[Tóm tắt] Luận án Đánh giá chương trình can thiệp thay đổi hành vi nhằm tăng khả năng chần đoán sớm chửa ngoài tử cung tại huyện Đại Từ- Thái Nguyên, năm 2008-2011

KHUYẾN NGHỊ - Các xã huyện Đại Từ (6 xã) đã triển khai chương trình can thiệp có thể duy trì hoạt động can thiệp với những tài liệu đã được chuẩn bị, nên duy trì các buổi phát thanh. CBYT cần duy trì tư vấn cho PNCC về CNTC và các dấu hiệu của CNTCC nhằm tăng cường kiến thức của PNCC từ đó tăng cường khả năng phát hiện sớm CNTC. - Các nhà quản lý y tế huyện Đại Từ có thể mở rộng chương trình can thiệp ra các xã khác trong huyện, sử dụng các bài phát thanh, nội dung tuyên truyền về CNTC đã có, in thêm tờ rơi để có thể phát cho PNCC. CBYT huyện có thể sử dụng các tài liệu tập huấn CNTC đã được cung cấp để tập huấn mới và tập huấn lại cho các CBYT tuyến xã và YTTB ở cả các xã đã can thiệp và các xã mới. - Các nhà quản lý Y tế huyện Đồng Hỷ có thể triển khai chương trình can thiệp SKSS nói chung với mô hình tương tự như ở Đại Từ.

pdf27 trang | Chia sẻ: builinh123 | Lượt xem: 1170 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu [Tóm tắt] Luận án Đánh giá chương trình can thiệp thay đổi hành vi nhằm tăng khả năng chần đoán sớm chửa ngoài tử cung tại huyện Đại Từ- Thái Nguyên, năm 2008-2011, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BỘ Y TẾ BỘ GIÁO DỤC ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y TẾ CÔNG CỘNG BÙI THỊ TÚ QUYÊN ĐÁNH GIÁ CHƯƠNG TRÌNH CAN THIỆP THAY ĐỔI HÀNH VI NHẰM TĂNG KHẢ NĂNG CHẦN ĐOÁN SỚM CHỬA NGOÀI TỬ CUNG TẠI HUYỆN ĐẠI TỪ- THÁI NGUYÊN, NĂM 2008-2011 CHUYÊN NGÀNH: Y TẾ CÔNG CỘNG MÃ SỐ: 62-72-03-01 TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ Y TẾ CÔNG CỘNG Hà Nội- 2014 ii CÔNG TRÌNH NÀY ĐƯỢC HOÀN THÀNH TẠI TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y TẾ CÔNG CỘNG Hướng dẫn khoa học 1. PGS. TS Lê Cự Linh 2. PGS. TS Lê Anh Tuấn Phản biện 1: Phản biện 2: Phản biện 3: Luận án sẽ được bảo vệ tại Hội đồng chấm luận án Tiến sỹ cấp trường tại Trường Đại học Y tế công cộng. Vào hồingàythángnăm 2014. Có thể tìm luận án tại: - Thư viện Quốc gia. - Thư viện trường Đại học Y tế công cộng - Viện Thông tin- Thư viện Y học Trung Ương. iii TÓM TẮT CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU ĐÃ CÔNG BỐ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN 1. Bùi Thị Tú Quyên, Lê Cự Linh, Các yếu tố nguy cơ của chửa ngoài tử cung, Tạp chí Y tế công cộng, 9.2013, Số 29 (29), trang 48-55. Hội Y tế công cộng Việt Nam. ISSN 1859-1132. 2. Bùi Thị Tú Quyên, Lê Cự Linh, Đánh giá chương trình can thiệp tăng cường thực hành của cán bộ y tế hướng tới chửa ngoài tử cung ở Đại Từ và Đồng Hỷ, Thái Nguyên năm 2011, Tạp chí Y tế công cộng, 7.2014, Số 32 (32), trang 29- 34. Hội Y tế công cộng Việt Nam. ISSN 1859-1132. 3. Bùi Thị Tú Quyên, Lê Cự Linh, Can thiệp tăng cường thực hành về phát hiện sớm chửa ngoài tử cung ở phụ nữ 15-49 tuổi có chồng tại Đại Từ, Thái Nguyên, Tạp chí Y học dự phòng, Tập XXIV, Số 2 (151), trang 109-117. Hội Y Học dự phòng Việt Nam. ISSN 0868-2836 4. Bùi Thị Tú Quyên, Can thiệp tăng cường kiến thức về chửa ngoài tử cung ở phụ nữ 15-49 tuổi có chồng tại Đại Từ- Thái Nguyên, Tạp chí Y tế công cộng, 1.2014, Số 30 (30), trang 4- 10. Hội Y tế công cộng Việt Nam. ISSN 1859-1132. 1 1. ĐẶT VẤN ĐỀ Chửa ngoài tử cung (CNTC) hay còn được gọi là chửa lạc chỗ là trường hợp trứng đã được thụ tinh nhưng không làm tổ và phát triển ở buồng tử cung. Bình thường trứng được thụ tinh ở 1/3 ngoài của vòi trứng, rồi di chuyển về buồng tử cung để làm tổ. Nếu trứng không di chuyển, hoặc di chuyển về hướng tử cung rồi dừng lại giữa đường, hoặc bị đẩy ra ngoài vòi trứng để làm tổ tại buồng trứng hay trong ổ bụng, sẽ gây ra chửa ngoài tử cung. Chửa ngoài tử cung là một cấp cứu sản khoa cần phải được chẩn đoán và xử trí kịp thời nếu không có thể dẫn đến vỡ khối chửa và gây ngập máu trong ổ bụng, gây tử vong mẹ. Có tới 9% tử vong ở phụ nữ có thai trong vòng 3 tháng đầu là do CNTC vỡ. Cho dù hiện nay có những tiến bộ đáng kể về y khoa trong việc chẩn đoán và điều trị, CNTC vẫn là nguyên nhân chính trong tử vong mẹ trong giai đoạn 3 tháng đầu thai kỳ. Đại Từ là một huyện miền núi của tỉnh Thái Nguyên với dân số là 167.988 bao gồm nhiều dân tộc sinh sống. Trong huyện có một bệnh viện huyện và 31 trạm y tế xã, bệnh viện huyện đã phải tiếp nhận những trường hợp CNTC vỡ vào mổ cấp cứu trong tình trạng nguy kịch, với những tình huống này các bác sỹ cũng còn rất ngần ngại khi phải xử trí. Cả bệnh viện chỉ có 1 máy siêu âm phục vụ khoảng hơn 100 bệnh nhân/ngày. Chưa có ai sử dụng siêu âm đầu dò âm đạo để chẩn đoán CNTC ở huyện Đại Từ. Do vậy, việc chẩn đoán CNTC sớm còn gặp nhiều khó khăn. Câu hỏi đặt ra làm sao để có thể tăng cường khả năng chẩn đoán sớm CNTC, xử trí sớm để có thể giảm thiểu tối đa hậu quả của CNTC gây ra cho phụ nữ tuổi sinh đẻ? Để góp phần trả lời câu hỏi trên chúng tôi triển khai nghiên cứu: “Đánh giá chương trình can thiệp thay đổi hành vi nhằm tăng khả năng chẩn đoán sớm chửa ngoài tử cung tại huyện Đại Từ- Thái Nguyên, năm 2008 và 2011” với các mục tiêu: 2 1. Đánh giá kiến thức, thái độ và thực hành của phụ nữ có chồng tại huyện Đại Từ, huyện Đồng Hỷ tỉnh Thái Nguyên về chửa ngoài tử cung trước và sau can thiệp, năm 2008 và 2011. 2. Đánh giá kiến thức và thực hành của cán bộ y tế tại huyện Đại Từ, huyện Đồng Hỷ tỉnh Thái Nguyên về chửa ngoài tử cung trước và sau can thiệp, năm 2008 và 2011. Những đóng góp của luận án 1. Chứng minh mô hình can thiệp PRECEDE-PROCEED có hiệu quả trong can thiệp thuộc lĩnh vực SKSS tại một huyện miền núi. 2. Can thiệp có hiệu quả trong nâng cao kiến thức, thái độ, thực hành của PNCC nhằm tăng cường khả năng chẩn đoán sớm CNTC. 3. Can thiệp có hiệu quả trong nâng cao kiến thức, thực hành của CBYT nhằm tăng cường khả năng chẩn đoán sớm CNTC Bố cục của luận án: Luận án gồm 118 trang, 31 bảng, 8 biểu đồ, 5 hình vẽ và 95 tài liệu tham khảo, trong đó có 71 tài liệu bằng tiếng Anh. Phần đặt vấn đề gồm 2 trang, tổng quan tài liệu 32 trang, đối tượng và phương pháp nghiên cứu 21 trang, kết quả nghiên cứu 35 trang, bàn luận 24 trang, kết luận 2 trang và khuyến nghị 1 trang. CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN TÀI LIỆU 1.1 Chửa ngoài tử cung Chửa ngoài tử cung: Là trường hợp trứng được thụ tinh và làm tổ ở ngoài tử cung. Hầu hết các trường hợp CNTC đều gây chết bào thai ở giai đoạn sớm hoặc tiến triển gây chảy máu, nứt vỡ tại các vị trí thai làm tổ. Vì vậy dấu hiệu lâm sàng thường gặp trong CNTC sẽ là chậm kinh, đau bụng và ra máu. 1.1.1 Thực trạng Tỷ lệ mới mắc của CNTC có xu hướng tăng lên trên toàn Thế giới, tỷ lệ mới mắc rất khác nhau ở các nước phát triển và đang phát triển, 3 nhìn chung tỷ lệ này là khoảng 0,8%-4,4%. Việc gia tăng của tỷ lệ mới mắc CNTC liên quan đến tỷ lệ mắc viêm nhiễm đường sinh dục, việc điều trị vô sinh, tình trạng hút thuốc lá, v.v. ở phụ nữ. Tương tự như xu hướng của Thế Giới, tỷ lệ CNTC ở Việt Nam cũng có xu hướng gia tăng. 1.1.2 Yếu tố nguy cơ Nhiều nghiên cứu (NC) đã chỉ ra các yếu tố nguy cơ CNTC chủ yếu chia làm 3 nhóm: 1) Nguy cơ cao: Tiền sử phẫu thuật tiểu khung, tắc vòng trứng, bệnh lý ống dẫn trứng; 2) Nguy cơ trung bình: Tiền sử vô snh, viêm nhiễm khung chậu, nhiều bạn tình; 3) Nguy cơ thấp: Tiền sử phẫu thuật vùng bụng/ chậu, hút thuốc, thụt rửa âm đạo. 1.1.3 Phòng chửa ngoài tử cung Cách tốt nhất phòng CNTC là giảm thiểu các YTNC của CNTC. Việc chẩn đoán sớm CNTC rất quan trọng trong việc cứu sống và bảo toàn khả năng sinh sản của người PN. Trong điều kiện Việt Nam, người PN cần phải biết được những dấu hiệu sớm của CNTC. 1.2 Kiến thức, thực hành của PNCC về chửa ngoài tử cung 1.2.1 Kiến thức về chửa ngoài tử cung Nghiên cứu của Vương Tiến Hoà trên 124 PN mắc CNTC cho thấy kiến thức của PN về CNTC còn rất thấp, có tới 43,5% PN không biết gì về CNTC. NC ở Chí Linh cũng cho thấy tỷ lệ PN nghe nói đến CNTC là 63,6% tuy nhiên kiến thức của PN về CNTC thấp, trong số đối tượng đã từng nghe nói về CNTC thì có tới 45% không biết bất kỳ một dấu hiệu nào của CNTC và chỉ có 1,5% PN kể được cả hai triệu chứng nguy hiểm khi mang thai là chảy máu và đau bụng. 1.2.2 Thái độ về chửa ngoài tử cung Quan niệm về đi khám thai sớm của PNCC tương đối tốt, trong NC của Bùi Thị Thu Hà, có tới 88% PN cho rằng cần phải đi khám thai càng sớm càng tốt. Đặc biệt khi có dấu hiệu nguy hiểm (chảy máu, đau bụng v.v.v) thì có tới 98% PN cho rằng cần phải đi khám thai ngay. 4 1.2.3 Thực hành về chửa ngoài tử cung Tỷ lệ PN đi khám thai trong NC của Henrychỉ là 25%, tuy nhiên NC ở Nam Phi của Hoque hay NC của Pembe ở Tanzania lại cho thấy tỷ lệ PN có thai đi khám thai rất cao, tỷ lệ này đạt tới 92%-98%. NC ở Chí Linh cũng cho thấy tỷ lệ PN đi khám thai khi có thai cũng tương đối cao (70,7%) tuy nhiên tỷ lệ khám tháng đầu chỉ là 12,9%. Khi có dấu hiệu bất thường khoảng 30,8% PN có thai không đi khám. 1.3 Kiến thức, thực hành của cán bộ y tế về chửa ngoài tử cung Trong nghiên cứu ở huyện Chí Linh tất cả các CBYT đều đã nghe nói về CNTC nhưng có tới 20% CBYT không nói được chính xác định nghĩa CNTC. Trong NC này, tất cả các CBYT đều cho rằng cần phải đi khám thai, chỉ khác nhau ở thời điểm khám. Nhận thức về mức độ nguy hiểm của CNTC cũng như những hậu quả của CNTC của CBYT là tương đối tốt. Dấu hiệu bất thường khi có thai được nhiều CBYT biết đến nhất là ra huyết, sau đó là đau bụng, choáng. Xử trí của CBYT trước một phụ nữ có dấu hiệu bất thường cũng chưa phù hợp, khoảng 30%-57% CBYT cho thuốc giảm đau và cho về nhà theo dõi. Hầu như tất cả CBYT không gửi bệnh nhân đi siêu âm thai khi có dấu hiệu bất thường do không có sẵn dịch vụ. 1.4 Mô hình PRECEDE-PROCEED NCV chọn mô hình lý thuyết PRECEDE-PROCEED làm cơ sở cho việc xây dựng chương trình can thiệp đây là một mô hình về thay đổi hành vi, được sử dụng rất nhiều trong các can thiệp về YTCC. CHƯƠNG 2.ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 2.1 Thiết kế nghiên cứu Thiết kế giả thực nghiệm: Can thiệp cộng đồng đánh giá trước sau có nhóm chứng. Nghiên cứu gồm 3 giai đoạn. 5 TRƯỚC CAN THIỆP SAU CAN THIỆP Nhóm can thiệp 6 xã huyện Đại Từ (2)Can thiệp Nhóm can thiệp 6 xã huyện Đại Từ (1)Đánh giá trước CT (3)Đánh giá sau CT Nhóm chứng 6 xã huyện Đồng Hỷ Nhóm chứng 6 xã huyện Đồng Hỷ Hình1: Sơ đồ thiết kế nghiên cứu 2.2 Đối tượng nghiên cứu - Phụ nữ 15-49 tuổi có chồng: Sinh sống tại 6 xã thuộc 02 huyện Đại Từ và Đồng Hỷ - Thái Nguyên. - Các CBYT phụ trách chương trình BVBMTE/KHHGĐ, các CBYT thôn bản tại địa bàn nghiên cứu. 2.3 Địa điểm nghiên cứu: 02 huyện thuộc tỉnh Thái Nguyên: huyện Đại Từ là địa bàn can thiệp và huyện Đồng Hỷ là địa bàn chứng. 2.4 Thời gian nghiên cứu: Tháng 9/2008 đến tháng 12/2011 1.5 Mẫu và phương pháp chọn mẫu 2.5.1 Phụ nữ 15-49 tuổi có chồng Cỡ mẫu: Sử dụng công thức tính cỡ mẫu 2 tỷ lệ cho nhóm can thiệp. Trong đó: n= Cỡ mẫu cần thiết cho nghiên cứu định lượng ở nhóm can thiệp; Z 1-α/2 : Hệ số tin cậy =1,96 với α=0,05; p1: Tỷ lệ PN có thai đi khám thai sớm trước can thiệp (tham khảo từ NC Chí Linh)=16,2%; p2: Tỷ lệ phụ nữ có thai đi khám thai sớm sau can thiệp (kết quả kỳ vọng) là 6 40%; 1-β: Lực mẫu ; Giá trị 16,6: Tỷ lệ phụ nữ 15-49 tuổi thuộc nhóm nghiên cứu có thai trong khoảng thời gian can thiệp (2 năm) Dự trù tỷ lệ bỏ cuộc trong đánh giá ban đầu là 5% và tỷ lệ mất theo dõi là 27%, cỡ mẫu cần thiết cho NC ở nhóm can thiệp là 600 PNCC Lấy tỷ số can thiệp: chứng là 1:1, có tổng số khoảng 600 PNCC của huyện Đồng Hỷ được chọn vào NC. Trên thực tế, số PNCC tham gia NC ở giai đoạn trước can thiệp là 1186 và giai đoạn sau CT là 1095. Chọn mẫu: Chọn mẫu hai giai đoạn Giai đoạn 1: Chọn xã- Chọn theo phương pháp phân tầng Các xã của 2 huyện được chia thành 2 nhóm: 1) Nhóm khó khăn; 2) Nhóm không khó khăn. Chọn ngẫu nhiên 2 xã từ nhóm 1 và 4 xã từ nhóm 2, tổng số xã nghiên cứu: 12 (6 xã can thiệp và 6 xã chứng). Giai đoạn 2: Chọn đối tượng nghiên cứu- Chọn ngẫu nhiên đơn Dùng phương pháp chọn mẫu ngẫu nhiên đơn sử dụng chương trình Exel với câu lệnh =RAND() dựa trên danh sách tất cả PN 15-49 tuổi có chồng trong các xã được chọn. Với đánh giá sau can thiệp, phỏng vấn lại các đối tượng đã tham gia vào giai đoạn NC trước can thiệp. 2.5.2 Cán bộ y tế Lấy mẫu toàn bộ số CBYT 12 xã kể trên, trước can thiệp đã có 296 CBYT tham gia vào NC, sau can thiệp có 251 CBYT tham gia. Các CBYT tham gia vào giai đoạn sau CT cũng chính là những người đã tham gia trước CT. 2.6 Phương pháp, công cụ thu thập số liệu Phỏng vấn trực tiếp PNCC tại hộ gia đình sử dụng Phiếu phỏng vấn PNCC. Phỏng vấn trực tiếp CBYT tại Trung tâm y tế huyện Đại Từ và tại các Trạm Y tế xã sử dụng Phiếu phỏng vấn CBYT. 2.7 Các hoạt động can thiệp Các hoạt động can thiệp được tiến hành trong thời gian hai năm trên địa bàn 6 xã huyện Đại Từ. Đối tượng can thiệp tại huyện Đại Từ bao gồm phụ nữ 15-49 tuổi có chồng và các cán bộ y tế. 7 2.7.1 Cơ sở xây dựng chương trình can thiệp Đánh giá trước can thiệp đã cung cấp một số thông tin cơ bản theo mô hình lý thuyết PRECEED – PROCEDE. Các yếu tố tiền đề: Về cơ bản PNCC và CBYT nhận thức được sự cần thiết phải đi khám thai sớm và mức độ nguy hiểm của CNTC. Tuy nhiên, kết quả xử trí CNTC ở các trường hợp mắc CNTC cho thấy họ có thái độ chủ quan, không đi khám ngay khi có dấu hiệu bất thường, khiến cho việc xử trí CNTC thường bị chậm. Các yếu tố cho phép: Là các yếu tố liên quan đến khám thai sớm và xử trí CNTC, kết quả đánh giá cho thấy cần phải có một số hoạt động can thiệp để nâng cao kiến thức của bản thân CBYT và PNCC về thời điểm khám thai sớm (ngay sau khi có biểu hiện tắt kinh) và xử trí sớm, phù hợp khi phụ nữ có thai có dấu hiệu bất thường. Các yếu tố tăng cường: Là việc tư vấn của CBYT khi khám thai về những dấu hiệu bất thường khi có thai. Kết quả đánh giá cho thấy việc tư vấn và khuyến nghị siêu âm của CBYT với phụ nữ mang thai còn rất thấp. Các yếu tố tăng cường cũng bao gồm việc giới thiệu các dịch vụ như que thử thai nhanh, siêu âm là nên làm khi thực hiện tư vấn cho phụ nữ đến khám. 2.7.2 Các hoạt động can thiệp đã thực hiện tại huyện Đại Từ 2.7.2.1 Báo cáo kết quả đánh giá ban đầu Nghiên cứu sinh đã tổ chức buổi báo cáo và thảo luận kết quả đánh giá ban đầu với CBYT cơ sở, ngoài ra cùng thảo luận về định hướng can thiệp do nhóm đề xuất từ đó thống nhất chương trình can thiệp. 2.7.2.2 Tập huấn nâng cao năng lực cho cán bộ y tế Tổ chức lớp tập huấn liên quan đến khám thai sớm và chẩn đoán sớm CNTC cho các cán bộ y tế (từ tuyến huyện đến y tế thôn bản), các điều tra viên, giám sát viên.... Giảng viên lớp tập huấn là giảng viên bộ môn Sản trường Cao đẳng y tế Hà Nội và nghiên cứu sinh, nội 8 dung tập huấn được giảng viên cùng nghiên cứu sinh thảo luận và xây dựng cho các nhóm đối tượng khác nhau tuỳ thuộc vào trình độ và vai trò trong nghiên cứu, mỗi lớp tập huấn trong vòng 1 ngày. - Tổ chức 02 lớp tập huấn cho bác sỹ sản bệnh viện huyện - 01 lớp tập huấn cho nữ hộ sinh (NHS) tại bệnh viện. - 02 lớp tập huấn cho trưởng trạm y tế xã và NHS 6 xã. - 03 lớp tập huấn cho cán bộ y tế thôn. - 02 lớp tập huấn cho nhóm giám sát viên và điều tra viên. - 02 lớp tập huấn cho CB trung tâm y tế dự phòng huyện, khoa sức khỏe sinh sản: 1 lớp về các nội dung cơ bản về CNTC; 01 lớp về kỹ năng giám sát, hướng dẫn bảng kiểm giám sát tại cộng đồng. - Tập huấn cho sinh viên trường Đại học Y Dược Thái Nguyên: 01 ngày tập huấn về nội dung chính của NC, các kiến thức về CNTC, kỹ năng tư vấn, truyền thông nhóm, nội dung tở rơi 2.7.2.3 Các hoạt động truyền thông Nghiên cứu sinh đã xây dựng tờ rơi có các nội dung cơ bản về CNTC dựa trên các tài liệu sẵn có và sự góp ý của các cán bộ làm trong lĩnh vực SKSS cũng như chuyên gia truyền thông. Truyền thông tại hộ gia đình - Các cán bộ y tế, y tế thôn bản và sinh viên đã đến từng hộ gia đình 1 lần/1 năm trên địa bàn 6 xã can thiệp phát tờ rơi và tư vấn về tăng cường khám thai sớm/chẩn đoán sớm CNTC. - Phụ nữ độ tuổi sinh đẻ được nhận tờ rơi từ 1-2 lần. Tổng số 10.000 tờ rơi đã được in và phát cho cộng đồng 6 xã trong 2 năm. Truyền thông bằng loa đài của xã, huyện: Xây dựng bài phát thanh về CNTC khoảng 10 phút, thời gian phát thanh là 6:30. Có tổng số 04 đợt truyền thông trên loa đài đã được thực hiện, mỗi đợt kéo dài 1 tuần và cách nhau khoảng 4-5 tháng. 9 Truyền thông lồng ghép với các buổi họp và chiến dịch khám phụ khoa tại cộng đồng: phối hợp với phòng Y tế huyện và hội phụ nữ các xã tổ chức các buổi họp truyền thông tư vấn sức khỏe sinh sản cho phụ nữ có lồng ghép nội dung CNTC nhân các dịp 8/3 và 20/10. Tổng số có 6 cuộc nói chuyện tại các xã (mỗi xã tổ chức 1 lần), mỗi cuộc lồng ghép có khoảng 50-80 phụ nữ tham dự. Ngoài ra còn lồng ghép trong đợt khám phụ khoa. Tổng cộng có 6 đợt truyền thông kết hợp chiến dịch khám phụ khoa đã được thực hiện. Tư vấn trực tiếp tại trạm y tế xã Tất cả các phụ nữ đến khám tại các cơ sở y tế (bệnh viện huyện, trạm y tế 6 xã) đều được tư vấn về khám thai sớm/ CNTC, và được phát tờ rơi về CNTC. Đã có khoảng 5000 lượt phụ nữ đến khám và được tư vấn về CNTC, có 2458 tờ rơi đã được phát ra tại các cơ sở y tế. 2.7.2.4 Các hoạt động theo dõi - Giám sát Các cán bộ Trung tâm y tế dự phòng huyện Đại Từ, các cán bộ Đại học Y Dược Thái Nguyên và bản thân nghiên cứu sinh là những người giám sát các hoạt động can thiệp tại cộng đồng, qua quá trình giám sát đã có những sự điều chỉnh hoạt động can thiệp cho phù hợp và theo đúng nội dung kế hoạch đã được xây dựng. 2.8 Quản lý, phân tích, sử dụng số liệu Số liệu được nhập trên Epidata, số liệu đánh giá trước can thiệp và sau can thiệp được nhập riêng biệt và được kết nối với nhau thông qua mã cá nhân của đối tượng (ID). Số liệu được phân tích với STATA 12.0, các phương pháp phân tích thống kê mô tả và phân tích hai biến, hồi qui đa biến được sử dụng. Các so sánh được dùng cho giai đoạn trước sau trong từng nhóm cũng như so sánh giữa hai nhóm ở từng giai đoạn. 10 2.9 Đạo đức trong nghiên cứu Nghiên cứu đã theo đúng các qui quy định của hội đồng đạo đức Trường Đại học y tế. Nghiên cứu tiến hành có sự đồng ý của UBND huyện, phòng Y tế huyện Đại Từ, Đồng Hỷ. Các đối tượng tham gia nghiên cứu hoàn toàn tự nguyện, trong quá trình triển khai nghiên cứu, khi các đối tượng có bất kỳ thắc mắc gì cần hỏi liên quan đến chủ đề của nghiên cứu đều đã được nhóm nghiên cứu trả lời, tư vấn. CHƯƠNG 3: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU Có 598 PNCC huyện Đại Từ đã tham gia vào giai đoạn đánh giá trước can thiệp, số PNCC tham gia giai đoạn đánh giá sau can thiệp là 522. Như vậy đã có 76 PNCC bị mất theo dõi, chiếm tỷ lệ 22,7%. Ở huyện Đồng Hỷ có 588 PNCC đã tham gia giai đoạn đánh giá trước, số PNCC không phỏng vấn được ở giai đoạn đánh giá sau là 15 người (2,6%). Ở giai đoạn trước can thiệp, hơn 50% phụ nữ nằm trong độ tuổi 25-34, gần 60% phụ nữ có trình độ học vấn cấp 2, đại đa số phụ nữ làm ruộng. Nhìn chung các đặc điểm của đối tượng nghiên cứu hai địa bàn Đại Từ và Đồng Hỷ là tương đồng nhau Số CBYT tham gia trước can thiệp là 296 (Đại Từ: 141 và Đồng Hỷ là 155), sau can thiệp có 251 CBYT (Đại Từ: 115; Đồng Hỷ: 136). Trước can thiệp, hơn ½ số CBYT thuộc nhóm tuổi 25-34, nhóm tuổi 35-44 là 38,7%. Trên ½ CBYT đã có thời gian công tác trên 5 năm. 3.1 Sự thay đổi kiến thức, thái độ, thực hành hướng tới chẩn đoán sớm CNTC của PNCC trước và sau can thiệp Các nội dung chi tiết về kiến thức, thái độ, thực hành của PNCC cũng như của CBYT chúng tôi xin phép không trình bày trong cuốn tóm tắt này. Các phần được trình bày ở đây là kiến thức, thái độ, thực hành chung đã được tổng hợp lại từ các nội dung đánh giá chi tiết. 11 Kiến thức về CNTC đươc đánh giá thông quan kiến thức về thời điểm khám thai, nơi khám thai, các yếu tố nguy cơ, các dấu hiệu của CNTC Tổng hợp từ các nội dung chi tiết đó, điểm trung bình kiến thức chung về CNTC của PNC ở huyện Đại Từ trước can thiệp là 8,7 và ở Đồng Hỷ là 8,9 điểm. Không có sự khác biệt về điểm trung bình kiến thức chung về CNTC giữa hai nhóm (p>0,05) ở trước can thiệp. Bảng 1: Sự thay đổi KT chung về CNTC ở PNCC trước và sau CT Huyện Trước can thiệp Sau can thiệp p KTC95% sự thay đổi TB ĐLC TB ĐLC Đại Từ 8,7* 2,8 13,3** 4,5 <0,001 4,1-5,0 Đồng Hỷ 8,9* 3,2 8,8** 3,9 >0,05 (-0,54)-0,27 Chung 8,83 3,0 10,93 4,7 <0,001 1,78-2,43 * p>0,05; ** p<0,001 Sau can thiệp, điểm trung bình kiến thức chung về CNTC của phụ nữ ở huyện Đại Từ là 13,3 điểm, tăng hơn so với giai đoạn trước can thiệp khoảng 4,7 điểm (p<0,001). Với huyện Đồng Hỷ, không có sự khác biệt so với giai đoạn trước can thiệp (p>0,05). Bảng 2: Mô hình đa biến về sự thay đổi kiến thức chung về chửa ngoài tử cung ở phụ nữ có chồng trước và sau can thiệp* Biến số Hệ số hồi qui (β) Sai số chuẩn KTC95% của hệ số hồi qui Nhóm can thiệp - Không can thiệp - Can thiệp 4,4 0,29 3,8-5,0 Chênh với tuổi TB mẫu -0,003 0,02 -0,05-0,04 Nghề nghiệp - Nghề khác - Làm ruộng 1,07 0,54 0,008-2,13 Trình độ học vấn - Từ THCS trở xuống - Trên THCS 0,33 0,49 -0,63-1,3 12 Dân tộc - Dân tộc khác - Dân tộc Kinh -0,48 0,39 -1,25-0,28 Nghe CNTC trước CT - Chưa nghe về CNTC - Đã nghe về CNTC -2,9 0,3 -3,5- (-2,36) n=1094; R2=0,26; F=62; p=0,000; Hệ số β0= 1,26 * Biến phụ thuộc: Điểm chênh lệch giữa kiến thức chung về CNTC của PNCC trước và sau can thiệp (Điểm chênh KT) * Biến độc lập chính: Can thiệp Phương trình tuyến tính: Điểm chênh KT = 1,26 +4,4*(can thiệp) - 0,003*(cTUOI) +1,07*(nghề nghiệp) +0,33*(trình độ học vấn)-0,48*(dân tộc) – 2,9*(nghe về CNTC) Trong phân tích hồi quy tuyến tính đa biến với biến phụ thuộc là điểm chênh kiến thức về CNTC của PNCC trước và sau can thiệp cho thấy: ở các nhóm PNCC có nghề nghiệp, trình độ học vấn, dân tộc và tình trạng nghe về CNTC trước can thiệp như nhau thì điểm chênh kiến thức về CNTC giữa trước và sau can thiệp ở PNCC huyện Đại Từ cao hơn PNCC huyện Đồng Hỷ là 4,4 điểm (p<0,001) Bảng 3: Thái độ về CNTC của PNCC trước và sau can thiệp Huyện Trước can thiệp Sau can thiệp p KTC95% sự thay đổi TB ĐLC TB ĐLC Đại Từ 53,8* 5,6 60,1** 4,5 <0,001 5,7-6,9 Đồng Hỷ 53,1* 7,1 53,8** 6,8 >0,05 (-0,1)-1,5 Chung 53,4 6,4 56,8 6,6 <0,001 2,8-3,9 * p>0,05; ** p<0,001 Thái độ về CNTC của phụ nữ cũng được tổng hợp từ những nội dung chi tiết để có điểm thái độ chung. Điểm trung bình thái độ về CNTC của phụ nữ có chồng của huyện Đại Từ trước can thiệp là 53,8 và sau can thiệp đã tăng khoảng từ 5,7-6,9 điểm lên 60,1 điểm (p<0,001). Ở huyện Đồng Hỷ, điểm trung bình thái độ về CNTC ở giai đoạn đánh giá ban đầu là 53,1 không khác với giai đoạn đánh giá sau (p>0,05). 13 Không có sự khác biệt về điểm trung bình thái độ về CNTC của phụ nữ ở giai đoạn trước can thiệp (p>0,05). Ở giai đoạn sau can thiệp thì điểm trung bình thái độ về CNTC của nhóm phụ nữ ở huyện Đại Từ cao hơn ở huyện Đồng Hỷ khoảng 6 điểm (p<0,001). Bảng 4: Mô hình đa biến về sự thay đổi thái độ với chửa ngoài tử cung ở phụ nữ có chồng trước và sau can thiệp* Biến số Hệ số hồi qui (β) Sai số chuẩn KTC95% của hệ số hồi qui Nhóm can thiệp - Không can thiệp - Can thiệp 3,61 0,6 2,5-4,7 Chênh kiến thức 0,42 0,05 0,3-0,5 Trình độ học vấn - Từ THCS trở xuống - Trên THCS -1,04 0,67 -2,4 - 0,28 Nghe về CNTC trước CT - Chưa nghe về CNTC - Đã nghe về CNTC -0,74 0,54 -1,8- 0,33 n=1091; R2=0,16; F=52; p=0,000; Hệ số β0= 1,39 * Biến phụ thuộc: Điểm chênh lệch thái độ về CNTC của PNCC trước và sau can thiệp (Điểm chênh thái độ) * Biến độc lập chính: Can thiệp Phương trình tuyến tính: Điểm chênh TĐ =1,39+3,6*(can thiệp)+0,42*(chênh kiến thức)-1,04*(trình độ học vấn) -0,74*(nghe về CNTC) Trong phân tích hồi quy tuyến tính đa biến với biến phụ thuộc là điểm chênh thái độ về CNTC của PNCC trước và sau can thiệp cho thấy: ở các nhóm PNCC có điểm chênh kiến thức, trình độ học vấn và tình trạng nghe về CNTC trước can thiệp như nhau thì điểm chênh thái độ về CNTC giữa trước và sau can thiệp ở PNCC huyện Đại Từ cao hơn PNCC huyện Đồng Hỷ là 3,6 điểm (p<0,001). 14 Thực hành của PNCC hướng tới chẩn đoán sớm CNTC cũng được hỏi với những nội dung chi tiết như đi khám thai, thời điểm khám, siêu âmTừ các nội dung chi tiết NCV đã tổng hợp thành biến thực hành chung. Bảng 5: Sự thay đổi thực hành hướng tới chẩn đoán sớm chửa ngoài tử cung của phụ nữ 15-49 tuổi Huyện Trước can thiệp Sau can thiệp p KTC95% sự thay đổi TB ĐLC TB ĐLC Đại Từ 7,0* 3,5 10,3** 2,5 <0,001 2,4-4,9 Đồng Hỷ 6,8* 3,8 6,8** 3,8 >0,05 (-1,4)-1,0 Chung 6,9 3,6 8,4 3,7 <0,01 0,7-2,5 * p>0,05; ** p<0,001 Điểm thực hành về CNTC của phụ nữ Đại Từ và Đồng Hỷ trước can thiệp không khác biệt (p>0,05). Sau can thiệp, điểm thực hành về CNTC trung bình ở phụ nữ Đại Từ tăng lên 10,3 điểm cao hơn so với trước can thiệp (p<0,01); ở nhóm phụ nữ của Đồng Hỷ thì điểm thực hành TB về CNTC ở giai đoạn đánh giá sau cũng là 6,8 điểm, không khác so với giai đoạn đánh giá trước (p>0,05). Bảng 6: Mô hình đa biến về sự thay đổi thực hành hướng tới chẩn đoán sớm chửa ngoài tử cung ở PNCC trước và sau can thiệp* Biến số Hệ số hồi qui (β) Sai số chuẩn KTC95% của hệ số hồi qui Nhóm can thiệp - Không can thiệp - Can thiệp - 3,68 - 0,92 - 1,85-5,5 Chênh thái độ trước và sau can thiệp 0,1 0,04 0,01-0,19 Chênh với tuổi TB mẫu (cTUOI) 0,11 0,08 (-0,04) - 0,26 Nghề nghiệp - Nghề khác - Làm ruộng - 1,67 - 1,2 - (-0,67)-4,0 15 Nghe về CNTC trước CT - Chưa nghe về CNTC - Đã nghe về CNTC - -1,4 - 0,9 - (-3,1)- 0,35 n=131; R2=0,23; F=7,5; p=0,000; Hệ số β0= -0,78 * Biến phụ thuộc: Điểm chênh lệch thực hành về CNTC của PNCC trước và sau can thiệp (Điểm chênh TH) * Biến độc lập chính: Can thiệp Phương trình tuyến tính: Điểm chênh TH =-0,78+3,68*(can thiệp)+0,1*(chênh TĐ)-0,11*(cTUOI) +1,67*(nghề nghiệp) -1,4*(nghe về CNTC) Trong phân tích hồi quy tuyến tính đa biến với biến phụ thuộc là điểm chênh thực hành về CNTC của PNCC trước và sau can thiệp cho thấy: ở các nhóm PNCC có nghề nghiệp, điểm chênh thái độ trước và sau can thiệp, chênh của tuổi so với tuổi TB của mẫu nghiên cứu và tình trạng nghe về CNTC trước can thiệp như nhau thì điểm chênh thực hành về CNTC ở PNCC huyện Đại Từ cao hơn PNCC huyện Đồng Hỷ là 3,7 điểm (p<0,001). Bảng 7: Hiệu quả chương trình can thiệp lên kiến thức, thái độ, thực hành hướng tới chẩn đoán sớm CNTC của phụ nữ có chồng Kiến thức, thái độ, thực hành Trước can thiệp (%) Sau can thiệp (%) Chỉ số hiệu quả (%) Hiệu quả can thiệp Kiến thức >8,8 điểm Đồng Hỷ 49,6 58,0 16,9 75,8 Đại Từ 46,7 90,0 92,7 Thái độ >53,3 điểm Đồng Hỷ 57,2 61,3 7,2 72,1 Đại Từ 51,1 91,6 79,2 Thực hành >6,9 điểm Đồng Hỷ 58,7 57,7 -1,7 68,4 Đại Từ 56,2 93,7 66,7 Chỉ số hiệu quả ở huyện Đồng Hỷ (nhóm chứng) là 16,9% và ở huyện Đại Từ là 92,7%. Hiệu quả can thiệp lên kiến thức của PNCC về CNTC là 75,8%. Về thái độ, chỉ số hiệu quả ở huyện Đồng Hỷ là 7,2%; chỉ số hiệu quả là 79,2%. Hiệu quả can thiệp lên thái độ của PNCC về CNTC là 72,1%. Chỉ số hiệu quả ở huyện Đồng Hỷ là - 1,7% và ở huyện Đại Từ là 66,7%. HQCT lên thực hành của PNCC hướng tới chẩn đoán sớm CNTC là 68,4%. 16 3.2 Sự thay đổi kiến thức, thực hành của cán bộ y tế Kiến thức, thực hành của CBYT hướng tới chẩn đoán sớm CNTC cũng được đánh giá với các nội dung chi tiết, từ đó NCV tổng hợp thành các biến chung về kiến thức, thực hành. Bảng 8: Sự thay đổi kiến thức chung về CNTC của cán bộ y tế Huyện Trước can thiệp Sau can thiệp p KTC95% sự thay đổi TB ĐLC TB ĐLC Đại Từ 17,2* 3,1 23,8** 3,4 <0,001 6,0-7,5 Đồng Hỷ 17,5* 2,5 18,6** 3,2 <0,01 0,4-1,8 Chung 17,3 2,8 21,0 4,2 <0,001 3,1-4,3 * p>0,05; ** p<0,001 Kiểm định t ghép cặp chỉ sử dụng với những đối tượng có thông tin cả trước và sau can thiệp: Với Đại Từ, kiểm định trên 115 cán bộ y tế, với Đồng Hỷ kiểm định trên 136 cán bộ y tế Điểm trung bình kiến thức chung về CNTC của CBYT ở Đại Từ trước can thiệp là 17,2 điểm và ở Đồng Hỷ là 17,5 điểm. Không có sự khác biệt về điểm trung bình kiến thức chung về CNTC giữa hai nhóm (p>0,05) ở giai đoạn trước can thiệp. Sau can thiệp, điểm trung bình kiến thức chung về CNTC của CBYT ở Đại Từ là 23,8 điểm, tăng hơn so với giai đoạn trước can thiệp khoảng 7 điểm (p<0,001). Bảng 9: Mô hình đa biến về sự thay đổi kiến thức chung CNTC ở CBYT trước và sau can thiệp* Biến số Hệ số hồi qui (β) Sai số chuẩn KTC95% của hệ số hồi qui Nhóm can thiệp - Không can thiệp - Can thiệp - 5,5 - 0,52 - 4,5-6,6 Thời gian công tác - Dưới 2 năm** - Từ 2- 5 năm - Trên 5 năm - -1,47 0,03 - 0,9 0,8 - (-3,2)-0,3 (-1,6)-1,7 17 Nơi công tác - Y tế thôn bản** - Tuyến xã - Tuyến huyện - -0,7 -0,3 - 0,7 0,8 - (-2,0)- 0,64 (-1,9)-1,3 n=251; R2=0,34; F=20,8; p=0,000; Hệ số β0= 1,85 * Biến phụ thuộc: Điểm chênh lệch kiến thức về CNTC của CBYT trước và sau can thiệp (Điểm chênh kiến thức) * Biến độc lập chính: Can thiệp ** Nhóm so sánh Phương trình tuyến tính: Điểm chênh kiến thức=1,85+5,5*(can thiệp)-1,47*(công tác từ 2-5 năm)+0,03*(công tác trên 5 năm) -0,7*(công tác tuyến xã)- 0,3*(công tác tuyến huyện) Trong phân tích hồi quy tuyến tính đa biến (Bảng 9) với biến phụ thuộc là điểm chênh kiến thức về CNTC của CBYT trước và sau can thiệp cho thấy: ở các nhóm CBYT có thời gian công tác và nơi công tác như nhau thì điểm chênh kiến thức giữa trước và sau can thiệp ở CBYT huyện Đại Từ cao hơn CBYT huyện Đồng Hỷ là 5,5 điểm (p<0,001). Bảng 10: Thực hành về CNTC của CBYT trước và sau can thiệp Huyện Trước can thiệp Sau can thiệp p KTC95% sự thay đổi TB ĐLC TB ĐLC Đại Từ 11,9** 2,3 13,1 2,1 <0,001 0,5-1,5 Đồng Hỷ 11,3** 1,8 11,2 2,5 >0,05 (-0,7)-0,3 Chung 11,6 2,1 12,1 2,5 >0,05 (-0,04)-0,73 * *p<0,05; *** p<0,001 Kiểm định t ghép cặp chỉ sử dụng với những đối tượng có thông tin cả trước và sau cạn thiệp: Với Đại Từ, kiểm định trên 115 cán bộ y tế, với Đồng Hỷ kiểm định trên 136 cán bộ y tế Điểm trung bình thực hành hướng tới chẩn đoán sớm CNTC của CBYT ở huyện Đại Từ trước can thiệp là 11,9 điểm và ở huyện Đồng Hỷ là 11,3 điểm. Không có sự khác biệt về điểm trung bình thực hành chung về CNTC giữa hai nhóm (p>0,05) ở giai đoạn trước can thiệp. Sau can thiệp, điểm trung bình thực hành chung hướng tới 18 chẩn đoán sớm CNTC của CBYT ở huyện Đại Từ là 13,1 điểm, tăng hơn so với giai đoạn trước can thiệp khoảng 1,2 điểm (p<0,001). Bảng 11: Mô hình đa biến về sự thay đổi thực hành hướng tới chẩn đoán sớm CNTC ở CBYT trước và sau can thiệp* Biến số Hệ số hồi qui (β) Sai số chuẩn KTC95% của hệ số hồi qui Nhóm can thiệp - Không can thiệp - Can thiệp 1,24 0,38 0,5-2,0 Chênh với tuổi TB mẫu 0,03 0,03 (-0,03) - 0,08 Thời gian công tác - Dưới 2 năm** - Từ 2- 5 năm - Trên 5 năm -0,39 -0,32 0,67 0,64 (-1,7)-0,93 (-1,6)-0,94 Nơi công tác - Y tế thôn bản** - Tuyến xã - Tuyến huyện -0,79 1,23 0,5 0,6 (-1,8)- 0,2 0,1-2,4 Dân tộc - Dân tộc khác - Dân tộc kinh -1,85 0,7 0,14-3,4 n=251; R2=0,10; F=4,1; p=0,000; Hệ số β0= 1,79 * Biến phụ thuộc: Điểm chênh lệch thực hành về CNTC của CBYT trước và sau can thiệp (Điểm chênh TH) * Biến độc lập chính: Can thiệp ** Nhóm so sánh Phương trình tuyến tính: Điểm chênh thực hành =1,79+1,24*(can thiệp) -0,39*(công tác từ 2-5 năm)-0,32*(công tác trên 5 năm) -0,79*(công tác tuyến xã) +1,23*(công tác tuyến huyện) +0,03*(cTUOI) -1,85*(dân tộc) Trong phân tích hồi quy tuyến tính đa biến với biến phụ thuộc là điểm chênh thực hành về CNTC của CBYT trước và sau can thiệp cho thấy: ở các nhóm CBYT có thời gian công tác, nơi công tác, dân tộc và chênh của tuổi so với tuổi trung bình mẫu như nhau thì điểm 19 chênh thực hành về CNTC giữa trước và sau can thiệp ở CBYT huyện Đại Từ cao hơn CBYT huyện Đồng Hỷ là 1,24 điểm (p<0,01). Bảng 12: Hiệu quả chương trình can thiệp lên kiến thức, thực hành hướng tới chẩn đoán sớm chửa ngoài tử cung của cán bộ y tế Kiến thức, thực hành theo nhóm nghiên cứu Trước CT (%) Sau CT (%) Chỉ số hiệu quả (%) Hiệu quả can thiệp Kiến thức >17,3 điểm Đồng Hỷ 61,0 63,2 3,6 50,0 Đại Từ 61,7 94,8 53,6 Thực hành >11,6 điểm Đồng Hỷ 45,6 51,5 12,9 27,1 Đại Từ 56,5 79,1 40,0 Chỉ số hiệu quả ở huyện Đồng Hỷ (nhóm chứng) là 3,6% và ở huyện Đại Từ là 53,6%. Hiệu quả can thiệp lên kiến thức của CBYT về CNTC là 50,0%. Chỉ số hiệu quả ở huyện Đồng Hỷ là 12,9% và ở huyện Đại Từ là 40,0%. Hiệu quả can thiệp lên thực hành của CBYT hướng tới chẩn đoán sớm CNTC là 27,1% CHƯƠNG 4: BÀN LUẬN Sau can thiệp, tỷ lệ PNCC mất theo dõi (không phỏng vấn được) ở hai địa bàn tương đối khác nhau: huyện Đại Từ là 12,7% và huyện Đồng Hỷ là 2,5%, tuy nhiên khi phân tích nhóm đối tượng mất theo dõi thì đặc điểm chung của nhóm này không có sự khác biệt và cũng không khác những đối tượng mà nghiên cứu đã phỏng vấn lại được. Với CBYT ở hai địa bàn cũng có những đặc điểm chung tương đồng, ở huyện Đại Từ tỷ lệ CBYT không phỏng vấn lại được sau can thiệp cao hơn so với huyện Đồng Hỷ chủ yếu là ở nhóm YTTB do không làm nữa và đổi người mới, tuy vậy nhóm phỏng vấn được và không phỏng vấn được cũng không có gì khác biệt. 4.1 Sự thay đổi kiến thức, thái độ, thực hành hướng tới chẩn đoán sớm CNTC của phụ nữ có chồng trước và sau can thiệp Sau can thiệp điểm kiến thức, thái độ, thực hành hướng tới chẩn đoán sớm CNTC của PNCC ở huyện Đại Từ đều cao hơn so với huyện 20 Đồng Hỷ. Trong các mô hình hồi qui tuyến tính đa biến cũng cho thấy nhóm can thiệp (huyện Đại Từ) có điểm kiến thức chung, điểm thái độ và điểm thực hành về CNTC cao hơn nhóm chứng (huyện Đồng Hỷ) sau khi đã khống chế một số yếu tố. Những sự khác biệt này cho thấy chương trình can thiệp đã có hiệu quả trong việc tăng cường kiến thức, thái độ, thực hành về CNTC ở địa bàn can thiệp, thể hiện ở các chỉ số sau can thiệp tốt hơn so với giai đoạn trước can thiệp. Ở nhóm chứng không có các hoạt động can thiệp thì kiến thức, thái độ, thực hành của PNCC về CNTC không có sự thay đổi giữa đánh giá trước và sau. Khi so sánh giữa hai nhóm, ở giai đoạn đánh giá trước, kiến thức, thái độ và thực hành hướng tới chẩn đoán sớm CNTC của PNCC hai địa bàn là tương đương nhau. Kết quả này cũng tương tự nghiên cứu của tác giả Bùi Thị Thu Hà ở Chí Linh. 4.2 Sự thay đổi kiến thức, thực hành hướng tới chẩn đoán sớm chửa ngoài tử cung của cán bộ y tế trước và sau can thiệp Kiến thức chung và thực hành hướng tới chẩn đoán sớm CNTC của CBYT huyện Đại Từ và huyện Đồng Hỷ ở đánh giá trước can thiệp là như nhau. Sau can thiệp, điểm trung bình kiến thức về CNTC của CBYT Đại Từ cao hơn so với trước can thiệp khoảng 6,6 điểm; điểm trung bình kiến thức của Đồng Hỷ cũng tăng so với giai đoạn đánh giá trước khoảng 1,1 điểm (95%CI: 0,4-1,8). Như vậy có thể thấy cho dù ở Đồng Hỷ, địa bàn không can thiệp kiến thức của CBYT cũng tăng nhưng mức độ tăng trung bình rất ít so với Đại Từ. Có sự cải thiện về kiến thức CNTC của CBYT ở Đồng Hỷ cho dù không nhận bất kỳ một can thiệp nào là do tác động của đánh giá trước can thiệp, ở giai đoạn này CBYT được hỏi các câu hỏi về CNTC và với những người không biết hoặc không chắc chắn họ có thể tự tìm hiểu, đọc lại các kiến thức về CNTC nên họ đã có kiến thức tốt hơn, trả lời tốt hơn ở giai đoạn đánh giá sau. Ở Đại Từ cũng có thể có tình trạng 21 này, tuy nhiên sự cải thiện về kiến thức của CBYT là nhiều hơn so với Đồng Hỷ nên phần tăng nhiều hơn chính là do sự góp phần của các hoạt động can thiệp. Trong mô hình đa biến cũng cho kết quả điểm trung bình kiến thức CNTC của CBYT ở Đại Từ cao hơn Đồng Hỷ khoảng 5,5 điểm. Về thực hành, điểm trung bình của CBYT Đại Từ sau can thiệp cao hơn so với trước can thiệp trong khi ở Đồng Hỷ không có sự thay đổi. Như vậy có thể thấy can thiệp ở Đại Từ đã làm tăng thực hành của CBYT hướng tới chẩn đoán sớm CNTC, đây là một kết quả mà nghiên cứu tại Chí Linh đã chưa chứng minh được. 4.3 Chương trình can thiệp hướng tới chẩn đoán sớm CNTC Mô hình PRECEDE – PROCEED có tác động vào 3 nhóm yếu tố chính: (1) Yếu tố tiền đề (2) Yếu tố cho phép và (3) Yếu tố tăng cường. Các hoạt động can thiệp trong NC của chúng tôi cũng tương đối tương đồng so với nghiên cứu ở Chí Linh, điểm khác biệt giữa hai chương trình can thiệp là chúng tôi đã không cung cấp đầu dò âm đạo cho siêu âm ở Đại Từ cũng như không thể mời cán bộ khoa Sản bệnh viện huyện về học thêm chuyên môn ở các bệnh viện tuyến trên do nguồn lực có hạn. Ngoài ra với can thiệp tại huyện Đại Từ, chúng tôi sử dụng GSV, ĐTV cũng như những người thực hiện can thiệp khác so với can thiệp tại Chí Linh do tại Đại Từ không có hệ thống giám sát dân số học và không có các GSV, ĐTV chuyên nghiệp. Chương trình can thiệp cũng nhận được phản hồi tích cực từ phía cán bộ y tế địa phương và cộng đồng. Hầu hết phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ tại 6 xã can thiệp đều nhận được tờ rơi về CNTC, nội dung tờ rơi nói chung và nội dung các bài phát thanh, tư vấn được đánh giá là dễ hiểu và phù hợp. Khung lý thuyết PRECEDE-PROCEED được sử dụng nhiều để lập kế hoạch can thiệp trong nâng cao sức khỏe và đã được áp dụng thành công tại nhiều lĩnh vực khác nhau. Nghiên cứu 22 tại Đại Từ một lần nữa chứng minh mô hình PRECEDE-PROCEED có thể được sử dụng trong các can thiệp về sức khỏe sinh sản. 4.4 Ưu điểm và hạn chế của nghiên cứu Những điểm mới, ưu điểm của NC NCV sử dụng thiết kế đánh giá trước sau và có nhóm chứng vì vậy đã cung cấp những bằng chứng tốt hơn về hiệu quả của chương trình can thiệp. Mô hình PRECEDE-PROCEED lần đầu được áp dụng vào một chương trình can thiệp SKSS tại tỉnh Thái Nguyên nói chung và huyện Đại Từ nói riêng. Qua chương trình can thiệp này bản thân NCV cũng như các cán bộ tham gia NC đã học hỏi và nâng cao năng lực trong triển khai một chương trình can thiệp ở cộng đồng. Việc tuyên truyền về CNTC dựa trên nền tảng là CBYT tuyến xã và y tế thôn bản cùng với kết hợp nhiều kênh truyền thông là một nội dung mới được triển khai tại huyện Đại Từ. Mô hình can thiệp đã huy động được sự tham gia của sinh viên trường Đại học Y- Dược Thái Nguyên qua đó sinh viên cũng có cơ hội được học và trải nghiệm một chương trình can thiệp và được áp dụng những gì đã học trong lý thuyết vào thực tế. Một số hạn chế của nghiên cứu Nghiên cứu đã sử dụng ĐTV là CBYT tuyến huyện của chính địa bàn NC nên có thể ảnh hưởng đến kết quả NC khi CBYT ý thức được mục tiêu NC cũng như họ cũng chính là một trong những đối tượng của chương trình can thiệp. NC dựa trên mô hình PRECEDE- PROCEED nhưng các nội dung can thiệp đã không bao trùm được hết các khía cạnh của mô hình, đặc biệt với yếu tố cho phép và yếu tố tăng cường do nguồn lực có hạn. Nếu các hoạt động can thiệp được triển khai một cách toàn diện hơn thì chắc chắn kết quả can thiệp sẽ tốt hơn. Thời điểm trước can thiệp, các thông tin về thực hành hướng tới chẩn đoán sớm CNTC ở các phụ nữ đã có thai/ có con có thể có những sai số nhớ lại do khoảng thời gian nhớ lại có thể quá dài. 23 KẾT LUẬN 5.1 Kiến thức, thái độ, thực hành của phụ nữ có chồng hướng tới chẩn đoán sớm chửa ngoài tử cung Kiến thức chung của PNCC ở huyện Đại Từ về CNTC sau can thiệp cao hơn trước can thiệp 1,4 điểm (95%CI: 1,0-1,8 điểm). Trung bình điểm chênh kiến thức về CNTC giữa trước và sau can thiệp của PNCC huyện Đại Từ cao hơn huyện Đồng Hỷ 4,4 điểm (95%CI: 3,8- 5,0) ở các nhóm PNCC có tuổi, nghề nghiệp, trình độ học vấn, dân tộc và tình trạng nghe về CNTC trước can thiệp như nhau. Chỉ số hiệu quả can thiệp lên kiến thức của PNCC là 75,8%. - Thái độ chung của PNCC ở huyện Đại Từ về CNTC sau can thiệp cao hơn trước can thiệp 6,3 điểm (95%CI: 5,7-6,9 điểm). Trung bình điểm chênh thái về CNTC giữa trước và sau can thiệp của PNCC huyện Đại Từ cao hơn huyện Đồng Hỷ 3,6 điểm (95%CI: 2,5- 4,7) ở các nhóm PNCC có điểm chênh kiến thức, trình độ học vấn và tình trạng nghe về CNTC trước can thiệp như nhau. Chỉ số hiệu quả can thiệp lên thái độ của PNCC là 72,1%. - Thực hành chung của PNCC ở huyện Đại Từ hướng tới chẩn đoán sớm CNTC sau can thiệp cao hơn trước can thiệp 3,3 điểm (95%CI: 2,4-4,9). Trung bình điểm chênh thực hành hướng tới chẩn đoán sớm CNTC giữa trước và sau can thiệp của phụ nữ mang thai/ sinh đẻ ở huyện Đại Từ cao hơn huyện Đồng Hỷ khoảng 3,7 điểm (95%CI: 1,9-5,5) ở các nhóm phụ nữ có điểm chênh thái độ, tuổi, nghề nghiệp và tình trạng nghe về CNTC trước can thiệp như nhau. Chỉ số hiệu quả can thiệp lên thực hành của PNCC là 68,4%. 5.2 Kiến thức, thực hành của cán bộ y tế hướng tới chẩn đoán sớm chửa ngoài tử cung - Kiến thức chung của CBYT ở Đại Từ về CNTC sau can thiệp cao hơn trước can thiệp 6,6 điểm (95%CI: 6,0-7,5). Trung bình điểm chênh kiến thức về CNTC giữa trước và sau can thiệp của CBYT 24 huyện Đại Từ cao hơn huyện Đồng Hỷ khoảng 5,5 điểm (95%CI: 4,5-6,6) ở các nhóm CBYT có thời gian công tác và nơi công tác như nhau. Chỉ số hiệu quả can thiệp lên kiến thức của CBYT là 50,0%. - Thực hành của CBYT huyện Đại Từ hướng tới chẩn đoán sớm CNTC sau can thiệp cao hơn trước can thiệp 1,2 điểm (95%CI: 0,5- 1,5). Trung bình điểm chênh trong thực hành hướng tới chẩn đoán sớm CNTC giữa trước và sau can thiệp của CBYT huyện Đại Từ cao hơn huyện Đồng Hỷ khoảng 1,2 điểm (95%CI: 0,5-2,0) ở các nhóm CBYT có tuổi, thời gian công tác, nơi công tác, dân tộc như nhau. Chỉ số hiệu quả can thiệp lên thực hành của CBYT là 27,1%. KHUYẾN NGHỊ - Các xã huyện Đại Từ (6 xã) đã triển khai chương trình can thiệp có thể duy trì hoạt động can thiệp với những tài liệu đã được chuẩn bị, nên duy trì các buổi phát thanh. CBYT cần duy trì tư vấn cho PNCC về CNTC và các dấu hiệu của CNTCC nhằm tăng cường kiến thức của PNCC từ đó tăng cường khả năng phát hiện sớm CNTC. - Các nhà quản lý y tế huyện Đại Từ có thể mở rộng chương trình can thiệp ra các xã khác trong huyện, sử dụng các bài phát thanh, nội dung tuyên truyền về CNTC đã có, in thêm tờ rơi để có thể phát cho PNCC. CBYT huyện có thể sử dụng các tài liệu tập huấn CNTC đã được cung cấp để tập huấn mới và tập huấn lại cho các CBYT tuyến xã và YTTB ở cả các xã đã can thiệp và các xã mới. - Các nhà quản lý Y tế huyện Đồng Hỷ có thể triển khai chương trình can thiệp SKSS nói chung với mô hình tương tự như ở Đại Từ.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfdanh_gia_chuong_trinh_can_thiep_thay_doi_hanh_vi_nham_tang_kha_nang_chuan_doan_som_chua_ngoai_tu_cun.pdf
Luận văn liên quan