Tổ chức và hoạt động của Uỷ ban nhân dân tỉnh theo pháp luật hiện hành

LỜI MỞ ĐẦU TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI Thực hiện chủ trương đổi mới toàn diện đất nước trong đó có bộ máy nhà nước do đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI đặt ra, nhất là từ sau Đại hội Đảng lần thứ VII thực hiện triển khai nghị quyết ban chấp hành trung ương 8 khóa VII và Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2001- 2010 của Chính phủ. Tổ chức và hoạt động của các cơ quan trong hệ thống hành chính từ Chính phủ, các bộ đến UBND các cấp đã có nhiều thay đổi, từng bước được hoàn thiện. Là cấp trung gian giữa trung ương và địa phương, Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh có vai trò quan trọng trong hoạt động của bộ máy nhà nước, góp phần đảm bảo hoạt động được thống nhất. Trong những năm qua cùng với những thay đổi của nền kinh tế - xã hội, hệ thống văn bản pháp luật quy định về tổ chức và hoạt động của Uỷ ban nhân cấp tỉnh cũng không ngừng được hoàn thiện. Tuy nhiên, trước những yêu cầu mới khi nước ta đang chuyển dần sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đang hội nhập khu vực và quốc tế đặc biệt khi nước ta đã trở thành thành viên của Tổ chức Thương mại thế giới, thì tổ chức và hoạt động của Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh đã bộc lộ nhiều hạn chế cần được khắc phục bởi vậy đổi mới tổ chức và hoạt động của bộ máy chính quyền địa phương trong đó có Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh là một trong những nhiệm vụ nằm trong chương trình tổng thể cải cách hành chính. Vì thế em đã chọn đề tài “ Tổ chức và hoạt động của Uỷ ban nhân dân tỉnh theo pháp luật hiện hành ” làm khóa luật tốt nghiệp cử nhân luật của mình. MỤC LỤC Trang LỜI MỞ ĐẦU Chương I. Uỷ ban nhân dân trong cơ cấu, tổ chức bộ máy nhà nước ở nước ta. 1.1.Vị trí, tính chất, chức năng của Uỷ ban nhân dân. 1.2. Khái quát quá trình hình thành và phát triển của Uỷ ban nhân dân trong lịch sử lập hiến Việt Nam 1.2.1. Uỷ ban nhân dân theo Hiến pháp 1946 1.2.2. Uỷ ban nhân dân theo Hiến pháp 1959 1.2.3. Uỷ ban nhân dân theo Hiến pháp 1980 1.2.4. Uỷ ban nhân dân theo Hiến pháp 1992 đến nay Chương II. Thực trạng về tổ chức và hoạt động của Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh theo pháp luật hiện hành. 2.1. Thực trạng về tổ chức của Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh. 2.1.1. Cơ cấu tổ chức của Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh. 2.1.2. Các cơ quan chuyên môn thuộc Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh. 2.2. Thực trạng về hoạt động của Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh. 2.2.1. Phiên họp của Uỷ ban nhân dân. 2.2.2. Hoạt động của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân. 2.2.3. Hoạt động của các phó chủ tịch, các thành viên khác của Uỷ ban nhân dân, thủ trưởng các cơ quan chuyên môn thuộc Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh . Chương III. Giải pháp hoàn thiện về tổ chức và hoạt động của Uỷ ban nhân cấp tỉnh. 3.1. Giải pháp hoàn thiện tổ chức và hoạt động của Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh. 3.1.1. Hoàn thiện văn bản pháp luật về tổ chức và hoạt động của Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh. 3.1.2. Đổi mới tổ chức Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh. 3.1.3. Nâng cao hiệu quả phiên họp của Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh. 3.1.4. Nâng cao hiệu quả hoạt động của Chủ tịch và các thành viên khác của Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh. 3.1.5. Thực hiện phân cấp quản lý giữa trung ương với địa phương. 3.1.6. Nâng cao chất lượng, hiệu quả của đội ngũ cán bộ, công chức. 3.1.7. Tăng cường cơ sở vật chất-kỹ thuật phục vụ hoạt động của Uỷ ban nhân dân tỉnh. KẾT LUẬN DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 1 3 3 8 8 10 11 13 15 15 15 20 24 24 29 31 37 37 37 39 42 44 45 48 51 53 55

doc59 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 5598 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tổ chức và hoạt động của Uỷ ban nhân dân tỉnh theo pháp luật hiện hành, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ật với tư cách là người lãnh đạo, điều hành hoạt động của UBND. Chính việc làm rõ vai trò, trách nhiệm cá nhân không chỉ tạo cho người được giao nhiệm vụ linh hoạt, chủ động trong công việc mà còn làm cho họ có trách nhiệm hơn trong việc thực hiện các quyết định, hoạt động của mình, cũng có nghĩa là làm cho hoạt động của tổ chức, cơ quan tự chủ hơn, sáng tạo hơn. Việc xác định rõ ràng trách nhiệm tập thể và trách nhiệm cá nhân người đứng đầu, đảm bảo để những công việc quan trọng vẫn phải được tập thể xem xét quyết định đồng thời làm cho người đứng đầu UBND tỉnh phát huy tính năng động. 2.2.3 Hoạt động của các phó chủ tịch, các thành viên khác của Uỷ ban nhân dân, thủ trưởng các cơ quan chuyên môn thuộc UBND cấp tỉnh. Hoạt động của các phó chủ tịch, các thành viên khác của UBND, thủ trưởng các cơ quan chuyên môn thuộc UBND cấp tỉnh là hình thức hoạt động thường xuyên và hàng ngày trực tiếp thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn được giao để giải quyết các công việc phát sinh trên địa phương. Vì thế nó ảnh hưởng lớn đến hiệu quả hoạt động của UBND cấp tỉnh. Theo điều 126 Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân 2003: Phó chủ tịch và các thành viên khác của UBND thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn do Chủ tịch phân công và phải chịu trách nhiệm trước Chủ tịch UBND về việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn đã được giao. Trên cơ sở quy định của pháp luật, mỗi địa phương tùy thuộc vào đặc điểm của mình thực hiện phân công công việc cho các phó chủ tịch phụ trách các lĩnh vực: kế hoạch-đầu tư; tài chính; khoa học – công nghệ; nông nghiệp và phát triển nông thôn; thương mại; công tác tôn giáo-dân tộc,…Thành phố Hồ Chí Minh là một ví dụ, bên cạnh phụ trách các lĩnh vực theo quy định các phó chủ tịch còn giải quyết những trường hợp khiếu nại -tố cáo có liên quan đến lĩnh vực được phân công; hay trực tiếp chỉ đạo thực hiện Chương trình mục tiêu 3 giảm; Chương trình Xóa đói giảm nghèo và Việc làm; Công tác vệ sinh - an toàn thực phẩm; Công tác thông tin, báo chí và Trưởng Ban chỉ đạo các lĩnh vực có liên quan,… Do đặc điểm là đô thị lớn, Hà Nội và TP Hồ Chí Minh còn có thêm Phó chủ tịch phụ trách vấn đề đô thị. Các Phó chủ tịch thực hiện công việc của mình và cùng phối hợp với nhau khi giải quyết các vấn đề liên quan. Thông thường sẽ có một phó chủ tịch thường trực Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương thay mặt Chủ tịch Uỷ ban nhân dân chủ trì và điều phối hoạt động chung của Uỷ ban nhân dân khi Chủ tịch UBND đi vắng hoặc được Chủ tịch Uỷ ban nhân dân ủy quyền. Các thành viên khác của UBND được phân công phụ trách các lĩnh vực: công an, kinh tế, kế hoạch, tài chính, quân sự,… phải chịu trách nhiệm trước Chủ tịch về hoạt động được giao. Theo quy định của pháp luật hiện hành, các ủy viên Uỷ ban nhân dân chỉ chịu trách nhiệm trước HĐND dưới hình thức bãi nhiệm, miễn nhiệm, còn không chịu trách nhiệm trước Thủ tướng Chính phủ. Hiện nay quy định về vai trò, nhiệm vụ, quyền hạn của các thành viên khác với tư cách là ủy viên Uỷ ban nhân dân còn chưa rõ ràng, cụ thể. Nghị định 107/NĐ-CP chỉ quy định các ủy viên phụ trách các lĩnh vực, tuy nhiên lại không nêu rõ quyền hạn của các ủy viên này. Bên cạnh đó nhiều trường hợp các ủy viên Uỷ ban nhân dân lại đồng thời là giám đốc sở, nên hoạt động của các thành viên UBND với tư cách là ủy viên còn mờ nhạt và chưa thực sự hiệu quả. Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân năm 2003 đã dành riêng một mục quy định về cơ quan chuyên môn thuộc UBND cấp tỉnh từ Điều 128 đến Điều 130. Nghị định 13/2008 ngày 04/2/2008 quy định tổ chức các cơ quan chuyên môn thuộc Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương cũng như nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan này. Hiện nay ở cấp tỉnh số các ủy viên ủy ban là trưởng các sở, ban ngành đã giảm, đồng thời cơ quan giúp việc của UBND tỉnh là các sở đã được tổ chức lại, được điều chỉnh chức năng, nhiệm vụ theo hướng quản lý nhà nước đa ngành, đa lĩnh vực ở địa phương, phù hợp với những điều chỉnh của các bộ ngành ở trung ương. Những thay đổi này giúp UBND tỉnh hoạt động có hiệu quả hơn, góp phần vào việc phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Các cơ quan chuyên môn thuộc Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh tham mưu, giúp UBND thực hiện chức năng quản lý nhà nước về ngành, lĩnh vực ở địa phương như tham mưu, giúp Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh thực hiện chức năng quản lý nhà nước về nội vụ, về tài chính, về xây dựng, về tài nguyên môi trường, về giao thông vận tải, về báo chí, xuất bản, bưu chính, về công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, thương mại, về nông nghiệp, lâm nghiệp, thủy sản, về văn hóa – giáo dục – y tế,… Thông qua việc trình dự thảo quyết định, chỉ thị, quy hoạch, kế hoạch dài hạn, 5 năm, hàng năm; trình Chủ tịch UBND cấp tỉnh dự thảo thành lập, sáp nhật, giải thể các đơn vị thuộc cơ quan chuyên môn cấp tỉnh; tổ chức thực hiện các văn bản pháp luật, quy hoạch, kế hoạch sau khi được phê duyệt, kiểm tra, thanh tra theo ngành, lĩnh vực được phân công phụ trách đối với tổ chức, cá nhân trong việc thực hiện quy định của pháp luật; giải quyết khiếu nại tố cáo, phòng chống tham nhũng,… và một số nhiệm vụ khác do Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh giao hoặc theo quy định của pháp luật. Phương thức hoạt động của Uỷ ban nhân dân có nhiều đổi mới, các cơ quan hành chính nhà nước tập trung làm tốt chức năng định hướng phát triển, tạo lập môi trường pháp lý, cơ chế, chính sách thuận lợi để phát huy các nguồn lực, tăng cường quản lý bằng pháp luật. Nằm trong chương trình cải cách hành chính, hiện nay nhiều tỉnh thành trong cả nước đã thực hiện quy chế “một cửa”, ban hành bộ thủ tục hành chính bước đầu đã đạt nhiều hiệu quả. Tỉnh Lào Cai là một ví dụ Sở Nội vụ tỉnh đã phối hợp cùng với Ban chỉ đạo cải cách hành chính thực hiện ở 5 sở ( Sở Kế hoạch và đầu tư; sở Tài nguyên và Môi trường;…) vì vậy năm 2006 Lào Cai xếp thứ 6/64 tỉnh thành trong cả nước có môi trường thuận lợi thu hút đầu tư từ bên ngoài, còn năm 2009 là thứ 5/63 tỉnh thành trong cả nước. Việc cải cách hành chính là rất cần thiết để nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức cũng như tổ chức bộ máy trong các cơ quan chuyên môn. Hoạt động quản lý của các cơ quan chuyên môn thuộc UBND tỉnh đã giúp UBND thực hiện tốt nhiệm vụ của mình. Như trong năm 2009 Sở Tài Nguyên và Môi trường Thừa Thiên Huế đã cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho 1.995 hộ gia đình, cá nhân ở đô thị và 5. 557 hộ ở nông thôn; đến cuối năm 2009 có 47. 556 hộ gia đình, cá nhân ở đô thị và 126. 541 hộ gia đình, cá nhân ở nông thôn được cấp giấy chứng nhân quyền sử dụng đất [29]. Trong năm 2009 Thanh tra tỉnh Long An đã triển khai 89 cuộc thanh tra kinh tế - xã hội, vượt 37% KH ( 65 cuộc theo kế hoạch và 24 cuộc đột xuất ); kết thúc 86 cuộc. Tổng số đơn vị được thanh tra 95 đơn vị; số đơn vị phát hiện có vi phạm 67 đơn vị. Tổng số vi phạm về kinh tế 4.494 triệu đồng và 17,5 ha đất; kiến nghị thu hồi về kinh tế cho nhà nước 2.300 triệu đồng và 17,5 ha đất công do Nhà nước quản lý; kiến nghị giảm trừ quyết toán 315 triệu đồng và kiến nghị xử lý khác 1.879 triệu đồng. Kiến nghị xử lý hành chính 13 vụ, 30 người và kiến nghị nhiều biện pháp chấn chỉnh trong công tác quản lý trên các lĩnh vực quản lý đất đai, đầu tư xây dựng cơ bản, tài chính - ngân sách, thực hiện chính sách xã hội. Kiến nghị xử lý hình sự 4 vụ, 8 người. Đã thu hồi về cho Nhà nước 1.769 triệu đồng, đạt tỷ lệ thu hồi 77% [ 28 ]. Các cơ quan chuyên môn thuộc UBND được phân công hoặc được ủy quyền để thực hiện một số nhiệm vụ nhất định nhằm khắc phục tình trạng quá tải trong hoạt động quản lý của Chủ tịch UBND tỉnh và đáp ứng yêu cầu thực hiện cơ chế “một cửa”, phục vụ kịp thời nhu cầu của nhân dân địa phương. Thông qua đó đã giúp Uỷ ban nhân dân tỉnh thực hiện tốt những chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước. Hiện nay, vai trò, chức năng, nhiệm vụ của UBND và các sở, ban thuộc Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh đã được xác định lại cho phù hợp, không còn trực tiếp thực hiện tổ chức quản lý kinh doanh mà tập trung cho việc quản lý nhà nước. Tuy nhiên trong hoạt động nhiều công việc thuộc nhiệm vụ, thẩm quyền của các sở nhưng vẫn phải trình Uỷ ban nhân dân giải quyết nên có tình trạng UBND ra quyết định nhưng không nắm bắt được thực tế nội dung công việc hơặc trên văn bản là công việc của Uỷ ban nhân dân nhưng thực chất là do lãnh đạo các sở giải quyết. Trong những năm qua chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan hành chính được điều chỉnh từng bước phù hợp với yêu cầu quản lý nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Việc điều chỉnh chức năng giữa các cơ quan trong hệ thống hành chính đang được thực hiện phù hợp với tình hình thực tiễn theo đó mỗi việc chỉ do một cơ quan phụ trách, khắc phục sự trùng lắp, chồng chéo về chức năng, nhiêm vụ. Chính quyền địa phương được phân cấp nhiều hơn trong các lĩnh vực: ngân sách, đất đai, đầu tư, biên chế, giáo dục, y tế,…đã tạo sự chủ động trong việc thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội trên địa bàn nhưng việc phân cấp chưa thật mạnh mẽ nên hiệu quả còn chưa cao. Đầu mối tổ chức các cơ quan chuyên môn thuộc UBND cấp tỉnh cũng còn nhiều nặng nề. Việc kiến thiết tổ chức còn rập khuôn và tương ứng với các bộ, ngành trung ương. Bởi thế số lượng, tên gọi của các cơ quan chuyên môn ở mỗi địa phương cũng dập khuôn giống nhau mặc dù đặc điểm, yêu cầu quản lý ở mỗi địa phương có sự khác nhau. Cùng với đó là tổ chức các cơ quan chuyên môn thuộc UBND cấp tỉnh chưa thật ổn định đã ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động của các cơ quan này. Sự thay đổi các bộ, ngành ở trung ương kéo theo sự thay đổi ở địa phương, sự sáp nhập, hay hợp nhất các sở dẫn đến việc phải xác định lại chức năng, nhiệm vụ như việc hợp nhất Sở công nghiệp với sở Thương mại thành sở Công thương dẫn đến việc phải chuyển chức năng và tổ chức về du lịch của Sở Thương mại vào sở Văn hoá, Thể thao và Du lịch, trong khi đó Sở Thông tin và truyền thông lại tiếp nhận chức năng, tổ chức quản lý nhà nước về báo chí, xuất bản từ Sở Văn hoá, Thể thao và Du lịch; giải thể Uỷ ban Dân số, Gia đình và Trẻ em và chuyển chức năng và tổ chức của Uỷ ban này về Sở Y tế, Sở Văn hoá,Thể thao và Du lịch và Sở Lao động - Thương binh và Xã hội,…Khi thay đổi như vậy dẫn đến cơ cấu, tổ chức cũng như hoạt động cũng phải thay đổi theo. Qua việc tổ chức và hoạt động của Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh theo pháp luật hiện hành có thể thấy, việc tổ chức và hoạt động của Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh chưa có sự phân biệt rõ rệt giữa các vùng lãnh thổ khác nhau, giữa nông thôn và thành thị, giữa đồng bằng và miền núi nên chưa phát huy được thế mạnh riêng của mỗi địa phương. Một trong những yếu tố ảnh hưởng đến kết quả hiệu quả hoạt động của UBND tỉnh chính là đội ngũ cán bộ, công chức làm việc trong bộ máy mặc dù đã chất lượng làm việc của cán bộ, công chức không ngừng được tăng lên nhưng vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu. Sức ỳ của cơ chế tập trung, quan liêu bao cấp còn ảnh hưởng khá nặng đến nếp nghĩ, phong cách làm việc của một bộ phận cán bộ, công chức; trình độ của đội ngũ cán bộ, công chức còn thấp, một số còn thiếu trách nhiệm trong công việc, bên cạnh đó công tác thanh tra, kiểm tra, xử lý kỷ luật chưa nghiêm dẫn đến một bộ phận cán bộ, công chức suy thoái phẩm chất, đạo đức, tham nhũng, vi phạm pháp luật vẫn còn xảy ra như những vi phạm trong quản lý đất đai của một số cán bộ ở Đồ Sơn(Hải Phòng) là một ví dụ. Nhiều trường hợp cấp dưới không tổ chức thực hiện kết luận thanh tra và quyết định của Uỷ ban nhân dân cấp trên dẫn đến khiếu kiện vượt cấp, kéo dài. Quy trình làm việc còn lạc hậu chưa đáp ứng yêu cầu chuyên nghiệp, hiện đại. Trang thiết bị, điều kiện làm việc của các cơ quan hành chính nhà nước còn nhiều hạn chế, việc áp dụng công nghệ thông tin vào quản lý còn chậm. Chương III GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA UỶ BAN NHÂN DÂN CẤP TỈNH. Hiện nay, Việt Nam đã là thành viên của tổ chức thương mại thế giới, trước yêu cầu xây dựng và phát triển nền kinh té thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đặc biệt là việc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân như nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX đặt ra thì cần từng bước khắc phục những hạn chế trong tổ chức và hoạt của UBND đồng thời nâng cao hiệu quả hoạt động của các cơ quan quản lý nhà nước ở địa phương trong đó có UBND cấp tỉnh. Dưới đây là một số giải pháp để hoàn thiện về tổ chức và hoạt động của Uỷ ban nhân cấp tỉnh. 3.1. Giải pháp hoàn thiện tổ chức và hoạt động của UBND cấp tỉnh. Xuất phát từ vị trí của UBND cấp tỉnh trong bộ máy nhà nước. Thực hiện hoàn thiện tổ chức và hoạt động của UBND cấp tỉnh cần phải: đảm bảo sự lãnh đạo tuyệt đối, toàn diện của Đảng cùng sự phối hợp chặt chẽ, đồng bộ trong hoạt động giám sát, phản biện xã hội của Mặt trân tổ quốc cùng các tổ chức thành viên, tăng cường và mở rộng dân chủ; tôn trọng tính thống nhất, đồng bộ trong tổ chức và hoạt động của bộ máy hành chính nhà nước đảm bảo sự ổn định, hoạt động thông suốt. 3.1.1 Hoàn thiện văn bản pháp luật về tổ chức và hoạt động của Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh. Tổ chức và hoạt động của UBND được tiến hành dựa trên các quy định của pháp luật đó là Hiến pháp, Luật tổ chức HĐND và UBND, các văn bản pháp luật khác có liên quan. Để củng cố tổ chức và hoạt động của UBND thì không thể không nói tới sự hoàn thiện các quy định của pháp luật về vấn đề này. Kể từ SL số 63- SL ngày 23/11/1945 và SL số 77-SL ngày 21/12/1945, đây là những văn bản đầu tiên quy định tổ chức, nhiệm vụ, quyền hạn của UBND, tiếp đó là một hệ thống các văn bản pháp luật như: Luật tổ chức chính quyền địa phương 1958, Luật tổ chức HĐND và UBND 1962, Luật tổ chức HĐND và UBND 1983,…và hiện nay là Luật tổ chức HĐND và UBND 2003. Theo đó tổ chức và hoạt động của UBND nói chung đã có những điều chỉnh để thích ứng với điều kiện mới. Sự thay đổi của pháp luật tất yếu sẽ dẫn tới sự thay đổi trong tổ chức và hoạt động của UBND. Điều này có thể thấy trong Luật tổ chức HĐND và UBND 1962 quy định về thường trực UBND nhưng đến nay quy định đã bỏ, hoặc khi có văn bản pháp luật của Chính phủ quy định về tổ chức các cơ quan chuyên môn thuộc UBND thì các cơ quan này lại thay đổi theo quy định của văn bản đó. Như vậy, để củng cố, hoàn thiện về tổ chức và hoạt động của UBND thì cần được củng cố trên nền những quy định pháp luật tương đối ổn định. Không thể nói hoàn thiện khi mà pháp luật luôn có những thay đổi nhưng điều đó không có nghĩa là hệ thống văn bản pháp luật quy định về UBND luôn bất biến mà cấn có những thay đổi phù hợp với mỗi giai đoạn. Theo tinh thần nghị quyết trung ương 5 khóa X thực hiện thí điểm bỏ HĐND ở 67 huyện, 32 quận và 483 phường của 10 tỉnh, thành phố trực thuộc trung từ ngày 1/04/2009 bởi trên thực tế hoạt động của HĐND ở cấp này không hiệu quả, vẫn mang nặng tính hình thức. Đây là những thử nghiệm đầu tiên để tiến tới thực hiện chủ trương này. Bởi vậy, cũng cần những sửa đổi phù hợp nâng cao vai trò của UBND cấp tỉnh đối với UBND cấp dưới. Theo đó một số nhiệm vụ, quyền hạn của HĐND huyện, quận sẽ được quy định bổ sung cho UBND cùng cấp. Còn một số nhiệm vụ, quyền hạn được chuyển giao cho HĐND và UBND cấp tỉnh. Như bổ sung cho UBND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương một số quyền hạn trong việc phê duyệt quy hoạch, kế hoạch, chương trình phát triển kinh tế-xã hội của Ủy ban nhân cấp huyện, quận; hay trong vấn đề ngân sách của cấp huyện khi mà bỏ HĐND nên giao cho cấp tỉnh và cấp tỉnh sẽ phải chịu trách nhiệm trong việc phân cấp cho cấp dưới; đối với UBND thành phố trực thuộc trung ương cần bổ sung thêm quyền hạn trong việc quyết định các biện pháp nhằm bảo đảm thực hiện thống nhất quy hoạch đô thị trên địa bàn quận; quyết định quy hoạch, kế hoạch phát triển mạng lưới giao thông trên địa bàn quận,… 3.1.2 Đổi mới tổ chức Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh. Theo pháp luật hiện hành, UBND là cơ quan chấp hành của HĐND, là cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương. UBND thực hiện chức năng quản lý nhà nước ở địa phương trên các lĩnh vực. Vì thế nên đổi tên “UBND” thành Uỷ ban hành chính(UBHC) như trong Hiến pháp 1946, Hiến pháp 1959, vấn đề này cũng đã được đề cập trong dự thảo Hiến pháp 1992 nhưng cuối cùng đã không thành mà tên “UBND”vẫn được giữ nguyên cho tới nay; tuy nhiên tên “Ủy ban hành chính” sẽ phù hợp hơn; điều này cũng hợp lý bởi khi không tổ chức HĐND ở huyện, quận, phường thì UBND chỉ là cơ quan hành chình nhà nước và là đại diện của UBND cấp trên. Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước đã đặt ra nội dung cải cách bộ máy hành chính, trong đó cải cách tổ chức bộ máy hành chính nhà nước ở địa phương là một trọng tâm nhằm đổi mới và hoàn thiện tổ chức bộ máy hành chính nhà nước ở địa phương đáp ứng những yêu cầu mới mà thực tiễn xã hội đang đòi hỏi. Đổi mới tổ chức UBND theo hướng hạn chế cơ cấu các ủy viên là thủ trưởng các cơ quan chuyên môn thuộc UBND tỉnh. Thực hiện đổi mới cơ cấu, tổ chức UBND theo hướng linh hoạt, gọn nhẹ đảm bảo hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước. Hiện nay theo quy định của pháp luật, cơ cấu thành viên UBND tỉnh được dựa trên tiêu chí về dân số, diện tích, loại đô thị, và thành viên UBND do HĐND quyết định vì thế cơ cấu thành viên UBND còn bị ràng buộc chưa hẳn đã tạo thuận lợi cho tổ chức. Đối với các cơ quan chuyên môn thuộc UBND cấp tỉnh, là cơ quan tham mưu, giúp UBND thực hiện chức năng quản lý nhà nước ở địa phương. Cần thực hiện rà soát đánh giá về cơ cấu, tổ chức hệ thống các cơ quan chuyên môn qua đó phát hiện những điểm chưa hợp lý nhằm giúp cho việc xây dựng phương hướng hoàn thiện tổ chức của các cơ quan này. Thực hiện sắp xếp, tổ chức lại theo hướng phân công rành mạch, bộ máy gọn nhẹ, tăng cường tính chuyên nghiệp, giải quyết nhanh công việc của các cá nhân, tổ chức, thực hiện tổ chức quản lý đa ngành, đa lĩnh vực, không nhất thiết ở trung ương có bộ nào thì ở tỉnh có tổ chức tương ứng bởi thực tế hiện nay ở trung ương có bao nhiêu bộ thì ở tỉnh cũng có bấy nhiêu sở tương ứng. Để hoàn thiện hoạt động quản lý của các cơ quan hành chính nhà nước thì cơ cấu tổ chức các đầu mối không thể cứng nhắc nhất là trong điều kiện hoạt động quản lý đang có nhiều thay đổi như hiện nay. Nên chăng hãy trao cho chính quyền địa phương để mỗi địa phương xác định một cơ cấu, tổ chức hợp lý phù hợp với điều kiện cụ thể của mình. Xác định rõ chức năng, nhiệm vụ các cơ quan chuyên môn thuộc UBND cấp tỉnh, thực hiện đúng chức năng quản lý nhà nước theo nhiệm vụ và thẩm quyền; tách bạch việc thực hiện các dịch vụ, hoạt động kinh doanh với hoạt động quản lý nhà nước. Để các cơ quan chuyên môn thuộc UBND tỉnh ổn định trên cơ sở đó để hoàn thiện về tổ chức, hoạt động thì cấn thiết ổn định cơ cấu, tổ chức của Chính phủ có thể thấy nhiệm kỳ 2002-2007 cơ cấu, tổ chức của Chính phủ có sở Công nghiệp, sở Văn hóa- thông tin, Uỷ ban- dân số-Gia đình- Trẻ em,….Sau đó có sự thay đổi dẫn đến các bộ, cơ quan ngang bộ này bị tách ra hoặc sáp nhập vào một số bộ khác dẫn tới những thay đổi tương ướng trong tổ chức các cơ quan chuyên môn thuộc UBND tỉnh. Vì thế cần xác định rõ chức năng nhiệm vụ và sự chồng chéo của từng cơ quan trước khi quyết định thay đổi cơ cấu, tổ chức vì hoàn thiện lại trên một cơ cấu, tổ chức thay đổi chắc sẽ mất nhiều thời gian hơn là hoàn thiện trên nền tảng cơ cấu tổ chức ổn định về mặt số lượng. Bên cạnh đó trong những năm qua việc chia, tách, sáp nhập tỉnh có thể nói là được tiến hành một cách “thường xuyên” và cũng chưa thật hợp lý điều này đã gây ảnh hưởng không nhỏ đến việc xây dựng và hoàn thiện tổ chức bộ máy hành chính nhà nước. Năm 1996, cả nước có 53 đơn vị hành chính cấp tỉnh, năm 2006 có 64 đơn vị (tăng 11 đơn vị), còn hiện nay là 63 đơn vị hành chính. Việc chia, tách tỉnh là do yêu cầu quản lý, yêu cầu phát triển kinh tế-xã hội,…không thể phủ nhận cái được của việc hợp nhất, chia tách các tỉnh ở các thời kỳ lịch sử khác nhau góp phần thực hiện các nhiệm vụ chính trị, kinh tế. Tuy nhiên việc làm này cũng có hạn chế, nó vừa dẫn đến sự không ổn định của bộ máy hành chính nhà nước nhất là những thay đổi trong cơ cấu, tổ chức của UBND tỉnh vừa ảnh hưởng tới hoạt động bởi cần một thời gian sau đó để thích ứng, đã làm giảm hiệu lực, hiệu quả làm việc của UBND. Nhiều địa phương không đủ nguồn lực để thực hiện các chức năng, nhiệm vụ lớn và phức tạp do trung ương phân cấp. Trong khi đó thực trạng đội ngũ cán bộ, công chức làm việc trong các cơ quan hành chính vừa yếu, vừa thiếu chẳng những không giảm mà ngày càng tăng lên cùng với đó là sự lãng phí của cải vật chất của nhà nước như việc chia, tách, thành lập đơn vị hành chính mới sẽ phải đổi tên cơ quan, phải hủy hàng loạt con dấu cũ, thêm con dấu mới,…gây không ít khó khăn, phiền hà cho các đơn vị, tổ chức, cá nhân và nhân dân. Bởi vậy trong nội dung của trương trình cải cách hành chính nhà nước đã nhấn mạnh cần quy định các tiêu chí cụ thể đối với từng loại đơn vị hành chính ở nước ta để đi đến ổn định, chấm dứt tình trạng chia, tách nhiều như thời gian qua. Trên cơ sở đó cần ban hành văn bản pháp luật làm cơ sở cho việc thực hiện. Trong khi đó tổ chức bộ máy hành chính giữa đô thị và nông thôn không có sự khác nhau là bao, vì thế cần có sự phân biệt tổ chức cũng như chức năng, nhiệm vụ giữa các cơ quan hành chính nhà nước ở đô thị và nông thôn trên cơ sở xem xét các yếu tố vị trí, điều kiện kinh tế-xã hội,… 3.1.3 Nâng cao hiệu quả phiên họp của Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh. Phiên họp là hình thức hoạt động quan trọng nhất của UBND cấp tỉnh, tại phiên họp các vấn đề quan trọng của địa phượng được thảo luân một cách dân chủ, công khai và quyết định theo đa số thể hiện trí tuệ của cả tập thể. Những quyết định được đưa ra trong phiên họp để thực hiện chủ trương, chính sách của Đảng và nhà nước, mệnh lệnh của cơ quan nhà nước cấp trên, nghị quyết của HĐND cùng cấp đồng thời là cơ sở để các cơ quan chuyên môn thuộc UBND tỉnh, các cơ quan hành chính cấp dưới tổ chức, triển khai các nhiệm vụ trên lãnh thổ. Vì thế, chất lượng phiên họp của UBND có ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả hoạt động chung cuả UBND nên cần phải nâng cao chất lượng phiên họp của UBND. Theo quy định của pháp luật hiện hành, UBND mỗi tháng họp ít nhất một lần, bên cạnh đó mỗi địa phương căn cứ vào tình hình có thể các tổ chức các cuộc họp để giải quyết công việc phát sinh, hay cuộc họp bất thường trong những trường hợp cần giải quyết các công việc khẩn cấp như lũ lụt, tai nạn giao thông, vệ sinh an toàn thực phẩm, môi trường,…tuy nhiên có thể thấy hiện nay nhiều tỉnh, thành phố tổ chức quá nhiều các cuộc họp trong khi hiệu quả lại chưa cao điều đó thể hiện qua các quyết định trong phiên họp khi đưa vào thực tế cuộc sống đã không phù hợp. Vì thế cần xây dựng quy chế làm việc, giảm bớt các cuộc họp, hạn chế sự chỉ đạo qua văn bản mà tăng cường đi thực tế mới nắm bắt được tình hình giải quyết kịp thời các khó khăn, vướng mắc các vụ việc phát sinh. + Trước phiên họp cần thông báo nội dung của phiên họp đền từng thành viên UBND cũng như những người được mời tham dự; cần chú ý sắp xếp các nội dung của phiên họp cho hợp lý, đưa ra thảo luận các vấn đề có trọng tâm, trọng điểm vấn đề nào quan trọng cần đưa ra thảo luận trước. Trong phiên họp khi quyết định các vấn đề quan trọng có thể lấy ý kiến bằng hình thức bỏ phiếu kín để kết quả được khách quan, các vấn đề đưa ra thảo luận một cách dân chủ, công khai mọi người đều có thể tham gia đóng góp ý kiến nhưng quyết định đưa ra dựa trên đa số phản ánh đúng tình hình của địa phương. Khắc phục tình trạng phiên họp chỉ là nơi báo cáo kết quả, thành tích của mỗi cơ quan, cá nhân. Phiên họp phải là nơi phát huy trí tuệ của cả tập thể cũng như sự sáng tạo của mỗi thành viên UBND thể hiện qua những quyết định đúng đắn khi giải quyết các vấn đề trong quản lý hành chính nhà nước tại địa phương như quản lý đất đai, chính sách đầu tư, giải quyết khiếu nại, tố cáo,… + Phiên họp của UBND tỉnh phải có mặt đầy đủ các thành viên đồng thời đảm bảo sự tham dự của Chủ tịch Uỷ ban Mặt trân Tổ quốc Việt Nam, khi bàn các vấn đề liên quan phải mời người đứng đầu các đoàn thể như: Hội nông dân; hội phụ nữ, Công đoàn,…tham dự cũng như tham khảo ý kiến để đưa ra quyết định phù hợp, đảm bảo tính dân chủ. Cần quy định thời gian tổ chức họp, thực hiện công khai thông tin phiên họp, tạo điều kiện để nhân dân được biết và tham gia đóng góp ý kiến đó cũng là một trong những hình thức để nhân dân tham gia vào việc quản lý nhà nước, cũng như tăng cường tính minh bạch trong hoạt động quản lý, nắm bắt được nguyện vọng, phản hồi của người dân trước những chủ trương, chính sách của Đảng và nhà nước. Bên cạnh đó trước khi đưa ra một quyết định quan trọng có ảnh hướng lớn đến đời sống của nhân dân có thể đưa vấn đề đó ra để lấy ý kiến của người dân. Có thể thấy hàng năm, UBND mỗi tỉnh ban hành rất nhiều các quyết định quản lý hành chính đã góp phần không nhỏ trong việc quản lý các lĩnh vực tại địa phương cũng như trong việc triển khai những quy định của Hiến pháp và pháp luật tuy nhiên vẫn còn tình trạng thiếu thống nhất đối với các quyết định quản lý của UBND cấp tỉnh và hiệu quả của nó khi đưa vào thực hiện chưa cao. Để hoạt động của UBND tỉnh thực sự hiệu quả thì cần thiết phải nâng cao chất lượng các quyết định quản lý của UBND tỉnh ban hành đảm bảo tính pháp lý, tính khoa học cũng như tính thực tiễn. Vì vậy phải tăng cường vai trò giám sát của HĐND cấp tỉnh đối với hoạt động của UBND tỉnh nói chung và đối với hoạt động xây dựng, ban hành cũng như tổ chức thực hiện các quyết định của UBND tỉnh nói riêng. 3.1.4 Nâng cao hiệu quả hoạt động của Chủ tịch và các thành viên khác của Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh. Theo quy định của pháp luật hiện hành“Uỷ ban nhân dân do Hội đồng nhân dân cùng cấp bầu ra gồm có Chủ tịch, Phó Chủ tịch, và Uỷ viên”. Tuy nhiên đối với những chức danh danh như: Chủ tịch, Phó Chủ tịch, chúng ta có thể thực hiện bổ nhiệm từ trên xuống. Như quy định Thủ tướng Chính phủ bổ nhiệm Chủ tịch UBND cấp tỉnh; sau đó Chủ tịch UBND cấp tỉnh sẽ bổ nhiệm các chức danh khác vừa tăng cường tính công bằng, khách quan, vừa tìm được có năng lực để lãnh đạo công tác của UBND đồng thời nó cũng phù hợp với biến chuyển trong nền kinh tế của nước ta hiện nay. Tuy nhiên để thực hiện bổ nhiệm từ trên xuống thì cần phải chuẩn bị điều kiện: như cần phải xây dựng tiêu chuẩn để được bổ nhiệm cũng như cần tăng cường hoạt động giám sát. Bởi hiện nay chúng ta chưa có một quy định cụ thể về tiêu chuẩn đối với Chủ tịch Uỷ ban nhân. Điều này cũng phù hợp, khi mà bỏ HĐND cấp huyện, quận thì Chủ tịch UBND huyện, quận do Chủ tịch UBND cấp trên trực tiếp bổ nhiệm. Chủ tịch UBND cấp tỉnh là người lãnh đạo và điều hành công việc của UBND có vai trò quan trọng ảnh hưởng tới hiệu quả hoạt động của UBND bởi vậy cần không ngừng tăng cường vai trò của người đứng đầu. Kinh nghiệm cải cách hành chính của nhiều nước trên thế giới và sự phát triển của nền hành chính hiện nay cho thấy vai trò trách nhiệm cá nhân luôn được đề cao nhất là những người đứng dầu. Xây dựng quy chế làm việc trong đó quy định cụ thể những công việc thuộc thẩm quyền của tập thể UBND, công việc thuộc thẩm quyền của Chủ tịch UBND theo hướng gắn quyền lực với trách nhiệm, Chủ tịch UBND phải chịu trách nhiệm về mọi hoạt động của UBND qua đó phát huy vai trò của người đứng đầu. Thực tế cho thấy cùng một mặt bằng về chế dộ, chính sách, nguồn lực, lợi thế sao địa phương này làm tôt còn địa phương kia làm chưa tốt, trường hợp tỉnh Bình Dương và tỉnh Hà Tây trước đây là một ví dụ điển hình, cùng có những điều kiện tương đương nhưng Bình Dương là một trong những tỉnh có kinh tế phát triển mạnh đặc biệt là khả năng thu hút đầu tư nước ngoài còn tỉnh Hà Tây thì không phát huy được những lợi thế của mình trước khi sáp nhập vào Hà Nội. Bài học rút ra chính là tính tự chủ, sáng tạo, ở những nơi làm chưa tốt lãnh đạo còn mang nặng tư tưởng bao cấp, ỷ lại, trông chờ vào ngân sách nhà nước, một số nơi còn do cục bộ địa phương. Bởi thế để phát huy tính năng động, sáng tạo thì trước hết Chủ tịch UBND phải là người có năng lực, trình độ, phẩm chất chính trị, phải nắm vững chủ trương, đường lối của Đảng và Nhà nước dám nghĩ, dám làm và dám chịu trách nhiệm. Bên cạnh đó pháp luật cũng cần quy định cụ thể vị trí, vai trò của các Phó chủ tịch và các thành viên khác với tư cách là Ủy viên UBND trong mối quan hệ với Chủ tịch UBND khi thực thi các nhiệm vụ, quyền hạn được phân công. Trong nghị định 107/2004/NĐ-CP quy định số lượng Phó chủ tịch và cơ cấu thành viên ủy ban nhân dân các cấp chỉ quy định số ủy viên UBND cấp tỉnh phụ trách các mặt công tác như công an, quân sự, nội vụ, kế hoạch, tài chính,…mà không nêu rõ các quyền hạn mà các ủy viên này được làm với tư cách là người phụ trách công tác đó sẽ gây ra những khó khăn khi thực hiện công việc. Bên cạnh đó người đứng đầu các sở đồng thời lại là thành viên của UBND thì việc kiểm tra, giám sát hoạt động đối với các cơ quan chuyên môn phần nào bị buông lỏng.Vì thế nên hạn chề thành viên UBND đồng thời là những người đứng đầu các sở phòng ban. 3.1.5 Thực hiện phân cấp quản lý giữa trung ương với địa phương. Ở nước ta vấn đề phân cấp quản lý nhà nước đã được đặt ra từ lâu, trong cả thời kỳ kế hoạch hóa tập trung, bao cấp. Trong những năm gần đây, khi tiến hành công cuộc đổi mới với chủ trương phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thì vấn đề phân cấp mới được xem xét một cách đúng mức và thực chất, được đặt ra là một trong những nhiệm vụ trọng tâm của công cuộc cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2001 - 2010. Phân cấp quản lý đó chính là sự phân định, nhiệm vụ, thẩm quyền, trách nhiệm giữa các cấp chính quyền trong việc thực hiện chức năng quản lý nhà nước. Trong thời gian qua chúng ta cũng đã tiến hành phân cấp quản lý nhà nước giữa Chính phủ với chính quyền tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương trên một số lĩnh vực như: ngấn sách, đầu tư, đất đai,.. Việc phân cấp quản lý được tiến hành theo tinh thần Nghị quyết hội nghị trung ương lần thứ 7 khóa VIII xác định “ việc nào do cấp nào sát với thực tế hơn thì giao cho cấp đó”, công việc nào mà cấp chính quyền làm có hiệu quả thì giao cho cấp chính quyền đó. Việc phân cấp quản lý để UBND tỉnh ngày càng thích ứng với nhân tố kinh tế, dân chủ của đời sống và quá trình nước ta đang đẩy mạnh hợp tác, hội nhập khu vực và quốc tế đồng thời phát huy được tính tích cực, chủ động của Ủy ban nhân dân tỉnh trong hoạt động quản lý nhà nước tại địa phương. Tuy nhiên trước yêu cầu phát triển kinh tế-xã hội của đất nước, cũng như những đặc điểm phát triển ở mức độ khác nhau của mỗi tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương thì việc phân cấp quản lý nhà nước giữa trung ương và địa phương còn nhiều hạn chế chưa phát huy được khả năng của mỗi địa phương như: chính quyền tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương chưa đủ thẩm quyền để có thể chủ động quyết định các vấn đề kinh tế- xã hội, quản lý hành chính trên địa bàn; việc phân cấp quản lý nhà nước chưa thực sự gắn giữa nhiệm vụ với thẩm quyền, trách nhiệm cũng như các điều kiện về tài chính, nhân lực. Thực tế trong thời gian qua cho thấy mặc dù có nhiều công việc đã phân cấp nhưng chính quyền địa phương vẫn phải chịu sự chỉ đạo của cấp trên; địa phương vẫn còn lúng túng, thiếu kinh nghiệm trong việc thực hiện nhiệm vụ phân cấp.Vì vậy để tăng cường hiệu quả và hiệu lực trong hoạt động quản lý của UBND tại địa phương thì trong thời gian tời cần tiếp tục đẩy mạnh việc phân cấp quản lý một cách đồng bộ: + Phân cấp quản lý quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội: trên cơ sở quy hoạch tổng thể của cả nước. HĐND và UBND tỉnh quyết định việc xây dựng quy hoach, kế hoạch phát triển kinh tế- xã hội trên địa bàn, được quyền quyết định các dự án đầu tư từ ngân sách địa phương; cấp giấy phép cho các dự án đầu tư nước ngoài phù hợp với trình độ phát triển và khả năng của địa phương đồng thời ban hành các chế độ ưu đãi, cơ chế quản lý cụ thể nhằm thu hút đầu tư trong và ngoài nước. + Về phân cấp quản lý ngân sách: phân định rõ thẩm quyền, trách nhiệm quản lý và sử dụng ngân sách của cấp tỉnh. UBND tỉnh lập dự toán ngân sách, điều chỉnh, phân bổ, quyết toán ngân sách địa phương. Phân cấp quản lý ngân sách cho chính quyền cấp tỉnh chủ động trong việc chi tiêu, cân đối ngân sách cấp mình. Căn cứ nghị quyết của HĐND tỉnh UBND tỉnh quyết định một số chế độ, tiêu chuẩn định mức chi tiêu ngân sách; quyết định một số loại, mức lệ phí tạo nguồn thu cho ngân sách; điều chỉnh lại một số nguồn thu và tăng tỷ lệ các khoản thu phân chia theo tỷ lệ % giữa ngân sách trung ương và địa phương. + Phân cấp quản lý đất đai, tài nguyên: UBND tỉnh lập quy hoạch, quyết định kế hoạch sử dụng đất,…trên cơ sở quy hoach, kế hoạch sử dụng đất đã được chính phủ phê duyệt; quyết định giá đất cụ thể theo khung giá đất do Chính phủ quy định;… + Phân cấp quản lý về tổ chức bộ máy, cán bộ công chức: trên cơ sở quy định của pháp luật, chính quyền tỉnh quyết định việc thành lập, sáp nhập, giải thể các cơ quan chuyên môn thuộc UBND tỉnh; quyết định việc điều chỉnh một số nhiệm vụ cụ thể giữa các sở, ban ngành của cấp tỉnh và cấp huyện; tạo sự chủ động cho UBND tỉnh trong việc tổ chức, tuyển chọn, sử dung, cán bộ, công chức. Chính quyền tỉnh xác định tổng biên chế hành chính tại địa phương, quyết định các chế độ khuyến khích thu hút nhân tài. Việc phân cấp đã tác động tích cực đến hiệu quả hoạt động của bộ máy chính quyền tỉnh đặc biệt UBND tỉnh chịu trách nhiệm chính trong việc triển khai, thực hiện nhiệm vụ qua đây tác động đến phương thức làm việc của các cơ quan hành chính, nâng cao tính tự chủ, sáng tạo đồng thời tạo ra sự đa dạng trong tổ chức và hoạt động phù hợp với các điều kiện của mỗi tỉnh, nâng cao sự quan tâm và tham gia của người dân vào các vần đề của địa phương. Tuy nhiên, để việc phân cấp quản lý nhà nước giữa trung ương và địa phương đạt kết quả cao, phát huy hiệu quả, ngăn ngừa và loại trừ tình trạng cục bộ, tạo động lực cho việc phát triển kinh tế-xã hội tại mỗi địa phương thì cần: + Thực hiện phân cấp quản lý nhà nước phải phù hợp với đặc điểm, khả năng của từng địa phương; loại việc nào cần phân cấp cũng như phạm vi phân cấp. + Phân cấp phải đảm bảo phù hợp giữa nhiệm vu, thẩm quyền và trách nhiệm bởi khi xác định rõ trách nhiệm thì mới nâng cao tinh thần trách nhiệm của mỗi cơ quan, đơn vị; khắc phục tình trạng cơ quan, cán bộ trong bộ máy hành chính lạm dụng quyền lực, vi phạm pháp luật, nhũng nhiễu doanh nghiệp, nhân dân. Đồng thời phải có cơ chế kiểm tra, giám sát. + Bảo đảm quyền và thực hiện đầy đủ trách nhiệm của HĐND, UBND và Chủ tịch UBND cấp tỉnh trong việc quyết định, thực hiện nhiệm vụ được phân cấp. Xác định rõ nhiệm vụ nào là của các bộ, ngành, những nhiệm vụ nào của địa phương. Nhiệm vụ nào đã phân cấp thì các bộ, ngành không được can thiệp vào việc tổ chức, thực hiện cụ thể của địa phương mà chỉ hướng dẫn, kiểm tra, thanh tra. 3.1.6 Nâng cao chất lượng, hiệu quả của đội ngũ cán bộ, công chức. Để vận hành bộ máy hành chính nhà nước ở địa phương nói chung UBND tỉnh nói riêng phải có đội ngũ cán bộ, công chức để thực thi nhiệm vụ, quyền hạn trong từng lĩnh vực, đây chính là những người trực tiếp hang ngày tiếp xúc với người dân. Bởi vậy hiệu quả hiệu quả hoạt động của bộ máy phụ thuộc rất nhiều vào việc lựa chọn cán bộ, công chức. Một trong những điều quan trọng đối với những người làm việc trong các cơ quan hành chính là sự hiểu biết công việc và thông thạo nghiệp vụ vì thế Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định “ cán bộ là cái gốc của mọi công việc” “muốn việc thành công hay thất bại đều do cán bộ tốt hoặc kém”. Để UBND tỉnh hoạt động có hiệu quả thì đồng nghĩa với việc phải nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức nhất là trong giai đoạn đất nước ta đang thực hiện phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa và trước yêu cầu của công cuộc cải cách hành chính. + Cần hoàn thiện các văn bản pháp luật về cán bộ, công chức. Pháp lệnh cán bộ, công chức sau một thời gian ra đời đã tạo cơ sở pháp lý cho việc sử dụng, quản lý cán bô, công chức. Trước yêu cầu mới, Luật cán bộ, công chức đã được ban hành; tuy nhiên cần tiếp tục hoàn thiện các văn bản pháp luật quy định trách nhiệm của những người làm trong cơ quan hành chính nhà nước khi làm sai công vụ. + Mỗi tỉnh nên tiến hành điều tra, đánh giá lại chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức trên cơ sở đó có thể nắm bắt được trình độ, khả năng làm việc để xây dựng kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng đồng thời đổi mới công tác đào tạo, bồi dưỡng cả về nội dung và phương thức cho phù hợp với tình hình mới; kết hợp nhiều hình thức đào tạo chính quy với đào tạo không chính quy, tạo điều kiện để cán bộ, công chức tự năng cao trình độ chuyên môn. + Xác định cơ cấu cán bộ, công chức hợp lý gắn với chức năng, nhiệm vụ trong các cơ quan hành chính. Thực hiện việc đổi mới cơ cấu, tổ chức thông qua việc luân chuyển, điều động tạo điều kiện cho cán bộ, công chức làm việc có hiệu quả hơn. Xem xét bổ nhiệm những người có năng lực, kinh nghiệm làm việc và phẩm chất đạo đức vào những vị trí quan trọng; thực hiện quy hoạch cán bộ để tạo nguồn nhằm tạo sự chủ động, tránh tình trạng bị động, hụt hẫng. Việc quy hoạch cán bộ phải được thực hiện một cách nghiêm túc, đảm bảo đánh giá cán bộ khách quan, toàn diện đồng thời cần mở rộng dân chủ để phát hiện nguồn, khắc phục tình trạng cục bộ, khép kín. Công tác quy hoạch cán bộ phải gắn với việc đào tạo, bố trí, sử dụng cán bộ; việc luân chuyển cán bộ cần thực hiện một cách linh hoạt để cán bộ được trưởng thành tốt hơn trong thực tiễn. + Xây dựng tiêu chuẩn cán bộ cho từng chức danh trên cở sở phương hướng, nhiệm vụ chính trị của mỗi địa phương. Thực hiện cơ cấu lại biên chế đội ngũ cán bộ, công chức theo mục tiêu đổi mới về chất để thay thế mạnh những người thấp kém về năng lực, phẩm chất, không đáp ứng được yêu cầu thực thi công vụ với chất lượng cao của nền hành chính hiện đại. + Tăng cường việc thanh tra, kiểm tra, giám sát hoạt động của đội ngũ cán bộ, công chức, kịp thời phát hiện và xử lý những trường hợp có biểu hiện tiêu cực, tham nhũng. Xây dựng quy chế làm việc gắn với việc thực hiện quy chế dân chủ trong các cơ quan hành chính nhà nước, thực hiện công khai hóa công vụ đặc biệt là trong các công việc có quan hệ trực tiếp với công dân. Nâng cao ý thức trách nhiệm, phẩm chất chính trị của đội ngũ cán bộ, công chức, thực hiện khen thưởng, kỷ luật thích đáng. + Tùy thuộc vào khả năng của mỗi tỉnh mà có những quy định cụ thể về chế độ đãi ngộ đối với cán bộ, công chức, thu hút nhân tài phù hợp với điều kiện ngân sách. Chính phủ cần thực hiện cải cách tiền lương, nâng mức lương tối thiểu, điều chỉnh tiền lương tương ứng với nhịp độ tăng thu nhập trong xã hội, áp dụng các chế độ khuyến khích ngoài lương. Điều quan trọng trong các yếu tố tạo động lực hiện nay là phải có chính sách tiền lương và các chế độ đối xử đối với cán bộ, công chức hành chính nhà nước được thoả đáng, yên tâm làm việc trong thực thi công vụ, không nhận hối lộ, không muốn hối lộ, chú trọng góp sức làm tăng trưởng kinh tế; qua đó sẽ trở thành yếu tố thu hút được nhiều những người tài năng thực sự. + Đổi mới phương thức làm việc của đội ngũ cán bộ, công chức, tăng cường áp dụng công nghệ thông tin trong công việc. Xây dựng quy chế phân cấp quản lý và tổ chức biên chế cán bộ, công chức trong bộ máy hành chính nhà nước; quy chế thi tuyển phải được thực hiện một cách công khai. Chúng ta có thể học tập kinh nghiệm xây dựng và sử dụng đội ngũ quan lại trong xã hội phong kiến Việt Nam trước đây. Việc tuyển chọn quan lại được dựa trên hai tiêu chuẩn nhất quán là đức và tài; việc đào tạo, tuyển chọn được thực hiện chủ yếu thông qua khoa cử; thực hiện điều chuyển quan lại nhằm phát huy năng lực của quan lại thông qua việc điều chuyển sang vị trí thích hợp hơn và tránh trường hợp quan lại lợi dụng thời gian trị nhiệm lâu tại một địa phương hoặc một vị trí nào đó có thể tạo thế lực lớn. Việc tuyển chọn, sử dụng quan lại dưới triều Lê Thánh Tông (1460-1497) là một ví dụ, thời kỳ này không có hiện tượng người được tuyển bổ làm quan mà không có trình độ học vấn tương xứng. Theo đó về thi cử gồm: thi hương, thi hội, thi đình. Ai thi đỗ ở kỳ thi nào thì được Bộ Lại xem xét và tiến hành tuyển bổ làm quan tương xứng. Bên cạnh đó Lê Thánh Tông còn lập ra các cơ quan kiểm tra, giám sát quan lại; đặt ra lệ khảo thi và khảo khóa.[ 27, tr 12] 3.1.7 Tăng cường cơ sở vật chất-kỹ thuật phục vụ hoạt động của UBND tỉnh. Để nâng cao hiệu quả hoạt động của bộ máy hành chính nhà nước nói chung và Uỷ ban nhân dân tỉnh nói riêng bên cạnh việc thực hiện các giải pháp đã nêu thì cần phải hiện đại hóa, tăng cường nâng cấp cơ sở vật chất phục vụ cho hoạt động của UBND, đưa nhanh việc áp dụng công nghệ thông tin vào quản lý hành chính, áp dụng các công cụ phương pháp quản lý tiên tiến, hiện đại trong các cơ quan hành chính nhà nước giảm các thủ tục phiền hà, thời gian cho người dân và doanh nghiệp đáp ứng yêu cầu quản lý nhà nước trong điều kiện hội nhập. Trong những năm qua UBND các cấp đã tích cực triển khai thực hiện đề án Tin học hóa quản lý hành chính nhà nước bước đầu đã có hiệu quả nhất là trong một số lĩnh vực như giấy phép đầu tư, thủ tục hải quan,…nhưng hiệu quả đạt được chưa cao vì vậy cần tiếp tục thực hiện. Bên cạnh đó, cần tiếp tục đẩy mạnh cải cách hành chính theo chương trình cải cách hành chính mà Chính phủ đã đề ra, thực hiện mở rộng việc áp dụng một số cơ chế, chính sách mới đối với một số lĩnh vực đang làm như áp dụng chế độ tự chủ toàn diện, tự chịu trách nhiệm của các đơn vị sự nghiệp dich vụ công trên cơ sở có một cuộc cải cách các tổ chức sự nghiệp dịch vụ công; cơ chế khoán biên chế và kinh phí hoạt động thường xuyên cho cơ quan hành chính nhà nước. Mặt khác chú trọng phát huy nhiều sáng kiến, thí điểm mới trong cải cách hành chính nhà nước. KẾT LUẬN Qua hơn hai mươi năm thực hiện đổi mới toàn diện đất nước, Việt Nam đang có những thay đổi rõ rệt từ kinh tế, chính trị đến xã hội. Đất nước đang ngày càng hội nhập sâu rộng, đang chuyển dần sang nền kinh tê thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa,…vì thế trong những năm qua bộ máy nhà nước cũng có những thay đổi phù hợp với tình hình mới trong đó có Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh. UBND cấp tỉnh là cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương có vai trò quan trọng trong bộ máy nhà nước. Tổ chức và hoạt động của UBND cấp tỉnh đang từng bước được hoàn thiện góp phần không nhỏ cho sự ổn định và phát triển của đất nước trên các lĩnh vực của đời sống xã hội. Bên cạnh những thành tựu đã đạt được, tổ chức và hoạt động của UBND cấp tỉnh vẫn còn nhiều hạn chế: tổ chức bộ máy còn cồng kềnh, vẫn chồng chéo về chức năng, nhiệm vụ; đội ngũ cán bộ, công chức còn chưa đáp ứng được yêu cầu, cơ sở vật chất phục vụ cho hoạt động quản lý còn lạc hậu,…đã làm giảm hiệu quả hoạt động của UBND tỉnh. Vì thế đổi mới tổ chức và hoạt động của UBND cấp tỉnh là một trong những nhiệm vụ quan trọng trong công cuộc cải cách hành chính hiện nay Hoàn thiện về tổ chức và hoạt động của Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh là một quá trình lâu dài, liên tục và phức tạp phải đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng, những nguyên tắc trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước, phù hợp với những đòi hỏi của thực tiễn. Và cần phải thực hiện tốt và đồng bộ các giải pháp: 1. Hoàn thiện văn bản pháp luật về tổ chức và hoạt động của UBND cấp tỉnh. 2. Đổi mới tổ chức UBND cấp tỉnh 3. Nâng cao hiệu quả phiên họp của UBND cấp tỉnh. 4. Nâng cao hiệu quả hoạt động của Chủ tịch và các thành viên khác của Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh. 5. Thực hiện phân cấp quản lý giữa trung ương với địa phương. 6. Nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của đội ngũ cán bộ, công chức. 7. Tăng cường cơ sở vật chất-kỹ thuật phục vụ hoạt động của UBND tỉnh. Qua việc nghiên cứu tổ chức và hoạt của Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh theo pháp luật hiện hành có thể thấy việc đổi mới tổ chức và hoạt động của của UBND cấp tỉnh là rất cần thiết góp phần quan trọng hoàn thiện bộ máy nhà nước Cộng hòa xá hội chủ nghĩa Việt Nam. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng lần thứ VI – Báo điện tử Đảng cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng lần thứ VII – Báo điện tử Đảng cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng lần thứ VIII – Báo điện tử Đảng cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng lần thứ IX – Báo điện tử Đảng cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng lần thứ X – Báo điện tử Đảng cộng sản Việt Nam. Hiến pháp Việt Nam qua các năm ( năm 1946, 1959, 1980, 1992, và Hiến pháp 1992 sửa đổi)- Nxb Chính trị Quốc gia. Giáo trình Luật Hiến pháp - Trường Đại học Luật Hà Nội. Nxb Công an nhân dân năm 2008. Giáo trình Luật Hành chính - Trường Đại học Luật Hà Nội. Nxb Công an nhân dân năm 2008. Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân qua các năm 1983, năm 1989, năm 1994, năm 2003. Nghị định 107/2004/NĐ-CP ngày 01/04/2004 quy định về số lượng Phó chủ tịch và cơ cấu các thành viên UBND các cấp. Nghị định 82/2008/NĐ-CP ngày 30/07/2008 sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định 107/2004/NĐ-CP ngày 01/04/2004 quy định về số lượng Phó chủ tịch và cơ cấu các thành viên UBND các cấp. Nghị định 171/2004/NĐ-CP ngày 29/09/2004 quy định tổ chức các cơ quan chuyên môn thuộc UBND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương. Nghị định 13/2008/NĐ-CP ngày 04/02/2008 quy định tổ chức các cơ quan chuyên môn thuộc UBND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương. ThS Nguyễn Phước Thọ, “ Điều chỉnh cơ cấu tổ chức bộ máy các cơ quan của Chính phủ, Uỷ ban nhân dân các cấp”, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp số 3/2006. Nguyễn Đăng Dung, “ Bàn về cải cách chính quyền nhà nước ở địa phương” Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp số 9/2003. PGS. TS Bùi Xuân Đức, “ Mô hình tổ chức chính quyền cấp tỉnh trong lịch sử và phương hướng đổi mới”, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp số 3/2006. TS Vũ Thị Nhài, “ Bàn về các giải pháp nâng cao hiệu lực, hiệu quả của tổ chức bộ máy hành chính nhà nước”, Tạp chí Tổ chức Nhà nước số 4/2008. TS Hà Quang Ngọc, “ Đổi mới tổ chức và hoạt động của bộ máy chính quyền địa phương cấp tỉnh, huyện đáp ứng yêu cầu của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ”, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật số 1/2007. Nguyễn Quang Ngọc, “ Một số vấn đề rút ra qua việc kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật trong công tác tổ chức nhà nước tại một số tỉnh phía Nam”, Tạp chí Tổ chức Nhà nước số 11/2007. TS Nguyễn Thị Việt Hương, “ Kinh nghiệm xây dựng và sử dụng đội ngũ quan lại trong nền hành chính Việt Nam thời kì phong kiến”, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật số 11/2008. Đoàn Trọng Truyến, Cải cách hành chình và công cuộc xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam –Nxb Tư pháp năm 2006. TS Bùi Thị Nguyệt, “ Đổi mới tổ chức và hoạt động của UBND qua kinh nghiệm của UBND tỉnh Nam Định” , năm 2002. PGS, TS Bùi Xuân Đức, “ Đổi mới, hoàn thiện bộ máy nhà nước trong giai đoạn hiện nay” – Nxb Tư pháp năm 2004. ThS Nguyễn Thị Thu Hà, “ Nâng cao hiệu quả quyết định quản lý hành chính của Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh”, Tạp chí Tổ chức Nhà nước số 5/2007. ThS Nguyễn Hồng Diên, “ Giảỉ pháp đổi mới tổ chức và hoạt động của chính quyền tỉnh đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam”, Tạp chí quản lý Nhà nước số 156/2009. TS Văn Tất Thu, “ Thực trạng và nguyên nhân của việc chia tách đơn vị hành chính ở Việt Nam trong thời gian qua”, Tạp chí Tổ chức Nhà nước số 3/2007. ThS Bùi Huy Khiên, “ Tuyển chọn, kiểm tra, giám sát công chức dưới triều Lê Thánh Tông”, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật số 3/2004. 28. Longan.gov.vn/chinhquyen/thanhtra 29. Thuathienhue.gov.vn 30. Các trang Web: Chinhphu.vn Đangcongsanvietnam.vn LỜI CẢM ƠN Lời đầu tiên, em xin chân thành cảm ơn thầy giáo Dương Trọng Hòe đã tận tình hướng dẫn em trong quá trình hoàn thành khóa luận tốt nghiệp. Em cũng xin chân thành cảm ơn các thầy, cô giáo trường Đại học Luật Hà Nội nói chung và các thầy cô trong tổ bộ môn Hiến pháp nói riêng đã truyền đạt kiến thức và giúp đỡ em trong quá trình học tập tại trường Đại học Luật Hà Nội. Và em xin được cảm ơn cán bộ thư viện đã tạo điều kiện thuận lợi cho em trong việc tìm kiếm tài liệu. Đặc biệt là gia đình và bạn bè – những người đã động viên và giúp đỡ em hoàn thành khóa luận này. Hà Nội, ngày 24 tháng 4 năm 2010 Sinh viên Bùi Thị Hường BẢNG TỪ VIẾT TẮT Chữ viết tắt Chữ viết đầy đủ BMNN Bộ máy nhà nước UBND Uỷ ban nhân dân UBHC Uỷ ban hành chính HĐND Hội đồng nhân dân XHCN QPPL Xã hội chủ nghĩa Quy phạm pháp luật MỤC LỤC Trang LỜI MỞ ĐẦU Chương I. Uỷ ban nhân dân trong cơ cấu, tổ chức bộ máy nhà nước ở nước ta. 1.1.Vị trí, tính chất, chức năng của Uỷ ban nhân dân. 1.2. Khái quát quá trình hình thành và phát triển của Uỷ ban nhân dân trong lịch sử lập hiến Việt Nam 1.2.1. Uỷ ban nhân dân theo Hiến pháp 1946 1.2.2. Uỷ ban nhân dân theo Hiến pháp 1959 1.2.3. Uỷ ban nhân dân theo Hiến pháp 1980 1.2.4. Uỷ ban nhân dân theo Hiến pháp 1992 đến nay Chương II. Thực trạng về tổ chức và hoạt động của Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh theo pháp luật hiện hành. 2.1. Thực trạng về tổ chức của Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh. 2.1.1. Cơ cấu tổ chức của Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh. 2.1.2. Các cơ quan chuyên môn thuộc Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh. 2.2. Thực trạng về hoạt động của Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh. 2.2.1. Phiên họp của Uỷ ban nhân dân. 2.2.2. Hoạt động của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân. 2.2.3. Hoạt động của các phó chủ tịch, các thành viên khác của Uỷ ban nhân dân, thủ trưởng các cơ quan chuyên môn thuộc Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh . Chương III. Giải pháp hoàn thiện về tổ chức và hoạt động của Uỷ ban nhân cấp tỉnh. 3.1. Giải pháp hoàn thiện tổ chức và hoạt động của Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh. 3.1.1. Hoàn thiện văn bản pháp luật về tổ chức và hoạt động của Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh. 3.1.2. Đổi mới tổ chức Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh. 3.1.3. Nâng cao hiệu quả phiên họp của Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh. 3.1.4. Nâng cao hiệu quả hoạt động của Chủ tịch và các thành viên khác của Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh. 3.1.5. Thực hiện phân cấp quản lý giữa trung ương với địa phương. 3.1.6. Nâng cao chất lượng, hiệu quả của đội ngũ cán bộ, công chức. 3.1.7. Tăng cường cơ sở vật chất-kỹ thuật phục vụ hoạt động của Uỷ ban nhân dân tỉnh. KẾT LUẬN DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 1 3 3 8 8 10 11 13 15 15 15 20 24 24 29 31 37 37 37 39 42 44 45 48 51 53 55

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docTổ chức và hoạt động của Uỷ ban nhân dân tỉnh theo pháp luật hiện hành.doc