Tình hình thu hút FDI tại Việt Nam (tính đến năm 2010)

Files: Word + Powerpoint. Nội dung: Tình hình thu hút FDI tại Việt Nam được tổng hợp trong file Word, file Powerpoint là sơ lược nội dung dùng để báo cáo Gồm có 4 phần: Giới thiệu chung về FDITình hình FDI tại Việt NamTình hình thu hút FDI tại Việt NamGiải pháp thu hút FDI tại Việt Nam Tóm tắt: Cho đến nay, Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) đã được nhìn nhận như là một trong những “trụ cột” tăng trưởng kinh tế của Việt Nam. Vai trò của FDI được thể hiện rất rõ qua việc đóng góp vào các yếu tố quan trọng của tăng trưởng như bổ sung nguồn vốn đầu tư, đẩy mạnh xuất khẩu, chuyển giao công nghệ, phát triển nguồn nhân lực và tạo việc làm, Ngoài ra, FDI cũng đóng góp tích cực vào tạo nguồn thu ngân sách và thúc đẩy Việt Nam hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế thế giới. Nhờ có sự đóng góp quan trọng của FDI mà Việt Nam đã đạt được tốc độ tăng trưởng kinh tế cao trong nhiều năm qua và được biết đến là quốc gia phát triển năng động, đổi mới, thu hút được sự quan tâm của cộng đồng quốc tế Preview: Word: Powerpoint:

doc18 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 5633 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tình hình thu hút FDI tại Việt Nam (tính đến năm 2010), để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Kinh tế phát triển [Kể từ năm 1988 đến nay, Việt Nam đã thu hút khoảng 98 tỉ USD với 9500 dự án đầu tư nước ngoài. Trong số đó, 2.220 dự án phân bố ở miền Bắc, 818 ở miền Trung và 5.452 dự án ở miền Nam] TÌNH HÌNH THU HÚT FDI TẠI VIỆT NAM I. GIỚI THIỆU CHUNG VỀ FDI 1.Định nghĩa về FDI: Có nhiều cách định nghĩa khác nhau về khái niệm FDI: - Theo Tổ Chức Thương Mại Thế giới ( WTO) thì: Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI- Foreign Direct Investment) xảy ra khi một nhà đầu tư từ một nước (nước chủ đầu tư) có được một tài sản ở một nước khác (nước thu hút đầu tư) cùng với quyền quản lý tài sản đó. Phương diện quản lý là thứ để phân biệt FDI với các công cụ tài chính khác. Trong phần lớn trường hợp, cả nhà đầu tư lẫn tài sản mà người đó quản lý ở nước ngoài là các cơ sở kinh doanh. Trong những trường hợp đó, nhà đầu tư thường hay đựoc gọi là "công ty mẹ" và các tài sản được gọi là "công ty con" hay "chi nhánh công ty". - Theo Quỹ Tiền Tệ Quốc Tế ( IMF, international monetary fund) lại có một định nghĩa khác về FDI: Đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI (foreign direct investment) là một công cuộc đầu tư ra khỏi biên giới quốc gia, trong đó người đầu tư trực tiếp ( direct investor) đạt được một phần hay toàn bộ quyền sỡ hữu lâu dài một doanh nghiệp đầu tư trực tiếp ( direct investment enterprise) trong một quốc gia khác. Quyền sở hữu này tối thiểu phải là 10% tổng số cổ phiếu mới được công nhận là FDI. 2. Vai trò của vốn đầu tư trực tiếp (FDI) ở Việt Nam Cho đến nay, Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) đã được nhìn nhận như là một trong những “trụ cột” tăng trưởng kinh tế của Việt Nam. Vai trò của FDI được thể hiện rất rõ qua việc đóng góp vào các yếu tố quan trọng của tăng trưởng như bổ sung nguồn vốn đầu tư, đẩy mạnh xuất khẩu, chuyển giao công nghệ, phát triển nguồn nhân lực và tạo việc làm,…Ngoài ra, FDI cũng đóng góp tích cực vào tạo nguồn thu ngân sách và thúc đẩy Việt Nam hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế thế giới. Nhờ có sự đóng góp quan trọng của FDI mà Việt Nam đã đạt được tốc độ tăng trưởng kinh tế cao trong nhiều năm qua và được biết đến là quốc gia phát triển năng động, đổi mới, thu hút được sự quan tâm của cộng đồng quốc tế. a. Nguồn vốn hỗ trợ cho phát triển kinh tế Trong các lý luận về tăng trưởng kinh tế, nhân tố vốn luôn được đề cập. Khi một nền kinh tế muốn tăng trưởng nhanh hơn, nó cần nhiều vốn hơn nữa. Nếu vốn trong nước không đủ, nền kinh tế này sẽ muốn có cả vốn từ nước ngoài, trong đó có vốn FDI. Tỷ lệ tích lũy vốn của nước ta còn thấp là một trở ngại lớn cho nền kinh tế xã hội. Với mục tiêu “xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, đưa nước ta trở thành một nước công nghiệp, ưu tiên phát triển lực lượng sản xuất, đồng thời xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp với định hướng xã hội chủ nghĩa”. Với lượng tích lũy này Việt Nam sẽ gặp nhiều khó khăn, trở ngại. Thu hut FDI là một hình thức huy động vốn để hỗ trợ cho nhu cầu đầu tư của nền kinh tế. Trong khi đó liên doanh với nước ngoài, việc bỏ vốn đầu tư của các doanh nghiệp trong nước có thể giảm được rủi ro về tài chính. Bởi vì: thứ nhất là, họ có nhiều kinh nghiệm nên hạn chế và ngăn ngừa được rủi ro, hai là, trong tình huống xí nghiệp liên doanh giữa họ với chúng ta, có nguy cơ rủi ro thì các công ty mẹ sẽ có biện pháp hỗ trợ sản xuất, tiêu thụ sản phẩm, trợ giúp tài chính. Trong tình huống xấu nhất thì họ cũng là người cùng chia sẻ rủi ro với các công ty của các nước sở tại. FDI vào Việt Nam sẽ tạo ra các tác động tích cực đối với việc huy động các nguồn vốn khác như ODA, NGO. Nó tạo ra hình ảnh đẹp, đáng tin cậy về Việt Nam trong các tổ chức và cá nhân nước ngoài. Mặt khác, ngay trong quan hệ đối nội FDI còn có tác dụng kích thích đối với việc thu hut vốn đầu tư trong nước. Tích lũy vốn ban đầu cho công nghiệp hóa bằng cách khai thác tối đa nguồn vốn trong nước và tranh thủ nguồn vốn từ bên ngoài là phù hợp với thời đại hiện nay, thời đại hợp tác và liên kết quốc tế. Ưu điểm vượt trội của nguồn vốn này so với các nguồn vốn đầu tư khác là đi kèm theo chuyển giao công nghệ, thúc đẩy xuất khẩu, tiếp nhận kiến thức quản lý hiện đại. Mặt khác, so với các nguồn vốn nước ngoài khác, vốn FDI “ít bị nhạy cảm” trước những biến động của thị trường tài chính toàn cầu. Thực tế ở các nước Đông Nam Á bị khủng hoảng tài chính năm 1997 đã chứng minh rất rõ đặc điểm này. b. Chuyển giao công nghệ mới và bí quyết quản lý. Trong một số trường hợp, vốn cho tăng trưởng dù thiếu vẫn có thể huy động được phần nào bằng "chính sách thắt lưng buộc bụng". Tuy nhiên, công nghệ và bí quyết quản lý thì không thể có được bằng chính sách đó. Thu hút FDI từ các công ty đa quốc gia sẽ giúp một nước có cơ hội tiếp thu công nghệ và bí quyết quản lý kinh doanh mà các công ty này đã tích lũy và phát triển qua nhiều năm và bằng những khoản chi phí lớn. Tuy nhiên, việc phổ biến các công nghệ và bí quyết quản lý đó ra cả nước thu hút đầu tư còn phụ thuộc rất nhiều vào năng lực tiếp thu của đất nước. Với chiến lược xây dựng Việt Nam thành nước công nghiệp, theo đuổi con đường công nghiêp hóa, hiện đại hóa theo định hướng chủ nghĩa xã hội, tuy nhiên khoảng cách về phát triển khoa hoc kỹ thuật giữa các nước phát triển, nhất là Việt Nam, với các nước công nghiệp phát triển. Vì thế một trở ngại rất lớn trên con đường phát triển kinh tế là trình độ kỹ thuật – công nghệ lạc hậu. Tùy vào hoàn cảnh của mỗi đất nước mà có cách đi riêng để giải quyết vấn đề này. Viêc mà các nước đang phát triển tự nghiên cứu để phát triển khoa học kỹ thuật cho kịp với trình độ của các nước phát triển là việc khó khăn và tốn kém. Con đường nhanh nhất để phát triển kỹ thuật – công nghệ và trình độ sản xuất của các nước đang phát triển trong điều kiện hiện nay là phải biết tận dụng được những trình độ kỹ thuật – công nghệ hiện đại trên thế giới, tuy nhiên mức độ hiện đại đến đâu còn tùy thuộc vào nhiều yếu tố. Trong điều kiện hiện nay, trên thế giới có nhiều công ty của nhiều quốc gia khác nhau có nhu cầu đầu tư ra nước ngoài và thực hiện chuyển giao công nghệ cho các nước tiếp nhận đầu tư. Nhưng không phải các nước đang phát triển được “đi xe miễn phí” mà họ cũng phải trả một khoản “học phí” không nhỏ cho việc tiếp nhận chuyển giao công nghệ này. Chuyển giao công nghệ cũng là yêu cầu tất yếu của sự phát triển khoa học kỹ thuật. Bất kỳ tổ chức nào muốn thay thế kỹ thuật – công nghệ mới thì phải tìm được “nơi thải” những kỷ thuật công nghệ cũ. Việc “thải” những công nghệ cũ dễ dàng được nhiều nơi chấp nhận. Tuy nhiên các nước phát triển xem các nước phát triển như “bãi rác”, là nơi thỉa các máy móc lạc hậu… vì vậy việc tiếp nhận công nghệ thông qua kênh FDI còn có vài vấn đề cần giải quyết. Thứ ba, năng lực tiếp nhận của chúng ta còn yếu, việc lựa chọn kỹ thuật còn nhiều lúng túng, chưa có kế hoạch, quy hoạch tổng thể, đôi khi còn tùy tiện hoặc là thiếu hiểu biết. FDI mang lại cho nước tiếp nhận đầu tư, những kỷ thuật công nghệ tiên tiến, yếu tố quan trọng để phát triển lực lượng sản xuất. Chuyển giao công nghệ qua các dự án FDI luôn đi kèm với đào tạo nhân lực vận hành, quản lý và nhờ học qua làm (learning by doing), nhờ đó đã hình thành được đội ngũ cán bộ, công nhân kỹ thuật có trình độ, tay nghề khá cao. Đối với một số khâu chủ yếu của dây chuyền công nghệ tiên tiến hoặc đặc thù, lao động sau khi tuyển dụng được đưa đi bồi dưỡng ở các doanh nghiệp mẹ ở nước ngoài. Đến nay, hầu hết các công nghệ có trình độ tiên tiến và đội ngũ cán bộ, công nhân kỹ thuật cao ở Việt Nam được tập trung trong khu vực có vốn FDI. c. Thúc đẩy quá trình dịch chuyển cơ cấu kinh tế Để hội nhập vào nền kinh tế thế giới và tham gia tích cực vào quá trình liên kết giữa các nước trên thế giới, đòi hỏi từng quốc gia phải thay đổi cơ cấu kinh tế trong nước cho phù hợp với phân công lao động quốc tế. Bởi lẻ, đầu tư trực tiếp nước ngoài góp phần thúc đẩy nhanh chóng quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Bởi vì: 1) Thông qua đầu tư trực tiếp nước ngoài đã làm xuất hiện nhiều lĩnh vực và ngành kinh tế mới ở các nước nhận đầu tư. 2) Giúp vào sự phát triển nhanh chong trình độ kỹ thuật công nghệ ở nhiều ngành kinh tế, góp phần thúc đẩy năng suất lao động của các ngành này và làm tăng tỷ trọng của nó trong nền kinh tế. 3) Một số ngành được kích thích phát triển bởi đầu tư trực tiếp nước ngoài, nhưng cũng sẽ có nhiều ngành bị mai một đi rồi đi đến chổ bị xóa bỏ. FDI thực sự đã có vai trò to lớn với sự dịch chuyển cơ cấu kinh tế thông qua việc đầu tư nhiều hơn vào ngành công nghiệp. Vì ngành công nghiệp có năng suất lao động cao nhất và tỷ trọng lớn nhất trong nền kinh tế, nên FDI đã góp phần to lớn vào tăng tốc độ phát triển quốc dân. Để trở thành quốc gia công nghiệp hóa vào năm 2020 và để nền kinh tế Việt Nam có thể hội nhập với khu vực và thế giới, một đòi hỏi búc xúc là đẩy nhanh hơn nữa quá trình dịch chuyển cơ cấu kinh tế. Thúc đẩy quá trình mở cửa và hội nhập của nền kinh tế Việt Nam với thế giới. Hoạt động của đầu tư đã giúp Việt Nam mở rộng hơn thị phần nước ngoài. Góp phần chuyển biến nền kinh tế Việt Nam theo hướng của một nền kinh tế hàng hóa. Đối với Việt Nam, vốn FDI đóng vai trò như lực khởi động, như một trong những điều kiện đảm bảo cho sự phát triển của công nghiêp hóa – hiện đại hóa. Một số dự án FDI góp phần làm vực dậy một số doanh nghiệp Việt Nam đang trong điều kiện khó khăn, sản xuất đình đốn, nguy cơ phá sản. d. Tham gia sản xuất mạng lưới sản xuất toàn cầu. Khi thu hút FDI từ các công ty đa quốc gia, không chỉ xí nghiệp có vốn đầu tư của công ty đa quốc gia, mà ngay cả các xí nghiệp khác trong nước có quan hệ làm ăn với xí nghiệp đó cũng sẽ tham gia quá trình phân công lao động khu vực. Chính vì vậy, nước thu hút đầu tư sẽ có cơ hội tham gia mạng lưới sản xuất toàn cầu thuận lợi cho đẩy mạnh xuất khẩu. Đẩy mạnh xuất khẩu cũng là đóng góp nổi bật, thể hiện rõ nét vai trò của FDI trong suốt 20 cải cách kinh tế vừa qua. Ngay cả trong những năm xuất khẩu của các ngành kinh tế khác tăng chậm hoặc giảm thì xuất khẩu của khu vực FDI vẫn tăng cao, nhờ đó duy trì được tốc độ tăng xuất khẩu của cả nước khá cao trong nhiều năm. Cũng cần lưu ý rằng khu vực FDI có mức thặng dư thương mại khá cao. Điều đó góp phần làm giảm mức thâm hụt thương mại chung cho cả nền kinh tế. e. Tăng số lượng việc làm và đào tạo nhân công Tạo việc làm là những đóng góp quan trọng, không thể phủ nhận của khu vực FDI. Mặc dù so với các doanh nghiệp vừa và nhỏ thì số việc làm được tạo ra còn hạn chế, nhưng “chất lượng” của lực lượng lao động trong khu vực FDI tốt hơn rõ rệt. Nhiều cán bộ, công nhân trong khu vực FDI đã và đang là những “hạt nhân” để phát triển lực lượng lao động trình độ, tay nghề cao của Việt Nam. Thêm vào đó, số việc làm tạo ra nhờ hiệu ứng lan tỏa của khu vực FDI cũng có thể là một con số đáng kể. f. Nguồn thu ngân sách lớn Đối với nhiều nước đang phát triển, hoặc đối với nhiều địa phương, thuế do các xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài nộp là nguồn thu ngân sách quan trọng. g. Vai trò như những trụ cột đối với thành công của chính sách đổi mới nền kinh tế. Việt Nam thực hiện Luật Đầu tư trực tiếp nước ngoài (12/1987) trong bối cảnh phát triển kinh tế - xã hội còn rất thấp. Hạ tầng cơ sở nghèo nàn, khoa học công nghệ lạc hậu, nguồn nhân lực phần lớn chưa qua đào tạo,…Trong khi đó, nhu cầu phát triển luôn phải đối mặt với sức ép cần vồn đầu tư, công nghệ tiên tiến, đẩy mạnh xuất khẩu,… để khai thác lợi thế so sánh nhằm đạt được tốc độ tăng trưởng cao, giải quyết công ăn việc làm và ổn định đời sống xã hội. Mặt khác, từ những năm cuối thập kỷ 80 đến hết thập kỷ 90 của thế kỷ trước, xu hướng đầu tư quốc tế vào các nước đang phát triển chủ yếu tập trung vào các ngành khai thác, công nghiệp chế tạo và những ngành cần nhiều lao động. Trong bối cảnh phát triển đó, Việt Nam rất khó thu hút FDI vào các ngành công nghệ cao, sản xuất những sản phẩm có giá trị gia tăng lớn hoặc vào những ngành phải đáp ứng được các tiêu chuẩn khắt khe của bảo vệ môi trường. Vì vậy, việc định hướng thu hút FDI vào những ngành mà Việt Nam có lợi thế tự nhiên, phù hợp với trình độ phát triển và đón bắt được xu hướng đầu tư quốc tế là khá phù hợp. Do đó, mặc dù còn những hạn chế nhất định, nhưng FDI đã đóng góp rất tích cực. Bằng các đóng góp rất cụ thể vào tăng trưởng, tạo nguồn thu ngân sách, tạo việc làm và thúc đẩy hội nhập quốc tế, đã minh chứng rõ ràng vai trò quan trọng của FDI đối với sự thành công của chính sách đổi mới của Việt Nam. Trong bối cảnh phát triển mới của Việt Nam, FDI vẫn đóng vai trò quan trọng với công nghiệp hoá, hiện đại hoá nền kinh tế. Tuy nhiên, vai trò của FDI chỉ thực sự quan trọng nếu được sử dụng có hiệu quả cao và tạo được sự phát triển bền vững. Do đó, Chính phủ nên thu hút, sử dụng FDI một cách có lựa chọn, khuyến khích đầu tư vào những ngành nền kinh tế thực sự cần và phát triển đảm bảo tính bền vững về dài hạn. 3. Một số yêu cầu và những vấn đề đặt ra của tiến trình CNH, HĐH ở Việt Nam đối với đầu tư trực tiếp nước ngoài. + Những yêu cầu: - Thu hút vốn nước ngoài, một mặt góp phần giải quyết một trong những tiền đề cơ bản, mang tính chất quyết định sự khởi động cho sự nghiệp CNH, HĐH. Mặt khác, làm điều kiện kết hợp các yếu tố nội lực để khai thác tốt các tiềm năng trong nước nhằm thúc đẩy tăng trưởng và chuyển biến nền kinh tế theo cơ cấu của một nền kinh tế công nghiệp. - Góp phần đổi mới công nghệ, trang bị kỹ thuật hiện đại cho nền kinh tế quốc dân, nâng cao năng lực cho người lao động và tiếp thu kinh nghiệm quản lý tiên tiến. - Tạo thêm nhiều việc làm cho người lao động. - Hình thành một thị trường đồng bộ, mở rộng và góp phần làm tăng khả năng thanh toán của thị trường tiêu thụ hàng hoá, dịch vụ… Mở rộng giao lưu quốc tế, thúc đẩy hợp tác và hội nhập quốc tế, tăng xuất khẩu. - Góp phần cải thiện cán cân thanh toán quốc tế, tạo nguồn thu cho ngân sách. +Những vấn đề đặt ra: - Thứ nhất: Mối quan hệ về lợi ích giữa các nhà đầu tư với nước chủ nhà. Một dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài chỉ có thể thành khả thi khi lợi ích được phân phối hợp lý. - Thứ hai: Quan hệ giữa quản lý và lao động - có thể đó là quan hệ giữa chủ sở hữu với lao động làm thuê. - Thứ ba: Mối quan hệ giữa tiếp thu, ứng dụng công nghệ tiên tiến, thực hiện chiến lược "đi tắt, đón đầu" nhằm đẩy nhanh CNH, HĐH với vấn đề tạo việc làm cho người lao động. - Thứ tư: Mối quan hệ giữa các doanh nghiệp có vấn đề đầu tư nước ngoài với các doanh nghiệp trong nước. II. THỰC TRẠNG CỦA ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI Ở VIỆT NAM SAU KHI MỞ CỬA 1. Tình hình đầu tư trực tiếp nước ngoài thời gian qua Kể từ năm 1988 đến nay, Việt Nam đã thu hút khoảng 98 tỉ USD với 9500 dự án đầu tư nước ngoài. Trong số đó, 2.220 dự án phân bố ở miền Bắc, 818 ở miền Trung và 5.452 dự án ở miền Nam. Hiện nay có 82 nước và vùng lãnh thổ đã đầu tư vào Việt Nam, trong đó các nước châu Á chiếm 69,8%, Châu Âu chiếm 16,7 % và Châu Mỹ chiếm 6% tổng vốn FDI, các khu vực khác chiếm 7,5%. Năm nước và vùng lãnh thổ hàng đầu chiếm 58,3% các dự án được cấp phép với tổng vốn đầu tư chiếm 60,6% tổng vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam. Năm nước và vùng lãnh thổ đứng kế tiếp là quần đảo Virginia thuộc Anh, Pháp, Hà Lan, Malaysia và Mỹ. Mười nước và vùng lãnh thổ đứng đầu này chiếm đến hơn ¾ tổng số dự án được cấp phép và vốn đầu tư đăng kí tại Việt Nam. Việt Nam đã thu hút dược 20,3 tỉ USD vốn đầu tư nước ngoài trong năm 2007, tăng 70% so với 2006 và tương đương với tổng vốn đầu tư nước ngoài trong năm năm từ 2001 đến 2005. Từ 1996 đến nay, đầu tư có xu hướng tập trung vào xây dựng cơ sở hạ tầng, các ngành đòi hỏi nhiều lao động, sản xuất hàng hóa xuất khẩu và sản xuất hàng hóa thay thế nhập khẩu. Hiện tại có hơn 4.566 dự án thuộc ngành sản xuất và xây dựng với tổng vốn khoảng 35,4 tỉ USD, chiếm 61,89% tổng số vốn đăng kí. Mặc dù các dự án đầu tư nước ngoài có mặt tại hầu khắp các tỉnh và thành phố của Việt Nam, tỉ lệ đầu tư lớn nhất vẫn dành cho các vùng kinh tế trọng điểm ở phía Nam bao gồm thành phố Hồ Chí Minh, Đồng Nai, Bình Dương, Bà Rịa-Vũng Tàu; và ở phía Bắc gồm Hà Nội, Hải Dương, Hải Phòng và Quảng Ninh. Tập trung nhiều nhất vẫn là ở Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh bởi hai thành phố này có cơ sở hạ tầng phát triển hơn, sức mua cao hơn và lực lượng lao động lành nghề hơn. Trong những năm gần đây, số lượng dự án 100% vốn nước ngoài cũng bắt đầu tăng lên. Những dự án này hiện nay chiếm 76% tổng số dự án được cấp giấy phép và 55% vốn đăng ký, trong khi các doanh nghiệp liên doanh chỉ chiếm phần còn lại. Đồng thời, có sáu dự án đầu tư nước ngoài được cấp phép ở Việt Nam theo hình thức BOT (cung cấp nước và nhà máy điện), với tổng vốn đăng ký là 1,37 tỉ USD. Khu vực đầu tư nước ngoài đã có sự phát triển vượt bậc, dần dần khẳng định vị thế của mình là một bộ phận năng động của nền kinh tế, đóng góp quan trọng vào việc tăng cường năng lực và sức cạnh tranh của nền kinh tế. Trong những năm gần đây, khu vực đầu tư nước ngoài chiếm ¼ tổng vốn đầu tư của cả nước, 43,6% sản lượng công nghiệp (2004), 57,2% tổng kim ngạch xuất khẩu (2005) và 15,9% GDP của Việt Nam. Tuy vậy, tỉ lệ giải ngân vốn của các dự án đầu tư nước ngoài vẫn còn chậm và chưa ổn định từ mức 7,1 tỉ USD trong giai đoạn 1991-1995 lên mức 13,5 tỉ USD giai đoạn 1996-2000 và 14,3 tỉ USD từ 2001 đến 2005 nhưng trong năm 2006 và 2007, vốn được giải ngân giảm còn 8,7 tỉ USD. Đóng góp của FDI vào GDP 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 GDP 100.0 100.0 100.0 100.0 100.0 100.0 100.0 100.0 Khu vực nhà nước 39.0 39.0 38.4 39.1 39.2 38.4 50.1 43.3 Ngoài khu vực nhà nước 47.7 48.0 48.7 46.4 45.6 45.7 33.6 40.7 FDI 13.3 13.0 13.8 14.5 15.2 15.9 16.3 16 Nguồn: Tổng cục Thống kê 2. ĐTNN phân theo hình thức đầu tư: Tính đến hết năm 2009, chủ yếu các doanh nghiệp ĐTNN thực hiện theo hình thức 100% vốn nước ngoài, có 6.685 dự án ĐTNN với tổng vốn đăng ký 51,2 tỷ USD, chiếm 77,2% về số dự án và 61,6% tổng vốn đăng ký. Theo hình thức liên doanh có 1.619 dự án với tổng vốn đăng ký  23,8 tỷ USD, chiếm 18,8% về số dự án và 28,7% tổng vốn đăng ký. Theo hình thức Hợp đồng hợp tác kinh doanh có 221 dự án với tổng vốn đăng ký  4,5 tỷ USD chiếm 2,5% về số dự án và 5,5% tổng vốn đăng ký.  Số còn lại thuộc các hình thức khác như BOT, BT, BTO. Có thể so sánh tỷ trọng dự án hoạt động theo hình thức 100% vốn nước ngoài tính đến hết năm 2004 là 39,9%, theo hình thức  liên doanh là 40,6% và theo hình thức hợp doanh là 19,5% để thấy được hình thức 100% vốn nước ngoài được các nhà đầu tư lựa chọn hơn.   3. ĐTNN phân theo đối tác đầu tư: Thực hiện phương châm của Đảng và Chính phủ “đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ hợp tác.. Việt Nam muốn làm bạn với các nước trong khu vực và thế giới...” được cụ thể hóa qua hệ thống pháp luật ĐTNN, qua 20 năm đã có 81 quốc gia và vùng lãnh thổ đầu tư tại Việt Nam với tổng vốn đăng ký trên 83 tỷ đô la Mỹ. Trong đó, các nước Châu Á chiếm 69%, trong đó khối ASEAN chiếm 19% tổng vốn đăng ký. Các nước châu Âu chiếm 24%, trong đó EU chiếm 10%. Các nước Châu Mỹ chiếm 5%, riêng Hoa Kỳ chiếm 3,6%. Tuy nhiên, nếu tính cả số vốn đầu tư từ các chi nhánh tại nước thứ 3 của các nhà đầu tư Hoa Kỳ thì vốn đầu tư của Hoa Kỳ tại Việt Nam sẽ đạt con số trên 3 tỷ USD, đứng vị trí thứ 5 trong tổng số 80 quốc gia và vùng lãnh thổ có đầu tư tại Việt Nam, ví dụ Tập đoàn Intel không đầu tư thẳng từ Mỹ vào Việt Nam mà thông qua chi nhánh tại Hồng Kông. Hai nước châu Úc (New Zealand và Australia) chỉ chiếm 1% tổng vốn đăng ký (xem biểu 4). Hiện đã có 15 quốc gia và vùng lãnh thổ đầu tư vốn đăng ký cam kết trên 1 tỷ USD tại Việt Nam (xem Phụ lục). Đứng đầu là Hàn Quốc vốn đăng ký 13,5 tỷ USD, thứ 2 là Singapore 10,7 tỷ USD, thứ 3 là Đài loan 10,5 tỷ USD (đồng thời cũng đứng thứ 3 trong giải ngân vốn đạt 3,07 tỷ USD), thứ 4 là Nhật Bản 9,03 tỷ USD. Nhưng nếu tính về vốn thực hiện thì Nhật Bản đứng đầu với vốn giải ngân đạt gần 5 tỷ USD, tiếp theo là Singapore đứng thứ 2 đạt 3,8 tỷ USD. Hàn Quốc đứng thứ 4 với vốn giải ngân đạt 2,7 tỷ USD. III. THỰC TRẠNG THU HÚT VỐN ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI (FDI) Ở VIỆT NAM 1. Từ năm 2000 đến đầu năm 2010 Cơ cấu kinh tế nuớc ta đang từng bước chuyển dịch theo hướng công nghiệp hoá - hiện đại hoá, đời sống cùa người dân ngày càng được nâng cao cả về vật chất và tinh thần, xã hội đang từng ngày thay đổi. Tất cả những thành tựu trên cho thấy nền kinh tế nước ta đã thoát khỏi tình trạng khủng hoảng và đang từng bước tiến vào thời kỳ mới, thời kỳ công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước. Một trong những nguyên nhân của thành tựu đó là chủ trương mới của. Đảng về hoạt động kinh tế đối ngoại, trong đó có hoạt động thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam. Trong những năm gần đây, kể từ khi có luật đầu tư nước ngoài vào Việt Nam (12/1987) đến hết năm 2005, nước ta đã cấp giấy phép cho 780 dự án đầu tư nước ngoài với tổng vốn đăng ký 96880 tr.USD. Hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam. Năm 1988, là năm đầu tiên thực hiện luật đầu tư nước ngoài, chúng ta đã cấp giấi phép đầu tư cho 37 dự án với tổng vốn đăng ký là 336 tr. USD. Kết quả đó tuy nhỏ nhưng có ý nghĩa rất quan trọng đối với nước ta. Nó đánh dấu sự thành công ban đầu của công cuộc đổi mới, mở cửa nền kinh tế, thực hiện đường lối mở rộng và phát triển quan hệ kinh tế đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta. Sau ba năm tiến hành thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, chúng ta đã cấp giấy phép cho 218 dự án với tổng vốn đăng ký 1417 tr. USD. Tốc độ tăng trưởng hàng năm đạt 255/năm. Quy mô mỗi dự án đạt khoảng 7tr.USD/dự án. lĩnh vực đầu tư chủ yếu trong thời kì này là thăm dò dầu khí 32,2%, khách sạn 20,6% và bưu chính viễn thông, còn các lĩnh vực khác thì rất ít như chưa được triển khai. Tổng số vốn thực hiện của cả thời kì đạt 40tr.USD bằng 27% tổng vốn đăng ký. Nguyên nhân của việc gia tăng vốn đầu tư chậm do đây là một lĩnh vực còn rất mới đối với nước ta, chúng ta "vừa học, vừa làm", kinh nghiệm chưa có nhiều. Mặt khác, đối với các nhà đầu tư nước ngoài, nước ta là một thị trường mới mẻ vừa xa lạ, vừa hấp dẫn do đó họ thận trọng không dám mạo hiểm, vừa làm vừa thăm dò. Tuy thế những kết quả đạt được trên đây đã chứng minh triển vọng lạc quan của hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài tại việt nam trong thời gian tới. Do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ. Phần lớn vốn đầu tự trực tiếp nước ngoài là thu hút từ các nhà đầu tư trong khu vực nên khi xảy ra khủng hoảng, các nhà đầu tư trong khu vực gặp khó khăn về tài chính do đó họ giảm việc đầu tư ra nước ngoài dẫn đến lượng vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam giảm. Do sức hấp dẫn của môi trường đầu tư nước ta ngày càng giảm vì sự thay đổi của một số chủ trương, chính sách cũng như một sự biến động của tỉ giá hối đoái, giá cả, sức mua của thị trường trong nước. Mắc dù có sự giảm mạnh về số lượng đăng kí nhưng mức vốn vẫn không ngừng tăng lên khoảng 50%/năm và đang có sự chuyển biến lớn trong xu hướng đầu tư: từ đầu tư theo chiều rộng chuyển sang đầu tư theo chiều sâu. 2. Tác động của đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) đối với sự phát triển kinh tế xã hội của Việt Nam Những năm qua, hoạt động đầu tư nước ngoài đã có nhiều đóng góp cho sự phát triển của kinh tế - xã hội của Việt Nam. Trước hết, nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đã bổ sung một phần quan trọng vào nguồn vốn cho phát triển kinh tế của đất nước ta, khắc phục tình trạng thiếu vốn của đất nước ta thời kì đổi mới. Vào thập kỉ 70 và đầu thập kỉ 80 nền kinh tế nước ta đang vận hành theo cơ chế kế hoạch hoá tập trung, tỉ lệ tiết kiệm thấp, thậm chí còn âm. Tuy nhiên, từ sau đổi mới tỉ lệ tiết kiệm nước ta đã tăng lên đáng kể nhưng chưa đáp ứng đủ nhu cầu về vốn cho phát triển kinh tế trong nước. Hơn nữa, nước ta hàng năm phải trả nhiều nợ cho nước ngoài trong khi ngân sách nhà nước luôn trong tình trạng thâm hụt. Chính vì vậy, nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài trở thành một nguồn quan trọng cung cấp vốn cho sự nghiệp đổi mới ở nước ta. Tính chung trong sáu năm từ 2000 đến 2005, vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đã đóng góp khoảng 60% tổng vốn đầu tư cho phá triển kinh tế của nước ta. Từ đó đến nay giao động quanh mức 65%. Thứ hai, nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài chủ yếu là ngoại tệ mạnh và máy móc thiết bị, công nghệ hiện đại nên đã tạo ra cơ sở vật chất mới bổ sung và hoàn thiện hệ thống cơ sở hạ tầng, tăng năng lực sản xuất của nền kinh tế quốc dân nhất là công nghiệp. Chúng ta đã tiếp nhận một số kỉ thuật - công nghệ tiên tiến trong nhiều ngành kinh tế như: công nghệ thông tin, bưu chính viễn thông, thăm dò dầu khí, công nghiệp điện tử, sản xuất lắp ráp ôtô, xe máy, hoá chất .... Phần lớn công nghệ - kỉ thuật du nhập vào nước ta thuộc loại trung bình của thế giới nhưng vẩn tiên tiến hơn những công nghệ hiện có. Ngoài ra, chúng ta còn tiếp thu học hỏi được nhiều kinh nghiệm quản lí tiên tiến của nước ngoài nên đã góp phần nâng cao chất lượng, đa dạng hoá mẫu mã sản phẩm do Việt Nam sản xuất ra. Thứ ba, hoạt động của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đã tạo ra một khối lượng hàng hoá và sản phẩm lớn cho xuất khẩu từ đó góp phần tăng nhanh kim ngạch xuất khẩu cho nước ta. Tính chung từ năm 1996 - 2005 tổng giá trị xuất khẩu của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài là 2809 tr.USD bằng 61% tổng doanh thu của khu vực này và trong các năm tỉ lệ này không ngừng tăng lên. Cùng với định hướng xuất khẩu, các doanh nghiệp thuộc khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đã hướng vào các ngành thay thế nhập khẩu như: xi măng, thép xây dựng ... Bốn là, hoạt động của các doanh nghiệp thuộc khu vực đầu tư nước ngoài đã tạo ra một khoản thu cho ngân sách thông qua tỉ lệ phí và thuế, mức độ tăng lên qua các năm. 3. Những tồn tại của hoạt động đầu tư nước ngoài Bên cạnh những vai trò to lớn trên, hoạt động đầu tư nước ngoài còn bộc lộ nhiều hạn chế không nhỏ. a. Chính sách pháp luật chưa hoàn thiện Nhiều đối tác nước ngoài đã lợi dụng quan hệ hợp tác đầu tư hay sự sơ hở trong chính sách và pháp luật của Việt Nam để buôn lậu và trốn thuế, gây thiệt hại không nhỏ cho nước ta. Điển hình như vụ buôn lậu 1,2 tr gói "caraven"của công ty trách nhiệm hữu hạn hàng hải Lizera năm1999 hoặc vụ nhà máy thuốc lá Lotabava nhà máy thuốc lá khánh hoà hợp tác sản xuất Malbro giả để xuất khẩu sang Hà Lan năm 1995. b. Nguồn thu hút vốn hẹp Nguồn thu hút vốn chủ yếu của hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài là từ các nước trong khu vực. đây là một trong những nguyên nhân lí giải cho sự giảm sút của hoạt động thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài trong một vài năm trở lại đây. c. Cơ cấu đầu tư chưa hợp lí Xét về mặt địa lí, qua thực tế mười năm cho thấy vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam chủ yếu tập trung ở những vùng có điều kiện thuận lợi như: Hà Nội, Hải Phòng, Đà Nẵng, thành phố Hồ Chí Minh ... trong đó chủ yếu là Hà Nội và thnàh phố Hồ Chí Minh. Năm 2005, số vốn vào hai địa phương này chiếm 51,28% tổng số vốn đăng kí của cả nước. Xét về mặt cơ cấu, phần lớn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tập trung vào các lĩnh vực sản xuất công nghiệp và dịch vụ. d. Về hình thức đầu tư Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài chủ yếu tập trung vào các hình thức: doanh nghiệp liên doanh (65%), doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài (18%), hợp đồng hợp tác kinh doanh (7%). Về loại hình BOT, nước ta mới chỉ có một vài dự án. Đa số các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đều tập trung trong các khu công nghiệp, khu chế xuất vì nơi đây đảm bảo các điều kiện về cơ sở hạ tầng, tránh được nhiều thủ tục hành chính rườm rà, phức tạp. Hiện nay, đang có xu hướng chuyển từ loại hình doanh nghiệp liên doanh sang doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài. Giải thích cho hiện tượng trên, chúng ta thấy nổi lên một số nguyên nhân chủ yếu sau: - Sau một thời gian hoạt động, các nhà đầu tư nước ngoài đã quen với cách làm việc, quen với thủ tục hành chính cũng như thị trường và tập quán sống của dân cư bản địa. - Các nhà đầu tư nước ngoài muốn được độc lập tự chủ tự mình quản lí doanh nghiệp. - Bên Việt Nam thiếu vốn, yếu về trình độ quản lí và đôi khi còn tỏ ra không hợp tác với nhà đầu tư nước ngoài. e. Về chuyển giao công nghệ Nhiều công nghệ lạc hậu, thiếu đồng bộ, củ kĩ, sản xuất từ những năm 1950 vẩn trở thành vốn góp của bên nước ngoài và còn được định giá cao từ 15% - 20% so với giá thị trường và chuyển giao vào nước ta. Điều đó đã gây cho nước thiệt hại khoảng 50 tr.USD. ngoài thiệt hại về vật chất có thể tính toán được, việc chuyển giao đó có nguy cơ biến nước thành "bãi rác công nghệ", gây ô nhiểm môi trường, ảnh hưởng đến sức khoẻ của người lao động và dân cư, gia tăng hơn nguy cơ lạc hậu về công nghệ của nước ta. f. Hiệu quả đầu tư chưa cao và không đồng đều Một số dự án mặc dù đã đi vào hoạt động được 2 đến 3 năm nhưng vẩn bị thua lỗ. Nguyên nhân có nhiều song chủ yếu là chi phí vật chất và khấu hao tài sản cố định, chi phí quảng cáo và tiếp thị quá lớn .... Tuy nhiên, cũng không loại trừ trường hợp các nhà đầu tư nước ngoài cố ý tạo ra tình trạng kinh doanh thua lỗ để trốn thuế thông qua hiện tượng chuyển giá. g. Những tồn tại Đầu tư nước ngoài đã và đang tạo ra sự cạnh tranh gay gắt với các doanh nghiệp nội địa về lao động, kỉ thuật, thị trường. Bên cạnh các tác động tích cực như: khuyến khích các doanh nghiệp nội địa đổi mới công nghệ nhằm tăng năng suất, hạ giá thành sản phẩm, tăng sức cạnh tranh, nâng cáo tính năng động, linh hoạt trong việc năm bắt nhu cầu thị trường ... thì sự cạnh tranh đó cũng làm xuất hiện nhiều yếu tố tiêu cực ảnh hưởng đến tốc độ tăng trưởng của doanh nghiệp trong nước, rõ nhất là sản xuất bia, bột giặt, dệt, da, lắp ráp điện tử ... (ví dụ: công ngiệp điện tử liên doanh tăng 35% thì khu vực trong nước giảm đi 5%). Mục đích của các nhà đầu tư nước ngoài nhằm thu được lợi nhuận cao do đó họ luôn tìm cách khai thác lợi thế so sánh của nước ta là giá thuê lao động rẻ. Ở một số xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, các nhà đầu tư đã tìm cách tăng cường độ lao động, cắt xén tiền công, điều kiện bảo hiểm,thậm chí xúc phạm nhân phẩm của người lao động, phản ứng tiêu cực với cán bộ công đoàn ... nên đã dẫn đến nhiều tranh chấp về lao động xảy ra trong xí nghiệp đó. Trong thời gian tới, để hoạt động đầu tư nước ngoài tại Việt Nam có hiệu quả hơn thì chúng ta cần có biện pháp khắc phục những hạn chế trên. Đây là cách để tạo ra một môi trường đầu tư lành mạnh nhằm thu hút ngày càng nhiều vốn đầu tư nước ngoài phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hóa đất nước trong thời gian tới. III. GIẢI PHÁP THU HÚT VỐN ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI VÀO VIỆT NAM Đầu tiên, Việt Nam sẽ phải cạnh tranh gay gắt với các nước khác trong khu vực, đặc biệt là với Trung Quốc về việc thu hút dòng vốn FDI. Bởi lẽ: (1) Việt Nam đã là thành viên chính thức của WTO. (2) Trung Quốc và một số nước láng giếng khác được xem là những địa điểm đầu tư hấp hẫn nhất. (3) Việt Nam đang thiếu lợi thế về lao động có kỹ năng. (4) Hầu hết các nước đều tăng cường cải thiện môi trường đầu tư để cạnh tranh thu hút FDI. Tuy nhiên, bên cạnh những thách thức, Việt Nam vẫn có những thuận lợi nhất định: - Việt Nam nằm trong khu vực hấp dẫn FDI nhất trên thế giới. - Việt Nam vẫn là một trong những địa điểm đầu tư hấp dẫn trong chiến lược của các TNC. - Những rủi ro đi kèm với tốc độ phát triển quá nhanh của Trung Quốc và triển vọng nâng giá tiếp theo của đồng Nhân dân tệ đang khiến cho nhiều công ty nước ngoài (đặc biệt là các công ty Nhật Bản và Hàn Quốc) có xu hướng giảm thiểu rủi ro đầu tư quá nhiều vào Trung Quốc bằng cách đa dạng hóa đầu tư vào những nước láng giềng của Trung Quốc, theo chiến lược “China plus one” ( Trung Quốc + 1). Việt Nam kỳ vọng mình sẽ là một trong những ứng cử viên sáng giá. Ngoài những cơ hội và thách thức kể trên, Việt Nam còn có nhiều thời cơ : - Duy trì được môi trường kinh tế vĩ mô và chính trị ổn định. - Trong năm 2006, luật Đầu tư chung và luật Doanh nghiệp, luật Đấu thầu đã bắt đầu có hiệu lực, góp phần tạo hành lang pháp lý thuận lợi cho việc đầu tư vào Việt Nam. - Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam ngày càng được đẩy mạnh: là thành viên của ASEAN, APEC, ASEM, WTO… - Năm 2006, Việt Nam tổ chức thành công Hội nghị APEC. Cũng trong khuôn khổ hội nghị còn có Diễn đàn xúc tiến thương mại và đầu tư với Việt Nam với sự góp mặt của 100 tập đoàn của thế giới nằm trong danh sách bình chọn của Fortune. Điều đó giúp quảng bá hình ảnh Việt Nam ra khu vực và thế giới. NHÓM GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG HIỆU QUẢ THU HÚT DÒNG VỐN FDI VÀO VIỆT NAM 1.Giải pháp cải thiện môi trường đầu tư: (1) Nhóm giải pháp về luật pháp, chính sách: - Tiếp tục rà soát pháp luật, chính sách về đầu tư, kinh doanh để sửa đổi các nội dung không đồng bộ, thiếu nhất quán, bổ sung các nội dung còn thiếu và loại bỏ các điều kiện áp dụng ưu đãi đầu tư không phù hợp với cam kết của Việt Nam với WTO. - Sửa đổi các quy định còn bất cập, chưa rõ ràng liên quan đến thủ tục đầu tư và kinh doanh. Các Bộ, ngành chủ động sửa đổi, bổ sung các nội dung thuộc thẩm quyền (Quy định về mã ngành, yêu cầu về hợp pháp hóa lãnh sự, hệ thống biểu mẫu báo cáo, cơ chế hậu kiểm, giám sát đầu tư.....); và kiến nghị Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ sửa đổi, bổ sung các quy định thuộc thẩm quyền của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ. - Theo dõi, giám sát việc thi hành pháp luật về đầu tư và doanh nghiệp để kịp thời phát hiện và xử lý các vướng mắc phát sinh. Khẩn trương ban hành các văn bản hướng dẫn các luật mới, nhất là các luật mới được Quốc hội thông qua trong thời gan gần đâycó liên quan đến đầu tư, kinh doanh. - Ban hành các ưu đãi khuyến khích đầu tư đối với các dự án xây dựng các công trình phúc lợi (nhà ở, bệnh viện, trường học, văn hoá, thể thao) cho người lao động làm việc trong các khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao, khu kinh tế. - Thực hiện các biện pháp thúc đẩy giải ngân; không cấp phép cho các dự án công nghệ lạc hậu; dự án tác động xấu đến môi trường; thẩm tra kỹ các dự án sử dụng nhiều đất, giao đất có điều kiện theo tiến độ dự án, tránh lập dự án lớn để giữ đất, không triển khai; cân nhắc về tỷ suất đầu tư/diện tích đất, kể cả đất KCN. (2) Nhóm giải pháp về quy hoạch: - Đẩy nhanh tiến độ xây dựng và phê duyệt các quy hoạch còn thiếu; rà soát để định kỳ bổ sung, điều chỉnh các quy hoạch đã lạc hậu nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho nhà đầu tư trong việc xác định và xây dựng dự án. - Quán triệt và thực hiện thống nhất các quy định mới của Luật Đầu tư trong công tác quy hoạch, đảm bảo việc xây dựng các quy hoạch ngành, lĩnh vực, sản phẩm phù hợp với các cam kết quốc tế. - Hoàn chỉnh quy hoạch sử dụng đất, công bố rộng rãi quy hoạch, tạo điều kiện để đẩy nhanh tiến độ giải phóng mặt bằng cho các dự án đầu tư; rà soát, kiểm tra, điều chỉnh quy hoạch sử dụng đất một cách hiệu quả, nhất là đối với các địa phương ven biển nhằm đảm bảo phát triển kinh tế và môi trường bền vững. (3) Nhóm giải pháp về cải thiện cơ sở hạ tầng: - Tiến hành tổng rà soát, điểu chỉnh, phê duyệt và công bố các quy hoạch về kết cấu hạ tầng đến năm 2020 làm cơ sở thu hút đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng. Tranh thủ tối đa các nguồn lực để đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng, đặc biệt là nguồn vốn ngoài ngân sách nhà nước; ưu tiên các lĩnh vực cấp, thoát nước, vệ sinh môi trường (xử lý chất thải rắn, nước thải.v.v.); hệ thống đường bộ cao tốc, trước hết là tuyến Bắc-Nam, hai hành lang kinh tế Việt Nam-Trung Quốc; nâng cao chất lượng dịch vụ đường sắt, trước hết là đường sắt cao tốc Bắc-Nam, đường sắt hai hành lang kinh tế Việt Nam-Trung Quốc, đường sắt nối các cụm cảng biển lớn, các mỏ khoáng sản lớn với hệ thống đường sắt quốc gia, đường sắt nội đô thành phố Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh; sản xuất và sử dụng điện từ các loại năng lượng mới như sức gió, thủy triều, nhiệt năng từ mặt trời; các dự án lĩnh vực bưu chính viễn thông, công nghệ thông tin. - Mở rộng hình thức cho thuê cảng biển, mở rộng đối tượng cho phép đầu tư dịch vụ cảng biển, đặc biệt dịch vụ hậu cần (logistic) để tăng cường năng lực cạnh tranh của hệ thống cảng biển Việt Nam; kêu gọi vốn đầu tư các cảng lớn của các khu vực kinh tế như hệ thống cảng Hiệp Phước-Thị Vải, Lạch Huyện... - Xem xét việc ban hành một số giải pháp mở cửa sớm hơn mức độ cam kết của ta với WTO đối với một số lĩnh vực dịch vụ mà nước ta có nhu cầu về văn hóa-y tế-giáo dục, bưu chính-viễn thông, hàng hải, hàng không. (4) Nhóm giải pháp về nguồn nhân lực: - Đẩy nhanh việc triển khai kế hoạch tổng thể về đào tạo nhằm nâng tỷ lệ lao động qua đào tạo lên 40% vào năm 2010. Theo đó, ngoài việc nâng cấp đầu tư hệ thống các trường đào tạo nghề hiện có lên ngang tầm khu vực và thế giới, sẽ phát triển thêm các trường đào tạo nghề và trung tâm đào tạo từ các nguồn vốn khác nhau. - Nghiên cứu điều chỉnh chuyển dịch cơ cấu lao động theo tốc độ chuyển dịch cơ cấu kinh tế. - Thực hiện các giải pháp nhằm đưa Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Lao động vào thực tế cuộc sống để ngăn ngừa tình trạng đình công bất hợp pháp, lành mạnh hóa quan hệ lao động theo tinh thần của Bộ luật Lao động, bao gồm: + Tiếp tục hoàn thiện luật pháp, chính sách về lao động, tiền lương phù hợp trong tình hình mới; tăng cường công tác kiểm tra, giám sát việc chấp hành pháp luật về lao động đối với người sử dụng lao động nhằm đảm bảo điều kiện làm việc và đời sống cho người lao động. + Nâng cao hiểu biết pháp luật về lao động thông qua phổ biến, tuyên truyền và giáo dục pháp luật cho người lao động, người sử dụng lao động trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài để đảm bảo chính sách, pháp luật về lao động và tiền lương được thực hiện đầy đủ, nghiêm túc. (5) Nhóm giải pháp về giải phóng mặt bằng: Chính quyền địa phương cần tăng cường sự chỉ đạo các cơ quan chức năng tiến hành ngay các thủ tục thu hồi đất và thu hồi giấy chứng nhận đầu tư đối với các dự án ĐTNN không có khả năng triển khai hoặc chưa có kế hoạch sử dụng hết diện tích đất đã được giao để chuyển cho các dự án đầu tư mới có hiệu quả hơn. Đồng thời, trong phạm vi thẩm quyền của mình, chủ động tổ chức việc đền bù giải tỏa và giao đất cho chủ đầu tư theo đúng cam kết, đặc biệt là các dự án quy mô lớn mà chủ đầu tư sẵn sàng giải ngân thực hiện dự án. Nghiên cứu đề xuất với Bộ Kế hoạch và Đầu tư phương án xử lý những vấn đề phát sinh trong quá trình triển khai dự án, vượt quá thẩm quyền của mình, để tổng hợp báo cáo Thủ tướng Chính phủ. (6) Nhóm giải pháp về phân cấp: Qua thực tế thực hiện việc phân cấp trong hơn 2 năm vừa qua đã bộc lộ một số vấn đề bất cập, không phù hợp, ảnh hưởng đến quy hoạch phát triển kinh tế xã hội chung. Cần nghiên cứu để xem xét lại chủ trương phân cấp toàn diện như quy định hiện nay, có các biện pháp để tăng cường sự phối hợp giữa Trung ương và địa phương trong việc cấp phép và quản lý các dự án đầu tư nước ngoài. (7) Nhóm giải pháp về xúc tiến đầu tư: - Nghiên cứu, đề xuất chính sách vận động, thu hút đầu tư đối với các tập đoàn đa quốc gia cũng như có chính sách riêng đối với từng tập đoàn và các đối tác trọng điểm như các quốc gia thành viên EU, Hoa Kỳ, Nhật Bản... - Nhanh chóng hoàn thành việc xây dựng thông tin chi tiết về dự án (project profile) đối với danh mục đầu tư quốc gia kêu gọi đầu tư nước ngoài giai đoạn 2006-2010 để làm cơ sở cho việc kêu gọi các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào các dự án này. - Các Bộ, ngành và Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh tiếp tục rà soát, cập nhật bổ sung danh mục kêu gọi đầu tư phù hợp với nhu cầu đầu tư và quy hoạch phát triển địa phương, ngành, lĩnh vực, sản phẩm. - Nghiên cứu việc xây dựng Văn bản pháp quy về công tác Xúc tiến đầu tư nhằm tạo cơ sở pháp lý thống nhất cho công tác quản lý nhà nước, cơ chế phối hợp và tổ chức thực hiện các hoạt động Xúc tiến đầu tư. - Tổ chức khảo sát, nghiên cứu về mô hình cơ quan Xúc tiến đầu tư ở các địa phương để có cơ sở trong việc hướng dẫn các địa phương tổ chức cơ quan Xúc tiến đầu tư hiệu quả hơn. - Thực hiện tốt Chương trình xúc tiến đầu tư quốc gia giai đoạn 2007-2010. Triển khai nhanh việc thành lập bộ phận XTĐT tại một số địa bàn trọng điểm. - Tăng cường công tác đào tạo bồi dưỡng cán bộ làm công tác xúc tiến đầu tư nói riêng và quản lý đầu tư nói chung. Vận động và phối hợp với các tổ chức quốc tế hỗ trợ mở các lớp đào tạo về xúc tiến và quản lý ĐTNN; tiếp tục kết hợp các hoạt động xúc tiến đầu tư kết hợp các chuyến thăm và làm việc tại các nước của lãnh đạo cấp cao Đảng, Quốc hội, Chính phủ nhằm quảng bá môi trường đầu tư Việt Nam. Phối hợp chặt chẽ và nâng cao hiệu quả hoạt động xúc tiến đầu tư- thương mại - du lịch; khẩn trương triển khai việc thành lập các bộ phận xúc tiến đầu tư tại các địa bàn trọng điểm theo kế hoạch. (8) Một số giải pháp khác: - Tiếp tục nâng cao hiệu quả việc chống tham nhũng, tiêu cực và tình trạng nhũng nhiễu đối với nhà đầu tư. Đề cao tinh thần trách nhiệm cá nhân trong xử lý công việc, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí ở các cơ quan quản lý nhà nước. - Tăng cường phối hợp với các Bộ, ngành, địa phương xử lý vấn đề môi trường, vấn đề đình công trái pháp luật của các doanh nghiệp FDI. - Triển khai tốt việc xây dựng hệ thống quản lý thông tin ĐTNN theo Quyết định số 43/2008/QĐ-TTg ngày 24/3/2008 của Thủ tướng Chính phủ, đảm bảo thông tin phục vụ công tác quản lý, điều hành. - Thực hiện chương trình Sáng kiến chung Việt Nam -Nhật Bản giai đoạn III hiệu quả; điều chỉnh Cơ chế hợp tác giữa Bộ Kế hoạch và Đầu tư (Việt Nam) và Cơ quan Phát triển kinh tế - EDB (Singapore) phù hợp với tình hình mới. - Duy trì cơ chế đối thoại thường xuyên giữa lãnh đạo Chính phủ, các Bộ, ngành với các nhà đầu tư, đặc biệt là Diễn đàn doanh nghiệp hàng năm để xử lý kịp thời các khó khăn, vướng mắc của các dự án trong quá trình thực hiện chính sách và phát luật hiện hành, đảm bảo các dự án hoạt động đúng tiến độ và hiệu quả, nhằm tiếp tục củng cố lòng tin của các nhà đầu tư đối với môi trường đầu tư kinh doanh tại Việt Nam, tạo hiệu ứng lan tỏa và tác động tích cực tới nhà đầu tư mới. 2. Thay đổi cách nhìn về FDI Thứ nhất, cần xây dựng chiến lược thu hút và sử dụng có hiệu quả dòng vốn FDI, lồng ghép chiến lược này vào chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam trong tương lai cũng như vào chiến lược hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam. Chiến lược này sẽ cho phép giải quyết các vấn đề như: quy hoạch tổng thể các ngành và vùng thu hút FDI, đặt ra các ưu tiên cho việc thu hút FDI, tránh được những vấn đề bất cập trong phân cấp đầu tư, tránh được sự manh mún và tản mạn trong xúc tiến đầu tư, kết hợp có hiệu quả dòng vốn ODA, vốn FDI và vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài (FII) trong phát triển kinh tế. Thứ hai, cần đổi mới tư duy về thu hút và sử dụng vốn FDI theo hướng tự do hóa hơn nữa đối với dòng vốn này chứ không phải đưa ra các hạn chế, các điều kiện dễ quản lý hơn như ta đã phạm sai lầm khi sửa đổi luật đầu tư nước ngoài năm 1996. Bên cạnh việc thực hiện các chính sách thu hút nhiều hơn nữa đối với dòng vốn FDI, cần chú trọng đến chất lượng của dòng vốn này (công nghệ; thị trường; đào tạo nguồn nhân lực, tác động lan tỏa…) Thứ ba, hướng dòng vốn FDI vào khu vực dịch vụ, đặc biệt là lĩnh vực xây dựng cơ sở hạ tầng và đào tạo nguồn nhân lực kỹ năng cao. Điều này vừa phù hợp với xu hướng quốc tế vừa giúp Việt Nam xây dựng được một khu vực dịch vụ hoạt động hiệu quả và có khả năng cạnh tranh cao. Một khu vực dịch vụ như vậy sẽ giúp cho Việt Nam đẩy nhanh được quá trình công nghiệp hóa, bảo vệ môi trường, phát triển cân đối giữa các vùng miền, đào tạo được nguồn nhân lực kỹ năng cao, thúc đẩy cải cách hành chính và qua đó tạo ra môi trường đầu tư thuận lợi hơn cho thu hút FDI. Thứ tư, bên cạnh việc thu hút dòng vốn FDI từ các nước truyền thống, cần định hướng thu hút vốn FDI từ những nước có công nghệ nguồn như Mỹ, Châu Âu Và Nhật Bản. Đặc biệt, cần có những chính sách xúc tiến và mục tiêu hóa đầu tư để thu hút FDI từ những TNC hàng đầu thế giới. Vì: (1) Công nghệ mà các nước này sử dụng và chuyển giao là công nghệ cao (mặc dù có thể không mới nhất) và ít gây ô nhiễm môi trường; (2) Các TNC giúp đào tạo nguồn nhân lực với kỹ năng cao; (3) Các TNC có thể giúp Việt Nam kết nối mạng lưới sản xuất, thị trường và nghiên cứu triển khai toàn cầu của họ; (4) Các TNC thường thực hiện những dự án với giá trị vốn lớn; (5) Các TNC sẽ giúp Việt Nam nắm bắt được những xu hướng sản xuất và kinh doanh đang diễn ra trên toàn cầu… Thứ năm, phối kết hợp một cách chặt chẽ và nhịp nhàng hơn giữa các cơ quan xúc tiến đầu tư, xúc tiến thương mại và xúc tiến du lịch nhằm xây dựng một hình ảnh quốc gia chung với tầm nhìn, chiến lược và chính sách phát triển quốc gia, cùng những nét đặc thù độc đáo và riêng biệt của đất nước. Việc phối kết hợp này sẽ khiến cho công tác xúc tiến đầu tư được tiến hành theo một hướng thống nhất, tránh việc lãng phí do chồng chéo cũng như tiết kiệm được nguồn lực. Bên cạnh đó cần tiến hành việc mục tiêu hóa các ngành, các lĩnh vực cần được ưu tiên đầu tư để đề ra các chiến lược xúc tiến phù hợp từ các TNC lớn và trong những trường hợp cần thiết cần thực hiện việc xúc tiến ở cấp nguyên thủ quốc gia. Sau khi xúc tiến đầu tư thành công nên có công tác hỗ trợ và tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư. Ngoài ra, Việt Nam cũng cần trở thành thành viên của tổ chức xúc tiến đầu tư thế giới (WAIPA) nhằm nắm bắt được những xu hướng phát triển mới nhất của FDI trên thế giới và học hỏi các kinh nghiệm tốt nhất trong việc xúc tiến đầu tư. Thứ sáu, các doanh nghiệp trong nước cần tận dụng những lợi ích lan tỏa từ các công ty xuyên quốc gia (TNC) lớn bằng cách xây dựng chiến lược tham gia vào chuỗi giá trị của các công ty này trên thị trường thế giới cũng như trong nước với tư cách là nhà thầu phụ, nhà cung ứng các dịch vụ đầu vào và đầu ra, cung ứng nguồn lao động, đặc biệt là lao động có chất lượng cao…Chính phủ cũng cần có những chính sách riêng hỗ trợ cho các doanh nghiệp này trong việc phát triển các ngành công nghiệp phụ trợ, kể cả trong việc liên doanh với nước ngoài. Thứ bảy, cùng với quá trình hội nhập sâu hơn vào nền kinh tế thế giới và khu vực, những lĩnh vực được bảo hộ mạnh như ô tô, xe máy… sẽ được tự do hóa và nhiều doanh nghiệp FDI có thể phải chuyển hướng kinh doanh hoặc ngừng hoạt động, do đó Việt Nam cần nghiên cứu sâu hơn về hình thức M&A để có thể áp dụng tại Việt Nam nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho sự di chuyển của dòng vốn FDI. Tóm lại, với việc bảo đảm môi trường chính trị, xã hội ổn định, tạo điều kiện thuận lợi cho việc đầu tư của mọi thành phần kinh tế, trong đó có đầu tư nước ngoài, thực hiện chính sách phát triển bền vững cùng những biện pháp nêu trên sẽ góp phần củng cố niềm tin cho các nhà đầu tư. Việt Nam sẽ là điểm đến ngày càng hấp dẫn đối với các nhà đầu tư khi họ cảm thấy yên tâm và hứa hẹn có đồng tiền lợi nhuận.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docFDI.doc
  • pngpreview_doc.png
  • pngpreview_pp_1.png
  • pngpreview_pp_2.png
  • pptxFDI.pptx
Luận văn liên quan