng cuộc sống tinh thần, dám coi thường cuộc sống vinh hoa phú quý, coi trọng khí tiết, trọng danh dự, kiên cường bất khuất, đúng là “Phú quý bất năng dâm, bần tiện bất năng di, uy vũ bất năng khuất” (giàu sang không thể quyến rũ, nghèo hèn không đổi chí, sức mạnh không thể khuất phục). Trân trọng và tiếp thu những tri thức của con người Việt Nam, dân tộc Việt Nam từ những buổi đầu dựng nước, người viết quyết định chọn đề tài này để thêm một lần nữa thấm nhuần những tư tưởng đạo đức đáng quý ấy và lấy đó làm kim chỉ nam cho mọi suy nghĩ, hành động của mình để sống nhân văn hơn, nhân bản hơn, có ích cho mọi người, cho đời và cho Tổ quốc thân yêu. II.Mục đích nghiên cứu Sau chiến thắng Điện biên phủ chấn động toàn cầu, chiến thắng của chiến dịch Hồ Chí Minh thần tốc, kỳ diệu “hiện tượng Việt Nam”, “sức mạnh thần kỳ” của dân tộc Việt Nam đã trở thành biểu tượng chiêm ngưỡng của bạn bè khắp năm châu, trở thành đối tượng nghiên cứu hấp dẫn đối với nhiều nhà khoa học trong và ngoài nước. Đồng chí Lê Duẩn nói: ”Ta là người Việt Nam, nhưng ta hiểu rõ ta cũng không phải là việc dễ, hiện nay chưa phải là chúng ta đã hiểu rõ người Việt Nam lắm đâu” (Cách mạng XHCN ở Việt Nam, nhà xuất bản Sự thật, Hà Nội 1976) Bằng hình ảnh thơ, đồng chí Tố Hữu cũng đã viết: “Việt Nam ! Người là ta mà ta chưa bao giờ hiểu hết Người là ai?Mà sức mạnh thần kỳ” (Với Đảng, mùa xuân, 1977) Ta chưa hiểu hết ta.Và có lẽ điểm mà ta hiểu biết sơ sài nhất về ta chính là sự hiểu biết về triết lý, tư tưởng, về cách tư tưởng của ta. Đề tài này mong muốn góp một phần nhỏ vào chổ hiểu biết đó: Tìm hiểu con người Việt Nam trong lịch sử ở phương diện ý thức để nhằm khẳng định những giá trị truyền thống văn hóa tư tưởng Việt Nam, để làm cơ sở nghiên cứu lịch sử, văn học nghệ thuật để góp phần xây dựng nội dung giáo dục con người mới XHCN Việt Nam . Để đạt được mục đích ấy, người viết đề ra yêu cầu: cố gắng phác họa đúng chân dung vốn có của hệ tư tưởng Nho giáo, những cái tốt và cái không tốt nghĩa là không chỉ nhằm ca ngợi truyền thống hay chỉ nhằm phê phán tư tưởng phong kiến. III.Lịch sử vấn đề Từ mấy chục năm nay có không ít các nhà nghiên cứu đề cập đến tư tưởng Việt Nam, nhưng số công trình chuyên bàn về hệ tư tưởng Nho giáo Việt Nam thì còn rất ít ỏi. Nghiên cứu về hệ ý thức Nho giáo Việt Nam dưới thời phong kiến, tức là nghiên cứu những vấn đề thuộc phạm vi dân tộc, những vấn đề quá khứ, nhưng chưa phải đã mất hẳn, do đó phải đặc biệt chú ý đến tính dân tộc, tính truyền thống và cả tính thời sự nữa. Tuy nhiên, với cấp độ nghiên cứu là một Tiểu luận cho học phần Triết học dành cho học viên cao học không thuộc nghành chuyên Triết vì thế người viết chỉ có thể phác họa ra những nét cơ bản nhất, cốt lõi nhất đúng với diện mạo vốn có của hệ tư tưởng Nho giáo Việt Nam thời phong kiến và nhận định đúng bản chất của nó. IV.Phương pháp nghiên cứu Căn cứ vào đối tượng nghiên cứu, do vậy người viết nhận thấy đây là hệ tư tưởng, tức là thuộc về loại tư duy lý luận, thuộc về một bộ môn khoa học triết học cho nên trước hết lấy lập trường, quan điểm và phương pháp triết học Mác-Lênin làm phương pháp luận chỉ đạo quá trình nghiên cứu. Đồng thời kết hợp với phương pháp trực quan, thể nghiệm, kết hợp với phân tích suy lý một cách khách quan và phương pháp xây dựng mô hình cấu trúc-nội dung của các khái niệm, các quan điểm tư tưởng. V.Kết cấu của Tiểu luận Chương I. Cơ sở của truyền thống văn hóa, tư tưởng Việt Nam thời phong kiến 1. Điều kiện lịch sử, địa lý, xã hội sản sinh nền Văn hóa, tư tưởng Việt Nam thời phong kiến. 2.Tâm lý xã hội và ảnh hưởng của nó đối với tư tưởng Việt Nam Chương II. Đặc điểm nổi bật của hệ tư tưởng Nho giáo Việt Nam thời phong kiến. 1. Lịch sử phát triển và kinh điển Nho giáo. 2. Vài vấn đề cơ bản của Nho giáo.

doc27 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 7471 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Triết học - chương trình cao học - Nho giáo trong văn học Việt nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
A. MỞ ĐẦU I. Lý do chọn đề tài Từ thế kỷ thứ III (TCN), dưới triều đại Vua Thục An Dương Vương, nước Âu Lạc đã là quốc gia có quy củ. Hình thức nhà nước quân chủ có tính chất tập quyền đã ra đời. Khối thống nhất dân tộc hình thành từ đó. Dân tộc Việt Nam là một trong những dân tộc hình thành sớm bằng con đường tự nguyện của các bộ tộc. Và khối đoàn kết dân tộc luôn luôn được tăng cường. Từ buổi đầu dựng nước đến nay, người Việt Nam đã liên tục chiến đấu để giành chủ quyền dân tộc, bảo vệ Tổ quốc đấu tranh chống nạn cát cứ, chống áp bức, bóc lột, chống lại các lực lượng phá hoại của giới tự nhiên, xây dựng cuộc sống ấm no, công bằng hơn và đấu tranh giải quyết các mâu thuẫn giữa các thành viên trong các cộng đồng lớn nhỏ. Trong cuộc chiến đấu trường kỳ và vô cùng gian nan ấy người Việt Nam đã sớm hình thành những quan điểm, tư tưởng, những tri thức chung của giới tự nhiên, xã hội, về con người và phương pháp tư duy. Những tri thức đó đã vai trò thế giới quan, phương pháp luận chi phối tư tưởng, hành động của hàng trăm thế hệ. Dưới thời phong kiến, từ thời Âu Lạc đến cuối thế kỷ XIX, người Việt Nam ít có các trước tác về triết học, về tư tưởng quy mô lớn, ít có người chuyên bàn về triết học như những nước khác, nhưng cộng đồng người Việt Nam đã đông, biết suy nghĩ, hành động theo những nguyên tắc nhất quán, điều đó chứng tỏ thế giới quan của người Việt Nam đã suy nghĩ và hành động rất thống nhất trong quan niệm về bổn phận và nghĩa vụ: bổn phận với gia đình, nghĩa vụ với Tổ quốc. Có lẽ không có dân tộc nào mà số anh hùng hy sinh đời mình để bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ giống nòi đông như ở Việt Nam: “Ra ngỏ gặp anh hùng”. Người Việt Nam coi trọng đạo lý, coi trọng cuộc sống tinh thần, dám coi thường cuộc sống vinh hoa phú quý, coi trọng khí tiết, trọng danh dự, kiên cường bất khuất, đúng là “Phú quý bất năng dâm, bần tiện bất năng di, uy vũ bất năng khuất” (giàu sang không thể quyến rũ, nghèo hèn không đổi chí, sức mạnh không thể khuất phục). Trân trọng và tiếp thu những tri thức của con người Việt Nam, dân tộc Việt Nam từ những buổi đầu dựng nước, người viết quyết định chọn đề tài này để thêm một lần nữa thấm nhuần những tư tưởng đạo đức đáng quý ấy và lấy đó làm kim chỉ nam cho mọi suy nghĩ, hành động của mình để sống nhân văn hơn, nhân bản hơn, có ích cho mọi người, cho đời và cho Tổ quốc thân yêu. II.Mục đích nghiên cứu Sau chiến thắng Điện biên phủ chấn động toàn cầu, chiến thắng của chiến dịch Hồ Chí Minh thần tốc, kỳ diệu “hiện tượng Việt Nam”, “sức mạnh thần kỳ” của dân tộc Việt Nam đã trở thành biểu tượng chiêm ngưỡng của bạn bè khắp năm châu, trở thành đối tượng nghiên cứu hấp dẫn đối với nhiều nhà khoa học trong và ngoài nước. Đồng chí Lê Duẩn nói: ”Ta là người Việt Nam, nhưng ta hiểu rõ ta cũng không phải là việc dễ, hiện nay chưa phải là chúng ta đã hiểu rõ người Việt Nam lắm đâu” (Cách mạng XHCN ở Việt Nam, nhà xuất bản Sự thật, Hà Nội 1976) Bằng hình ảnh thơ, đồng chí Tố Hữu cũng đã viết: “Việt Nam ! Người là ta mà ta chưa bao giờ hiểu hết Người là ai?Mà sức mạnh thần kỳ” (Với Đảng, mùa xuân, 1977) Ta chưa hiểu hết ta.Và có lẽ điểm mà ta hiểu biết sơ sài nhất về ta chính là sự hiểu biết về triết lý, tư tưởng, về cách tư tưởng của ta. Đề tài này mong muốn góp một phần nhỏ vào chổ hiểu biết đó: Tìm hiểu con người Việt Nam trong lịch sử ở phương diện ý thức để nhằm khẳng định những giá trị truyền thống văn hóa tư tưởng Việt Nam, để làm cơ sở nghiên cứu lịch sử, văn học nghệ thuật …để góp phần xây dựng nội dung giáo dục con người mới XHCN Việt Nam . Để đạt được mục đích ấy, người viết đề ra yêu cầu: cố gắng phác họa đúng chân dung vốn có của hệ tư tưởng Nho giáo, những cái tốt và cái không tốt nghĩa là không chỉ nhằm ca ngợi truyền thống hay chỉ nhằm phê phán tư tưởng phong kiến. III.Lịch sử vấn đề Từ mấy chục năm nay có không ít các nhà nghiên cứu đề cập đến tư tưởng Việt Nam, nhưng số công trình chuyên bàn về hệ tư tưởng Nho giáo Việt Nam thì còn rất ít ỏi. Nghiên cứu về hệ ý thức Nho giáo Việt Nam dưới thời phong kiến, tức là nghiên cứu những vấn đề thuộc phạm vi dân tộc, những vấn đề quá khứ, nhưng chưa phải đã mất hẳn, do đó phải đặc biệt chú ý đến tính dân tộc, tính truyền thống và cả tính thời sự nữa. Tuy nhiên, với cấp độ nghiên cứu là một Tiểu luận cho học phần Triết học dành cho học viên cao học không thuộc nghành chuyên Triết vì thế người viết chỉ có thể phác họa ra những nét cơ bản nhất, cốt lõi nhất đúng với diện mạo vốn có của hệ tư tưởng Nho giáo Việt Nam thời phong kiến và nhận định đúng bản chất của nó. IV.Phương pháp nghiên cứu Căn cứ vào đối tượng nghiên cứu, do vậy người viết nhận thấy đây là hệ tư tưởng, tức là thuộc về loại tư duy lý luận, thuộc về một bộ môn khoa học triết học cho nên trước hết lấy lập trường, quan điểm và phương pháp triết học Mác-Lênin làm phương pháp luận chỉ đạo quá trình nghiên cứu. Đồng thời kết hợp với phương pháp trực quan, thể nghiệm, kết hợp với phân tích suy lý một cách khách quan và phương pháp xây dựng mô hình cấu trúc-nội dung của các khái niệm, các quan điểm tư tưởng. V.Kết cấu của Tiểu luận Chương I. Cơ sở của truyền thống văn hóa, tư tưởng Việt Nam thời phong kiến 1. Điều kiện lịch sử, địa lý, xã hội sản sinh nền Văn hóa, tư tưởng Việt Nam thời phong kiến. 2.Tâm lý xã hội và ảnh hưởng của nó đối với tư tưởng Việt Nam Chương II. Đặc điểm nổi bật của hệ tư tưởng Nho giáo Việt Nam thời phong kiến. 1. Lịch sử phát triển và kinh điển Nho giáo. 2. Vài vấn đề cơ bản của Nho giáo. B.NỘI DUNG CHƯƠNG I. CƠ SỞ CỦA TRUYỀN THỐNG VĂN HÓA, TƯ TƯỞNG VIỆT NAM THỜI PHONG KIẾN 1. Điều kiện lịch sử, địa lý, xã hội sản sinh nền Văn hóa, tư tưởng Việt Nam thời phong kiến. - Khối thống nhất dân tộc hình thành sớm, “Nước Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là một”. - Liên tục chiến đấu và chiến thắng, “càng đánh càng mạnh, càng mạnh càng thắng to”. - Việt Nam ở phía nam Trung Quốc, phía bắc Chăm pa, phía đông dãy Trường Sơn, phía tây Biển Đông. - Ngã tư giao lưu văn hóa: Ấn Độ-Trung Hoa-Đông Nam Á-Phương Tây - Mang nền văn minh trên triền sông: Hồng - Mã - Lam - Có nền nông nghiệp lúa nước lâu đời ít phát triển. - Tàn dư công xã nông thôn “Phép vua thua lệ làng” - Gia đình-dân tộc làng nước (Những cộng đồng ổn định của xã hội Việt Nam) Gia đình là tế bào của xã hội - Chế độ quân chủ chuyên chế tồn tại dai dẳng. - Có những thời kỳ mất nước kéo dài. -Không có những cuộc cách mạng triệt để về kinh tế-xã hội. -Công nghiệp và khoa học kỹ thuật chậm phát triển. 2. Tâm lý xã hội và ảnh hưởng của nó tới hệ tư tưởng Việt Nam Những điều kiện lịch sử, địa lý, xã hội trên đây sản sinh tâm lý xã hội đồng thời cùng với tâm lý xã hội đó tạo thành cơ sở của hệ tư tưởng Việt nam: -Nhân hậu-đoàn kết-thủy chung: “Thương người như thể thương thân” “Nhiễu điều phủ lấy giá gương Người trong một nước phải thương nhau cùng” “Lá lành đùm lá rách Lá rách ít đùm lá rách nhiều” -Hy sinh cho tổ quốc là một vinh dự, bổn phận -Có tinh thần “dân chủ” công xã nhân dân -Luôn luôn cần cù và sáng tạo -Trọng nhân luân, đạo lý. Trọng luân lý gia đình, trọng truyền thống: “Giấy rách phải giữ lấy lề”. Trọng tuổi tác ”kính lão đắc thọ”, trọng người có đức, có học, hiếu học “Muốn con hay chữ phải yêu mến thầy”. Trọng dư luận hiếu khách, trọng tình bạn. -Thích cuộc sống quân bình, hòa hợp với thiên nhiên. -Thích lạc quan, cởi mở, độ llượng. -Sống bình dị. Tuy nhiên, còn một số những hạn chế trong tâm lý, trong suy nghĩ của người Việt nam thời phong kiến, song vì điều kiện không cho phép nên người viết xin được không nêu ra ở đây. CHƯƠNG II. ĐẶC ĐIỂM NỔI BẬT CỦA HỆ TƯ TƯỞNG NHO GIÁO VIỆT NAM THỜI KỲ PHONG KIẾN Nền văn hóa Việt Nam đã từng phát triển trong sự giao lưu mật thiết với các nền văn hóa khác: Ấn độ-Trung Hoa-Phương Tây-Đông Nam Á, trong đó Nho giáo, Phật giáo và Đạo giáo ảnh hưởng rõ rệt nhất. Người Việt nam đã tiếp thu các hệ tư tưởng ấy trong nhiều tình thế: cưỡng bức, tự nguyện, vừa cưỡng bức vừa tự nguyện, trực tiếp, gián tiếp…Trên cơ sở vững chắc của truyền thống văn hóa dân tộc, một số yếu tố tích cực trong các học thuyết ấy đã góp phần tạo nên truyền thống văn hóa Việt Nam. Ba học thuyết Nho-Phât-Đạo đã truyền vào Việt Nam từ những thế kỷ đầu của Công Nguyên bằng nhiều hình thức khác nhau. Vai trò lịch sử của các hệ tưởng ấy thay đổi qua các thời kỳ lịch sử nhưng nhìn chung ta thầy thế lực của Nho giáo mạnh dần và đến thế kỷ thứ XV thì chiếm vị trí độc tôn. Đến Cách mạng tháng tám thành công đã chấm dứt vai trò lịch sử của các hệ tư tưởng phong kiến, đặc biệt là vai trò thống trị của Nho giáo. Nho giáo rất có ý thức về quyền uy, tỏ ra có kinh nghiệm tạo quyền uy và các hình thức khống chế con người. Nho giáo trực tiếp phục vụ chính quyền Phong kiến, chi phối chính quyền, uy lực tinh thần của “thánh hiền” là tuyệt đối đối với triều đình vua quan. Nho giáo dành được quyền đại diện dân tộc, đại diện văn hóa dân tộc, nó là cơ sở tư tưởng chung cho các triều đại phong kiến. Vì vậy, triều đại nhỏ lớn nào cũng cứ vẫn tồn tại. Học thuyết Nho giáo tỏ ra có khả năng thích ứng cao đối với các biến động của xã hội trên 2000 năm qua, trong các quốc gia lớn ở châu Á, nó kìm hãm sự phát triển của xã hội, kéo dài tuổi thọ của chế độ phong kiến quân chủ tập quyền, mặt khác cũng chứng tỏ nó có nhiều kinh nghệm để tổ chức xã hội, nó thực tế hơn các hệ tư tưởng phong kiến cùng thời. 1. Sơ lược lịch sử phát triển và Kinh điển Nho giáo Nho giáo vốn là một học thuyết chính trị-xã hội, là hệ tư tưởng chính thống của giai cấp phong kiến Trung hoa. Tư tưởng nho giáo xuất hiện từ thời Tây Chu (TK X đến TK VII TCN), đến thời kỳ Xuân Thu, Khổng Tử (551-479 TCN) đã sưu tập, chỉnh lý các điển tịch, tư tưởng của các Nho gia tiền bối, hệ thống lại thành một học thuyết tương đối có hệ thống, nhằm mục đích phục hồi lại kỷ cương xã hội, cứu vãn tình thế loạn lạc thời đó: Vua không ra vua, tôi không ra tôi, cha không ra cha, con không ra con. Sang đến thời Chiến quốc, Mạnh Tử (372-289TCN), một nhà nho xuất sắc đã kế thừa và phát triển tư tưởng theo hướng duy tâm chủ nghĩa khách quan. Mạnh Tử đã đấu tranh, phản bác các học phái khác (Mạc Tử, Dương Chu…), bảo vệ Nho học. Đến đời Hán, Đổng Trọng Thư đã thần bí hóa, tôn giáo hóa Nho học bằng cách đưa vào các học thuyết Khổng-Mạnh, các tư tưởng của pháI Âm-Dương, Ngũ hành, các tư tưởng mê tín khác, đồng thời thiết lập hệ thống nghi lễ mới. Nho giáo nhằm phục vụ đắc lực hơn cho chính quyền dân chủ chuyên chế cao độ của nhà Hán. Thời Ngụy Tân Nam Bắc Triều cho đến Tùy Đường, Đạo giáo và Phật giáo mạnh dần lên và đạt đến cực thịnh ở thời Đường. Đến đời Tống (TK X, XI, XII), một loạt cự Nho ra đời: Chu Đôn Di, Trình Hiệu, Trinh Di, Lục Cửu Uyên... Họ đã tiếp thu tư tưởng triết lý của Đạo gia, Phật học, bổ sung cho cơ sở lý luận của hệ tư tưởng Nho giáo, làm cho Nho giáo có cơ sở triết lý vững chắc hơn đủ sức mạnh cạnh tranh với các hệ tư tưởng khác. Đó là một lần phục hưng Nho giáo. Tống Nho có ảnh hưởng đến xã hội Việt Nam và những nước khác, đặc biệt là vai trò của Chu Hy. Sau lần canh tân ấy, Nho giáo có thêm sức mạnh, sức sống mới, nhưng đồng thời nó cũng trở nên khắc nghiệt hơn, phản động hơn, phi nhân bản hơn . Kinh sách nho giáo nhiều nhưng gốc là ở Ngũ kinh-Tứ thư Ngũ kinh. Ngũ kinh gồm: +Kinh thi: Một hợp tuyển thơ ca dân gian và thơ ca dùng để tế lễ đời nhà Chu. +Kinh Thư: (Thượng thư) bộ sách nói về cách trị nước và thể chế nhà nước Phong kiến, có thể coi là bộ sách “lịch sử-hiến pháp” của Trung Quốc cổ đại. +Kinh dịch: Bộ sách bói toàn và triết lý, vốn không phải là sách của Nho gia, nhưng nhà Nho tự coi là kinh điển của mình và tương truyền Khổng Tử soạn thập dực trong Kinh dịch. +Kinh lễ: (Lễ ký) là bộ sách trình bày hỗn hợp nhiều vấn đề nhưng chủ yếu là lễ nghi và các quy tắc giao tiêp ứng xữ. +Kinh Xuân Thu: Bộ sử biên niên, chép sử nước Lỗ, thời Xuân-Thu. Trong đó Khổng Tử trực tiếp tình bày tư tưởng “Chính danh”, quan điểm lịch sử và các tư tưởng chính trị khác. Tứ thư (tứ truyện) gồm: +Luận ngữ: Bộ sách ghi chép lời Khổng Tử dạy cho học trò và lời học trò trường Khổng Tử bàn luận với nhau. Đây là một bộ sách có giá trị thực lực cao nhất của thư tịch Nho học Nguyên thủy. +Mạnh Tử: Bộ sách ghi chép lời của Mạnh Tử biện luận với các học phái khác nhau và với các vua chúa đương thời. +Đại học: Bộ sách bàn về sự tu thân của người quân tử, tương truyền là sách của Tăng Tử. +Trung dung: Là bộ sách bàn về đạo “Trung dung”, lối sống “không thá quá, không bất cận” của người quân tử, là một bộ sách có ý nghĩa phương pháp luận cao của nhà Nho, tương truyền là sách của Tử Tư-cháu nội của Khổng Tử. 2. Vài vấn đề cơ bản của Nho giáo Nho giáo đề cập nhiều đến các vấn đề sau: -Trời, Trời-Người cảm ứng, Mệnh trời. -Vương chính, Đức trị, Nhân trị, Lễ trị, Tôn hiền thân thân. -Chính danh. -Luân thường. -Đức và Tài, lý tưởng của Nho gia (kẻ sỹ): Tu-Tề-Trị-Bình. -Sỹ-Nông-Công-Thương. -Dĩ nông vi bản… Trong tiểu luận này người viết xin trình bày vài vấn đề quan trọng nhất, xét thấy có ảnh hưởng trực tiếp đến xã hội Việt Nam thời phong kiến. a. Trời, Trời -Người cảm ứng, Mệnh trời: (Trời thiên đế) Nho giáo quan niệm: Trời là đấng chí tôn hoàn thiện, toàn năng, có nhân cách, có ý chí. Trời là tổng nguyên nhân chi phối vũ trụ. Tuy ở cao xa nhưng trời ngầm xét việc trần gian và việc của thần linh, quỹ thần thưởng phạt nghiêm minh. Khi vua chúa làm điều thất đức lớn thì trời cho ra các trương triệu để cảnh tỉnh và có thể giáng đại hạn để trừng trị (đại hạn, sao chổi xuất hiện, mùa hè tuyết rơi, ôn dịch, sấm sét,…). Vì vậy Vua chúa, thần dân ai cũng phải sợ Trời, kính Trời. Khổng Tử nói: “sống chết có mệnh, giàu sang tại Trời”, “phải tội với trời không cầu đảo vào đâu được” (Luận ngữ) Việt sử thông giám cương mục, tập 3, trang 261 chép rằng: “Người Diễn Châu chống lại mệnh lệnh triều đình, nhà vua tự cầm quân đi đánh. Khi quân về đến của biển (ở địa phân Ngọc Sơn-Thanh Hóa) gặp cơn gió mưa mờ mịt, sấm chớp ầm ầm, mọi người đều sợ có sự bất trắc. Nhà vua đốt hương khấn Trời rằng: “Tôi là người ít đức, đứng đầu quan và dân, vẫn nơm nớp sợ hãi như lo lỡ sa xuống vực thẳm. Chỉ vì người Diễn Châu ngang ngạnh, không theo giáo hóa nên bất đắc dĩ phải đi đánh dẹp. Trong vòng gươm giáo chắc không khỏi có sự oan uổng tới dân lành, đến nỗi làm cho Hoàng Thiên nổi giận, một mình tôi đây dù phải chịu nạn cũng không dám ân hận gì, nhưng còn sáu quân vô tội thì sao? Kính xin lòng Trời soi xét cho “Khấn vừa xong chưa dứt lời, sấm gió yên ngay…” Lời phê (của Tự Đức): “Lời Lý Thái Tổ khấn Trời, tỏ ra rất có đức độ đế vương, thật chẳng khác Thành Thang nhà Thương đem sáu việc trách mình trong khi gặp nạn bảy năm hạn hán, thảo nào giữa Người và Trời có sự cảm ứng không sai“ (Sáu việc đó là: Chính sự không có chừng mực chăng? Cung thất đồ sộ chăng? nữ sắc quá nhiều chăng? oan uổng nhiều chăng? hay nghe lời nịnh nọt chăng? làm mất lẽ công bằng chăng?) Người bình dân Việt Nam cũng tin ở Trời cầu mong Trời “lạy trời mưa xuống, lấy nước tôi uống…”, có khi trách trời “Trời ơi, Trời ở không cân, Người ăn không hết người làm không ra”, Nguyễn Du tổng hợp quan niệm Trời của Nho gia và của bình dân: “… Ngẫm hay muôn sự tại Trời Trời kia đã bắc làm người có thân Bắt phong trần phải phong trần Cho thanh cao mới được phần thanh cao” hay “…Đã mang lấy nghiệp vào thân Cũng đứng trách lẫn Trời gần, Trời xa” rồi “…Đã cho lấy chữ hồng nhan. Làm cho, cho hại, cho tàn, cho cân…” (Truyện Kiều) Ông Trời của Nho gia và ông Trời của bình dân ở Việt Nam không giống nhau hoàn toàn. Người bình dân quan niệm ông Trời là một đấng toàn năng, biết thương người, hay bênh vực cho kẻ nghèo hèn, kẻ yếu thế bị áp bức cho người hiền lành đạo đức người bình dân thường kết hợp Trời-Bụt-Tiên thành một hình tượng chung, và mỗi khi gặp nạn, hoặc có điều oan ức thì liền kêu cứu Trời-Bụt cứu giúp. Ông Trời của Nho gia trang nghiêm, độc đoán, quyền uy, Trời là sức mạnh đáng sợ ai cũng phải khuất phục. + Thiên Tử Nhà vua tự coi mình là Thiên Tử (con Trời) tức là người có thể làm mô giới giữa người với Trời-Đất, quỷ thần. Trong lực lượng siêu nhiên, ở ngôi chí tôn có Trời (Thượng đề, Thiên đế) dưới Trời có đủ loại thần linh (riêng người Việt Nam thì trong số thần linh đó có nhiều vị thần vốn là những nhân vật lịch sử đã từng có công đức lớn với dân, với nước, sau khi chết cũng hiển linh phù trợ muôn dân, có khi còn ra trận mạc để cùng với người sống đánh giặc, cứu nước (Trương Hống và Trương Hát, Đức Thánh Trần…). Sau nữa các gia đình cũng có liên hệ với tổ tiên của mình. Tổ tiên cũng phụ trợ hoặc quở trách con cháu. Người Việt Nam từ xưa đã có tục thờ cúng tổ tiên. Nho giáo du nhập và khẳng định thêm các tính ngưỡng ấy. Thiên Tử đứng đầu muôn dân và cai quản thần linh. Quân quyền cho phối thần quyền. Thiên Tử thụ lãnh sứ mệnh ở Trời để trị dân và chịu trách nhiệm với Trời. Lễ tế Trời ở Nam Giao (Thừa Thiên Huế) do Thiên Tử làm chủ tế thể hiện quan niệm đó. + Trời-Người cảm ứng: Tư tưởng Trời-Người cảm ứng (Thiên nhân tương cảm) là một loại tư tưởng nguyên thủy, tiềm logic, nhưng đã tồn tại suốt thời đại phong kiến và có ảnh hưởng sâu rộng. Tư tưởng ấy đã trở thành một phương thức tư duy phổ biến trong nhân dân và giới trí thức cũ. Tư tưởng “Thiên nhân tương cảm:” dựa trên nguyên lý “đồng loại tương đồng” (đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu). Trời và Người cùng một loại cho nên lòng người thiện hay ác đều có ảnh hưởng đến sự vận hành của vũ trụ: “Nhật thực có thường độ” (định luật) nhưng nhân sự thì biến đổi thế nào vẫn liên quan đến nó. Con người sắp làm điều bất thiện mà hễ mặt trăng đi vào độ giao thực thì nó liền lấn át và che lấp mặt Trời. Đó là cá của con người động đến Trời. Lại như mặt trời sắp mưa dầm thì người nào bị đánh hay ngã bị thương, tất thấy đau buốt, đó là khí Trời đã động đến người. Điều đó có thể chứng nghiệm được rõ Trời với Người có cùng một lẽ” (Vân đài loại ngữ-Lê Quý Đôn, NXBVH tập 1 trang 59)” Cuối thế kỷ XVIII và XIX, tư tưởng (Trời-Người cảm ứng) phát triển mạnh ở Việt Nam: Nhiều trí thức lớn như Phạm Viên, Lê Hữu Trác, Nguyễn Thiếp… đều có chịu ảnh hưởng. Trong văn học cũng có nhiều tác phẩm thể hiện tư tưởng ấy: Tục truyền ký của Đoàn Thị Điểm, Vũ trung tùy, Tang thương ngẫu lục của Phạm Đình Hổ; Thoái thực ký văn của Trương Quốc Dụng, kể cả truyện Kiều của Nguyễn Du… + Mệnh trời: Trời chi phối con người bằng Mệnh Trời. Mỗi người sinh ra, già, chết, mạnh khỏe, ốm đau, nghèo hèn, sướng khổ…tất cả đều do mệnh Trời. Nhà Nho có tư tưởng định mệnh. Họ cho rằng mọi việc lớn nhỏ đều do tiền định: “Nhất ẩm, nhất trác giai do tiền định” (Một miếng cơm, một ngụm nước đều do tìên đinh). Con người phải an phận thủ thường, vui với số phận đã an bài. Tuy vậy Nhà nho cũng cho rằng con người phải cố gắng hết sức mình làm hết bổn phận của mình thì mới biết được Mệnh trời. Như vậy lý luận của Nho gia có mâu thuẫn, giải pháp của họ về vấn đề quan hệ giữa sức người với Mệnh Trời không triệt để. Họ thường cho rằng do Trời nhưng cùng do Người. Kinh thư có nói: “Lòng dân là ý Trời”. Lòng chân thành sự hối cải của con người có thể cảm động đến Trời, sửa được mệnh Trời “xưa nay nhận định đã thắng Thiên cũng nhiều” Quan niệm con người đều có số phận tiền định, sự việc do Mệnh Trời, thời vận quyết định. -Đặng Dung khi thất thế đã tìm nguyên nhân thất bại ở thời vận : “Thời lai đồ điếu thành công dị, Vẫn cứ anh hùng ẩm hậu đa” (Cảm hoài) -Trong Nhi Độ Mai có câu : “Nhân duyên vốn sẵn tại trời” -Nguyễn Công Trứ: “Bởi số chạy sao cho khỏi số, Chung cuộc thời chi cũng tại trời” -Nguyễn Đình Chiểu trong Lục Văn Tiên khi luận về Gia Cát cũng khẳng định thời vận quyết định: “Thương ông Gia Cát tài bành Gặp cơn Hán mạt chịu đành tam phân” Đặc biệt truyện Kiều của Nguyễn Du thể hiện rất rõ tư tưởng “Trời-Người cảm ứng” và quan niệm “Tài mệnh tương đố”. Mười lăm năm lưu lạc của Thúy Kiều là tiền định, Thúy Kiều gắn bó với hồn ma Đạm Tiên bằng mộng triệu, chiêm bao và hơn nữa những lần chiêm bao, đoán tướng, đoán chừng đều ứng nghiệm cả *Chiêm bao: “Tựa ngồi bên triện một mình thiu thiu, Thoắt đâu thấy một Tiểu Kiều. … Thưa rằng “Thanh khí xưa nay, Mới cùng nhau ban ngày đã quên?” … Vâng trình hội chủ xem tường, Mà sao trông sổ đoạn trường có tên Âu đành cũng kiếp nhân duyên Cũng người một hội, một thuyền đâu xa” “Trong mê dường đã đứng bên mặt nàng Rỉ rằng: nhân quả dở dang, Đã toan trốn nợ đoạn tràng được sao? Số còn nặng nghiệp má đào Người dù muốn quyết trời nào đã cho” *Đoán tướng: “Có người tướng sĩ đoán ngay một lời: Anh hoa phát tiết ra ngoài, Nghìn thu bạc mệnh một đời tài hoa” *Đoán chừng: “Sinh rằng giải cấu là duyên Xưa nay nhân định thắngThiên cũng nhiều” Các loại mộng triệu, chiêm bao, đoán tướng, đoán chừng đều chuyển thành sự thực cả: “Hỏi ra mới biết là sông Tiền Đường, Nhớ lời thần mộng rõ ràng, Này thôi hết kiếp đoạn trường là đây Đạm tiên nàng nhé có hay Hẹn ta thì đợi dưới này rước ta” và cuối cùng thì “nhân định” đã “thắng thiên”: “Giác Duyên dù nhớ nghĩa nhau Tiền Đường thả một bè lau rước người” Cuộc đời của Kiều đã có trong sổ định mệnh. Nhưng cái tài của Kiều vẫn cố vươn lên, thế là Tài và Mệnh xung khắc cho đến lúc Kiều phải nhảy xuống sông Tiền Đường mới kết thúc. Đợt thứ nhất:Tài của Kiều trong đà thuận lợi, Thúy Kiều gặp Kim Trong, cái Mệnh chưa xuất hiện nhưng hình như cũng đã rình rập, phục sẵn trong cái cơ hội tốt đẹp ấy: “Khúc đâu Hán Sở chiến trường Nghe ra tiếng sắt, tiếng vàng chen nhau. Khúc đâu Tư Mã “Phương cầu” Nghe ra như oán như sầu phải chăng … Rằng hay thì thật là hay Nghe ra ngậm đắng nuột cay thế nào” Liền sau đó các Mệnh xuất hiện, bằng sự vu oan giá họa của tên bán tơ, Kiều phải tự bán mình chuộc cha. Cái Mệnh đã thắng bằng sự vu oan đánh lén. Mệnh thằng Tài, cái Tài chịu oan nhưng không chịu nhục, Thúy Kiều hành động chưa có chỗ nào sai lầm. Đợt thứ hai: Cài Tài giúp Kiều gượng dậy gặp Thúc Sinh, cái Mệnh xuất hiện qua mưu mô của Hoạn Thư xảo quyệt mà già dặn, công khai, trực diện đánh gục cài Tài. Cài Tài bị cầm tù, không kêu oan được, Thúy Kiều lần này không phải không có lỗi: “Cùng trong một tiếng tơ đồng Người ngoài cười nụ, người trong khóc thầm” Đợt thứ ba: Cài Tài giúp Kiều vượt qua trỗi dậy vinh quang hiển hách, gặp Từ Hải. Nhưng cái Mệnh cũng đã đến ngay bằng sự tráo trở của Hồ Tôn Hiến và lần này chính Kiều đã phạm sai lầm, cái Tài đã nối giáo cho giặc để Kiều phải chuốc lấy tai vạ đến nỗi Từ Hải phải chết đứng. Cái Tài sa cơ, bị điểm nhục, tuyệt vọng: “Một cung gió thảm mưa sầu Bốn dây rõ máu năm đầu ngón tay” Đợt thứ tư: Trong cuộc xung đột giữa Tài và Mệnh, Kiều “Có Tài mà cậy chi Tài Chữ Tài liền với chữ tai một vần”. Gieo mình xuống sông Tiền Đường, Kiều một lần cuối cùng quyết thoát khỏi Định Đệnh và “nhận định” đã “thắng thiên”. Sức người đã đổi được Mệnh Trời. Nhưng không phải nhờ cái Tài mà bằng cái Tâm (Đó là lời giải độc đóa của Nguyễn Du): “Khúc đâu đầm ấm dương hòa Ấy là hồ điệp hay là Trang Sinh. Khúc đâu êm ái xuân tình, Ấy hồn thục đế hay mình đỗ quyên … Xưa sao sầu thảm nay sao vui vầy? Tẻ vui bởi tại lòng này Hay là khổ nặng đến ngày cam lai?” Tư tưởng “Trời-Người cảm ứng”, tư tưởng định mệnh tồn tại dai dẳng như thế, do nền khoa học phát triển chậm, do chế độ quân chủ chuyên chế, ra sức duy trì nó. Người dân chất phác tin vào Trời, cầu mong ở trời, tin là có Mệnh Trời, vì họ bất lực trước số phận. Khi gặp các biên cố trong giới tự nhiên, biến cố trong xã hội , sự thay vua đổi chúa. Họ không hiểu nguyên nhân và bất lực thì bèn cho đó là “ý Trời đã định, số Trời là vậy” để tự an ủi. Người có học, kẻ thống trị thì vừa tin là có Mệnh Trời vừa có ý thức lợi dụng Mệnh Trời để sai khiến người dân. b. Luân thường: Luân thường là một học thuyết luân lý chính trị quan trọng trong bậc nhất của Nho giáo, bao gồm Ngũ luân và Ngũ thường b1. Ngũ luân Đây là năm mối quan hệ cơ bản giữa ngưới với người trong xã hội phong kiến: Quân-Thần; Phu-Tử; Phu-Phụ; Huynh-Đệ; Bằng-Hữu + Quân-Thần: bàn vế quan hệ Vua-tôi, nới rộng ra là quan hệ cấp trên và cấp dưới trong chính quyền phong kiến. Đó là mối quan hệ chính trị-xã hội trên-dưới. Nội dung của luân này phần lớn được quy định rõ trong kinh sách Nho giáo được xây dựng thành thể chế, có hình pháp bảo vệ và công luận, dư luận ủng hộ. Thường được diễn đạt bằng công thức: “Quân nhân thần trung” và được đặc trưng bằng chữ Trung. Và theo Khổng Tử, Trung có nghĩa là “Kỷ dục lập nhi lập nhân. Kỷ dục đạt nhi đạt nhân”-Một lòng một dạ, hết lòng hết sức phụng sự bề trên. Vua chư hầu trung với Thiên tử, thần dân trung với Vua, tớ trung với chủ…Nhưng nếu vua bạo ngược, hôn ám quá mức thì sao? Bề tôi có thể “Điếu phạt” trừ kẻ bạo ngược. Như Vũ Vương phạm Trụ, Thành Thang diệt Kiệt (Theo Mạnh Tử, Kiệt và Trụ là những tên tàn bạo, không phải là vua, vũ vương Thành Thang không giết vua mà đã giết những tên tàn bạo hôn ám) Như thế là nhà Nho đã khéo léo mở ra một lối thoát nhỏ cho lý luận lịch sử, khi thật cần thiết. Tuy nhiên trong lịch sử lâu dài của xã hội phong kiến, nhà Nho ít khi phát biểu các tư tưởng “điếu phạt” ấy, họ chỉ tán tụng cái tinh thần tận trung, ngu trung. Ngay ở Việt Nam cũng có những nhà Nho ngu trung. Ví dụ Trần Danh Hán, Lý Trần Quán. Dưới chế độ quân chủ chuyên chế, tội bất trung là tội lớn nhất, ai phạm tội ấy, hoặc có khi chỉ bị nghi ngờ, là có thể bị tru di tam tộc (Chẳng hạn Trần Nguyên Hãn đời Lê Thái Tổ, Nguyễn Trãi đời Lê Thái Tông, Nguyễn Văn Thành đời Gia Long…) hoặc ở Trung Quốc thì có Hàn Tính đời Hán, Hàn Phi đời Tần… + Phụ-Tử: Đây là quan hệ cha-con, nói rộng ra là mối quan hệ giữa ông bà, cha mẹ, con cái. Nói chung đó là mối quan hệ gia đình, huyết thống, thế hệ trước-sau, trên-dưới. Nội dung của luân có ghi trong kinh sách nhưng chủ yếu do người ta tự giác thực hiện được dư luận, công luận bảo vệ cũng có trường hợp được đưa ra nghị luận ở triều đình, công sở Thường diễn đạt bằng công thức: Phu từ tử hiếu Đặc trưng bằng chữ: Hiếu Chữ Hiếu quy định rằng con cháu phải phụng sự cha mẹ, ông bà, sớm thăm viếng, phụng dưỡng ông bà, cha mẹ, làm cho cha mẹ vinh hiển không làm cho cha mẹ mang nhục, phải giữ cái chí của cha, tuyệt đối phục tùng cha mẹ, giữ nề nếp gia đình, gia phong, phải giữ gìn cái thân thể hình hài của mình, vì đó là một phần máu huyết của cha mẹ để lại, phải có con cái để nối dõi, phải thờ cúng tổ tiên ông bà, cha mẹ sau khi đã chết. Khổng Tử đã từng dạy cho học trò: “Cha mẹ còn, chưa được đi xa” Nho giáo lấy gia đình làm trung tâm, mở rộng ra nữa là thiên hạ, do đó chữ hiếu rất quan trọng. Có hiếu mới có trung, người bất hiếu với cha mà trung thành với vua là không thể có được. Thời Khổng-Mạnh chữ hiếu và chữ trung đã được đề cao, nhưng chưa có chủ trương ngu hiếu, ngu trung từ đời Hán về sau tệ ngu hiếu ngu trung mới được phát triển. Khổng Tử nói về chữ hiếu chữ trung như sau: “Ai Công nước Lỗ ba lần hỏi Khổng Tử:“Con theo mệnh cha là hiếu không? Tôi theo mệnh vua có phải là trung không? Cả ba lần Khổng Tử đều không đáp. Sau đó Khổng Tử đem chuyện ấy nói lại với Tử Cống và hỏi Tử Cống nghĩ thế nào. Tử Cống đáp: “Con theo mệnh cha là hiếu, tôi theo mệnh vua là trung còn nghi ngờ gì nữa?”. Khổng tử nói “Anh không hiểu gì hết. Con theo mệnh cha đâu đã là hiếu, tôi theo mệnh vua đâu phải là trung: Chỉ khi nào…” Ở Việt Nam đạo hiếu cũng được đặc biệt coi trọng. Lục Vân Tiên sắp vào trường thi, được tin là mẹ chết bèn bỏ thi trở về, khóc lóc thương xót đến mù cả hai mắt. (chính Nguyễn Đình Chiểu tác giả Lục Vân Tiên cũng vậy: năm 1848 ông từ Gia Định ra kinh đô để chờ khoa thi hội, nhưng sắp thi thì được tin mẹ mất, ông trở về chịu tang, thương khóc mẹ và đường sá gian nan vất vả, ông bị bệnh mù cả hai mắt) -Kim Trong khi được tin cha gọi về hộ tang chú, đã từ giã Thúy Kiều lên đường về ngay. Thúy Kiều càng tỏ ra hiếu thuận: “Dù khi lá thắm chỉ hồng Nên chăng cũng bởi tại lòng mẹ cha” Và quả là Kiều “nặng vì hiếu, nhẹ vì tình”, nên đã “bán mình chuộc cha”. +Phu-Phụ: Luân này bàn về mối quan hệ giữa chồng với vợ (các loại thê thiếp) đấy là mối quan hệ gia đình, không huyết thống, cùng thế hệ. Nhà nho rất coi trong mối quan hệ này, xem đó là đầu mối của mối quan hệ gia đình. Kinh sách nói nhiều về mối quan hệ này. Sự thực hiện luân này chủ yếu dựa vào quyền lực của người đàn ông gia trưởng, không hoàn toàn tự giác thường xảy ra mối bất hòa trong gia đình, được công luận và dự luận bảo vệ, và đôi khi được cả pháp lý can thiệp. Diễn đạt bằng công thức :“Phụ nghĩa phụ thính” Đặc trưng bằng chữ : Tiết-Nghĩa “Tiết” là cái đức của người vợ đối với chồng, “nghĩa” là cái đức của chồng đối với vợ. Luân này có nhiều quy định cụ thể: Phu xướng phụ tùy tam tòng tứ đức… Đây là một trong những luân phi nhân bản nhất, bất công nhất. Người đời phản đối dạo đức Nho giáo, thường trước tiênm nhằm vào luân này đặc biệt là trong thơ văn + Huynh-Đệ: Luân này bàn về mối quan hệ anh-em và nói rộng ra là mối quan hệ anh-chị-em trong gia đình, gia tộc. Đó là mối quan hệ gia đình huyết thống cùng thế hệ. Các quy định của luân này chủ yếu do người ta tự giác thực hiện được dư luận và xã hội bảo vệ. Diễn đạt bằng công thức: Huynh lương đệ đễ. Đặc trưng bằng chữ : Đễ, chữ Đễ chỉ về kính, thuận. Tô Hoài trong Dế Mèn phiêu lưu ký có một đoạn thú vị nói về tư tưởng của cái luân này như sau: Trong chuyến đi xa, về thăm mẹ và anh em, Dế Mèn đến thăm nhà anh hai trước rồi mới đến thăm anh trưởng. Thế là “Trong thấy em, mặt anh trưởng cứ lạnh như đá”. “Anh tôi nói mát: “Chả dám! Chú còn nhớ phép lịch sự đến thăm anh. Xin chả dám, tôi đáp: -Thưa anh, đi đâu thì em vẫn nhớ anh em ta cùng lứa mẹ sinh ra. Anh cười nhạt: -Hừ, chú bảo chú nhớ anh mà chú lại vào nhà thằng hai trước khi đến đây, thế thì phỏng thử chú coi gia giáo nhà ta là cài gì, đuôi lộn lên đầu hử?. -Thưa anh, em cũng biết thế, nhưng vì anh hai đau yếu, lại tiện em đi qua nhà, thấy nên mới vào thăm anh trước.” Tôn ti, thứ bậc của xã hội phong kiến đến mức như vậy đó. +Bằng-Hữu: Luân này bàn về quan hệ bạn bè, quan hệ giao tiếp tự nguyện, tự chọn. Đó là mối quan hệ xã hội, cùng thế hệ. Đặc trưng bằng chữ: thành, chữ tín. Chủ yếu do tự nguyện thực hiện và được dư luận xã hội bình phẩm. Tăng Tử nói: “Quân tử lấy văn mà họp bạn, lấy bạn giúp mình làm điều nhân là nền tảng vững chắc cho sự kết bạn” Nguyễn Đức Đạt (một nhà Nho, một nhà giáo, quê Nghệ Tỉnh rất nổi tiếng thế kỷ XIX) trong Nam Sơn tùng thoại có đoạn vấn đáp độc đáo: “Hỏi: Thầy, bạn ai hơn? Đáp: Bạn hơn. Hỏi: Đạo làm bạn thế nào? Đáp: Có bạn mới có đủ công dụng ngũ luân…” Như vậy thầy đã cần mà bạn còn cần hơn. Đồng chí Phạm Văn Đồng có lần cũng đã nói: “Quan hệ thầy-trò là quan hệ bạn bè” Trong văn cổ của ta có những tình bạn tuyệt đẹp: -Họ Trần, họ Mai trong Nhị độ mai -Vân Tiên, Tử Trực, Hớn Minh trong Lục Vân Tiên -Lưu Bình, Dương Lễ trong chuyện cùng tên Trong văn học Trung Quốc cũng vậy, có: -Chuyện “Đào viên kết nghĩa” Lưu Bị-Quan Công-Trương Phi kết nghĩa anh em , sống chết có nhau. -Bá Nha-Tử Kỳ , đôi bạn tri âm. Trong văn học cổ Việt Nam, nhiều mối tình được xây dựng trên cơ sở tình bạn cao cả, cho nên có những biểu hiện của tư tưởng bình đẳng, kính trọng lẫn nhau, hiếm có trong các nên văn học khác. -Kim Trong với Thúy Kiều: “Đài gương soi đến dấu bèo cho chăng?” -Thúy Kiều thì: “Thưa rằng: Tiện kỷ sá chi, Đã lòng dạy đến, dạy thì phải vâng” -Kim TRọng: “Vội vàng sinh đã tay nâng ngang mày” (vừa kính trọng, vừa trang nhã bình đẳng) -Kiều Nguyệt Nga với Lục Văn Tiên: “Trước xe quân tử hãy ngồi Xin cho tiện thiếp lạy rồi sẽ thưa” Đến cuối truyện khi Lục Vân Tiên đã đỗ trạng nguyên: “Vân Tiên vội vã xuống quỳ vòng tay Thưa rằng: may gặp nàng đây Xin đền ba lạy sẽ bày nguồn cơn” Người Việt Nam có đủ thứ tình bạn tri âm, tri kỷ, bạn thơ, bạn rượu, bạn buôn, bạn hàng, bạn cờ, bạn đường, bạn trăm năm, bạn tâm giao, bạn học, bạn đồng môn, đồng nghiệp, bạn nối khố… Tóm lại: Nho giáo đã khái quát các mối quan hệ xã hội vô cùng phức tạp thành năm loại quan hệ và sắp xếp theo thứ tự trên đây. Các mối quan hệ này bổ sung choi nhau để bao quát hết mọi mặt cơ bản của cuộc sống thực hiện đầy đủ ngũ luân tức là đạt đạo, làm trái ngũ luân là trái đạo. Vị trí, tầm quan trọng của ngũ luân không ngang nhau. Nếu cần thu gọn lại thì nhà Nho đưa ra khái niệm tam cương: Quân thần; Phụ-tử; hu-phụ. Nếu cần rút gọn lại nữa thì nhà Nho có đạo Quân-Thần (hay là Trung-Hiếu). Nói gọn lại nữa thì còn một chữ Trung Thực chất các chữ Hiếu, Tiết, Nghĩa, Tín cũng là Trung cho nên có thể nối chung quy lại đạo Nho là đạo Trung (đạo Trung thứ gần với đạo nhân-theo lời Khổng tử, tăng Tử cũng giải thích: “Đạo của phu tử chỉ là Trung thứ mà thôi vậy”-Luận ngữ) Trung và Hiếu là hai phẩm chất cơ bản mà luân lý chính trị Nho giáo đòi hỏi nghiêm khắc nhất. Đó là tiêu chuẩn chủ yếu dùng để đánh giá con người. Ở Việt Nam, đạo quân thần cũng đặc biệt được coi trọng, tất nhiên nội dung chữ Trung, chữ Hiếu không hoàn toàn giống như cách hiểu của nho giáo Trung Quốc. Nguyễn Công Trứ nói thẳng: Không Quân-Thần-Phụ-Tử đách ra người”. Còn đến như Cao Bá Quát cũng không thoát khỏi đạo quân thần: Tương truyền có lần Cao Bá Quát đến thăm Nguyễn Văn Siêu, thấy nhà bạn có treo câu đối: “Thần khả báo quân ân, tử đương thừa phụ đạo” . Ông bảo nên sửa lại. Siêu cười bảo tại sao. Quát đáp: “Sao lại để thần tử lên trên quân phụ” và sửa lại: “Quân ân thần khả bảo, phụ đạo tử đương thừa” Những nhà nho yêu nước, tiến bộ tuy cũng dùng đến chữ Trung, chữ Hiếu… nhưng nội dung ý nghĩa được cải biến nhiều như Nguyễn Phi Khanh, Nguyễn Trãi, Trần Nguyên Hãn, Nguyễn Đình Chiểu… đã hiểu và vận dụng chữ Trung, chữ Hiếu một cách sáng tạo, phù hợp với yếu cầu và truyền thống văn hóa, lịch sử Việt Nam, có ý nghĩa tiến bộ hơn hẳn nội dung vốn có của chữ đó. Thuyết ngũ luân của Nho giáo là một học thuyết luân lý-chính trị phản ánh tập trung nhất quan điểm lập trường của giai cấp thống trị phong kiến. Trừ luân thứ năm, còn bốn luân đều đứng trên lập trường của giai cấp thống trị, bênh vực cho bề trên, trọng nam kinh nữ, bất công áp chế, nặng tư tưởng tôn ti thứ bậc. Nhiều quy định khắt khe, ràng buộc con người quá đáng, làm cho con người không được tự do để suy nghĩ, lựa chọn trong hành vi, phải hành động theo những quy định có sẵn từ thời nào, trong đó phi lý nhất phải kể đến luân thứ 3: Phu-Phụ. Có điều cần lưu ý là sức mạnh nào điều khiển người ta tuân theo hàng ngàn quy định bất công đó. Nhà nho chủ yếu không phải dựa vào sức mạnh của luật pháp cũng không phải sức mạnh của kinh tế, của lòng tin tôn giáo mà chủ yếu là sức mạnh của công luận dư luận xã hội. Khi xã hội đã tạo được công luận dư luận và tập quán, tập tục thì con người hậu thế rất khó đấu tranh để được thoát khỏi những quy định đó. Xét về mặt hình thức: thì các luân đều có yêu cầu đối với cả hai phía nhưng thực chất là ưu tiên cho một phía và kiềm chế ràng buộc phía kia. Đối với Vua-Cha-Chồng-Anh nhà nho đã nêu ra các yêu cầu lỏng lẽo không xác định: Nhân-Từ-Nghĩa-Lương còn với bầy tôi vợ-con-em thì nhà Nho đưa ra những yêu cầu chặt chẽ, cụ thể: trung-hiếu-tiết-đễ. Nội dung của các luân được kinh sách ghi thành các quy định gọn như những công thức, những quy trình ứng xữ, những quy định ấy lại được nghi thức hóa gọi là lễ, cái lễ được nhà nước đem ra giáo hóa và thực hành cho mọi người gọi là lễ giáo rồi cuối cùng kết hợp với chính trị tạo thành cái mà nhà Nho gọi là nền chính-giáo. Học thuyết ngũ luân vô cùng phản động, bất công, nhưng do tính duy lý của hệ tư tưởng Nho học từng quy định cụ thể nói chung không quá phi lý, nó phản ánh phần nào nhu cầu thực tế của xã hội, có cái lý tồn tại của nó, do đó người ta có cảm giác có thể sống được trong cái lưới luân lý khắc nghiệt của ngũ luân. Đó cũng là một trong những lý do làm cho học thuyết ngũ luân tồn tại lâu dài đến như thế. Cả năm luân chủ yếu nói về quan hệ cá nhân và các nhân mà ít nói đến quan hệ giữa cá thể với cộng đồng nhất là với tổ quốc. Chỉ có luân thứ 5 là bình đẳng có nhiều điều kiện tốt đẹp. b2. Ngũ thường: Nhân-Nghĩa-Lễ-Trí-Tín Ngũ đức là năm cái đức vốn có, hằng thường của con người. Ngũ thường là năm cái tính cần thiết của con người, nó không những là tính cách riêng của mỗi người mà còn là tính chung của Trời-Đất phúc cho người ta. Theo Mệnh Tử, người ta sinh ra ai cũng có mầm mống của nhân-nghĩa-lễ-trí, ông gọi là tứ đoạn biết thương xót là đầu mỗi nhân, biết phân biệt tốt xấu là đầu mối nghĩa, biết sỉ nhục là đầu mối của lễ, biết đúng sai là đầu mối của trí. Cái mà trời phú cho con người ta gọi là tính. Tính ấy thiện, tính biểu hiện ra ở mỗi người cụ thể và trong những việc làm cụ thể thì gọi là tâm. Nói theo chữ tính là “đạo”. Trau dồi cho “đạo” gọi là “giáo” (Mạnh Tử chủ trương tính “thiện”; Tuân Tử thì có chủ trương tính “ác”. Tính là thiện, nhưng trong xã hội không phải ai cũng thiện. Sở dĩ như vậy là do người ta tập nhiễm những cái ác trong cuộc sống, cái tâm tính của người ta bị vật dục che lấp, bởi vậy cái đạo học của Nho gia không ngoài việc “tìm lại cái tâm đã mất” (Mạnh Tử ) hoặc “làm sáng cái đức sáng” (Đại hoc) Giữ được cái tâm đó là thánh hiền, để mất cái tâm ấy là đạo tặc. Sách Trung Dung nói rằng, Khổng Tử dạy năm điều gọi là đạt đạo (ngũ luân) và dạy 3 điều gọi là đạt đức: Nhân-Trí-Dũng. Mạnh Tử nêu ra đức: Nhân-Nghĩa-Lễ-Trí. Đến đời hán thì Đổng Trọng Thư thêm vào chữ tín thành ra ngũ thường: “Yêu là nhân, phải là nghĩa, hợp lý là lễ, thông đạt là trí, tri thủ là tín, cả 5 đức đều ở trong tín, theo tín là thánh, trở về với tín là hiền”. Hàn Dũ một nhà Nho đời Đường định nghĩa chung về đức: “có đủ nơi mình không mong chờ ở ngoài gọi là đức” Ngũ thường bao gồm những nội dung sau đây: + Nhân: Khổng Tử là người đầu tiên xây dựng khái niệm Nhân, ông đề cao đức Nhân, bản thể hóa đạo Nhân, coi đó là đạo của Trời-Đất. Nhân đứng đầu các đức khác. Nếu không có Nhân thì Nghĩa-Lễ-Trí… chỉ là hình thức âm nhạc, văn thơ… cũng không có giá trị gì. Con người mất đạo Nhân thì không còn là con người. Nhân là viên đá tảng của Khổng Nho. Các nhà Nho hậu thế căn bản vào quan niệm ấy, chỉ có thay đổi, thêm bớt đôi điều chi tiết. (Mạnh Tử ghép nghĩa với nhân và có nhân nghĩa…) Nhân là gì, thì chính Khổng Tử cũng chưa từng định nghĩa rõ ràng. Sách luận ngữ trên 100 lần nói đến chữ Nhân, nội dung đại thể như sau:-ái nhân-khắc kỷ phục lễ-trung thứ-quý sinh… Nhân là bản chất, là tâm hồn của con người. Đạo Nhân rất gần gũi, rất phổ biến, nhưng cũng rất cao xa, ít ai đạt được. Nhan Uyên, một học trò xuất sắc nhất của Khổng Tử, mới “Có thể giữ được đức Nhân trong ba tháng liền” (Luận ngữ) kẻ khác chỉ vài ba ngày thôi. Nguyễn Đức Đạt, trong Nam Sơn tùng thoại, có cách giải thích dễ hiểu: “Hỏi: Làm ơn cho người có phải là nhân không? Đáp: Nhân ví như sự yên vui, ơn ví như nụ cười, tâm thực vui thì cười hay không cười vẫn là vui, người quân tử đã Nhân thì làm ơn hay không làm ơn vẫn là kẻ nhân. Kẻ bất nhân thì không cứ gì phải giết người gieo vạ cho người mới là bất nhân. Chỉ việc làm ơn mà không hiểu nguyên do việc làm ơn thì không thể nói chuyện làm ơn được” Như vậy, đức Nhân là nhu cầu nội tại của bản thân người quân tử. Nho gia hiểu chữ Nhân như vây, nên họ thường truy tìm động cơ hơn là xét kết quả việc làm. + Nghĩa: là cái biểu hiện cụ thể của đức Nhân. Nhân ở dạng tiềm tàng chỉ ở động cơ hành động, Nghĩa ở dạng hoạt động, đã thành phương hướng cụ thể của công việc. Mạnh Tử nói: “Nhân, nhân tâm đã; Nghĩa nhân lộ đã” (Nhân là lòng người, nghĩa là con đường người ta đi đến đức nhân). Vậy Mạnh Tử đề xường kinh nghiệm nhân nghĩa, có dụng ý làm cho hai khái niệm kết hợp chặt chẽ, bổ sung ý nghĩa cho nhau, làm cho đức Nhân bớt mơ hồ, vu viễn đức Nghĩa thì nó được định hướng rõ hơn. Mạnh Tử đối lập “nghĩa” với “lợi” và đặt “nghĩa” trên “lợi”, trong Thiên lương Huệ Vương có một đoạn đối thoại giữa nhà vua với Mạnh Tử về “nghĩa“ và “lợi”: “Vua Huệ Vương nước lương nói: “Ngài không quản nghìn dăm xa xôi mà đến đây, chắc là có điều gì làm lợi cho nước tôi chăng?”. Mạnh tử đáp: “Nhà vua há tất phải nói lợi, chỉ nói nghĩa là đủ. Nếu nhà vua nói làm sao có lợi cho nước ta, các đại phu nói làm sao có lợi cho thân ta; thế là trên dướic cùng tranh nhau cái lợi thì nước sẽ nguy. Nếu đặt “lợi” trên “nghĩa” thì chưa cướp được là chưa chịu yên. Trái lại, chưa từng có người có đạo nhân mà lại quên cha mẹ; chưa từng có người có đạo nghĩa mà lại quên vua…” Ở Việt Nam vào thế kỷ XIX, chữ Nghĩa được nói đến nhiều trong triều đình cũng như ngoài dân chúng. Nguyễn Đình Chiểu, Trương Định, Nguyễn Xuân Ôn, Tôn Thất Thuyết… đều phải tìm con đường Nghĩa trong tình hình rối ren thời đó. + Lễ: Chữ Lễ vốn có nghĩa là thờ cúng thần linh ttế tiên. Theo nhà nho con người chung đức tính linh của Trời-Đất, nên phải dùng Lễ để đối xữ với người như đối xữ với thần linh vậy. Từ đó Lễ được mở rộng nghĩa chỉ các nghi lễ, các quy phạm trong giao tiếp xã hội, đảm bảo kỷ cương của chế độ quân chủ. Lễ quy định tôn ti thứ bậc, danh phận, bổn phận, quan hệ danh sơ, quý tiện… Khổng Tử nói: “Nếu mình phục tùng điều lệ ấy là nhân nghĩa”. Kinh Lễ, một bộ sách trình bày tập trung nhất về hệ thống lễ: “Đạo đức nhân nghĩa, không lễ không thành, dạy bảo sửa con, anh em, không lễ không định, thờ thầy, không lễ không quan, thi hành pháp lệnh không lễ không uy nghiêm, cầu khấn tế tự, cúng cấp quỷ thần, không lễ không thành kính, không lễ không trang chính”. Lễ chi phối tất cả mọi hoạt động bằng cách đề ra hệ thống quy phạm và nghi lễ. Lễ giáo, lễ trị là một công cụ trị nước đặc hữu của Nho giáo. Tuy nhiên, trong thực tế chính trị, nhà Nho không thực hiện nguyên tắc “Lễ trị” cho mọi người, họ kết hợp “Lễ trị” với “Pháp trị”, tạo thành lối cai trị. “Dương nho âm pháp” với quan điểm “Lễ bất hạ thứ dân, hình bất thượng đại phu”. (Cái Lễ nghĩa không xuống đến thứ dân, hình phạt không thực hiện đối với bậc đại phu) + Trí: Phần Trí nói về điều trí, Khổng Tử đáp: “biết người”. Khổng Tử liền nói thêm “đề cử người ngay thẳng lên trên người xấu vậy làm cho người xấu trở thành người ngay thẳng ấy là trí” (luận ngữ). Trí là khả năng phân biệt đúng sai, tốt xấu, tìm được người tốt để sử dụng, để cảm hóa người xấu. Nếu có trí mà thiếu nhân là xảo nguy. Cái trí là một phẩm chất đáng quý, nhưng chỉ riêng trí thì chưa có giá trị nó phải gắn với đức nhân thì mới có giá trị. Nhà nho tỏ ra dè dặt đối với cái trí cũng như họ đã lơ dần chữ Dũng; thực chất là họ không đề cao đúng mức chữ Trí chữ Dũng (3 đạo đức của Khổng Tử đề ra là: Nhân-Trí-Dũng). + Tín: Khổng Tử nói “Người trên ham điều tín thì dân ai dám chẳng thật thà”. Không có tín thì không có giao thiệp được với người trong gia đình, cha con, vợ chồng, anh em sẽ chia lìa; trong xã hội sẽ phát triển thói lừa đảo, nghi ngờ lẫn nhau. Tín là điều kiện trước nhất để thực hiện các đức khác nhau, giao thiệp, ứng xữ. Tuy vậy nhà Nho ít nói đến chữ tín, có lẽ trong nội dung của các chữ Trung, Hiếu, Nghĩa, Lễ… đã hàm chứa nội dung của chữ Tín rồi. Trong luận ngữ, Khổng Tử đã có lần khẳng định ý nghĩa của chữ Tín “Tử Cống hỏi về chính trị, Khổng Tử đáp: “đủ lương ăn (thực), đủ binh khí (binh), dân tin tưởng (tín). Tử Cống hỏi thêm: “Nếu bất đắc dĩ phải bỏ bớt thì trong ba cái đó cái gì bỏ trước?”. Đáp: “Bỏ binh”. Tử Cống Hỏi: “Bất đắc dĩ phải bỏ thì trong hai cái đó cái gì bỏ trước?”. “Bỏ thực”. Xưa nay cũng phải chết, người dân không tin thì nhà nước không đứng vững được” Khổng Tử đã nói chữ Tín với đầy đủ ý nghĩa của nó. Tóm lại, chữ Nhân của Nho giáo ít nhiều có giá trị nhân bản của nó. Đã có lúc chữ nhân phụ thuộc vào chữ lễ nên đã mất dần giá trị tiến bộ của nó. Mặc dù thế, vai trò của chữ Nhân trong lịch sử văn hóa của phương Đông phong kiến không phải là nhỏ. Khi vào Việt Nam, đạo nhân của Nho giáo cùng với đạo từ bi của Phật giáo đã kết hợp được với truyền thồng nhân hậu, đoàn kết, thương yêu người như thể thương thân, tạo thành một truyền thống nhân ái sâu sắc trong nền văn hóa Việt Nam. Đạo nhân nghĩa về mặt lý thuyết nói chung cho mọi người trong xã hội, không phân biệt giai cấp tầng lớp, nhưng trong thực tế, nhà Nho chỉ thực hiện đạo nhân nghĩa trong lớp sĩ-quân tử và tầng lớp trên ngay trong tư tưởng của Khổng Tử đạo nhân đã có hai hướng phát triển mâu thuẫn lẫn nhau. Đạo nhân là đạo phổ biến cho mọi người. Đạo nhân có phân biệt thân sơ gốc ngọn quý tiện… Nội dung của ngũ thường (cũng như ngũ luân) đã cải biến khi du nhập vào Việt Nam. Tất nhiên mức độ và phương hướng cải biến còn tùy thuộc vào giai đoạn lịch sử xã hội Việt Nam, và giai cấp tiếp thu. Người dân thường Việt Nam thì tiếp thu khía cạnh giá trị nhân bản, nhân dân trong các học thuyết đó. Giai cấp thống trị phong kiến Việt Nam thì tiếp thu những yếu tố có lợi cho nền thống trị phong kiến. Những trí thức tiến bộ, yêu nước thì tiếp thu có chọn lọc theo yêu cầu của xã hội và truyền thống văn hóa của Việt Nam. Vào những thời kỳ suy thoái, giai cấp thống trị phong kiến Việt Nam thường rập khuôn theo giáo điều Nho giáo, đặc biệt là theo Tống nho. Trong ngũ thường, Nhân-Nghĩa-Lễ là cốt lõi, nhưng nếu cần gút lại thì còn nhân nghĩa, rút lại nữa thì còn đức nhân. Nhân là vị trí trung tâm của ngũ thường, các đức khác phải quy phục vào nó. Nhân chú về động cơ bên trong. Nghĩa nói về con đường đi đến Nhân. Lễ là những quy định sẵn để người ta hành động dúng điều Nhân. Trí là khả năng của cá nhân phân biệt nhân và bất nhân, còn Tín là điều kiện trước tiên để đảm bảo các quan hệ xã hội được tiến hành bình thường. Thuyết ngũ thường thể hiện tư tưởng duy tâm chủ nghĩa về đạo đức, coi cái đức là tiên thiên, là cái mà người ta phú bẩm ở Trời, nhất thành bất biến, vĩnh cửu, không có tính lịch sử, xã hội. Nho giáo khi đánh giá con người thường chú trọng đến cái đức mà ít chú trọng đến tài năng (kết quả việc làm) mặc dù họ cũng nêu đủ đức-tài, nhưng thực tế họ coi thường cái tài, đặc biệt họ không coi trọng về tri thức tự nhỉên, tri thức thực tiễn. Ngũ thường xác định năm phẩm chất của con người, trong đó chỉ có phấm chất thứ tư có liên quan đến tài năng: Trí, còn bốn phẩm chất kia đều nói về Đức. Công thức định giá trị con người của nhà Nho là: “Thái thượng lập đức, kỳ thứ lập công, kỳ thứ lập ngôn”. C. KẾT LUẬN Người Việt Nam đã sáng tạo những tư tưởng có giá trị cao, mang tính nhân loại sâu sắc, tuy là sản phẩm của một thời, của một dân tộc nhưng vẫn có tính lâu dài và phổ biến, bởi vì nó đã sản sinh từ những cơ sở lý luận tiến bộ chính nghĩa-nhân bản, từ cuộc chiến đấu để giải phóng dân tộc, bảo vệ tổ quốc, bảo vệ khối thống nhất đất nước, đấu tranh để được tồn tại, để chống nô dịch, đồng hóa, đấu tranh cho cuộc sống công bằng và ấm no hơn-chiến đấu cho độc lập-tự do-hạnh phúc của dân tộc. Người Việt Nam không phải chỉ nghĩ ra, viết ra mà chủ yếu là sống cho, sống với những tư tưởng cao cả đó. Do đó không có mâu thuẫn tư tưởng đạo đức với hành vi, giữa nói và làm. Chúng ta có quyền tự hào rằng: Dân tộc Việt Nam đã cống hiến cho nhấn loại những nguyên tắc triết lý cao cả, sáng ngời tin thầnh nhân bản. Chừng nào nhân loại đang cần đấu tranh cho độc lập-tự do-bình đẳng dân tộc-đấu tranh xây dựng cuộc sống đoàn kết thân ái thì nó vẫn còn ý nghĩa. Vì vậy mỗi người dân Việt Nam cần có ý thức sâu sắc về bổn phận, về nghĩa vụ của mình, tự thấy mình phải có nghĩa vụ, phải có bổn phận làm vẻ vang cho gia đình, dân tộc, làng xóm và đất nước. Đất nước, Tổ quốc là cộng đồng có sức mạnh nhất đối với mỗi thành viên. Hy sinh cho Tổ quốc là một vinh dự, quan niệm ấy đã trở thành ý thức của xã hội Việt Nam. Tổ quốc vừa có thính hiện thực, vừa có tính thiêng liêng, vừa là nơi sinh sống, vừa là nơi yên nghỉ, vừa là đất phần mộ của tổ tiên, vừa là nơi ở của con cháu mai sau… Quan niệm về Tổ quốc của người Việt Nam phong phú và sâu sắc vô cùng: “Nước mất, nhà tan”, người Việt Nam nào cũng hiểu như thế. Người Việt Nam đã gắn vận mệnh gia đình với vận mệnh tổ quốc. Cho nên Nguyễn Phi Khanh đã dặn Nguyễn Trãi: Lo trả thù nước ấy là đại hiếu. Hôm qua-hôm nay và cả mai sau, mỗi một con người Việt Nam của chúng ta đều phải ý thức rõ điều đó và lấy nó làm kim chỉ nam cho mọi hành động của mình nhằm hướng tới xây dựng một xã hội công bằng, văn minh hơn và giàu đẹp hơn. TÀI LIỆU THAM KHẢO Trần Hữu Duy-Một số vần đề cơ bản của tư tưởng Việt Nam thời phong kiến. Bùi Thanh Quất-Lịch sử triết học-NXBGD. Nguyễn Văn Hòa-Tập bài giảng về lịch sử triết học Trung Quốc. Triết học Mác-Lê Nin toàn tập. MỤC LỤC Nội dung Trang A. Mở đầu 1 Lý do chọn đề tài 1 Mục đích nghiên cứu 2 Lịch sử vấn đề 2 Phương pháp nghiên cứu 3 Kết cấu của tiểu luận 3 B. Nội dung 3 Chương I: Co sở của truyền thống văn hóa, tư tưởng Việt Nam thời phong kiến 3 1. Điều kiện lịch sử, địa lý, xã hội sản sinh nền văn hóa, tư tưởng Việt Nam thời phong kiến 3 2. Tâm lý xã hội và ảnh hưởng của nó tới hệ tư tưởng Việt Nam 4 Chương II. Đặc điểm nổi bật của hệ tư tưởng nho giáo Việt Nam thời kỳ phong kiến 5 1. Sơ lược lịch sử phát triển và kinh điển Nho giáo 5 2. Vài vấn đề cơ bản của Nho giáo 7 a. Trời, Trời-Người cảm ứng 7 b. Luân thường 13 Ngũ luân 13 Ngũ thường 18 C. Kết luận 23 D. Tài liệu tham khảo 24

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docTiểu luận triết học_chương trình cao học- Nho giáo trong văn học Việt nam.doc