Tổ chức xã hội và vai trò của tổ chức xã hội trong lĩnh vực tuyên truyền pháp luật

PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài. Tuyên truyền pháp luật, nâng cao hiểu biết, ý thức pháp luật cho nhân dân, từng bước xây dựng ý thức sống và làm việc theo pháp luật là một trong những đòi hỏi cấp thiết của công cuộc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, là tiền đề quan trọng trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, đặc biệt là trong bối cảnh hiện nay, khi Việt Nam đang từng bước hội nhập với thế giới về mọi mặt kinh tế, văn hóa, xã hội Đối với các TCXH, tuyên truyền pháp luật là một trong những nội dung quan trọng trong hoạt động của các tổ chức này. Là những tổ chức được hình thành trên cơ sở tự nguyện, thu hút đông đảo nhân dân tham gia nên TCXH có điều kiện thuận lợi để thực hiện việc tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật cho hội viên và quần chúng nhân dân, góp phần quan trọng trong việc nâng cao hiểu biết pháp luật cho các đối tượng này. Trong thời gian qua, với các quy định về hoạt động tuyên truyền pháp luật của TCXH, hoạt động này đã đạt được những kết quả nhất định, tuy nhiên bên cạnh đó còn những hạn chế cần khắc phục để phát huy hơn nữa vai trò của TCXH trong lĩnh vực tuyên truyền pháp luật. Để tìm hiểu về TCXH và vai trò của TCXH trong lĩnh vực tuyên truyền pháp luật, tác giả đã chọn đề tài này để nghiên cứu làm khóa luận. 2. Mục đích nghiên cứu. - Tìm hiểu các quy định về hoạt động tuyên truyền pháp luật của TCXH trong các văn bản có liên quan. - Tìm hiểu thực trạng hoạt động tuyên truyền pháp luật của các TCXH trên địa bàn một số địa phương, qua đó rút ra những kinh nghiệm trong thực hiện hoạt động này. 3. Đối tượng nghiên cứu. - Các quy phạm pháp luật về quyền, trách nhiệm, nghĩa vụ của TCXH trong lĩnh vực tuyên truyền pháp luật trong các văn bản pháp luật có liên quan. - Kết quả đạt được từ việc áp dụng các quy định về tuyên truyền pháp luật của TCXH trên thực tế. 4. Phạm vi nghiên cứu. - Các quy định pháp luật về hoạt động tuyên truyền pháp luật của TCXH trong các văn bản Luật như Luật Mặt trận tổ quốc, Luật Công đoàn ,và các văn bản hướng dẫn thi hành có liên quan - Các văn bản pháp luật về các chương trình tuyên truyền pháp luật có sự tham gia của TCXH. 5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn. Khóa luận tập trung nghiên cứu các vấn đề chung về TCXH và những quy định hiện hành về quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm của TCXH trong hoạt động tuyên truyền pháp luật được quy định tại Luật Mặt trận tổ quốc, Luật Công đoàn và các văn bản khác có liên quan đến chương trình tuyên truyền pháp luật có sự tham gia của các TCXH. Khóa luận đã đi sâu vào nghiên cứu vai trò của mỗi TCXH trong lĩnh vực tuyên truyền pháp luật tại các địa bàn trên phạm vi cả nước, qua đó rút ra những biện pháp, hình thức tuyên truyền pháp luật có hiệu quả của mỗi loại hình TCXH. Đây là đề tài nghiên cứu mới không chỉ giúp cho việc hiểu thêm về thực trạng hoạt động tuyên truyền pháp luật của TCXH mà tác giả còn mong đóng góp công sức trong việc nâng cao hơn nữa vai trò của TCXH trong lĩnh vực tuyên tuyền pháp luật bằng việc chỉ ra những hạn chế trong hoạt động này và đưa ra những giải pháp để khắc phục. 6. Cấu trúc của khóa luận. Khóa luận được chia thành 3 phần lớn: Chương I: Một số vấn đề chung về TCXH. Chương II: Thực trạng quy định pháp luật về hoạt động tuyên truyền pháp luật của TCXH và hoạt động tuyên truyền pháp luật của TCXH. Chương III: Những giải pháp nâng cao vai trò của TCXH trong lĩnh vực tuyên truyền pháp luật trong giai đoạn hiện nay. MỤC LỤC PHẦN MỞ ĐẦU 2 CHƯƠNG I : MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TCXH 5 1.1 KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM CỦA TCXH. 5 1.1.1 Khái niệm 5 1.1.2 Đặc điểm của TCXH 9 1.2 PHÂN LOẠI TCXH. 13 1.3 VỊ TRÍ, VAI TRÒ CỦA TCXH TRONG HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ. 16 CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT QUY ĐỊNH VỀ HOẠT ĐỘNG TUYÊN TRUYỀN PHÁP LUẬT CỦA TCXH VÀ HOẠT ĐỘNG TUYÊN TRUYỀN PHÁP LUẬT CỦA TCXH. 21 2.1 THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT QUY ĐỊNH VỀ HOẠT ĐỘNG TUYÊN TRUYỀN PHÁP LUẬT CỦA TCXH. 21 2.2 THỰC TRẠNG TUYÊN TRUYỀN PHÁP LUẬT CỦA TCXH. 28 2.2.1 hoạt động tuyên truyền pháp luật của Đảng cộng sản Việt Nam 28 2.2.2 hoạt động tuyên truyền pháp luật của tổ chức chính trị - xã hội. 30 2.2.3 Hoạt động tuyên truyền pháp luật của tổ chức xã hội - nghề nghiệp. 41 2.2.4 Hoạt động tuyên truyền pháp luật của các TCXH khác. 42 2.3 Hạn chế trong hoạt động tuyên truyền pháp luật của TCXH 44 2.3.1 Hạn chế trong các quy định pháp luật. 44 2.3.2 Hạn chế trong công tác tuyên truyền pháp luật của các TCXH. 45 2.4. Nguyên nhân. 46 2.4.1 Nguyên nhân của những kết quả đạt được trong công tác tuyên truyền pháp luật. 46 2.4.2 Nguyên nhân của những hạn chế trong công tác tuyên truyền pháp luật. 48 CHƯƠNG III: NHỮNG GIẢI PHÁP NÂNG CAO VAI TRÒ CỦA TCXH TRONG LĨNH VỰC TUYÊN TRUYỀN PHÁP LUẬT TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY. 50 3.1 Hoàn thiện các quy định pháp luật về hoạt động tuyên truyền pháp luật của TCXH. 50 3.2 Tăng cường mối quan hệ giữa TCXH và cơ quan nhà nước trong công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật. 51 3.3 TCXH xây dựng chương trình tuyên truyền pháp luật phù hợp với điều kiện mới. 53 KẾT LUẬN 58 Qua nghiên cứu đề tài “Tổ chức xã hội và vai trò của tổ chức xã hội trong lĩnh vực tuyên truyền pháp luật”, việc nghiên cứu thực trạng hoạt động tuyên truyền pháp luật của tổ chức xã hội trong thời gian qua, phân tích và đánh giá thực trạng đề tài này đã đạt được những kết quả nhất định. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 59

doc62 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 3047 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tổ chức xã hội và vai trò của tổ chức xã hội trong lĩnh vực tuyên truyền pháp luật, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nhân dân phát huy quyền làm chủ, thực hiện chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, nghiêm chỉnh thi hành hiến pháp và pháp luật. MTTQVN thực hiện việc tuyên truyền pháp luật tới quần chúng nhân dân trước hết là thông qua công tác hòa giải ở cơ sở, đây là một trong những nhiệm vụ của MTTQ các cấp trong việc tuyên truyền pháp luật được quy định tại Điều 7 Luật Mặt trận tổ quốc. Bên cạnh đó với tính chất là tổ chức gần gũi, có tầm ảnh hưởng sâu rộng và chi phối nhiều mặt của đời sống cộng đồng dân cư, quy tụ một lực lượng rất lớn các thành phần xã hội tham gia, do vậy MTTQ có lợi thế rất lớn khi tham gia công tác hòa giải ở cơ sở. Thông qua hoạt động này, MTTQ đã góp phần to lớn vào việc nâng cao hiểu biết, ý thức pháp luật về đất đai, hôn nhân gia đình, hình sự, dân sự cho nhân dân lao động, không những thế còn góp phần phát huy quyền làm chủ của nhân dân lao động, ngăn chặn hành vi vi phạm pháp luật, bảo vệ an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội. Trên cơ sở chức năng, nhiệm vụ của mình, MTTQ các cấp đã phối hợp chặt chẽ với chính quyền và các tổ chức thành viên để tuyên truyền pháp luật rộng rãi trong thành viên, hội viên và nhân dân những chủ trương, chính sách, đường lối của Đảng và pháp luật của nhà nước với nhiều hình thức đa dạng, phong phú. Quan tâm phát huy vai trò của già làng, trưởng bản, người có uy tín trong cộng đồng dân cư, nhằm thông qua lực lượng này tuyên truyền, phổ biến việc thực hiện pháp luật đến các tầng lớp nhân dân. MTTQ các cấp đã tích cực, chủ động phối hợp với các cấp ủy, chính quyền và các tổ chức thành viên để thực hiện các nội dung của chương trình tuyên truyền pháp luật, trong đó chú trọng tới việc lồng ghép nội dung các phong trào, các cuộc vận động của MTTQ vào các nội dung tuyên truyền pháp luật. Từ năm 1995 đến nay, Ủy ban Trung ương MTTQVN phát động phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư”, một trong những nội dung quan trọng của phong trào là xây dựng gia đình văn hóa, làng xã văn hóa, chấp hành tốt các chính sách của Đảng, kế hoạch của nhà nước. Qua 14 năm triển khai, cuộc vận động đã mang lại những hiệu qủa thiết thực trên nhiều mặt của cuộc sống nhân dân ở cơ sở, thu hút sự tham gia tích cực của các tầng lớp nhân dân, cuộc vận động có quy mô toàn quốc, mang tính toàn dân, toàn diện, được nhân dân tự nguyện tham gia. Thông qua cuộc vận động nhằm nâng cao nhận thức của các tầng lớp nhân dân về chủ trương của Đảng, pháp luật của nhà nước. Đến nay đã đạt gần 100% số khu dân cư tham gia và hưởng ứng thực hiện, cuộc vận động đã phát triển bền vững, xuyên suốt qua gần 3 nhiệm kỳ đại hội của Mặt trận và đạt được kết quả trên nhiều mặt, trong đó có công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật, qua đó góp phần thúc đẩy sự phát triển của từng khu dân cư trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hóa đất nước. Đặc biệt trong thời gian qua, MTTQVN đã triển khai thực hiện đề án “xây dựng và đẩy mạnh công tác tuyên truyền, vận động chấp hành pháp luật trong cộng đồng dân cư”. Ban điều hành đề án gồm đại diện các cơ quan: Ủy ban Trung ương MTTQVN, Trung ương Hội Nông Dân Việt Nam, Trung ương Đoàn TNCSHCM, Trung ương Hội LHPNVN, Trung ương Hội CCBVN, Bộ Tư pháp, Bộ Tài chính. Ngay từ đầu năm 2008, đại diện ban điều hành đề án đã có kế hoạch làm việc với lãnh đạo báo Đại Đoàn Kết, Đài truyền hình Việt Nam, Tạp chí Mặt trận về một số nội dung tuyên truyền của đề án, chỉ tính riêng trong năm 2008 Tạp chí Mặt trận đã tuyên truyền đến bạn đọc cả nước 30 bài, 30 tin và các văn bản chỉ đạo thực hiện công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật; các đơn vị khác như Đài truyền hình Việt Nam, báo Đại Đoàn Kết đã xây dựng được một số phóng sự, bài viết về thực trạng công tác tuyên truyền, vận động nhân dân chấp hành pháp luật tại một số khu dân cư trong toàn quốc. Ban điều hành đề án còn phối hợp với Vụ pháp chế của Bộ Tư Pháp biên soạn nội dung 3 cuốn sách: Hỏi đáp pháp luật về xây dựng và nhà ở cung cấp cho người dân vùng đô thị; Hỏi đáp pháp luật về thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn và hòa giải ở cơ sở; Hỏi đáp pháp luật về bảo vệ và phát triển rừng. Đề án đã chọn 12 tỉnh, thành phố là: Điện Biên, Thanh Hóa, Hải Dương, Phú Thọ, Hà Nội, Đắc Lắc, Vĩnh Long, Lâm Đồng, Quảng Nam, Trà Vinh, Bà Rịa - Vũng Tàu, Quảng Bình và các thành viên là Hội CCBVN, Hội NDVN, Hội LHPNVN, Đoàn TNCSHCM được chọn làm điểm, gắn trách nhiệm xây dựng mô hình để làm cơ sở cho việc triển khai trên diện rộng. Tính đến năm 2008 trên toàn quốc đã có 52 tỉnh, thành phố phê duyệt kế hoạch thực hiện đề án từ 2006 đến 2010. Với trọng tâm của đề án là hướng về cộng đồng dân cư, đến từng gia đình và đến từng người dân, đề án đã quan tâm gắn các nội dung tuyên truyền, vận động chấp hành pháp luật với thực hiện cuộc vận động “toàn dân xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư”, thông qua đó nhằm tạo sự chuyển biến trong nhận thức và ý thức chấp hành pháp luật trong nhân dân. Ở tất cả các xã, phường được chọn làm điểm đều xây dựng các “nhóm nòng cốt” có từ 5 đến 7 thành viên . Ủy ban MTTQ các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương triển khai thực hiện đề án, bước đầu đã đạt được những kết quả nhất định: Tại tỉnh Điện Biên: Đây là một trong 12 tỉnh được chọn triển khai xây dựng mô hình điểm của trung ương. Ban thường trực Ủy ban MTTQ tỉnh đã chọn 3 xã làm điểm là xã Xá Tổng của huyện Mường Chà, xã Thanh Minh thuộc Thành phố Điện Biên Phủ, xã Ẳng Nưa thuộc huyện Tuần Giáo, ở mỗi xã điểm lại chọn ra một bản làm điểm: xã Xá Tổng chọn bản Sa Ninh, xã Thanh Minh chọn bản Púng Tôm, xã Ẳng Nưa chọn bản Bó Mạy. Tại các địa phương này, Ban thường trực Ủy ban MTTQ tỉnh đã biên soạn tài liệu phục vụ tập huấn, tuyên truyền một số nội dung cơ bản của 9 Luật liên quan trực tiếp đến đời sống hàng ngày của nhân dân như Luật Hôn nhân và Gia đình, Bộ luật Dân sự, Bộ luật Hình sự, Luật Đất đai, Quy chế thực hiện dân chủ ở cơ sở…Tại 3 xã điểm đã tổ chức được 30 nhóm nòng cốt với 242 thành viên, trong đó xã Sá Tổng có 10 nhóm, xã Thanh Minh có 9 nhóm, xã Ẳng Nưa có 11 nhóm, đồng thời đã tổ chức cho 100% các hộ gia đình ký cam kết gia đình không có người vi phạm pháp luật. Bên cạnh đó, ở các địa phương này cũng xây dựng “Câu lạc bộ Mặt Trận Tổ Quốc với pháp luật” sinh hoạt định kỳ mỗi tháng một lần theo các chuyên đề pháp luật, đây là mô hình mới theo sáng kiến của Ban thường trực Ủy ban MTTQ tỉnh. Tại tỉnh Thanh Hóa: Ủy ban MTTQ và ban điều hành chọn 3 xã: xã Nam Xuân của huyện Quan Hóa, xã Nga Thủy của huyện Nga Sơn, xã Hà Lĩnh của huyện Hà Trung làm 3 điểm đại diện cho 3 vùng của tỉnh Thanh Hóa. Các khu dân cư được chọn đã tổ chức các hình thức tuyên truyền như họp chi ủy, chi bộ, họp ban công tác Mặt trận, tổ chức họp nhân dân đồng thời thành lập 7 nhóm nòng cốt, 7 câu lạc bộ pháp luật, củng cố các tổ liên gia tự quản, tổ hòa giải… Đến năm 2008 ở 3 xã điểm có 26 nhóm nòng cốt, 26 tổ hòa giải, 26 câu lạc bộ pháp luật với 182 thành viên và đã đi vào hoạt động thiết thực để tuyên truyền vận động và giám sát việc chấp hành pháp luật trong cộng đồng dân cư. Cũng trong năm 2008 đã tập trung tuyên truyền Luật bầu cử đại biểu Quốc hội, Luật khiếu nại tố cáo, Luật an toàn giao thông…thu hút hơn 60.000 lượt người tham gia. Hoạt động tuyên truyền pháp luật của Công đoàn. Công đoàn Việt Nam là tổ chức chính trị - xã hội rộng lớn của giai cấp công nhân, đội ngũ trí thức và những người lao động tự nguyện lập ra nhằm mục đích tập hợp, đoàn kết lực lượng, xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam lớn mạnh về mọi mặt; đại diện và bảo vệ các quyền, lợi ích hợp pháp của người lao động. Hiện nay nước ta có hơn 10 triệu công nhân lao động làm việc tại các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế, chưa kể tới bộ phận cán bộ, công chức, viên chức làm việc trong các cơ quan nhà nước, lực lượng vũ trang cũng là thành viên của tổ chức Công Đoàn, với số lượng thành viên đông đảo như vậy nên hoạt động tuyên truyền phổ biến pháp luật của Công đoàn là rất cần thiết, có ý nghĩa quan trọng trong việc nâng cao hiểu biết, ý thức pháp luật của người lao động. Hiện nay hiểu biết của nhân dân về luật pháp còn rất hạn chế, ngay cả đối với cán bộ, công chức và người lao động thì sự hiểu biết cũng chưa đầy đủ. Có những văn bản pháp luật được ban hành từ lâu và tác dụng thiết thực đối với cuộc sống của công nhân, viên chức, người lao động như Bộ luật Lao động, Luật bảo hiểm xã hội, Luật giáo dục…nhưng vẫn chưa được người lao động hiểu một cách đầy đủ, có nhiều trường hợp vi phạm pháp luật mà chủ thể không hề hay biết. Trong khi đó, các khu công nghiệp, khu chế xuất ở nước ta xuất hiện ngày càng nhiều, thu hút một lực lượng lao động lớn vào làm việc, tuy nhiên phần lớn công nhân làm việc tại các khu công nghiệp, khu chế xuất là người ngoại tỉnh, xuất thân từ nông thôn, tại các khu công nghiệp ở Hà Nội số công nhân ngoại tỉnh là 50%, còn ở Thành phố Hồ Chí Minh, Bình Dương, Đồng Nai lên đến 70%, do đó hiểu biết pháp luật còn hạn chế, Thực tế đó đặt ra cho Công Đoàn các cấp, các ngành trong việc thực hiện chức năng bảo vệ lợi ích hợp pháp, chính đáng của người lao động là phải làm tốt công tác tuyên truyền giáo dục pháp luật đến với người lao động, nghĩa là phải làm cho công nhân, viên chức lao động hiểu và có ý thức chấp hành nghiêm chỉnh các quy định phạm pháp luật hiện hành, đồng thời cũng biết dùng luật pháp để bảo vệ chính mình. Một trong những hình thức tuyên truyền pháp luật cho công nhân có hiệu quả đang được áp dụng và nhân rộng là xây dựng các tổ tự quản, đây là hình thức tổ chức xã hội tự nguyện được lập ra trong công nhân lao động tại khu nhà trọ, khu công nghiệp, được hình thành sớm nhất tại Thành phố Hồ Chí Minh, hiện đang được triển khai nhân rộng và bước đầu hoạt động có hiệu quả ở Đồng Nai và Bình Dương. Hiện nay ở Thành Phố Hồ Chí Minh đã xây dựng được gần 700 tổ tự quản bên cạnh các khu công nghiệp tại địa bàn các quận 7, quận 9, quận 12, quận Củ Chi, Thủ Đức, Bình Tân, Bình Chánh, Hóc Môn, Gò Vấp…Thông qua các tổ tự quản này, các cấp Công đoàn đã phối hợp tích cực với các ngành chức năng tổ chức các hoạt động tuyên truyền pháp luật sâu rộng trong công nhân lao động những văn bản pháp luật liên quan trực tiếp đến đời sống của người lao động như: Bộ luật Lao động, Luật Công đoàn, Luật bảo hiểm xã hội, Luật phòng chống ma túy, Luật hình sự, Luật hôn nhân gia đình, Luật giao thông đường bộ, tuyên truyền phòng chống tội phạm ma túy, mại dâm và các tệ nạn xã hội. Kết quả rõ nét là số lượt công nhân lao động được phổ biến pháp luật tăng theo hàng năm, trong năm 2008 đã có 15.000 lượt người lao động tại các khu có tổ tự quản được tuyên truyền, phổ biến pháp luật, phát hành 10.000 tài liệu tuyên truyền các loại. Các cấp Công đoàn còn phối hợp với lực lượng công an tổ chức phát động phong trào đấu tranh và tố giác tội phạm, gắn sinh hoạt của tổ tự quản với sinh hoạt tổ dân phố định kỳ hàng tháng để tuyên truyền phòng chống tội phạm, đặc biệt là đấu tranh tố giác tội phạm, xây dựng được 15 khu công nhân lao động không có tệ nạn ma túy và các tệ nạn xã hội khác. Việc hình thành tổ tự quản tại các khu nhà ở của công nhân ở khu công nghiệp đã tạo dựng được mối quan hệ gắn bó chặt chẽ giữ chính quyền, Công đoàn, MTTQ và các tổ chức chính trị xã hội ở cơ sở. Mô hình này tạo điều kiện thuận lợi cho tổ chức Công đoàn trong tuyên truyền, phổ biến pháp luật, góp phần nâng cao nhận thức của công nhân lao động, tạo chuyển biến trong người lao động về ý thức bảo vệ môi trường, chấp hành tốt pháp luật, thúc đẩy phong trào quần chúng bảo vệ an ninh tổ quốc, giữ an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội trên địa bàn. Hoạt động tuyên truyền pháp luật của Đoàn TNCSHCM. Đoàn là tổ chức xã hội của thanh niên, được hình thành nhằm thu hút thế hệ trẻ vào những hoạt động bổ ích, lành mạnh, qua đó giáo dục ý thức pháp luật đối với thanh niên. Thanh niên ngày nay là lực lượng xã hội to lớn có tiềm năng hùng hậu, là cánh tay đắc lực của Đảng, kế thừa tinh hoa truyền thống cuả dân tộc và những thành quả của cách mạng qua đó mở rộng giao lưu quốc tế. Thanh niên ngày nay có thế mạnh cơ bản là: có trình độ học vấn cao hơn trước, có tầm nhìn rộng, nhạy cảm với thời cuộc, giàu lòng yêu nước, có khát vọng mau chóng đưa nước ta thoát khỏi tình trạng nghèo nàn, lạc hậu; đồng tình ủng hộ và hăng hái tham gia sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Đoàn tập hợp đông đảo thanh niên tham gia các phong trào ở địa phương, thanh niên luôn giữ vai trò gương mẫu xung kích trong viêc thực hiện pháp luật ở xã, phường, thị trấn, tham gia tuyên truyền, giáo dục pháp luật đến thanh niên và nhân dân địa phương, tổ chức thực hiện các văn bản pháp luật, quy ước, hương ước, vận động nhân dân sống và làm việc theo pháp luật. Sau đây là một số nét về hoạt động tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật cho thanh niên của Tỉnh đoàn Phú Thọ: Công tác phổ biến, giáo dục pháp luật cho đoàn viên thanh niên được các cấp bộ đoàn tổ chức thường xuyên thông qua các hình thức như phối hợp với các cấp, các ngành tuyên truyền pháp luật cho gần 680 lượt đoàn viên thanh niên, tập trung vào các nội dung: Luật Thanh niên, Luật hôn nhân và gia đình, Luật phòng chống ma túy, tệ nạn xã hội, cung cấp một lượng lớn các đầu sách như cuốn “Cẩm nang công tác phổ biến giáo dục pháp luật”, “Cẩm nang an toàn giao thông” tới các cơ sở đoàn và chi đoàn trong tỉnh, tổ chức các buổi tọa đàm, sinh hoạt chuyên đề, các cuộc thi tại cơ sở; phát hơn 1000 tờ rơi về tác hại của ma túy, bảo vệ môi trường, thu hút hơn 11.000 lượt đoàn viên thanh niên tham gia. Các cơ sở đoàn đã tổ chức các cuộc thi viết về bảo vệ đường sắt, tổ chức cho 100% đoàn viên thanh niên, thiếu niên ký cam kết không vi phạm các tệ nạn xã hội, không vi phạm luật an toàn giao thông, không sử dụng ma túy…duy trì mô hình Đội thanh niên xung kích, đội cờ đỏ, các hòm thư tố giác tội phạm. Cùng các đoàn thể tham gia tuyên truyền pháp luật, nâng cao ý thức pháp luật cho đoàn viên thanh niên và nhân dân, Đoàn xứng đáng là đội hậu bị của Đảng, là đội tiên phong giác ngộ lý tưởng và hoài bão cho thanh niên, góp phần hình thành thế hệ thanh niên có trình độ học vấn cao, có hiểu biết và ý thức chấp hành pháp luật, động viên thanh niên xung kích trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Hoạt động tuyên truyền pháp luật của Hội LHPNVN. Là TCXH của giới nữ, Hội LHPNVN được thành lập nhằm động viên, thu hút các tầng lớp phụ nữ tham gia vào các hoạt động của xã hội nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của phụ nữ, đấu tranh chống phân biệt đối xử, bảo vệ quyền bình đẳng nam nữ qua đó thúc đẩy sự phát triển của xã hội. Hội đã tập hợp đông đảo chị em giới nữ tham gia, củng cố các chi hội ở cơ sở, đã phát huy vai trò của phụ nữ trong việc tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật. Bằng nhiều hình thức đa dạng, phong phú, Hội LHPN các cấp trong cả nước đã phối hợp với hệ thống truyền thanh, tổ chức các hội nghị, lớp tập huấn, các buổi sinh hoạt Câu lạc bộ Dân số - Kế hoạch hóa gia đình, câu lạc bộ phụ nữ cao tuổi, câu lạc bộ nữ thanh niên…tuyên truyền các chủ trương, chỉ thị, nghị quyết của Đảng; pháp luật, chính sách của nhà nước gắn với phong trào thi đua “phụ nữ tích cực học tập, lao động sáng tạo, xây dựng gia đình hạnh phúc”. Để thực hiện tốt phong trào thi đua, các cấp Hội chủ động phối hợp với các ngành chuyên môn, MTTQ các cấp đưa nội dung thực hiện với các cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”, phong trào xây dựng gia đình văn hóa, làng văn hóa. Từ đầu năm 2009 đến nay, Hội Liên Hiệp Phụ Nữ tỉnh Bắc Ninh đã có gần 25.000 lượt hội viên đăng kí thực hiện tốt phong trào thi đua, đạt tỷ lệ 94,5% so với năm 2008; tổ chức cuộc thi tìm hiểu “Luật cư trú”, tuyên truyền phổ biến Luật Đất đai, Luật giao thông đường bộ với 6.317 người tham gia, từng bước giúp chị em hiểu và chấp hành tốt các quy định pháp luật; triển khai học tập Nghị quyết 11 của Bộ chính trị về công tác phụ nữ trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước với 12.131 lượt cán bộ, hội viên tham gia; tổ chức 84 lớp học tập Nghị quyết Đại hội Phụ nữ toàn quốc lần thứ X với 24.782 lượt tham gia. Cùng với đó, hàng chục lớp tập huấn nâng cao kiến thức, kỹ năng phòng chống tội phạm, tệ nạn xã hội và ma túy được các cấp Hội chú trọng tổ chức đã giúp hàng trăm đối tượng được cảm hóa, giáo dục tiến bộ, góp phần giữ vững an ninh, ổn định chính trị địa phương. Có thể khẳng định, công tác tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật của các cấp Hội LHPNVN đã đạt được những kết quả nhất định, tạo sự chuyển biến lớn trong nhận thức của từng hội viên, góp phần thực hiện tốt chủ trương, đường lối của Đảng, pháp luật, chính sách của nhà nước. Hoạt động tuyên truyền pháp luật của Hội CCBVN. Là tổ chức chính trị - xã hội được công nhận muộn nhất so với các tổ chức chính trị - xã hội khác, tổ chức đại diện ý chí và quyền lợi của cựu chiến binh, hoạt động theo đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, Hiến pháp và pháp luật của nhà nước, phát huy bản chất “Bộ đội Cụ Hồ” tham gia bảo vệ thành quả cách mạng, bảo vệ Đảng, chính quyền, chế độ XHCN, góp phần giáo dục truyền thống và chủ nghĩa anh hùng cách mạng cho thế hệ trẻ, là chỗ dựa tin cậy của Đảng và nhà nước. Trong lĩnh vực tuyên truyền pháp luật, trước hết Hội luôn giáo dục cho hội viên Cựu chiến binh và các đồng chí cựu quân nhân có ý thức chấp hành pháp luật, cảnh giác ngăn chặn các tệ nạn xã hội. Ngoài ra, trong phong trào xây dựng làng văn hóa, thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở, các cấp Hội Cựu chiến binh luôn là tổ chức tham mưu tích cực cho các cấp ủy Đảng, chính quyền thực hiện tốt hai nội dung trên và thực hiện có hiệu quả. Việc xây dựng quy ước, hương ước của từng địa phương cho phù hợp với sự phát triển của xã hội, đồng thời gắn với phong tục từng làng quê là nét đẹp truyền thống và niềm tự hào của mỗi con người có đóng góp lớn của các hội viên nhiệt tình xây dựng. Hoạt động tuyên truyền pháp luật của Hội nông dân. Phát huy vai trò là tổ chức tập hợp, đoàn kết giai cấp nông dân Việt Nam, trong những năm qua bên cạnh việc chăm lo, bảo vệ đời sống nông dân, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn thì Hội NDVN luôn chú trọng đến công tác tuyên truyền pháp luật nhằm nâng cao hiểu biết pháp luật cho nông dân qua đó giúp họ tự bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình, pháp huy quyền làm chủ của nông dân trong thời đại mới. Để đưa kiến thức pháp luật đến với hội viên, nông dân nông thôn, Hội đã tăng cường công tác tuyên truyền, vận động nhân dân chủ động đấu tranh phòng, chống tội phạm và các tệ nạn xã hội, đảm bảo an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội. Các cấp Hội chủ động phối hợp cùng chính quyền, Mặt trận và các đoàn thể tổ chức tuyên truyền với các hình thức tuyên truyền phổ biến là thông qua tập huấn cán bộ, Hội nghị tuyên truyền lồng ghép với các chương trình có liên quan, sinh hoạt chi, tổ Hội, Sinh hoạt câu lạc bộ Nông dân, và tổ chức các hội thi bằng hình thức sân khấu hóa với nội dung phong phú, đa dạng, phù hợp với từng địa phương, vừa phổ biến pháp luật có hiệu quả vừa nâng cao đời sống văn hóa, tinh thần cho hội viên, ở một số địa phương như Lạng Sơn, Phú Thọ đã xây dựng các “ câu lạc bộ Nông dân với pháp luật” thu hút đông đảo hội viên tham gia. Trong năm 2009 các cấp Hội đã tuyên truyền cho gần 5 triệu lượt hội viên, nông dân trong cả nước, nội dung phổ biến gồm Luật Đất Đai, Luật Khiếu nại, tố cáo, Quy định về thừa kế trong Bộ Luật Dân sự… Công tác tuyên truyền giáo dục, tư vấn pháp luật đã từng bước nâng cao nhận thức cho hội viên, nông dân và qua đó nông dân đã phát huy quyền làm chủ, tích cực tham gia quản lý xã hội, phát triển kinh tế, giữ vững an ninh trật tự ở địa phương; đồng thời phát huy quyền làm chủ của hội viên, nông dân trong việc tham gia xây dựng Đảng, chính quyền trong sạch, vững mạnh, củng cố niềm tin của nông dân với Đảng, với nhà nước. Hoạt động tuyên truyền pháp luật của tổ chức xã hội - nghề nghiệp. Là thành viên Hội đồng phổ biến giáo dục pháp luật, các Hội Luật gia tham gia thực hiện chương trình tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật với các hình thức: tổ chức hội nghị tuyên truyền, giới thiệu các văn bản pháp luật; tham gia công tác hoà giải ở cơ sở; thực hiện hoạt động tư vấn, trợ giúp pháp lý cho nhân dân. Các cấp Hội đã đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật trong cán bộ, hội viên, công chức và các tầng lớp nhân dân. Hội thường xuyên phối hợp với Trung tâm trợ giúp pháp lý - Sở Tư pháp tổ chức nhiều buổi trợ giúp pháp lý lưu động về vùng sâu, vùng xa, vùng có đông đồng bào dân tộc, giáo dân để tuyên truyền, tư vấn, giải đáp những thắc mắc pháp luật của nhân dân; phối hợp với Hội LHPN trợ giúp pháp lý cho hàng ngàn phụ nữ nghèo, giúp chị em nắm vững chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của nhà nước và văn bản liên quan đến phụ nữ. Một số Hội Luật gia đã đạt được nhiều kết quả thiết thực trong công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật như: Hội Luật gia Thành phố Hồ Chí Minh trong năm 2008 đã tuyên truyền cho 345.863 lượt người và trên 50 văn bản luật (năm 2006 là 154.675 lượt người); Hội cũng tổ chức 17 cuộc tuyên truyền Luật phòng chống ma tuý, Luật hình sự, Luật phòng chống HIV/AIDS; thực hiện tư vấn pháp luật và trợ giúp pháp lý miễn phí cho 16.315 người là đối tượng chính sách, người lao động trên các lĩnh vực: hôn nhân gia đình, thừa kế, đất đai; tham gia hoà giải cho 1.394 trường hợp. Hội Luật gia tỉnh Lâm Đồng đã thành lập trung tâm tư vấn pháp luật, tuy mới thành lập nhưng đã khẳng định được vai trò, vị trí của mình trong việc đưa pháp luật đến gần dân hơn. Trung tâm thực hiện việc trợ giúp pháp lý miễn phí đối với các đối tượng thuộc diện chính sách, người nghèo, đồng bào dân tộc thiểu số, trong năm 2008 đã có 190 người được tư vấn pháp luật miễn phí. Bên cạnh địa điểm trụ sở cố định tại Thành phố Đà Lạt thì trung tâm còn thực hiện trợ giúp pháp lý lưu động về các địa bàn vùng sâu huyện Đam Rông và huyện Lạc Dương, theo thống kê đã có 322 lượt người dân tộc thiểu số ở xã Đạ Sar (Lạc Dương), Đạ Long, Đạ Tông (Đam Rông) được trợ giúp pháp lý và tiếp cận những nội dung cơ bản của các văn bản pháp luật. Thông qua hoạt động trợ giúp pháp lý, Hội Luật gia đã góp phần giúp nhân dân nâng cao kiến thức pháp luật, từ đó thi hành nghiêm chỉnh các quy định pháp luật, góp phần giữ vững ổn định xã hội Hoạt động tuyên truyền pháp luật của các TCXH khác Phạm vi luận văn chỉ đề cập đến các TCXH mà vai trò tham gia hoạt động tuyên truyền pháp luật của chúng thể hiện rõ nét, đó là các tổ chức tự quản như tổ dân phố, tổ hoà giải. Hoà giải ở cơ sở là việc hưỡng dẫn, giúp đỡ, thuyết phục các bên đạt được thoả thuận, tự nguyện giải quyết với nhau những việc vi phạm luật và tranh chấp nhỏ, qua đó tuyên truyền các nội dung của pháp luật đến với người dân, góp phần vào việc giữ gìn tình đoàn kết, tương thân tương ái trong nội bộ quần chúng nhân dân, đảm bảo trật tự an toàn xã hội, tạo nên sự đồng thuận, ổn định và thúc đẩy pháp triển kinh tế - xã hội. Tính đến tháng 6/2008 trên toàn quốc có 120.462 tổ hoà giải trên tổng số 128.425 thôn, tổ dân phố với 623.175 hoà giải viên, đây thực sự là lực lượng hùng hậu, chưa kể đến cán bộ chính quyền, đoàn thể cơ sở, cán bộ nghỉ hưu, những người có uy tín trong cộng đồng...không phải tổ viên tổ hoà giải nhưng đã và đang tham gia tích cực vào công tác hoà giải ở cơ sở. Số lượng thành viên tổ hoà giải trung bình từ 5 đến 11 người, thành phần thường bao gồm Trưởng thôn, tổ trưởng tổ dân phố, bí thư chi bộ, cán bộ Ban Công tác mặt trận, cán bộ hội Nông dân, Phụ nữ, Đoàn thanh niên, Cựu Chiến binh, già làng... đều là những người có phẩm chất đạo đức tốt, sống gương mẫu, có uy tín, có khả năng vận động, thuyết phục quần chúng, có hiểu biết pháp luật, nhiệt tình tham gia công tác hoà giải, được bầu chọn công khai trong cộng đồng. Chất lượng của đội ngũ hoà giải viên ngày càng được nâng cao. Trong số 623.157 hoà giải viên có 375.140 người có trình độ văn hoá từ trung học cơ sở trở lên và 123.807 người có trình độ chuyên môn từ trung cấp trở lên. Đây thực sự là nguồn nhân lực quan trọng trong công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật, góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động của công tác hoà giải ở cơ sở. Như vậy, kết quả sau 10 năm thực hiện Pháp lệnh về tổ chức và hoạt động hoà giải ở cơ sở của các cấp, các ngành, Mặt trận tổ quốc và các tổ chức thành viên thông qua hoạt động của các tổ hoà giải ở cơ sở đã hoà giải thành công hàng triệu mâu thuẫn, tranh chấp, xích mích với một số lượng lớn các vụ việc không phải đưa ra giải quyết tại cơ quan nhà nước, tiết kiệm công sức, tiền bạc của nhân dân. Góp phần không nhỏ vào việc nâng cao hiểu biết, ý thức pháp luật cho nhân dân, hình thành trong mỗi cá nhân ý thức chấp hành pháp luật, kỷ cương của Đảng nhà nước, từng bước xây dựng ý thức “sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật trong nhân dân”, phòng ngừa, hạn chế vi phạm pháp luật, giữ gìn trật tự, an toàn xã hội. 2.3 Hạn chế trong hoạt động tuyên truyền pháp luật của TCXH 2.3.1 Hạn chế trong các quy định pháp luật. Hiện nay các quy định pháp luật về hoạt động tuyên truyền pháp luật của TCXH chưa nhiều về số lượng và chưa đầy đủ về nội dung, hầu hết các văn bản pháp luật như Luật Mặt trận Tổ quốc, Luật Công đoàn, Nghị định 88/2003/NĐ-CP ngày 30/07/2003 đều quy định rất chung chung là các TCXH này có quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật cho hội viên và quần chúng nhân dân mà không có quy định về cơ chế bảo đảm thực hiện những quy định này trên thực tế như thiếu những quy định về trách nhiệm của các cơ quan nhà nước phối hợp với các TCXH trong việc thực hiện công tác tuyên truyền pháp luật cũng như sự trợ giúp về kinh phí từ phía ngân sách nhà nước cho hoạt động này,...Vì vậy hoạt động tuyên truyền, giáo dục pháp luật của các TCXH chủ yếu dựa vào nguồn lực sẵn có của mỗi tổ chức. Bên cạnh đó các quy định này lại nằm rải rác trong nhiều văn bản khác nhau, không tập trung trong một văn bản cụ thể, điều này cũng gây khó khăn trong việc tìm hiểu và áp dụng trong thực tế. Đây là một trong những nguyên nhân dẫn đến hoạt động tuyên truyền pháp luật của TCXH chưa thực sự đạt hiệu quả như mong đợi, chưa tương xứng với vai trò của TCXH trong hệ thống chính trị cũng như trong đời sống xã hội. 2.3.2 Hạn chế trong công tác tuyên truyền pháp luật của các TCXH. Cùng với những thành tích đã đạt được, quá trình tuyên truyền pháp luật của các TCXH cũng bộc lộ những hạn chế nhất định: Thứ nhất là tình trạng thiếu nhân lực cho công tác tuyên truyền pháp luật, nhất là các hội viên am hiểu pháp luật, nhiệt tình trong công tác là hiện tượng phổ biến ở hầu hết các TCXH. Không có nhân lực hoặc có nhưng không được tiếp cận, bổ sung kiến thức pháp luật thường xuyên, thiếu nhân lực biết tiếng dân tộc, tiếng nước ngoài đã ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động của TCXH trong lĩnh vực tuyên truyền pháp luật Thứ hai là hoạt động tuyên truyền pháp luật vẫn chưa đến được với người dân, nhất là nhân dân ở vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc. Trong những năm qua, mặc dù các TCXH luôn coi trọng công tác tuyên truyền pháp luật cho hội viên và các tầng lớp nhân dân, tuy nhiên do đặc thù của địa bàn miền núi, vùng sâu do giao thông đi lại hết sức khó khăn, địa bàn rộng, dân cư thưa thớt, nhận thức của người dân còn hạn chế và nhất là do ở những nơi này đội ngũ nhân lực làm công tác tuyên truyền pháp luật vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu công việc dẫn đến tình trạng hiệu quả hoạt động tuyên truyền, giáo dục pháp luật còn nhiều hạn chế. Thứ ba là hình thức tuyên truyền pháp luật chưa đa dạng, chưa phù hợp với từng đối tượng và nội dung tuyên truyền. Hình thức tuyên truyền đơn điệu, không có hình ảnh, tài liệu minh họa mà chủ yếu là hình thức nghe, đọc dễ gây nhàm chán cho người được tuyên truyền, từ đó làm giảm hiệu quả công tác tuyên truyền pháp luật. Bên cạnh đó còn thiếu những hình thức tuyên truyền đối với vùng đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống, vùng sâu, vùng xa là nơi có trình độ dân trí rất thấp so với mặt bằng chung của cả nước, do đó phải có những hình thức tuyên truyền cô đọng, dễ hiểu để họ dễ nhớ và thực hiện. Các hình thức tuyên truyền đối với đối tượng người nước ngoài ở Việt Nam và người Việt Nam định cư ở nước ngoài cũng chưa được quan tâm, mặc dù chương trình tuyên truyền pháp luật quy định trong Quyết định 37/2008/QĐ-TTg ngày 12/03/2008 đã đề ra mục tiêu đến hết năm 2012 phấn đấu đạt 95% đến 100% văn bản pháp luật liên quan trực tiếp đến các đối tượng này được tuyên truyền bằng các hình thức phù hợp. Thứ tư là tình trạng thiếu phương tiện phục vụ công tác tuyên truyền pháp luật. Trên thực tế phương tiện phục vụ cho công tác này của TCXH rất thiếu thốn, không đáp ứng được nhu cầu của công việc. Phần lớn các phương tiện đều đã cũ do sử dụng trong một thời gian dài mà không được thay thế, sửa chữa, điều này ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả của công tác tuyên truyền pháp luật của TCXH. Thứ năm là trong công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật của TCXH vẫn xảy ra tình trạng chỉ chú trọng tuyên truyền theo từng đợt, khi mới phát động phong trào dưới hình thức các tháng cao điểm, các chương trình tuyên truyền pháp luật mà chưa thực hiện việc tuyên truyền một cách thường kì, thường xuyên, liên tục. 2.4. Nguyên nhân. 2.4.1 Nguyên nhân của những kết quả đạt được trong công tác tuyên truyền pháp luật. Trong những năm qua, Đảng và nhà nước ta luôn coi tuyên truyền pháp luật là một trong những nhiệm vụ trọng tâm được đặt lên hàng đầu, coi đây là một trong những yêu cầu của công cuộc công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước, là một trong những tiền đề quan trọng hướng tới xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Từ nhận thức đúng đắn trên, Đảng đã ban hành nhiều chủ trương về đẩy mạnh hoạt động tuyên truyền pháp luật trong hoạt động của các cơ quan nhà nước và TCXH, qua đó nhà nước thể chế hoá thành các quy định pháp luật, các đề án về tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật để thực hiện trong phạm vi cả nước với sự tham gia cuả các cấp, các ngành và các TCXH. Các TCXH phát huy vai trò là nơi tập hợp, đoàn kết hội viên, thực hiện mục đích bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của hội viên, thông qua hoạt động của tổ chức mình tuyên truyền, giáo dục pháp luật cho hội viên và quần chúng nhân dân. Mỗi TCXH, tuỳ thuộc vào mục đích tập hợp, đặc điểm của hội viên mà chủ động lựa chọn nội dung, hình thức tuyên truyền phù hợp với từng đối tượng, từng địa bàn, qua đó nâng cao hiệu quả của hoạt động này. Để có những kết quả đã nêu trên, không thể không kể đến vai trò của MTTQVN, là một tổ chức chính trị - xã hội rộng lớn, là cơ sở chính trị của quần chúng nhân dân, MTTQ đã thực hiện tốt vai trò của mình trong việc triển khai thực hiện các đề án tuyên truyền pháp luật của Chính phủ, đôn đốc, nhắc nhở các địa phương đẩy mạnh hơn nữa các phong trào, tổ chức rút kinh nghiệm trên cơ sở các kết quả đã đạt được và đề ra phương hướng thực hiện trong từng giai đoạn. Dưới sự chỉ đạo của Uỷ ban Trung ương MTTQVN và MTTQ các cấp, trong những năm qua hoạt động tuyên truyền pháp luật nói chung và hoạt động tuyên truyền pháp luật của các TCXH nói riêng đã đạt được những kết quả thiết thực, góp phần nâng cao kiến thức pháp luật cho nhân dân, từng bước xây dựng ý thức sống và làm việc theo pháp luật trong mỗi người dân. 2.4.2 Nguyên nhân của những hạn chế trong công tác tuyên truyền pháp luật. Trước hết là do các quy định pháp luật về hoạt động tuyên truyền pháp luật của các TCXH vừa thiếu về số lượng vừa không đầy đủ về nội dung, do vậy pháp luật đã không thể tạo ra vai trò là hành lang pháp lý cho các TCXH thực hiện việc tuyên truyền, phổ biến pháp luật. Thứ hai là do trình độ dân trí ở nước ta vẫn còn thấp, nhất là ở vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc, do vậy nhận thức của nhân dân về tầm quan trọng của pháp luật còn hạn chế, chưa thấy hết được tầm quan trọng, ý nghĩa sâu sắc, tính cấp bách và tính lâu dài của việc tuân thủ pháp luật. Do đó cũng ảnh hường không nhỏ đến hiệu quả của công tác tuyên truyền pháp luật, nhất là không ít cán bộ, đảng viên còn có biểu hiện thiếu tôn trọng pháp luật, không gương mẫu thực hiện pháp luật. Thứ ba là do chưa nhận thức được tầm quan trọng của các đề án tuyên truyền pháp luật do Thủ tướng Chính phủ phê duyệt cũng như cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá ở khu dân cư” nên các TCXH chưa cụ thể hoá việc tuyên truyền pháp luật vào nội dung các cuộc vận động, ở nhiều nơi các TCXH chỉ tập trung thực hiện công tác tuyên truyền pháp luật trong thời gian đầu khi mới triển khai các đề án, phong trào, chưa có sự duy trì, kiểm tra, giám sát, đôn đốc thường xuyên. Công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật của Mặt trận và các tổ chức đoàn thể còn thiếu đồng bộ, chưa sâu rộng, chưa thường xuyên, thiếu hướng dẫn cụ thể để giúp nhân dân nâng cao ý thức pháp luật. Thứ tư là sự phối hợp giữa các TCXH và cơ quan nhà nước trong việc tuyên truyền pháp luật còn chưa thật sự được quan tâm đúng mức, chủ yếu là các TCXH dựa vào nội lực của mình để thực hiện hoạt động này mà chưa có sự trợ giúp của cơ quan nhà nước về phương tiện cho hoạt động tuyên truyền, bồi dưỡng kiến thức, kỹ năng tuyên truyền cho đội ngũ người làm công tác này trong các TCXH. Thứ năm là nguồn kinh phí dành cho hoạt động tuyên truyền pháp luật của TCXH chưa đáp ứng được nhu cầu của hoạt động này. Kinh phí hoạt động của TCXH chủ yếu dựa vào sự đóng góp của các thành viên, của các tổ chức, cá nhân và các hoạt động kinh doanh thu lợi nhuận nên kinh phí dành cho hoạt động tuyên truyền pháp luật bị han chế, chỉ có một số TCXH là nhận được sự hỗ trợ từ ngân sách nhà nước cho hoạt động của tổ chức. Đây là những nguyên nhân làm cho công tác tuyên truyền pháp luật của TCXH chưa thật sự đạt hiệu quả như mong muốn, các TCXH chưa phát huy được vai trò đối với nhà nước và xã hội trong lĩnh vực này. Trong thời gian tới cần tìm ra giải pháp khắc phục những nguyên nhân này, để nâng cao hơn nữa vai trò của các TCXH trong hoạt động tuyên truyền pháp luật, tạo ra sự chuyển biến trong nhận thức và chấp hành pháp luật của quần chúng nhân dân. 00----------------------------------000-----------------------------------------00 CHƯƠNG III: NHỮNG GIẢI PHÁP NÂNG CAO VAI TRÒ CỦA TCXH TRONG LĨNH VỰC TUYÊN TRUYỀN PHÁP LUẬT TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY. Trước yêu cầu của thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập kinh tế quốc tế, hơn lúc nào hết chúng ta cần tiếp tục đẩy mạnh công tác tuyên truyền pháp luật trong nhân dân, phát huy hơn nữa vai trò của các TCXH trong hoạt động này, để làm được điều đó cần thực hiện tốt các giải pháp sau: 3.1 Hoàn thiện các quy định pháp luật về hoạt động tuyên truyền pháp luật của TCXH. Pháp luật giữ vai trò rất quan trọng trong đời sống xã hội nói chung cũng như trong lĩnh vực tuyên truyền pháp luật nói riêng, pháp luật là cơ sở pháp lý cho các TCXH thực hiện hoạt động tuyên truyền, phổ biến pháp luật, vì vậy để nâng cao vai trò của TCXH trong hoạt động này, trước hết phải xây dựng, hoàn thiện các quy định pháp luật, đưa pháp luật trở thành công cụ hỗ trợ hữu hiệu cho công tác tuyên truyền pháp luật. Hiện nay, các quy định về hoạt động tuyên truyền pháp luật vẫn nằm rải rác trong một số văn bản pháp luật như Luật Mặt trận Tổ Quốc, Luật Công Đoàn, và các Nghị định hướng dẫn thi hành các luật này mà chưa có sự tập trung thống nhất trong một văn bản duy nhất, hơn nữa quy định về tuyên truyền pháp luật vẫn chưa đầy đủ, chưa đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn, nhất là trong giai đoạn hiện nay, khi mà hoạt động tuyên truyền ngày càng được chú trọng, do vậy thiết nghĩ trong thời gian tới các cơ quan nhà nước có thẩm quyền cần nghiên cứu xây dựng dự án Luật Phổ biến, giáo dục pháp luật trình Quốc Hội ban hành; Luật quy định chung về hoạt động tuyên truyền pháp luật của cơ quan nhà nước và của TCXH, quy định cụ thể về cơ chế phối hợp hoạt động giữa TCXH và cơ quan nhà nước trong thực hiện khi thực hiện hoạt động này. Khi Luật được thông qua cần ban hành kịp thời các văn bản hướng dẫn thi hành để Luật nhanh chóng đi vào cuộc sống. Trong khi chưa ban hành được Luật thống nhất về tuyên truyền pháp luật thì cần rà soát, sửa đổi, bổ sung quy định về hoạt động tuyên truyền pháp luật của TCXH theo hướng quy định cụ thể hơn về trách nhiệm của TCXH, bổ sung quy định về sự phối hợp, giúp đỡ từ phía cơ quan nhà nước về kinh phí cho hoạt động tuyên truyền, phối hợp với TCXH tổ chức các lớp tập huấn nâng cao kiến thức pháp luật cho đội ngũ nhân lực làm công tác tuyên truyền pháp luật của TCXH. Các Chương trình tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật do Thủ tướng Chính phủ phê duyệt cần phân định rõ trách nhiệm của từng cơ quan, tổ chức tham gia cũng như mối quan hệ giữa các cơ quan này, tránh hiện tượng chồng chéo trong trách nhiệm thực hiện dẫn tới tình trạng “cha chung không ai khóc”, không mang lại kết quả trên thực tế. Ngoài ra cũng cấn nêu rõ giải pháp thực hiện đối với từng chương trình phù hợp với đối tượng, địa bàn, nội dung tuyên truyền. Tiếp tục ban hành các quy định pháp luật về trợ giúp pháp lý của TCXH về các vấn đề: cơ cấu tổ chức của các tổ chức trợ giúp pháp lý của TCXH, mối quan hệ giữa tổ chức trợ giúp pháp lý của nhà nước với tổ chức trợ giúp pháp lý của TCXH, quy định về tiêu chuẩn và yêu cầu đối với cộng tác viên hoạt động trợ giúp pháp lý, các quy định đảm bảo cho luật sư hoạt động trợ giúp pháp lý. Cần quy định cụ thể những đối tượng được hưởng trợ giúp pháp lý để từ đó có chính sách phù hợp nhằm đảm bảo quyền lợi của họ. Tăng cường mối quan hệ giữa TCXH và cơ quan nhà nước trong công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật. Sự phối hợp giữa các cơ quan nhà nước và TCXH là một yếu tố quan trọng quyết định đến hiệu quả của hoạt động tuyên truyền pháp luật, do đó trong thời gian tới cần tăng cường mối quan hệ giữa TCXH với các cơ quan nhà nước theo hướng: Đối với các chương trình tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật do Thủ Tướng chính phủ phê duyệt, MTTQ các cấp và các tổ chức thành viên cần phối hợp với Ủy ban Nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, các cơ quan hữu quan triển khai thực hiện theo đúng kế hoạch đã phê duyệt, trong quá trình thực hiện cần thực hiện tôt công tác kiểm tra, đôn đốc, giám sát, nhắc nhở các địa phương thực hiện, tổ chức báo cáo, rút kinh nghiệm thường xuyên, biểu dương các điển hình thực hiện tốt việc chấp hành pháp luật. MTTQ các cấp và các thành viên phối hợp với Ủy ban Nhân dân và Hội đồng công tác phổ biến giáo dục pháp luật xây dựng kế hoạch tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật phù hợp với tình hình chính trị, kinh tế, xã hội đặc thù của từng địa phương, qua đó công tác tuyên truyền pháp luật nói chung và hoạt động tuyên truyền pháp luật của TCXH nói riêng tại mỗi địa phương sẽ mang lại hiệu quả thiết thực, góp phần thay đổi nhận thức pháp luật, từng bước hình thành ý thức tuân thủ pháp luật trong quần chúng nhân dân. Các TCXH phối hợp với Sở Tư pháp các tỉnh và các cơ quan hữu quan đẩy mạnh hoạt động hòa giải ở cơ sở, nâng cao chất lượng đội ngũ hòa giải viên qua đó nâng cao chất lượng của công tác hòa giải, tuyên truyền quy định pháp luật liên quan đến đời sống hàng ngày của nhân dân. Để nâng cao chất lượng đội ngũ nhân lực làm công tác tuyên truyền pháp luật, các TCXH cần phối hợp với Sở Tư pháp mở các lớp tập huấn kiến thức pháp luật, kỹ năng, nghiệp vụ tuyên truyền tạo ra đội ngũ nhân lực vừa có kiến thức, nắm vững được những vấn đề liên quan đến văn bản pháp luật sẽ tuyên truyền như đối tượng, phạm vi, nội dung điều chỉnh, vừa có kỹ năng, nhiệt tình trong công tác. MTTQ các cấp và các tổ chức thành viên phối hợp với Tòa án Nhân dân các địa phương tổ chức bồi dưỡng kiến thức pháp luật cho đội ngũ hội thẩm nhân dân ở địa phương. Hội thẩm nhân dân là thành phần tham gia xét xử tại phiên tòa, thông qua hoạt động của mình hội thẩm nhân dân bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự, qua đó tuyên truyền nội dung các quy định pháp luật đến những người tham dự phiên tòa cũng như quần chúng nhân dân. TCXH phối hợp với cơ quan báo chí, truyền hình, truyền thanh thực hiện công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật. Đây là những kênh thông tin có phạm vi ảnh hưởng rộng lớn, thu hút sự quan tâm của đông đảo nhân dân trên khắp mọi vùng, miền, vì vậy sự phối hợp này sẽ tạo ra một hình thức tuyên truyền mang lại hiệu quả cao cho công tác tuyên truyền pháp luật. Ngoài ra để hoạt động tuyên truyền pháp luật của TCXH ngày càng có hiệu quả thì rất cần có sự hỗ trợ về kinh phí từ cơ quan nhà nước để đầu tư cơ sở vật chất cho công tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật; có chế độ phụ cấp, bồi dưỡng về vật chất cho đội ngũ làm công tác này, làm cho họ yên tâm, gắn bó với công tác. 3.3 TCXH xây dựng chương trình tuyên truyền pháp luật phù hợp với điều kiện mới. Để đẩy mạnh hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật, góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả của pháp luật trên thực tế, phát huy hơn nữa vai trò của TCXH trong lĩnh vực này thì mỗi TCXH cần xây dựng cho mình chương trình tuyên truyền pháp luật cho phù hợp với chức năng hoạt động, mục đích tập hợp của tổ chức mình. Trước hết nội dung tuyên truyền cần được mở rộng cho phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh mới, khi nước ta đang trong tiến trình chủ động hội nhập với thế giới. Các TCXH lựa chọn nội dung tuyên truyền phù hợp với từng đối tượng, địa bàn hoạt động của mình, tập trung tuyên truyền các văn bản liên quan trực tiếp đến đời sống nhân dân như Luật Khiếu nại Tố cáo, Luật Hôn nhân Gia đình, Luật Hình sự, Luật Đất đai, Luật Thanh niên, các quy định về quyền và nghĩa vụ của công dân, bên cạnh đó cũng cần tập trung tuyên truyền các văn bản mới ban hành, các quy định lien quan đến hội nhập kinh tế quốc tế…đảm bảo yêu cầu tuyên truyền được tất cả các văn bản luật mới ban hành, cung cấp kiến thức pháp luật một cách toàn diện cho quần chúng nhân dân. Tiếp tục đa dạng hóa các hình thức tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật, đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả của các hình thức tuyên truyền. Tùy từng đối tượng, địa bàn, điều kiện cụ thể của mỗi TCXH mà thực hiện các giải pháp sau: Tăng cường giới thiệu các quy định pháp luật thông qua hình thức tuyên truyền trực tiếp, tập huấn giới thiệu văn bản pháp luật mới liên quan đến cuộc sống nhân dân, chú trọng việc tuyên truyền, phổ biến tới tận cơ sở, tới mỗi người dân. Đổi mới phương pháp giới thiệu văn bản pháp luật theo hướng tăng cường trao đổi, đối thoại, thảo luận, giải đáp những yêu cầu từ phía người được tuyên truyền nhằm nâng cao tính chủ động trong việc tiếp nhận kiến thức pháp luật. Phát huy hiệu quả hoạt động tuyên truyền pháp luật trên các phương tiện thông tin đại chúng thông qua việc mở chuyên mục mới, tăng thời lượng, đảm bảo tính chính xác về nội dung, hình thức thể hiện phong phú, hấp dẫn. Nâng cao tính định hướng, hướng dẫn dư luận xã hội khi phổ biến thông tin pháp luật, chú trọng tuyên truyền, phổ biến pháp luật trên báo chí bằng tiếng dân tộc, tiếng nước ngoài. Đa dạng hóa các loại tài liệu tuyên truyền pháp luật bao gồm: sách, tờ rơi, băng, đĩa hình, pa nô…các ấn phẩm pháp luật phổ thông cần được phát miễn phí tới người dân, chú trọng tài liệu song ngữ dành cho đồng bào dân tộc thiểu số, người nước ngoài ở Việt Nam, người Việt Nam ở nước ngoài. Đa dạng hóa các loại hình tủ sách pháp luật, tiến tới kết hợp mô hình tủ sách pháp luật truyền thống với tủ sách pháp luật điện tử, duy trì, củng cố và phát triển tủ sách pháp luật đặc thù cho mỗi vùng, miền. Phát huy vai trò của hoạt động hòa giải ở cơ sở trong tuyên truyền, phổ biến pháp luật bằng cách: kiện toàn, củng cố đội ngũ cán bộ quản lý công tác hòa giải từ trung ương đến cơ sở, đổi mới công tác bồi dưỡng kiến thức pháp luật, nghiệp vụ cho đội ngũ hòa giải viên, định kỳ tổ chức giao lưu, hội thi tạo điều kiện cho các hòa giải viên gặp gỡ, trao đổi và học tập kinh nghiệm. Tăng cường phổ biến, giáo dục pháp luật thông qua hoạt động của các loại hình câu lạc bộ pháp luật, tập trung đổi mới công tác tuyên truyền pháp luật tại các câu lạc bộ này theo hướng sinh hoạt pháp luật theo chuyên đề, trao đổi, giải đáp những tình huống pháp luật từ thực tiễn, tiếp tục thực hiện việc lồng ghép nội dung pháp luật vào sinh hoạt của các loại hình câu lạc bộ khác. Đổi mới và đa dạng hóa các hình thức thi tìm hiểu pháp luật, giao lưu, sinh hoạt văn hoá, văn nghệ có lồng ghép nội dung pháp luật. Phát triển mạnh các loại hình tư vấn pháp luật, trợ giúp pháp lý, tư vấn pháp luật, sử dụng triệt để công nghệ thông tin trong tuyên truyền pháp luật. Tăng cường kết hợp phổ biến, giáo dục pháp luật với trợ giúp pháp lý cho các xã đặc biệt khó khăn ở miền núi, vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc đáp ứng nhu cầu được giải đáp những vướng mắc về pháp luật trong nhân dân. Mở rộng và nâng cao chất lượng các loại hình trợ giúp pháp lý, trung tâm tư vấn pháp luật, tổ tư vấn pháp luật thuộc các tổ chức chính trị - xã hội và các tổ chức đoàn thể xã hội khác. Tổ chức tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật thông qua việc xây dựng thực hiện hương ước của thôn, làng, bản, ấp, điều lệ của các đoàn thể xã hội. Thực hiện lồng ghép với các chương trình phát triển kinh tế - xã hội, phát động các đợt cao điểm, tháng cao điểm trong việc thực hiện, chấp hành pháp luật, xây dựng các điểm sáng về chấp hành pháp luật trong cộng đồng dân cư. Bên cạnh đó cũng cần phải chú trọng đến phương tiện kĩ thuật phục vụ công tác tuyên truyền pháp luật của TCXH, mua sắm thêm các phương tiện cần thiết để nâng cao hiệu quả của công tác này, bằng cách mỗi TCXH dành một phần kinh phí hoạt động để trang bị phương tiện kĩ thuật, tranh thủ sự hỗ trợ về tài chính từ cơ quan nhà nước, kêu gọi sự đóng góp của các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước. Công tác tuyên truyền pháp luật cần được tiến hành thường xuyên, thường kì, liên tục trên mọi địa bàn, kiên quyết khắc phục tình trạng chỉ chú trọng tuyên truyền khi mới phát động phong trào. Ngoài ra để nâng cao hiệu quả của hoạt động tuyên truyền pháp luật thì các TCXH cần phải quan tâm củng cố, phát triển, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực làm công tác tuyên truyền pháp luật thông qua các hoạt động như định kì tổ chức các lớp bồi dưỡng, tập huấn kiến thức pháp luật, nhất là khi các văn bản mới được ban hành; tập huấn nghiệp vụ, kỹ năng tuyên truyền, phổ biến pháp luật; tổ chức các cuộc thi người làm công tác tuyên truyền pháp luật giỏi nhằm động viên, khuyến khích, tạo điều kiện cho đội ngũ nhân lực thực hiện hoạt động tuyên truyền pháp luật được thường xuyên trau dồi kiến thức chuyên môn nghiệp vụ, nâng cao chất luợng, hiệu quả công việc; quan tâm đào tạo tiếng dân tộc và ngoại ngữ tại những địa bàn có liên quan. Qua đó phát huy vai trò của các Luật gia, cán bộ công đoàn, cán bộ Đoàn TNCSHCM, cán bộ của các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội và tổ chức xã hội - nghề nghiệp trong thực hiện công tác tuyên truyền pháp luật. KẾT LUẬN Qua nghiên cứu đề tài “Tổ chức xã hội và vai trò của tổ chức xã hội trong lĩnh vực tuyên truyền pháp luật”, việc nghiên cứu thực trạng hoạt động tuyên truyền pháp luật của tổ chức xã hội trong thời gian qua, phân tích và đánh giá thực trạng đề tài này đã đạt được những kết quả nhất định. Nội dung chính của đề tài này giới thiệu sơ lược về các TCXH với những nội dung cơ bản về khái niệm, đặc điểm, phân loại TCXH; những văn kiện của Đảng, văn bản pháp luật của nhà nước về hoạt động tuyên truyền pháp luật của TCXH. Đồng thời phân tích vai trò của các tổ chức xã hội trong việc tuyên truyền pháp luật theo tinh thần của các chương trình tuyên truyền pháp luật do Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, đã đánh giá việc tuyên truyền pháp luật của một số TCXH ở các địa phương cụ thể. Nêu những kết quả đạt được và những hạn chế để rút ra kinh nghiệm trong thời gian tới. Bên cạnh đó cũng nêu một số giải pháp, kiến nghị các cấp, các ngành xem xét để đề ra những chủ trương chính sách mới, sát thực tế hơn để hoạt động tuyên truyền pháp luật của TCXH đạt được kết quả tốt hơn, góp phần hình thành lối sống tuân theo pháp luật trong quần chúng nhân dân, nhằm phát huy vai trò của các tổ chức xã hội ở cơ sở, từng bước xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tuy nhiên khóa luận mới chỉ đưa ra ý kiến đánh giá của cá nhân, những phương hướng và giải pháp chung chung, chưa phân tích một cách thức sự sâu những giải pháp đó, vì vậy những đánh giá, nhận xét của khóa luận chắc chắn không thể tránh khỏi những thiếu sót. Hy vọng vấn đề sẽ được đề cập sâu sắc hơn trong những công trình nghiên cứu khác. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO Giáo trình Luật hành chính- Đại học Luật Hà Nội- Nhà xuất bản Công an Nhân dân năm 2008. Giáo trình Luật hành chính Việt Nam - Khoa Luật- Đại học Quốc gia Giáo trình Hành chính và Tài phán hành chính – Học viện Chính trị Hành chính quốc gia Giáo trình Lý luận nhà nước và pháp luật - Đại học luật Hà Nội. Chỉ thị số 32-CT/TW ngày 09/12/2003 của Ban bí thư Trung ương Đảng về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong công tác phổ biến, giáo dục pháp luật, nâng cao ý thức chấp hành pháp luật của cán bộ, nhân dân. Dự thảo Luật về Hội lần thứ 11. Nghị định 59/2001/NĐ-CP ngày 16/08/2001 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật MTTQ. Nghị định số 88/2003/NĐ-CP ngày 30/07/2003 của Chính phủ quy định về tổ chức, hoạt động và quản lý hội. Luật Công đoàn 1990. Luật Mặt trận tổ quốc Việt Nam 1999. Quyết định số 70/2003/QĐ-TTg ngày 29/04/2003 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt chiến lược phát triển thanh niên Việt Nam đến 2010. Quyết định số 212/2004/QĐ-TTg ngày 16/12/2004 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt chương trình hành động quốc gia phổ biến, giáo dục pháp luật và nâng cao ý thức chấp hành pháp luật cho cán bộ, nhân dân ở xã, phường, thị trấn từ năm 2005 đến 2010. Quyết định số 28/2006/QĐ-TTg ngày 28/01/2006 phê duyệt các đề án chi tiết của chương trình hành động quốc gia phổ biến, giáo dục pháp luật và nâng cao ý thức chấp hành pháp luật cho cán bộ, nhân dân ở xã, phường, thị trấn từ năm 2005 đến 2010. Quyết định số 37/2008/QĐ-TTg ngày 12/03/2008 phê duyệt chương trình phổ biến, giáo dục pháp luật từ năm 2008 đến 2012. Điều lệ Hội Luật Gia Việt Nam. Thạc sỹ Luật học Nguyễn Hải Ninh “Khái niệm, đặc điểm và phân loại Hội”. Tạp chí Nhà nước và pháp luật số 4/2007. MỤC LỤC

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docTổ chức xã hội và vai trò của tổ chức xã hội trong lĩnh vực tuyên truyền pháp luật.doc