Tiểu luận Vai trò của thủy năng và nhà máy thủy điện

Cùng với sự phát triển của khoa học kỹ thuật,sự đi lên không ngừng của nền kinh tế dẫn đến nhu cầu sử dụng điện năng ngày càng nhiều thì sự phát triển năng lượng là vấn đề khẩn thiết bù đắp cho tình trạng thiếu hụt hiện nay.Trong đó thủy điện vẫn là hướng tối ưu nhất,mà hướng đi đúng là rẻ,sạch và an toàn. Theo như những nghiên cứu ở trên cho thấy thủy điện là nguồn năng lượng sạch,bền vững và đã được cộng đồng năng lương quôc tế công nhận.Thủy điện giữ vai trò quan trọng trong phát triển nguồn nước và nguồn năng lượng toàn cầu. Tuy nhiên sẽ phát triển bền vững nguồn nước và thủy điện trong tương lai, cần phải quan tâm đến những vấn đề sau: sự hợp tác phát triển nguồn nước xuyên biên giới, kết hợp chặt chẽ giữa các biện pháp kết cấu và phi kết cấu, sử dụng có hiệu quả nguồn nước cho sản xuất lương thực, tối ưu hóa sản xuất thủy điện. Riêng đối với Việt Nam,việc phát triển thủy điện phải căn cứ trên tài liệu thực tế điển hình về các mặt : thiết kế, quy hoạch, đánh giá ảnh hưởng môi trường phổ biến, về các biện pháp bảo vệ môi trường, tối ưu hóa hiệu quả tích cực của thủy điện,

pdf33 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 9937 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Vai trò của thủy năng và nhà máy thủy điện, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
:  Vốn đầu tư lớn, thời gian xây dựng lâu  Vùng ngập nước có thể ảnh hưởng đến sinh thái môi trường (di dân, thay đổi khí hậu)  Nhà máy thủy điện kiểu kênh dẫn: Thay vì phải xây một đập cao như với NMTĐ kiểu đập, trong NMTĐ kiểu kênh dẫn nước sẽ được đưa xuống nhà máy bởi một hệ thống kênh, máng, ống dẫn... Sơ đồ NMTĐ kiểu kênh dẫn  Ưu điểm:  Vốn đầu tư nhỏ  Công suất ổn định (ít phụ thuộc vào mức nước)  Nhược điểm: không có hồ chứa nước, do đó không có khả năng điều tiết nước và điều chỉnh công suất.  Nhà máy thủy điện kiểu hỗn hợp: Với những địa hình thích hợp, bằng việc kết hợp xây dựng đập với kênh dẫn có thể tạo ra NMTĐ kiểu hỗn hợp có công suất lớn mà kinh phí nhỏ. Năng 8 lượng nước được tạo nên nhờ cả đập và kênh dẫn. Tận dụng chênh lệch độ cao phía dưới đập có thể nâng công suất lên đáng kể trong khi chỉ cần đầu tư thêm dàn ống dẫn nước từ trên cao xuống thấp. Nhà máy kiểu này được dùng cho các đoạn sông mà ở trên sông có độ dốc nhỏ thì xây đập ngăn nước và hồ chứa, còn ở dưới có độ dốc lớn thì xây dựng đường dẫn. Sơ đồ NMTĐ kiểu tổng hợp Trên đây là 3 loại NMTĐ phổ biến. Ngoài ra còn có NMTĐ thủy triều, NMTĐ tích năng ... 1.2.1.3 Chức năng NMTĐ có chức năng chính là biến đổi thủy năng thành điện năng. 1. 2. 3. 4. Năng lng nc Tua bin nc Máy phát Truyn ti đin năng Tiêu th Kích t 9 Bên cạnh chức năng chính, NMTĐ còn có chức năng tổng hợp lợi ích của nguồn nước. Đó là: phục vụ tưới tiêu, chống lũ lụt, cung cấp nước ngọt, phát triển thủy sản, du lịch ... 1.2.1.4 Đặc điểm  Ưu điểm:  So với các nguồn năng lượng khác như nhiệt điện, điện hạt nhân ... thì thủy điện là nguồn năng lượng tái sinh rẻ tiền,sự dụng nguồn năng lượng vô tận của thiên nhiên, không phải chịu cảnh biến động giá nhiên liệu và là nguồn năng lượng sạch, đồng thời góp phần tích cực vào việc cung cấp điện năng đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế xã hội của đất nước.  Giá thành điện năng thấp, chỉ bằng 1/5 – 1/10 nhiệt điện.  Chi phí vận hành thấp, vận hành đơn giản, dễ dàng tự động hóa.  Tuổi thọ cao  Kết hợp được lợi ích phát điện với các lợi ích khác.  Nhược điểm:  Thời gian xây dựng lâu, vốn đầu tư ban đầu lớn.  Thường ở xa hộ tiêu thụ nên phải xây dựng hệ thống truyền tải tốn kém.  Nguồn nước cung cấp cho NMTĐ từ các dòng chảy tự nhiên thay đổi theo thời gian, phụ thuộc vào khí hậu, thời tiết.  Có nhiều ảnh hưởng tới sinh thái, môi trường.  Khó khăn trong việc tái định cư dân cư trong vùng hồ chứa. Gây ảnh hưởng đến vấn đề lịch sử, văn hóa của bộ phân dân cư này. 1.2.2 Cấu trúc của nhà máy thủy điện Nhà máy thủy điện bao gồm 3 hạng mục công trình lớn sau: 10 Công trình chính - Các công trình dâng nước và tháo nước: đập dâng, đập tràn, giếng tháo lũ ... Nhằm tạo cột nước phát điện, phân phối lại lượng nước theo yêu cầu và đảm bảo tháo lượng nước thừa về hạ lưu khi lũ về, tháo rác rưởi... - Công trình năng lượng: công trình nhận nước, dẫn nước vào tua – bin, tháo nước về hạ lưu, nhà máy thủy điện (chứa tua – bin, máy phát điện, máy biến áp, trang thiết bị điều khiển, phân phối ...), nhằm sản xuất phân phối điện. - Công trình vận chuyển tàu thuyền: âu thuyền, thiết bị nâng tàu thuyền ... Nhằm thông thương tàu thuyền giữa thượng và hạ lưu đập. - Công trình nuôi trồng thủy sản. - Công trình tưới tiêu: lấy nước, bể lắng cát, trạm bơm ... Nhằm đảm bảo cung cấp lượng nước cần thiết. - Công trình giao thông vận tải: cầu, đường bộ, đường sắt, đường cáp ... Công trình phục vụ Nhà ở, nhà văn hóa, nhà hành chính, đường xá, công trình cấp nước ... Nhằm đảm bảo vận hành bình thường công trình và đảm bảo nhu cầu cuộc sống của công nhân viên. Công trình tạm thời - Công trình dẫn dòng: đê, kênh ... - Các phân xướng sản xuất Tất cả là các công trình phục vụ giai đoạn thi công, sau khi thi công được tận dụng để đảm bảo lợi ích kinh tế. Cấu trúc của công trình chính gồm 3 tuyến chính:  Tuyến áp lực  Tuyến năng lượng  Tuyến hạ lưu 11 Sơ đồ tuyến năng lượng chính trong NMTĐ Trong đó, tua – bin là một trong những bộ phận quan trọng nhất của nhà máy thủy điện, trong khuôn khổ bài tiểu luận này, chúng em không thể đi sâu tất cả các công trình trong nhà máy thủy điện mà chỉ tập trung tìm hiểu kỹ về tua – bin.  Tua – bin thủy lực  Định nghĩa tua – bin thủy lực Tua – bin thủy lực là một thiết bị động lực chạy bắng sức nước biến đổi năng lượng của dòng chảy (thủy năng) thành cơ năng kéo máy roto máy phát điện quay theo tạo ra dòng điện. Tổ hợp tua – bin thủy lực và máy phát điện gọi là “tổ máy phát điện thủy lực”.  Ứng dụng của tua – bin nước  Tua – bin kéo trực tiếp máy phát  Tua – bin kéo máy phát qua bộ tuyến: vòng qua của tua – bin thường nhỏ hơn vòng quay của máy phát.  Tua – bin kéo bơm: dùng để phục vụ cung cấp nước sinh hoạt, tưới tiêu cho vùng sâu vùng xa nơi có nguồn thủy năng nhỏ.  Các thông số của tua – bin  Cột nước làm việc của tua bin: H (m) là hiệu năng lượng đơn vị của dòng nước đi qua tua bin tại mặt cắt vào và tại mặt cắt ra của tua bin.  Lưu lượng tua bin (hay lưu lượng nước qua tua bin): Q(m³/s) là lưu lượng dòng chảy đi qua tua bin. 12  Công suất của tua – bin  Công suất lý thuyết: xác định thông qua cột áp và lưu lượng của tua – bin bằng công thức: N୪୲ = γ୕ୌଵ଴ଶ (kW); trong đó ߛ = 1000 kG/mଷ  Công suất thực tế: N = N୪୲ - N; trong đó N là tổn thất sinh ra trong quá trình biến đổi năng lượng trong tua – bin gồm: tổn thất cống suất thủy lực, tổn thất công suất lưu lượng do rò rỉ, tổn thất cơ khí.  Hiệu suất tua bin: η (%) = ୒ ୒ౢ౪  Phân loại tua – bin thủy lực của trạm thủy điện Viết phương trình Becnully cho cửa vào (chỉ số1) cửa ra (chỉ số2) của turbine, ta có năng lượng viết cho một đơn vị trọng lượng nước như sau: A = (Zଵ − Zଶ) + ୮భି ୮మγ + αభ୴భమି αమ୴మమଶ୥ Zଵ − Zଶ: vị năng – thành phần năng lượng do chênh lệch vị trí tạo ra ୮భି ୮మ γ : áp năng, gộp vị năng và áp năng là thế năng αభ୴భ మି αమ୴మమ ଶ୥ : động năng Từ những thành phần trên ta có các loại tua – bin thủy lực sau: 13 Tua – bin xung lực Tua – bin phản lực Là hệ tua – bin trong đó bánh công tác quay được là do xung lực (động năng) của dòng chảy. Trong quá trình làm việc chỉ có phần động năng của dòng chảy thay đổi còn phần thế năng không thay đổi, áp suất ở cửa vào và cửa ra của bánh công tác lá áp suất khí trời. Là hệ tua – bin trong đó bánh công tác quay được là do tác dụng phản lực của dòng chảy. Trong quá trình làm việc của tua – bin cả hai thành phần thế năng và động năng của dòng chảy đều biến đổi nhưng chủ yếu là thế năng. Ở của vào của tua – bin áp suất luôn luôn lớn hơn ở cửa ra và dòng chảy qua tua – bin tăng dần, áp suất giảm dần. Máng dẫn bánh công tác có dạng hình côn. Dòng chảy liên tục điền đầy nước trong toàn bộ máng cánh do vậy áp suất dòng chảy phía trên lá cánh cao hơn phía dưới tạo ra lực tác dụng lên cánh làm quay bánh công tác của tua – bin. Các hệ của tua – bin xung lực: - Tua – bin xung lực gáo - Tua – bin xung lực kiểu phun xiên - Tua – bin xung lực hai lần Các hệ của tua – bin phản lực: - Tua – bin xuyên tâm hướng trục - Tua – bin hướng trục - Tua – bin hướng chéo - Tua – bin dòng - Tua – bin thuận nghịch Dùng cho trạm có cột nước cao, lưu lượng nhỏ. Dùng cho trạm có cột nước thấp, lưu lượng lớn. 14 CHƯƠNG 2. SỰ PHÁT TRIỂN THỦY ĐIỆN Ở VIỆT NAM 2.1 Sự phát triển của thủy điện trong các thời kỳ Phát triển điện lực nói chung và phát triển của thủy điện nói riêng là căn cứ vào sự phát triển kinh tế xã hội đất nước.  Năm 1913, Lable, một kỹ sư người Pháp nghiên cứu khai thác nguồn nước tự nhiên thác Trị An khoảng 3000kw nhưng không được xét duyệt.  Năm 1943, đưa vào vận hành thủy điện Auhroet (suối vàng) – nhà máy thủy điện đầu tiên của Việt Nam với công suất 500kw cung cấp điện cho thành phố Đà Lạt (Lâm Đồng)  Năm 1944, hoàn thành nhà máy thủy điện Ankroet (xã Lát, huyện Lạc Dương, Lâm Đồng) với công suất 2300kw  Từ đó đến trước năm 1954, Việt Nam xuất hiện các thủy điện nhỏ: Ta Sa (250kw), Nà Ngầu (300kw)  Từ 1954 – 1975: thời kỳ đầu nghiên cứu toàn diện về khai thác thủy năng, cả 2 miền nam bắc đều xuất hiện thêm nhiều nhà máy thủy điện có công suất lớn hơn Đaricha 160kw, Suối Vàng nâng cấp lên 3900kw, Thác Bà 108kw, Cấm Sơn 3900kw, Bản Thạch 960kw.  Từ 1975 – 1980: giai đoạn sau khi thống nhất đất nước, là thời kỳ khôi phục kinh tế. Nhà máy thủy điện Hòa Bình được chính thức đưa vào thi công (năm 1979) dưới sự giúp đỡ của Liên Xô, mặc dù được chuẩn bị từ đầu những năm 1970. Đến năm 1994, nhà máy thủy điện Hòa Bình được khánh thành với công suất 1920MW, gồm 8 tổ máy, đây là nhà máy thủy điện lớn nhất Việt Nam tính đến thời điểm đó.  Từ 1981 – 1985: thủy điện Hòa Bình – Trị An vẫn trong giai đoạn xây dựng nên nguồn cung cấp điện năng chủ yếu vẫn là thủy điện Thác Bà – Đa Nhim.  Từ 1986 – 1990: 2 tổ máy Hòa Bình (480MW) và Trị An (400MW) được đưa vào hoạt động, làm nâng sản lượng điện của thủy điện lên 5368,7 GWh chiếm 61.86% tổng sản lượng điện cả nước. Đây quả là con số không nhỏ. 15  Từ 1991 – 1994: hàng loạt các nhà máy thủy điện được đưa vào hoạt động như: Hòa Bình với đủ 8 tổ máy (1920MW), Trị An (400MW), Thác Mơ (150MW), Vĩnh Sơn (66MW), An Điểm (5,4MW), Dray Linh (12MW), làm nâng sản lượng điện năng từ thủy điện lên 10581,8 GWh, chiếm 72.29% tổng sản lượng điện cả nước.  Từ 1995 – 2000: có sự tham gia thêm của 2 thủy điện Yaly với 2 tổ máy (360MW), Sông Ninh (70MW) làm nâng cao sản lượng điện năng từ thủy điện, tuy nhiên do sự phát triển của các lĩnh vực sản xuất điện khác mà tỷ lệ điện năng từ thủy điện chỉ chiếm 58. 35% tổng điện năng sản xuất.  Từ 2001 – 2005: một chương trình phát triển thủy điện “đại qui mô” được phát động. Từ 2001 các thủy điện được đưa vào vận hành thêm là Hàm Thuận – Đa Mi (475 MW), Yaly vận hành bốn tổ máy (720 MW). Do năm 2005 là năm ít nước, thủy điện Đa Nhim sửa chữa nâng cấp, nên điện lượng sản xuất thủy điện giảm sút so với các năm trước. 2001 2002 2003 2004 2005 Điện sản xuất 28,433 32,680 39,244 40,243 41,185 Thủy điện 18,169 18,205 19,005 17,713 16,173 Phần trăm 63.90 54.05 48.43 44.01 39.27  Từ 2006 đến nay: nhiều nhà máy thủy điện đã được đưa vào vận hành như: Đại Ninh (300MW), Tuyên Quang (342MW), Se San (260MW), ...  Theo dự kiến năng lượng phát của thủy điện trong những năm 2010 – 2015 - 2020 - 2025 như sau : 40,083Gwh – 61,912Gwh – 65,921Gwh – 66,480Gwh. Đây thực là con số rất ấn tượng. Để đưa ra được các con số rất ấn tượng này là công lao rất lớn của các công ty tư vấn phát triển điện, những người tiên phong khám phá ra tiềm năng thủy điện, ở những dòng sông, con suối của đất nước. Và cũng từ khám phá ấy, các nhà tư vấn thủy điện đã dày công nghiên cứu, tìm ra các phương án tối ưu để khai thác các dòng sông, con suối đó. Đó là công tác qui hoạch thủy năng nguồn nước. 16 2.2 Công tác quy hoạch nguồn thủy năng để phát triển thủy điện Qui hoạch nguồn thủy năng có thể là qui hoạch lưu vực sông hay qui hoạch liên lưu vực sông, khi có nhu cầu chuyển nước lưu vực. Như đã thực hiện ở qui hoạch sông Đồng Nai và vùng phụ cận khi có nhu cầu chuyển nước từ sông Đồng Nai sang Ninh Thuận và Bình Thuận. Công tác qui hoạch nguồn thủy năng quan trọng như vậy, nên ngay từ 1954, kể từ khi Nam Bắc tạm thời chia cắt, cho đến khi thống nhất đất nước và thực sự phát triển từ 1975 đến nay.Từ 1975, qui mô phát triển thủy điện ngày càng lớn nên công tác qui hoạch nguồn thủy năng ngày càng đẩy mạnh. Cho đến nay, tất cả các dòng sông của Việt Nam đều có qui hoạch nguồn thủy năng, các dòng sông lớn được các cơ quan tư vấn trong nước thực hiện và tùy từng thời gian theo yêu cầu của cơ quan có thẩm quyền, các cơ quan tư vấn nước ngoài tham gia nghiên cứu các qui hoạch nguồn thủy năng. Đã có tám qui hoạch nguồn thủy năng do cơ quan nước ngoài thực hiện, từ qui hoạch về sử dụng tổng hợp nguồn nước sông Đà, do Phân viện Bacu (Liên Xô cũ) thực hiện khi đề xuất thủy điện Hòa Bình là công trình đợt đầu của bậc thang sông Đà; đến các qui hoạch tổng thể sông Đồng Nai về dự án thủy điện, do EPDC (Nhật Bản) thực hiện năm 1993 phục vụ đề xuất dự án thủy điện Hàm Thuận – Đa Mi – Đại Ninh; rồi qui hoạch tổng thể phát triển nguồn nước sông Đồng Nai và phụ cận, do Jica – Nippon Koci lập năm 1996 phục vụ đề xuất Đồng Nai 3&4, Srok Phu Miêng; qui hoạch tổng thể phát triển điện năng nước CHXHCN Việt Nam do EPDC – IEE (Nhật Bản) lập năm 1994; qui hoạch tổng thể phát triển thủy điện Việt Nam dưới tên các dự án thủy điện Đại Ninh, do New – Jec (Nhật Bản) lập 1996-1997; nghiên cứu kế hoạch thủy điện quốc gia Việt Nam do liên doanh tư vấn Sweco – StarKraft – Norplan thực hiện 1999-2001, Việt Nam đánh giá tổng quan ngành thủy lợi Việt Nam, do WB – ADB – UNDP - FAO phối hợp với viện qui hoạch thủy lợi Việt Nam thực hiện năm 1996; qui hoạch thủy điện tích năng Việt Nam do Jica thực hiện.Tất cả các qui hoạch thủy năng do cơ quan nước ngoài thực hiện, đều sử dụng các tài liệu cơ bản và các nghiên cứu của tư vấn Việt Nam đã làm. 17 Với sự thẩm tra rất cẩn thận của các cơ quan trong nước, đồng thời được rà soát lại bởi các cơ quan tư vấn nước ngoài, nên chất lượng công tác qui hoạch nguồn thủy năng được đảm bảo. Hơn nữa, được sự chỉ đạo của cơ quan Bộ Điện lực, Bộ Năng lượng và EVN, các qui hoạch thủy năng các lưu vực sông, thường được triển khai một số dự án ở mức sâu hơn, báo cáo tiền khả thi hay khả thi, nên tài liệu cơ bản là đáng tin cậy, chất lượng dự án đạt yêu cầu. Chính vì vậy, các dự án thủy điện đảm bảo được chất lượng hơn. Hiệu quả rõ nét nhất của công tác qui hoạch nguồn thủy năng là sự hiện diện các công trình thủy điện đã, đang và sẽ xây dựng, trong các qui hoạch phát triển điện các giai đoạn. Sự hiện diện của các công trình thủy điện ở các giai đoạn phát triển điện lực, không chỉ là nguồn năng lượng phục hồi, sạch và bền vững, mà còn mang lại hiệu quả to lớn cho phát triển công, nông nghiệp và dân sinh, đồng thời là nguồn quan trọng giảm nhẹ thiên tai (chống lũ, chống hạn) góp phần giảm khí thải hiệu ứng nhà kính gây ra sự thay đổi khí hậu toàn cầu. 2.3 Thực trang những bất cập của sự phát triển thủy điện hiện nay 2.3.1 Về quy hoạch Hầu hết quy hoạch hồ chứa mới chỉ có đánh giá tác động môi trường mà chưa đánh giá môi trường chiến lược (ĐMC) như quy định của pháp luật. Việc đánh giá tác động môi trường của đa số các dự án thủy điện, thủy lợi chưa tốt, chưa đánh giá hết được tác động môi trường mà dự án gây ra, chưa quan tâm đánh giá đầy đủ, đúng mức ảnh hưởng tới các tài nguyên và môi trường tự nhiên và môi trường xã hội, đặc biệt là các tác động đến nguồn nước (cả về số lượng, chất lượng và chế độ), đến các nhu cầu khai thác, sử dụng nước khác, đến nhu cầu nước cần thiết để đẩy mặn trong mùa kiệt, bảo đảm duy trì đời sống bình thường của dòng sông ở hạ lưu. Việc quy hoạch các công trình thủy điện do các cấp có thẩm quyền quyết định mà không tham vấn ý kiến của địa phương nơi sẽ xây dựng công trình, chỉ đến khi công trình được phê duyệt thì địa phương mới biết, nên rất khó thay đổi để đạt mục đích hài hóa các lợi ích trong xây dựng công trình. UBND các tỉnh phê duyệt quy hoạch hồ chứa vừa và nhỏ, nhưng thường thiếu sự phối hợp kiểm tra, giám sát của các ngành ở TW nên thường được điều chỉnh, bổ 18 sung liên tục chạy theo cách nhìn nhận địa phương cục bộ, không phải cách nhìn mang tính tổng thể lưu vực (thay đổi vị trí, qui mô công trình, công suất, các hạng mục công trình,...), trong khi lại thiếu phân tích đánh giá toàn diện các phương án điều chỉnh trên từng hệ thống bậc thang và toàn lưu vực. Các quy hoạch liên tục được điều chỉnh theo hướng tăng số lượng, tăng quy mô các hồ chứa ở hầu hết các địa phương đang là “báo động” về tình trạng quy hoạch tùy tiện, thiếu kiểm soát từ cơ quan quản lý cấp trên. Tình trạng để xây dựng hàng trăm hồ chứa trên một lưu vực sông có nguyên nhân từ sự bất cập của quy hoạch đang dẫn tới tàn phá vùng rừng đầu nguồn sinh thủy, tàn phá môi trường và tài nguyên,... rõ ràng là không thể chấp nhận được. Việc quy hoạch các công trình thủy điện do các cấp có thẩm quyền quyết định mà không tham vấn ý kiến của địa phương nơi sẽ xây dựng công trình, chỉ đến khi công trình được phê duyệt đầu tư thì địa phương mới biết, nên rất khó thay đổi để đạt mục đích hài hòa các lợi ích trong xây dựng, quản lý vận hành công trình, làm tăng nguy cơ tác động đến các cộng đồng dân cư vùng hồ, nhất là các cộng đồng dân tộc thiểu số. 2.3.2 Về thiết kế, thi công công trình Đa số các hồ chứa thủy điện vừa và nhỏ do tư nhân hoặc các công ty cổ phần là chủ đầu tư dẫn đến chủ đầu tư chỉ chú ý đến lợi ích phát điện, hoàn toàn không chú ý đến lợi dụng tổng hợp công trình, không “đếm xỉa” đến bảo đảm các lợi ích khác, thậm chí khi họ xây dựng đã kéo theo việc phá luôn rừng là nguồn sinh thủy bảo đảm tính bền vững của chính công trình thủy điện của họ. Mặt khác, do chỉ chú ý đến hiệu quả phát điện nên trong nhiệm vụ thiết kế, xây dựng công trình, phần lớn công trình hồ chứa không có dung tích phòng, chống lũ cho hạ lưu (nhất là các công trình thủy điện vừa và nhỏ ở khu vực miền Trung), các tuyến đập không có giải pháp kỹ thuật (cống, tràn xả sâu, tràn sự cố...), quy trình không có biện pháp kỹ thuật bảo đảm vận hành cắt giảm lũ vào mùa mưa và cấp nước trong mùa khô nên nếu vận hành không hợp lý đều gây gia tăng lũ trong mùa ngập lụt ở hạ du hoặc không bảo đảm duy trì dòng chảy tối thiểu cho hạ du trong mùa cạn làm các sông suối “khô héo” dần. Ngoài ra, thực tế cho thấy, việc tận thu rừng trong lòng hồ, khu vực công trình cũng luôn kéo theo sự lợi dung để khai tác, tàn phá rừng đầu nguồn các lưu 19 vực sông. Hâu quả là thủy điện làm mất dần “bình phong” điều tiết lũ tự nhiên trên lưu vực, gián tiếp làm gia tăng lũ, đồng thời cũng làm gia tăng nguy cơ mất bền vững của công trình (giảm tuối thọ và tăng các chi phí khác của vận hành hồ chứa theo quy định). Hiện nay việc cấp phép khai thác sử dụng tài nguyên nước mặt cho phát điện chủ yếu là cấp phép cho các công trình đã đi vào hoạt động từ nhiều năm nay, việc thay đổi kết cấu công trình để đảm bảo các điều kiện trong giấy phép (trong đó có thực hiện nhiệm vụ cắt giảm lũ; duy trì dòng chảy tối thiểu) là rất khó khăn, thậm chí nhiều công trình không có biện pháp để thực hiện điều kiện. 2.3.3 Về quản lý vận hành hồ chứa Nhìn chung, nhiều ý kiến của các chuyên gia về tài nguyên nước, thủy lợi, thủy điện và liên quan đến phòng chống thiên tai, khai thác, sử dụng nguồn nước; của các cơ quan quản lý tài nguyên nước và liên quan về nội dung, giải pháp kỹ thuật trong vận hành các hồ chứa thủy điện cũng như các ý kiến thẩm định các quy trình vận hành công trình hầu như các chủ công trình và nhất là các cơ quan quản lý cấp trên liên quan không hoặc rất ít khi tiếp thu, sửa chữa. Nhiều ý kiến của Bộ Tài nguyên và Môi trường liên quan đến bổ sung các nhiệm vụ vận hành công trình (như chế độ vận hành phòng, chống lũ; điều tiết nước bảo đảm duy trì dòng chảy tối thiểu ở dưới hạ du,...) chưa được xem xét đúng mức trong quá trình hoàn chỉnh, thẩm định phê duyệt quy trình vận hành. Nhiều công trình chưa thực hiện nghiêm chỉnh các quy định của quy trình vận hành nên đã gây những hậu quả xấu cho hạ lưu và bản thân công trình. Trong xây dựng cũng như quản lý vận hành công trình, các chủ đầu tư hoặc chủ công trình đề không thực hiện việc thu thập thông tin khí tượng thủy văn cần thiết nên thường vận hành không hợp lý, có trường hợp gây lũ về sớm, lên quá nhanh, làm gia tăng mức độ ngập lụt như trong lũ lụt năm 2009 ở hạ lưu sông Hương-Bồ (do sự cố vận hành cửa van công trình thuy điện Bình Điền), sông Vu Gia – Thu Bồn (do xả nước từ công trình A Vương), sông Ba (do vận hành xả lũ của công trình sông Ba Hạ); trong trận lũ lụt lịch sử ở Hà Tĩnh, Quảng Bình (do sự cố công trình thủy điện Hố Hô, Kẻ Gỗ). Việc xây dựng công trình không bảo đảm phương án chống lũ cần thiết hoặc công trình không an toàn dẫn đến vỡ đập gây hậu quả nghiêm trọng cho hạ lưu (như trường hợp vỡ đập Cửa Đạt năm 2007 khi đang thi 20 công, vỡ đập Khe Mơ năm 16/10/2010 khi đang sửa chữa; vỡ đập Z20, đập Thầu Dầu năm 2008,... 21 CHƯƠNG 3. BÀI TOÁN KINH TẾ - XÃ HỘI – MÔI TRƯỜNG CỦA NHÀ MÁY THỦY ĐIỆN 3.1 Sự tác động tích cực của thủy điện đến kinh tế - xã hội – môi trường Với một cách nhìn công bằng, thuỷ điện đã và vẫn đang tồn tại nhiều ưu điểm. Những ưu điểm đó tạo thành ưu thế nổi trội, nhất là giá thành điện thấp.  Lợi ích lớn nhất của thuỷ điện là giá thành nhiên liệu, đây là một nguồn năng lượng tái tạo được (tính bền vững): những trận mưa rào làm hồi phục lượng nước trong hồ chứa, vì vậy không bao giờ sợ cạn kiệt. Các nhà máy thuỷ điện không phải chịu cảnh tăng giá của nhiên liệu hóa thạch như dầu mỏ, khí thiên nhiên hay than đá, và không cần phải nhập nhiên liệu. Điều này xuất phát từ nguyên lý hoạt động của nhà máy thuỷ điện rất giản đơn, năng lượng của thuỷ điện chỉ lấy từ thế năng, do khác biệt về độ cao giữa hồ tích nước và vị trí tua - bin nước phát điện. Là nhiên liệu chủ yếu của thuỷ điện, nước vừa rẻ vừa là hàng "nội địa", không phải nhập khẩu và không chịu sự tăng giảm giá cả như các loại nhiên liệu cho các loại điện năng khác như dầu khí, than đá, urani v.v.  Các nhà máy thuỷ điện cũng có tuổi thọ lớn hơn các nhà máy nhiệt điện, một số nhà máy thuỷ điện đang hoạt động hiện nay đã được xây dựng từ 50 đến 100 năm trước.  Chi phí nhân công cũng thấp bởi vì các nhà máy này được tự động hoá cao và có ít người làm việc tại chỗ khi vận hành thông thường.  Những hồ chứa dung tích lớn được xây dựng cùng với các nhà máy thuỷ điện sẽ tích nước vào các tháng mùa mưa để có thể dùng để phát điện trong mùa khô. Như vậy, thủy điện giúp đồng bằng hạ lưu chống lũ về mùa mưa và hạn hán vào mùa khô; cải thiện dòng chảy kiệt và xâm nhập mặn. Các nhà máy thuỷ điện hồ chứa bằng bơm hiện là công cụ đáng chú ý nhất để tích trữ năng lượng về tính hữu dụng, cho phép phát điện ở mức thấp vào giờ thấp điểm (điều này xảy ra bởi vì các nhà máy nhiệt điện không thể dừng lại hoàn toàn hàng ngày) để tích nước sau đó cho chảy ra để phát điện vào giờ cao điểm hàng ngày. Việc vận hành cách nhà máy thuỷ điện hồ chứa bằng bơm cải thiện hệ số tải điện của hệ thống phát điện. . 22  Các đập và hồ chứa nước thường nằm những vị trí có khung cảnh đẹp, thoáng đãng, thưa dân cư, nói cách khác đây là những địa điểm tuyệt vời về du lịch, thư giãn với các môn thể thao nước..., nuôi trồng thủy sản và trở thành điểm thu hút khách du lịch, tạo nguồn thu hữu ích trong việc điều hành đập Tất cả những đặc điểm trên của các nhà máy thuỷ điện đều góp phần gia tăng chức năng sử dụng, tăng nguồn thu và kết quả là giảm giá thành khai thác, hay hạ giá tiền điện lấy từ túi người tiêu dùng  Cũng có thể "ghi điểm" thêm cho thuỷ điện, vì nó hầu như không đốt nhiên liệu hoá thạch, do đó không trực tiếp tạo nên khí nhà kính dioxit cacbon làm nóng khí hậu trái đất. Một công trình nghiên cứu xếp thuỷ điện vào vị trí phát khí nhà kính ít nhất, tiếp đến là điện gió, điện hạt nhân và thứ tư là điện mặt trời. Do đó, có thể coi đây là dạng năng lượng sạch  Xây dựng các công trình phụ trợ cho việc xây dựng và vận hành nhà máy thủy điện có các tác động đến kinh tế khu vực. Cụ thể với dự án thủy điện Lai Châu được xây dựng tại xã Nậm Hàng, huyện Mường Tè, tỉnh Lai Châu. Đây được coi là công trình thủy điện lớn cuối cùng của đất nước, có vai trò quan trọng trong việc phát điện, tham gia cấp nước cho Đồng bằng sông Hồng. Dự án có tổng mức đầu tư dự tính 32.600 tỷ đồng; tổng diện tích 4.636ha (trong đó vùng mặt bằng công trình 673ha, vùng hồ chứa ứng với mực nước dâng bình thường 295m là 3.963ha); công suất lắp máy 1.200 MW; lượng điện bình quân 4.704 triệu kWh/năm; công nghệ bảo đảm yêu cầu hiện đại, hiệu quả, an toàn; thời gian khởi công xây dựng nhà máy vào cuối năm 2010, phát điện tổ máy số 1 vào năm 2016 và hoàn thành công trình vào năm 2017. Đồng thời với Dự án thủy điện Lai Châu, Chính phủ cũng tổ chức lập quy hoạch, quyết định đầu tư hai dự án khác. Đó là đường giao thông bên bờ phải sông Đà, đường kết nối và 3 cầu bắc qua sông Đà nhằm khắc phục tình trạng bị cô lập của địa bàn huyện Mường Tè và vùng lân cận sau khi tích nước lòng hồ, phục vụ yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh. Dự án thứ hai là điều chỉnh địa giới hành chính, sắp xếp lại dân cư, đổi mới cách thức sản xuất, chuyển dịch cơ cấu kinh tế của huyện Mường Tè và đơn vị hành chính liên quan của tỉnh Lai Châu; đầu tư phát triển kinh tế - xã hội của các đơn vị hành chính mới. Tại phiên thảo luận ở hội trường về dự án thủy điện Lai Châu, đại biểu Đặng Văn Chiến (đoàn Lai Châu) đã truyền tải tâm nguyện, kiến nghị của lãnh đạo và cử tri 23 tỉnh Lai Châu tới Quốc hội đồng thời khẳng định, chủ trương đầu tư xây dựng nhà máy thủy điện Lai Châu là quyết sách rất quan trọng trong việc đầu tư phát triển không chỉ Lai Châu mà toàn bộ vùng Tây Bắc, vùng còn gặp rất nhiều khó khăn, trình độ phát triển còn thấp về mọi mặt so với mặt bằng chung của cả nước. Dự án dự kiến thực hiện tại huyện Mường Tè là một huyện biên giới có diện tích tự nhiên chiếm 40% diện tích của tỉnh Lai Châu, địa hình chia cắt, nhiều núi cao, thung lũng và sông suối, dân cư phân bố rất thưa thớt, tập quán canh tác lạc hậu, tỷ lệ đói nghèo chiếm khoảng 52% dân số. Cơ sở hạ tầng tuy đã được quan tâm đầu tư song còn chắp vá, đi lại khó khăn, vào mùa mưa thường xuyên bị chia cắt, toàn huyện chưa được sử dụng lưới điện quốc gia... Việc Nhà nước đầu tư xây dựng dự án thủy điện Lai Châu thực sự là một cơ hội lớn để nhân dân các dân tộc huyện Mường Tè thoát khỏi đói nghèo, sắp xếp lại dân cư, cơ cấu lại sản xuất, xây dựng cơ cấu hạ tầng, thúc đẩy kinh tế phát triển toàn diện. Khi xây dựng xong thủy điện Lai Châu thì đó cũng là một công trình văn hóa, du lịch và môi trường sinh thái, như vậy thì hiệu quả kinh tế của nó sẽ được nâng lên gấp bội lần. Đặc biệt là việc lồng ghép các dự án chương trình như Chương trình 135, Dự án 5 triệu ha rừng thì sẽ tăng hiệu quả và tuổi thọ của đập thủy điện lên rất cao...Theo Phó Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Đức Kiên, khi chuẩn bị dự án đầu tư, phương án đầu tư cụ thể, chúng ta không chỉ nhìn nhận việc xây dựng cho được nhà máy thuỷ điện Lai Châu với mục tiêu là cấp điện và điều hòa nước ở hạ lưu. Mà phải được xem xét giải quyết tổng thể vấn đề phát triển kinh tế xã hội, yêu cầu quốc phòng an ninh của huyện Mường Tè của tỉnh Lai Châu và toàn bộ khu vực Tây Bắc. 3.2 Sự tác động tiêu cực của thủy điện đến kinh tế - xã hội – môi trường Thủy điện không còn là nguồn năng lượng rẻ và ít ô nhiễm như mọi người lầm tưởng… Nếu tính theo quan điểm tài chính, nghĩa là đồng vốn bỏ vào đầu tư xây đập, làm hồ, xây nhà máy, đền bù cho dân phải dời nơi sinh sống từ lâu đời tới một nơi xa lạ để tái định cư thì giá thủy điện rẻ gấp nhiều lần so với nhiệt điện hoặc các dạng điện năng khác. Thế nhưng, còn một số mất mát khác chưa được tính tới. Nếu tính thêm mất rừng nhiệt đới, mất đa dạng sinh học do đập thủy điện gây ra, làm giảm sút hệ thủy hải sản, mất những loài cá di cư đẻ trứng vùng thượng nguồn, sói lở ở dòng sông, mất những vùng đất ngập nước do sông biến 24 đổi gây ra, hạ mực nước ngầm ở những nơi lòng sông bị đào sâu, sức khỏe cộng đồng và nhất là những khó khăn về xã hội do di dân thì chắc chắn là không hề rẻ chút nào.  Việc xây dựng các hồ chứa làm mất đi một diện tích lớn đất đai và thông thường có cả đất rừng. Theo tính toán, để có 1 MW điện phải mất ít nhất 7,5 – 10 ha rừng.  Những nhà môi trường đã bày tỏ lo ngại rằng các dự án nhà máy thuỷ điện lớn có thể làm thay đổi dòng chảy về cả số lượng và chất lượng, phá vỡ sự cân bằng của hệ sinh thái xung quanh .Thứ nhất, các nghiên cứu đã cho thấy rằng đập sẽ ngăn cản những con đường di cư của loài cá, biến những đoạn sông nước chảy xiết thành những cái ao tù đọng và gây nguy hiểm cho các khu vực cá đẻ và ấp trứng. Điển hình các đập nước dọc theo bờ biển Đại Tây Dương và Thái Bình Dương của Bắc Mỹ đã làm giảm lượng cá hồi vì chúng ngăn cản đường bơi ngược dòng của cá hồi để đẻ trứng, thậm chí ngay khi đa số các đập đó đã lắp đặt thang lên cho cá. Cá hồi non cũng bị ngăn cản khi chúng bơi ra biển bởi vì chúng phải chui qua các tua - bin. Điều này dẫn tới việc một số vùng phải chuyển cá hồi con xuôi dòng ở một số khoảng thời gian trong năm. Các thiết kế tuốc-bin và các nhà máy thuỷ điện có lợi cho sự cân bằng sinh thái vẫn còn đang được nghiên cứu. Thứ hai, các tua-bin thường mở không liên tục, có thể quan sát thấy sự thay đổi nhanh chóng và bất thường của dòng chảy làm mực nước sông dâng lên hoặc hạ xuống rất nhanh, đặc biệt là vùng hạ lưu ngay sát nhà máy. Điều này có thể gây thiệt hại về người và của cho khu vực dưới chân đập. Cuối cùng, nước chảy ra từ tua - bin lạnh hơn nước trước khi chảy vào đập, điều này có thể làm thay đổi số lượng cân bằng của hệ động vật, gồm cả việc gây hại tới một số loài. Do lượng phù sa bị giữ lại trong lòng hồ, nước sau khi ra khỏi tua - bin thường chứa rất ít phù sa làm giảm độ phì nhiêu đối với vùng đồng bằng. Phù sa cho phép sự hình thành bờ sông, châu thổ, phù sa, hồ, đê tự nhiên, đường bờ biển. Ngoài ra, điều này cùng việc thay đổi lưu lượng có thể gây ra tình trạng sạt lở bờ sông và thay đổi hình thái lòng sông, nhất là vùng cửa sông. Đáy sông bị tụt xuống kéo theo mực nước ngầm dọc sông xuống thấp. Trên thực tế, việc sử dụng nước tích trữ thỉnh thoảng khá phức tạp bởi vì yêu cầu tưới tiêu có thể xảy ra không trùng với thời điểm yêu cầu điện lên mức cao nhất. Trong mùa cạn, nhiều hồ chứa thuỷ điện tăng cường việc tích nước để dự trữ phát điện, nên giảm lượng nước xả xuống hạ 25 lưu, gây xâm nhập mặn sâu và thiếu nước tưới. Ngoài ra, các nhà máy thuỷ điện hiện nay đều vận hành phát điện hàng ngày theo chế độ phù đỉnh. Trong đó, để tạo ra hiệu quả sản xuất điện năng cao nhất nên vào ban đêm, lượng nước qua tua - bin xả xuống hạ lưu giảm đến mức tối thiểu, hoặc có khi ngừng hẳn. Một số dự án thuỷ điện cũng sử dụng các kênh, thường để đổi hướng dòng sông tới độ dốc nhỏ hơn nhằm tăng áp suất có được, trong một số trường hợp, toàn bộ dòng sông có thể bị đổi hướng để trơ lại lòng sông cạn. Bên cạnh đó, nhiều công trình thuỷ điện dùng đường ống áp lực để dẫn nước từ hồ chứa đến nhà máy thuỷ điện bố trí ở cao trình thấp để tạo đầu nước lớn, nâng cao hiệu quả phát điện,nên đoạn sông từ đập đến nhà máy không có nước trở thành một đoạn sông chết có chiều dài từ vài km đến hàng chục km ngay sau tuyến đập chính.  Việc thu dọn lòng hồ trước khi tích nước lần đầu nếu không tốt sẽ ô nhiễm nước hồ do quá trình phân huỷ thực vật trong lòng hồ. Nó còn thải ra khí mêtan gây hiệu ứng nhà kính mạnh gấp 21 lần so với CO2. Chúng ta đều biết, hiện tượng trái đất nóng lên gây biến đổi khí hậu một phần là do phát thải khí nhà kính. Thủy điện từng được cho là nguồn năng lượng sạch nhưng quan điểm này đã sai vì chúng góp phần làm tăng phát thải khí nhà kính- khí mêtan (CH4), một loại khí nhà kính rất mạnh. Xét ở khía cạnh phát thải khí mêtan, đôi khi thủy điện còn ô nhiễm hơn là nhiệt điện. Hồ chứa đập thủy điện có thể sản sinh ra một lượng đáng kể khí mêtan và đioxit cacbon (CO2). Khí mêtan được sinh ra chủ yếu do vi khuẩn phân hủy chất hữu cơ trong điều kiện ít hoặc không có oxy. Xác động thực vật chết bị ngập chìm dưới lòng hồ, phân hủy trong môi trường yếm khí và hình thành nên khí mêtan. Do hệ thống ống dẫn nước cho các tua - bin thủy điện thường được đặt sâu dưới đáy hồ, dưới điều kiện áp suất cao, khí mêtan trong nước dễ dàng thoát ra ngoài. Theo Ủy hội Đập thế giới, ở nơi nào mà hồ chứa khá lớn so với năng lực của đập (dưới 10W/m2 diện tích bề mặt) và không có sự phát triển trở lại của bất cứ loại thực vật nào đã bị phát quang thì lượng khí thải nhà kính phát thải từ đập khi sản xuất điện cũng ngang như việc đốt dầu mỏ để sản xuất cùng một lượng điện. Năm 1990, các nhà khoa học đã ước tính được lượng phát thải khí nhà kính của đập Curua- Una ở Para (Braxin) là cao hơn 3,5 lần so với cùng lượng điện được tạo ra từ dầu mỏ hay chỉ với 52.000 con đập lớn của thế giới đã đóng góp hơn 4% tác động gây nóng lên toàn cầu do hoạt động của con người.Nghiên cứu của Viện Nghiên cứu không gian Quốc gia Braxin (INPE) chỉ ra rằng, các đập 26 thủy điện lớn có thể tạo ra lượng khí mêtan hàng năm trên toàn cầu tương đương khoảng 800 triệu tấn khí CO2 Các hồ thủy điện hình thành trên các con đập làm ngập chìm các khu rừng nhiệt đới cũng đồng nghĩa với việc mất đi những bể chứa CO2 hữu hiệu, hay nói cách khác chúng làm tăng phát thải CO2 vào khí quyển. Hiện nay, dù chưa có thống kê về diện tích rừng bị mất do làm thủy điện trên toàn thế giới cũng như ở Việt Nam nhưng từ con số ước tính về lượng CO2 phát thải vào khí quyển trên một đơn vị diện tích rừng bị mất (16,1 triệu ha rừng trên thế giới bị mất giải phóng 1,6 Giga tấn cacbon/năm) hay căn cứ trên khả năng của rừng nhiệt đới có thể hấp thu CO2 (là 9,62 tấn/ha/năm) người ta có thể hình dung phần nào về sự đóng góp vào sự biến đổi khí hậu thông qua việc gián tiếp làm tăng phát thải CO2 của thủy điện ở các nước nhiệt đới, trong đó có Việt Nam.  Vấn đề di dân -tái định cư cho dân cư nông nghiệp sống trong vùng hồ chứa không đơn giản, tác động về mặt xã hội sẽ rất lớn và lâu dài. Vấn đề là phải dành một diện tích canh tác rất lớn để phân chia và xây chỗ ở cho các người tái định cư. Đối vớitrường hợp người nông dân sau định cư sẽ phải kiếm sống bằng những ngành nghề phi nông nghiệp nếu không có chính sách hỗ trợ dạy nghề, kiếm việc làm thì thất nghiệp là chắc chắn và Nhà nước lại phải tiếp tục hỗ trợ đời sống lâu dài. Trong nhiều trường hợp không một khoản bồi thường nào có thể bù đắp được sự gắn bó của họ về tổ tiên và văn hoá gắn liền với địa điểm đó vì chúng có giá trị tinh thần đối với họ.Với các công trình thủy điện, do mất rất nhiều đất ở và đất canh tác để làm hồ chứa nên sản xuất nông nghiệp và đời sống của người dân có thể gặp khó khăn. Đặc biệt, có trường hợp chôn vùi vĩnh viễn cả một nền văn hoá dưới lòng hồ. Có thể kể ra các trường hợp điển hình đã xảy ra ở các đập thuỷ điện sau đây: Đập Tam Hiệp (Trung Quốc), Clyde ở New Zealand, Ilisu ở Thổ Nhĩ Kỳ v.v..  Và đặc biệt nhất, một số đập thuỷ điện đã từng hoặc đang đe doạ gây ra thảm hoạ kinh khủng đối với con người. Thực vậy, với những con đập thuỷ điện lớn, nếu để xảy ra sai sót hoặc cẩu thả trong quy hoạch, thiết kế hay thi công, hoặc không khảo sát đầy đủ cấu tạo địa chất và lường định chính xác cấp độ động đất có thể xảy ra trong địa bàn nhà máy, sẽ gây ra thảm họa khôn lường cho các khu dân cư ở phía hạ lưu. các đập nước lớn làm thay đổi kết cấu địa chất dữ dội đến mức đó có thể là nguyên nhân dẫn đến các thảm họa kinh khủng như động đất hay lũ lụt. Một nghiên cứu của các nhà khoa học thuộc Đại học Columbia (Mỹ) cho thấy 27 trận động đất kinh hoàng làm 80.000 người chết và mất tích ở tỉnh Tứ Xuyên, Trung Quốc tháng 5/2008 có thể khởi nguồn sâu xa từ việc tích trữ 320 triệu tấn nước ở hồ chứa Zipingpu, cách nơi xảy ra động đất hơn 1,5km. Lời giải thích là việc nén một lượng nước quá lớn ở một khu vực chật hẹp có thể gây ra những nứt gãy bên dưới các lớp địa chất mới hình thành. Trong lịch sử ngành thuỷ điện toàn cầu đã từng xẩy ra những thảm hoạ kinh hoàng. Chẳng hạn, do vị trí địa chất không phù hợp, hồ chứa nước phía sau đập Vajont, nước Ý vào năm 1963 đã bị một trận lở đất lớn ập xuống, tạo nên đợt sóng thần quét qua đỉnh đập và lao xuống thung lũng bên dưới. Và kết quả 2000 dân thường chết. Nhưng nếu tính về thiệt hại nhân mạng đối với một nhà máy thuỷ điện, sự cố vỡ Đập Bản Kiều, trên sông Ru, tỉnh Hà Nam (Trung Quốc) có thể xếp vào số 1. Với đập này, nhà máy thuỷ điện đạt công suất khổng lồ đến 18 Gega-oat GW, tương đương 20 lò phản ứng hạt nhân. Sự cố xảy ra 2 lần trong năm 1975. Lần đầu, con đập đã bị vỡ và thiệt hại cũng khá nặng nề. Sau khi vừa sửa chữa và xây lại, 1 cơn lũ lớn đã làm đập vỡ toang. Hậu quả hết sức nặng nề, mãi đến năm 2005 mới được công bố: 175.000 người thiệt mạng (26.000 người chết trực tiếp vì lũ lụt và 145.000 người chết do dịch bệnh và nạn đói sau đó), trên 11 triệu người mất sạch nhà cửa do 5 triệu ngôi nhà bị phá hủy.Hậu quả đó lớn hơn bất kỳ thảm hoạ nhà máy điện nào trong lịch sử, kể cả nhà máy điên hạt nhân và chỉ có thể so sánh với các vụ nổ bom nguyên tử Hiroshima, Nakasaki ở Nhật trong thế chiến II. Tóm lại, thay đổi dòng chảy là một trong những hậu quả chính của việc xây đập. Tối đa hóa công suất điện của một nhà máy thủy điện theo nhu cầu có thể gây ra những hậu quả nghiêm trọng với cả các hệ sinh thái và những người sử dụng nguồn nước. Đặc biệt trong bối cảnh biến đổi khí hậu, tài nguyên nước ngày càng khan hiếm, việc xây dựng nhiều thủy điện trên cùng một lưu vực sông quốc tế sẽ dễ xảy ra một cuộc chiến tranh về tài nguyên nước giữa các quốc gia. Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp có thể điều chỉnh chế độ hoạt động của đập, tạo ra dòng chảy môi trường đáp ứng và hài hòa các nhu cầu khác nhau. Dòng chảy môi trường có đóng góp quan trọng tới “sức khỏe” của con sông, tới phát triển kinh tế và giảm nghèo. Dòng chảy môi trường không phải là dòng chảy tự nhiên mà là một chế độ nước tạo ra sự cân bằng nhằm đáp ứng các nhu cầu khác nhau về nguồn nước, trong đó có nhu cầu của hệ sinh thái và cộng đồng dân cư. 28 Việc phân tích các tác động tiêu cực của đập thủy điện từ những kinh nghiệm quốc tế không có nghĩa là phản đối việc phát triển nguồn năng lượng thủy điện của Việt Nam khi mà trong giai đoạn hiện nay, nhu cầu điện sinh hoạt và ản xuất ở nước ta còn chưa đáp ứng đủ, mà nguồn năng lượng thay thế chưa sẵn sàng. Tuy nhiên, vấn đề phát triển thủy điện như thế nào để có thể đảm bảo được rằng những tiêu cực do thủy điện gây ra không vượt quá mức độ cho phép là một bài toán khó. Trên cơ sở nhận thức những cái được và cái mất từ các dự án thủy điện, các nhà hoạch định và quản lý nên quan tâm, cân nhắc kỹ lưỡng và tính đến khả năng loại bớt những đập thủy điện đã, đang hoặc sẽ không đảm bảo chức năng của nó giống như một số nước đã tiến hành trước khi quá muộn. Việc xây dựng, vận hành các công trình thuỷ điện có tác động sâu sắc và lâu dài đến tài nguyên nước và môi trường lưu vực sông, bao gồm cả tác động tích cực và tác động bất lợi. Ngoài các tác động tiêu cực đã nói , thực tiễn tình hình thủy điện ở Việt nam có một số vấn đề phát sinh có thể liệt kê như sau: Quy hoạch, thiết kế các công trình thủy điện vừa và nhỏ còn chưa chặt chẽ , đặc biệt mật độ rất dày ở miền Trung và Tây Nguyên. Rất nhiều doanh nghiệp muốn phát triển thủy điện vì đây là loại hình kinh doanh rất có lãi. Với suất đầu tư bình quân 25 tỉ đồng/MW thì một dự án chỉ từ 8-10 năm là thu hồi vốn. Quy hoạch thủy điện đã được Chính phủ phê duyệt từ tháng 6-2007, đối với các hồ chứa thủy điện vừa và nhỏ thì Chính phủ giao cho UBND tỉnh phê duyệt. Hiện cả nước có trên 800 quy hoạch dự án thủy điện nhỏ và vừa ở 35 tỉnh thành phố, trong đó miền Trung có 335 dự án. Hiện có nhiều thủy điện nhỏ công suất chỉ 2-3 MW được xây dựng, thậm chí có thủy điện công suất rất nhỏ, chỉ dưới 1MW. Việc phát triển thuỷ điện ồ ạt chắc chắn sẽ tiềm ẩn nhiều nguy cơ đối với môi trường. Lý do được đưa ra là những dự án thủy điện nhỏ này khi triển khai sẽ rất khó kiểm soát, gây mất đất, mất rừng, thay đổi hệ sinh thái cũng như tính nguyên vẹn của dòng sông, gây xáo trộn đời sống người dân tộc thiểu số. Trong khi đó các dự án này không có tác động nhiều đến việc thúc đẩy kinh tế - xã hội địa phương phát triển. Ngoài ra, cửa sông miền Trung rộng nhưng lại bị các cồn cát chắn nên thoát lũ rất kém. Nguyên nhân là các thủy điện mùa khô phải giữ nước đã khiến động lực nước biển thắng động lực nước sông, đẩy các cồn cát hình thành cao hơn, chắc hơn, gần bờ hơn, gây khó thoát nước khi lũ đến.Một số công trình thủy điện còn được dự kiến nằm 29 trong vùng khu bảo tồn thiên nhiên như trường hợp dự án nhà máy thuỷ điện Sông Giằng 1, 2, 3, 4 nằm trên sông Thanh trong khu bảo tồn thiên nhiên Sông Thanh. Rất may các công trình này đã bị xóa bỏ đầu tư Hiện tượng khá phổ biến trong quy hoạch, thiết kế các công trình thuỷ điện là chưa chú ý đến hiệu quả tổng hợp về kinh tế, xã hội và môi trường. Các công trình thường chỉ chú trọng tới hiệu quả về phát điện và lợi nhuận của đầu ra, chưa đưa yêu cầu phòng lũ cho hạ du như là một trong những nhiệm vụ chính của công trình. Ở nhiều công trình thuỷ điện miền Trung và lưu vực Đồng Nai, nhiệm vụ chống lũ cho hạ du chỉ được xem là nhiệm vụ kết hợp. Trong khi đó, Việt Nam là một trong 5 quốc gia bị ảnh hưởng nặng nhất của biến đổi khí hậu, nước biển dâng, các hiện tượng thời tiết trở nên cực đoan, diện tích rừng đầu nguồn ngày càng suy giảm, tất cả đều dẫn đến lũ lụt càng trầm trọng hơn. Hầu hết các dự án thủy điện vừa và nhỏ ở Quảng Nam ngay trong quy hoạch ban đầu đều không có dung tích chống lũ bởi các dự án đều lấy lòng sông làm hồ chứa. Ngay như thủy điện lớn là A Vương, dung tích chống lũ của công trình này cũng chỉ khoảng 14 triệu m3, quá nhỏ so với quy mô của dự án. Việc nhiều thủy điện trên cùng một con sông nhưng không có dung tích chống lũ như sông Bung đã khiến nhiều người quan ngại về một nguy cơ “lũ chồng lũ” khi có mưa lớn ở thượng nguồn và những thân đập được xây dựng không an toàn. Hậu quả là việc xả lũ từ đập A Vương xuống hạ nguồn trong hai ngày 29 va 30/9/2009, khi cơn bão số 9 đang hòanh hành miền Trung đã góp phần lũ nhấn chìm hàng trăm nghìn dân ở hạ lưu sông Vu Gia và Thu Bồn .Một khi không có dung tích chống lũ đủ lớn thì dù quy trình xả lũ thực hiện đúng cũng khó tránh gây ngập lụt cho hạ lưu. Chính vì không có dung tích cắt lũ mà các hồ chứa thủy điện thường tích nước sớm do e ngại gặp năm thời tiết bất thường, rủi ro ít mưa, không có lũ sẽ không đủ nước để phát điện cho mùa kế tiếp. Một vấn đề khác trong quy hoạch, thiết kế của hầu hết các dự án thủy điện ở Quảng Nam khiến các địa phương phía hạ lưu đau đầu, đó là không có cửa xả đáy .Cả hai thủy điện lớn đã và đang xây dựng là A Vương và Đăk Mi 4 đều thiết kế không có cửa xả đáy. Điều này đồng nghĩa với việc vào mùa khô hạn, vì lý do nào đó các nhà máy này tạm ngưng phát điện thì chắc chắn sẽ không một giọt nước nào có thể lọt qua đập để về hạ lưu được. 30 3.3 Phát triển thủy điện theo hướng bền vững Thuỷ điện dù là một dạng điện năng thuộc loại cổ điển nhất, cho đến nay dạng vẫn còn có vai trò quan trọng, chiếm đến 20% điện lượng của thế giới. Ở một số nước nó chiếm ưu thế. Chẳng hạn, ở Na-uy thuỷ điện chiếm gần như tuyệt đối, ở Iceland đạt tới 83% nhu cầu điện năng quốc gia, ở Áo hơn 70% nhu cầu, ở Canada chiếm hơn 70% tổng sản lượng. Nhưng, đối với các nước đang phát triển, theo nhiều nhà hoạch định chính sách năng lượng, thuỷ điện không còn là 1 sự lựa chọn chủ yếu. Lý do: Có thể ở một số nước, phần lớn các địa điểm tiềm năng thuỷ điện đã bị khai thác rồi, hay về mặt môi trường, không thể khai thác thêm nữa. Riêng ở Việt Nam thuỷ điện đến nay được xem là đã tận dụng đến gần hết các nguồn sông lớn và trung bình. Tình hình đó cũng đã phản ảnh trong Quy hoạch phát triển điện lực quốc gia giai đoạn 2011-2020, có xét đến năm 2030 (gọi ngắn là Quy hoạch điện VII, viết tắt là QHĐVII hay Tổng sơ đồ VII, viết tắt TSĐVII) đã được Chính phủ phê duyệt ngày 21/7/2011 trong Quyết định số 1208/QĐ-TTg. Theo TSĐVII, tổng sản lượng điện tăng nhanh từ năm 2010 đến 2030, đồng thời giảm vai trò của sản lượng thuỷ điện như sau:  Năm 2010, tổng sản lượng điện/ năm: 100,017 tỷ kWh, thuỷ điện chiếm: 32,3%,  Năm 2020, tổng sản lượng điện/ năm: 330-362 tỷ kWh, thuỷ điện chiếm: 19,6%,  Năm 2030, tổng sản lượng điện/ năm: 695 - 834 tỷ kWh, thuỷ điện chiếm: 9,3%. Sự giảm dần vai trò thuỷ điện như trên là phù hợp với quy luật và tình hình chung trên thế giới. Nhưng vấn đề còn lại là tốc độ giảm như trên là hợp lý hay chưa. Khi nhìn thấy những nguy cơ to lớn do sự xây dựng các nhà máy thuỷ điện mang lại, không ít người lo lắng và chỉ muốn đẩy nhanh tốc độ giảm vai trò của thuỷ điện, đơn giản là xoá bỏ quy hoạch xây dựng thêm các nhà máy thủy điện mới, thậm chí đình chỉ một số nhà máy đã xây nhưng tiềm ấn cao các thảm hoạ. Trường hợp Nhà máy Sông Tranh 2 là một điển hình nóng bỏng hiện giờ. 31 Nhưng đối với các nhà hoạch định chính sách, bài toán cần giải phức tạp hơn nhiều. Hàng loạt câu hỏi đặt ra: Để bảo đảm nhu cầu điện năng tăng nhanh, nếu giảm nhanh sự đóng góp của thuỷ điện, thì lấy gì thay thế? Áp đặt biện pháp tiết kiệm điện về thực tế không thể nhanh chóng và giải quyết triệt để vấn đề cân bằng. Tăng nhiều hơn nhiệt điện lại gặp sự nguy hiểm về môi trường phát thải khí nhà kính. Kết hợp hài hoà hai xu hướng trên hẳn là đối sách thích hợp. Nhưng dù hài hoà thế nào thì sự giảm thiểu những hệ luỵ to lớn của các nhà máy thuỷ điện đã xây, đang xây và sẽ xây là vấn đề cấp bách nhất. Và lời giải trước mắt cho Nhà máy thuỷ điện Sông Tranh 2 hiện giờ trở thành một phép thử vàng cho tính đúng đắn, tính hợp lý của chiến lược phát triển nguồn thuỷ điện trong tổng sơ đồ điện năng của đất nước trong những thập kỷ tới đây. Như vậy, để phát triển thủy điện một cách bền vững cần phải minh bạch thông tin, phải có sự tham gia của các bên liên quan từ quá trình quy hoạch, thiết kế, xây dựng đến vận hành, lập quy trình và tiến hành kiểm tra liên tục để đánh giá mức độ rủi ro và có phương án ứng phó. Phát triển thủy điện bền vững cần được các cấp ra quyết định, xem xét lại một cách thận trọng, hạn chế sự phát triển tràn lan, phối hợp các phương án nhằm giảm thiểu những tá động tiêu cực cho môi trường sinh thái của dòng sông, văn hóa các cộng đồng ven sông, sinh kế của người dân thế hệ hôm nay và mai sau, chú ý khôi phục và duy trì rừng đầu nguồn ... Trong tình hình Việt Nam hiện nay, khi mà tiềm năng về sông ngòi để phát triển thủy điện đã dần cạn kiệt thì việc phát triển các dự án thủy điện là không còn phù hợp nữa. Thay vào đó cần tập trung đầu tư cải thiện các công trình thủy điện sẵn có để tránh gây ra tác hại nghiêm trọng. Lượng điện từ các công trình thủy điện là có giới hạn, không nên quá tập trung nâng cao sản lượng điện từ thủy điện, tiếp tục để thủy điện đảm nhiệm vai trò vốn có, cung cấp lượng điện một cách ổn định, liên tục. Khi nhu cầu về năng lượng nói chung và điện năng nói riêng càng ngày càng tăng cao, thủy điện không thể đáp ứng được, do đó cần tập trung phát triển các dạng năng lượng tái tạo khác như gió, năng lượng mặt trời, nguyên tử ... 32 KẾT LUẬN Cùng với sự phát triển của khoa học kỹ thuật,sự đi lên không ngừng của nền kinh tế dẫn đến nhu cầu sử dụng điện năng ngày càng nhiều thì sự phát triển năng lượng là vấn đề khẩn thiết bù đắp cho tình trạng thiếu hụt hiện nay.Trong đó thủy điện vẫn là hướng tối ưu nhất,mà hướng đi đúng là rẻ,sạch và an toàn. Theo như những nghiên cứu ở trên cho thấy thủy điện là nguồn năng lượng sạch,bền vững và đã được cộng đồng năng lương quôc tế công nhận.Thủy điện giữ vai trò quan trọng trong phát triển nguồn nước và nguồn năng lượng toàn cầu. Tuy nhiên sẽ phát triển bền vững nguồn nước và thủy điện trong tương lai, cần phải quan tâm đến những vấn đề sau: sự hợp tác phát triển nguồn nước xuyên biên giới, kết hợp chặt chẽ giữa các biện pháp kết cấu và phi kết cấu, sử dụng có hiệu quả nguồn nước cho sản xuất lương thực, tối ưu hóa sản xuất thủy điện. Riêng đối với Việt Nam,việc phát triển thủy điện phải căn cứ trên tài liệu thực tế điển hình về các mặt : thiết kế, quy hoạch, đánh giá ảnh hưởng môi trường phổ biến, … về các biện pháp bảo vệ môi trường, tối ưu hóa hiệu quả tích cực của thủy điện, … Đây cũng là dịp rà soát lại những việc đã làm được trong quá trình thực hiện dự án thủy điện, để củng cố và phát huy các kết quả đó. Đồng thời cũng nhận biết được những việc chưa làm được để bổ khuyết nâng cao hiệu quả. Với chặng đường phát triển thủy điện Việt Nam thời gian qua. Đặc biệt trong những năm gần đây, đã và sẽ mang lại hiệu quả kinh tế, xã hội, môi trường rất to lớn. Nhưng chắc chắn trong quá trình thực hiện, không tránh khỏi những vấn đề cần bổ khuyết cho sự phát triển được hoàn hảo hơn.Vì vậy ngay từ bây giờ nên xây dựng một chương trình”nghiên cứu về thủy điện điển hình tốt Việt Nam” theo tiêu chí quốc tế. Cùng với đó là một vài đề xuất nhỏ trong phát triển và quản lý bền vững nguồn nước và nguồn thủy điện là mong muốn đất nước đạt được hiệu quả cao nhất nguồn tài nguyên quí giá này, mang lại phúc lợi cao cho toàn thể nhân dân. Trên đây là những tìm hiểu sơ bộ về thủy điện,với mong muốn qua bài tiểu luận, mọi người nhận biết rõ hơn về thủy điện và vai trò của nó trong cân bằng năng lượng và cân bằng nguồn nước, đồng thời là một trong những trụ cột của nguồn năng lượng phục hồi. 33 Trong quá trình làm đề tài,mặc dù đã nhận được sự chỉ bảo rất tận tình của cô giáo cùng với quá trính nghiên cứu,tìm hiểu của các thành viên trong nhóm nhưng do đề tài tương đối rộng và chuyên môn nên nhóm không tránh khỏi những hạn chế và thiếu sót,Rất mong nhận được những đánh giá đóng góp của thầy cô và các bạn để bài tiểu luận hoàn chỉnh hơn. Một lần nữa, nhóm xin chân thành cảm ơn!

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfbvbn_5409.pdf