Tóm tắt Luận án Phương pháp xây dựng và tính chỉ số tổng hợp đánh giá chất lượng cuộc sống ở Việt Nam

Trong nhiều năm qua, CLCS đã là vấn đề thu hút sự quan tâm của nhiều đối tượng như các nhà nghiên cứu, nhà hoạch định chính sách, người dân trên khắp thế giới. Ở Việt Nam, mặc dù CLCS là vấn đề đã được đặt ra trong các chương trình nghị sự quốc gia nhưng các nghiên cứu về CLCS vẫn còn hạn chế. Trên thực tế, CLCS của người dân Việt Nam được cải thiện tương đối chậm và bị nhiều tổ chức quốc tế đánh giá ở mức thấp so với các quốc gia trên thế giới. Luận án được thực hiện với mong muốn góp phần lấp đầy một góc nhỏ trong khoảng trống nghiên cứu lớn về CLCS ở Việt Nam. Với mục tiêu chính là đề xuất phương pháp xây dựng và tính chỉ số tổng hợp CLCS ở Việt Nam, luận án đã lần lượt trả lời các câu hỏi nghiên cứu đặt ra. Kết quả nghiên cứu cho thấy, có nhiều cách tiếp cận khác nhau khi nghiên cứu và đo lường CLCS. Tuy nhiên, với quan điểm phát triển của Việt Nam hiện nay, CLCS ở Việt Nam gắn liền với phát triển con người, phát triển kinh tế, phát triển văn hóa, công bằng xã hội và xây dựng môi trường sống lành mạnh và an toàn. Vì vậy, luận án đã lựa chọn nghiên cứu và đo lường CLCS theo cách tiếp cận năng lực kết hợp với cách tiếp cận hạnh phúc chủ quan. Khi đó, CLCS ở Việt Nam được hiểu là: “mức độ đáp ứng các nhu cầu về điều kiện sống khách quan của con người trong mối liên hệ với các cảm nhận của cá nhân về sự hạnh phúc chủ quan”. Trong đó, CLCS khách quan bao gồm 10 thành phần: điều kiện kinh tế; điều kiện nhà ở và cơ sở hạ tầng căn bản; giáo dục; y tế; quan hệ gia đình; tham gia sinh hoạt cộng đồng và các hoạt động vui chơi giải trí; môi trường; an ninh, an toàn xã hội; quản trị; và quyền chính trị. CLCS chủ quan được đánh giá qua trạng thái hạnh phúc chủ quan với thành phần sự hài lòng với tổng thể cuộc sống

pdf13 trang | Chia sẻ: yenxoi77 | Lượt xem: 420 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tóm tắt Luận án Phương pháp xây dựng và tính chỉ số tổng hợp đánh giá chất lượng cuộc sống ở Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1 PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Vấn đề chất lượng cuộc sống (CLCS) (tiếng anh là Quality of Life) và nâng cao CLCS của người dân là nội dung chủ yếu trong chiến lược phát triển con người. Đây là mục tiêu hàng đầu trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội (KTXH) của mọi quốc gia, là vấn đề được nhiều nước trên thế giới cũng như Việt Nam hết sức quan tâm. Trong những năm qua, dựa trên nền những nghiên cứu về CLCS của các học giả trên toàn thế giới, nhiều tổ chức quốc tế cũng như nhiều quốc gia đã đưa ra các quan điểm, khái niệm hay định nghĩa khác nhau về CLCS, tùy thuộc vào trình độ phát triển, quan niệm văn hóa xã hội, truyền thống của mỗi dân tộc, mỗi quốc gia. Cùng với việc xây dựng khái niệm về CLCS, các tổ chức quốc tế và các quốc gia cũng nghiên cứu và xây dựng các hệ thống chỉ tiêu đo lường CLCS, mức độ hài lòng, hạnh phúc về cuộc sống. Trên cơ sở các chỉ tiêu này, các tổ chức cũng như các quốc gia đã tính chỉ số tổng hợp nhằm đánh giá CLCS của người dân, sự thay đổi CLCS qua thời gian hay so sánh giữa các quốc gia, vùng, miền hay cộng đồng dân cư. Tuy nhiên, ở Việt Nam, những nghiên cứu mang tính học thuật về chủ đề này còn tương đối ít. CLCS của Việt Nam mới chỉ được quốc tế đánh giá và so sánh trên bình diện thế giới. Ở tầm quốc gia, chúng ta mới dừng lại ở những cuộc luận bàn, trao đổi về khái niệm mà chưa làm rõ cơ sở lý luận hay bối cảnh hình thành nên khái niệm. Một số nghiên cứu khác mới chỉ xem xét một phần của CLCS như sự hài lòng với cuộc sống hay đo lường CLCS của từng nhóm người riêng biệt như trẻ em, người cao tuổi dưới góc độ tâm lý học, y tế... Bản thân khái niệm và nội hàm của khái niệm CLCS ở Việt Nam hiện chưa được làm rõ. Các chỉ tiêu đo lường CLCS nằm rải rác và không có hệ thống nên không cho phép đánh giá một cách toàn diện về CLCS. Đây chính là khoảng trống nghiên cứu về CLCS ở Việt Nam. Xuất phát từ cơ sở thực tiễn về mặt chính sách và khoảng trống nghiên cứu, việc thực hiện luận án “Phương pháp xây dựng và tính chỉ số tổng hợp đánh giá chất lượng cuộc sống ở Việt Nam” là hoàn toàn cần thiết. 2 2. Mục đích nghiên cứu Mục đích nghiên cứu của luận án là trên cơ sở xác định khung khái niệm về CLCS, xây dựng hệ thống chỉ tiêu thống kê đo lường CLCS và phương pháp tính chỉ số tổng hợp CLCS nhằm phục vụ cho công tác quản lý vĩ mô nền kinh tế - xã hội và hoạt động so sánh, đánh giá CLCS ở Việt Nam. Để đạt được mục đích trên, luận án phải trả lời các câu hỏi nghiên cứu sau: - Nghiên cứu về CLCS ở Việt Nam nên được thực hiện theo hướng nào? - Khái niệm CLCS ở Việt Nam được hiểu như thế nào? Cấu trúc của khái niệm CLCS bao gồm những thành phần gì? - Hệ thống chỉ tiêu thống kê đo lường CLCS ở Việt Nam được xây dựng như thế nào và sẽ bao gồm những chỉ tiêu gì? - Chỉ số tổng hợp CLCS được xây dựng theo phương pháp luận nào? Trọng số và phương pháp tổng hợp chỉ số được xác định như thế nào? 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án là CLCS ở Việt Nam, hệ thống chỉ tiêu thống kê đo lường CLCS và chỉ số tổng hợp CLCS ở Việt Nam. Tuy nhiên, do CLCS là một chủ đề nghiên cứu lớn trong khi nguồn số liệu còn nhiều hạn chế nên luận án chỉ giới hạn trong đo lường khía cạnh khách quan mà tạm thời chưa xem xét đến việc đo lường khía cạnh chủ quan của CLCS. Số liệu năm 2016 sẽ được thu thập nhằm phục vụ cho việc tính thử nghiệm chỉ số tổng hợp CLCS ở cấp quốc gia. 4. Phương pháp nghiên cứu Do đây là một trong những vấn đề mới, chưa được nghiên cứu nhiều ở Việt Nam nên phương pháp nghiên cứu định tính bao gồm tổng quan tài liệu và phỏng vấn sâu chuyên gia được sử dụng xuyên suốt nhằm tìm hiểu, khám phá vấn đề, như hướng tiếp cận nghiên cứu và đo lường CLCS, các thành phần của CLCS; hệ thống chỉ tiêu thống kê đo lường CLCS; phương pháp tính chỉ số tổng hợp; Bên cạnh đó, để tính thử nghiệm chỉ số tổng hợp CLCS, luận án sử dụng phương pháp thu thập dữ liệu thứ cấp từ các nguồn sẵn có; phương pháp thu thập dữ liệu sơ cấp qua phỏng vấn chuyên gia nhằm xác định trọng số cho các chỉ số thành phần; phương pháp xử lý và phân tích dữ liệu; phương pháp so sánh, đánh giá trong nghiên cứu sự ảnh hưởng của các thành phần đến CLCS nói chung. 3 5. Những đóng góp mới của luận án Luận án đã có một số đóng góp tri thức mới về mặt lý luận gồm: - Cơ sở lý luận về nghiên cứu và đo lường khái niệm CLCS ở Việt Nam, trong đó xác định hướng tiếp cận nghiên cứu và xây dựng khung lý thuyết về CLCS bao gồm khái niệm và cấu trúc của khái niệm đó. - Hệ thống chỉ tiêu thống kê đo lường CLCS ở Việt Nam. - Phương pháp luận xây dựng và tính chỉ số tổng hợp CLCS ở Việt Nam. Ngoài ra, luận án còn có đóng góp về mặt thực tiễn khi tính thử nghiệm chỉ số tổng hợp CLCS ở Việt Nam năm 2016. Đây là nguồn tham khảo hữu ích cho việc hoạch định chính sách nhằm nâng cao CLCS của người dân. 6. Kết cấu của luận án Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, luận án gồm ba chương: Chương 1. Cơ sở lý luận về chất lượng cuộc sống Chương 2. Hệ thống chỉ tiêu thống kê đo lường chất lượng cuộc sống ở Việt Nam Chương 3. Xây dựng phương pháp tính chỉ số tổng hợp chất lượng cuộc sống ở Việt Nam. 4 CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CHẤT LƯỢNG CUỘC SỐNG 1.1. Một số vấn đề lý luận chung về chất lượng cuộc sống 1.1.1. Các cách tiếp cận nghiên cứu chất lượng cuộc sống Có nhiều cách tiếp cận nghiên cứu và đo lường CLCS trên thế giới. Ban đầu, CLCS được đánh giá bằng cách tiếp cận kinh tế thuần túy dựa trên thuyết vị lợi và thông qua một chỉ tiêu duy nhất là GDP bình quân đầu người. Tuy nhiên, quan điểm này đã dần thay đổi khi nhiều lý thuyết đề cập đến CLCS như một khái niệm đa chiều đa ngành. Trong những năm 1960 nổi lên hai cách tiếp cận truyền thống về CLCS. Đó là: cách tiếp cận khách quan xem xét CLCS dựa trên các nguồn lực và điều kiện sống khách quan; và cách tiếp cận chủ quan xem xét CLCS qua trạng thái hạnh phúc chủ quan cũng có nguồn gốc từ thuyết vị lợi. Đến những năm 1970, cách tiếp cận nhu cầu cơ bản dần thay thế thuyết vị lợi. Lý thuyết nhu cầu cơ bản cho rằng, CLCS được xác định là mức độ hài lòng với các nhu cầu theo thứ bậc của hầu hết các thành viên trong một xã hội nhất định (Sirgy, 1986). Cách tiếp cận năng lực của Amartya Sen tới CLCS được hình thành từ những năm 1980 và trở nên phổ biến từ những năm 1990. Theo Stigliz và cộng sự (2009), cách tiếp cận này nhận thức cuộc sống của mỗi người là sự kết hợp giữa những gì con người coi trọng có thể làm được và được làm (chức năng - functionings) và sự tự do lựa chọn các chức năng đó (năng lực - capabilities). Cách tiếp cận này được xem là đã bao trùm cả cách tiếp cận khách quan dựa trên nguồn lực và cách tiếp cận nhu cầu cơ bản. Đây là một trong những lý thuyết có ảnh hưởng lớn nhất hiện tại và là tiền đề cho chỉ số Phát triển con người, Mục tiêu phát triển Thiên niên kỷ và nhiều vấn đề phát triển khác ở cấp toàn cầu. 1.1.2. Một số tranh luận xung quanh khái niệm chất lượng cuộc sống Do sự đa dạng về cách tiếp cận cũng như quan điểm riêng của các cá nhân, nhiều khái niệm khác nhau về CLCS đã được đưa ra nhưng không có khái niệm nào được chấp nhận một cách rộng rãi. Điều này đã dẫn đến nhiều cuộc tranh luận xung quanh khái niệm CLCS và cách thức đo lường CLCS. Tuy vậy, trong các nghiên cứu khoa học xã hội, có hai vấn đề thường được nói đến nhiều hơn cả, đó là: CLCS được đo lường chủ quan hay khách quan và khái niệm CLCS là đơn chiều hay đa chiều và đó là những chiều nào. 5 Các đo lường khách quan về CLCS được thể hiện qua đánh giá điều kiện sống bên ngoài trong khi các đo lường chủ quan lại xem xét các đánh giá của mỗi cá nhân về những điều kiện đó. Theo Borthwick-Duffy (1992) (trích dẫn trong Felce & Perry, 1995, 54), có ba quan điểm về vấn đề này, gồm: (1) theo cách tiếp cận khách quan, xem CLCS là chất lượng của các điều kiện sống; (2) theo cách tiếp cận chủ quan, coi CLCS là sự hài lòng với cuộc sống; (3) kết hợp hai cách tiếp cận chủ quan và khách quan trong đo lường CLCS dựa trên sự thừa nhận về điểm mạnh và điểm yếu chúng. Khi đó, CLCS được xem là sự kết hợp giữa điều kiện sống và sự hài lòng với cuộc sống. Theo Cummins (2000), Hagerty và cộng sự (2001), Costanza và cộng sự (2007), Stiglitz và cộng sự (2009), quan điểm thứ ba này nhận được sự đồng tình của nhiều nhà nghiên cứu. Dưới góc độ của nghiên cứu xã hội, CLCS là một khái niệm trừu tượng và vì thế thường được xem xét với nhiều thành phần (chiều) khác nhau. Ngày nay, có một sự đồng thuận lớn khi cho rằng CLCS là một khái niệm đa chiều (Cummins, 1997; Felce, 1997; Snoek, 2000; Hagerty và cộng sự, 2001; ). Cùng với sự đồng thuận này, nhiều nhà nghiên cứu đã tìm cách nhằm xác định các chiều hay các thành phần của CLCS. Tuy nhiên họ vẫn chưa thống nhất được về số lượng chiều cũng như đó là những chiều nào (Alkire, 2008). Nhìn chung, ba khía cạnh thể chất, tâm lý và xã hội thường được xem xét khi nghiên cứu về CLCS. 1.1.3. Một số đo lường chất lượng cuộc sống của các tổ chức quốc tế và quốc gia trên thế giới Trong những năm qua, dựa trên nền những nghiên cứu về CLCS của các học giả trên toàn thế giới, nhiều tổ chức quốc tế và các quốc gia đã có các nghiên cứu khác nhau nhằm đo lường và đánh giá sự thay đổi của CLCS giữa các quốc gia, các thành phố, các cộng đồng... Trên cơ sở đó, nhiều chỉ số tổng hợp CLCS đã được công bố rộng rãi như chỉ số Hạnh phúc thế giới (World Happiness index - WHI) của Liên hợp quốc, chỉ số Cuộc sống tốt đẹp hơn (Better Life Index) của Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (Organisation for Economic Cooperation and Development - OECD), chỉ số Nơi được sinh ra (Where-to-be-born index) của Cơ quan Tình báo Kinh tế (The Economist Intelligence Unit - EIU), chỉ số Hành tinh hạnh phúc (The Happy Planet Index - HPI) của Quỹ Kinh tế mới (New Economics Foundation - NEF) 6 Không chỉ các tổ chức quốc tế mà nhiều quốc gia trên thế giới cũng nghiên cứu, xây dựng hệ thống chỉ tiêu đo lường CLCS và tính chỉ số tổng hợp phản ánh CLCS hay những khái niệm tương tự. Nhiều quốc gia như Anh, Pháp, New Zealand, Canada, đều thực hiện các cuộc điều tra định kỳ nhằm thu thập thông tin phục vụ cho nghiên cứu về CLCS ở quốc gia. Một số quốc gia lân cận với Việt Nam cũng đã nhiều năm nghiên cứu về lĩnh vực này như chỉ số CLCS của Malaysia (Malaysia Quality of Life - MQL), chỉ số Hạnh phúc và Xanh (Green and Happiness Index - GHI) của Thái Lan Điểm chung của những nghiên cứu này là phần lớn đều đánh giá CLCS theo hướng đa chiều. Cơ sở để xây dựng khái niệm và cấu trúc của khái niệm CLCS hay các khái niệm tương tự thường được xác định dựa trên một nền tảng lý thuyết hay những triết lý nhất định. Để đo lường CLCS, tùy thuộc vào cấu trúc của khái niệm, tiêu chí lựa chọn chỉ tiêu và khả năng thu thập số liệu mà mỗi nghiên cứu lại xác định những chỉ tiêu nhất định. Mặc dù vậy, nhiều nghiên cứu đã kết hợp xem xét cả yếu tố khách quan và chủ quan trong đo lường và đánh giá CLCS. Trong đó, các yếu tố khách quan thường phản ánh điều kiện sống của dân cư có thể thu thập dễ dàng bằng nhiều nguồn khác nhau, đặc biệt từ các nguồn thống kê chính thức và sẵn có. Những yếu tố khách quan được đề cập nhiều nhất khi đánh giá CLCS bao gồm: điều kiện kinh tế, nhà ở, giáo dục, y tế, môi trường, cuộc sống gia đình và cộng đồng, sự an toàn và sự tham gia của người dân. Các yếu tố chủ quan phản ánh cảm nhận của người dân về cuộc sống đều được thu thập qua các cuộc điều tra xã hội học. 1.2. Khung lý thuyết chất lượng cuộc sống ở Việt Nam 1.2.1. Quan điểm phát triển và mục tiêu phát triển kinh tế xã hội ở Việt Nam Mặc dù còn nhiều vấn đề phải giải quyết, nhưng quan điểm phát triển của Việt Nam là theo hướng toàn diện trên mọi mặt, mọi khía cạnh của đời sống KTXH, trong đó tập trung vào đảm bảo quyền con người, đáp ứng các nhu cầu sống của con người để tạo nên sự phát triển con người, nâng cao CLCS. Các mục tiêu phát triển KTXH của Việt Nam cũng như các cam kết quốc tế đã thể hiện rõ điều đó. Điều 3 Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013: “Nhà nước bảo đảm và phát huy quyền làm chủ của nhân dân; công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con người, quyền công dân; thực hiện mục tiêu 7 dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, mọi người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện”. Chiến lược Phát triển KTXH 2011-2020 nêu rõ cam kết của chính phủ Việt Nam nhằm: “Tăng trưởng kinh tế phải kết hợp hài hoà với phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, không ngừng nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân” 1.2.2. Cách tiếp cận đo lường chất lượng cuộc sống ở Việt Nam Trên cơ sở xem xét các cách tiếp cận CLCS trên thế giới cũng như quan điểm phát triển của Việt Nam, tác giả cho rằng, CLCS ở Việt Nam nên được đánh giá theo cách tiếp cận năng lực - còn gọi là cách tiếp cận phát triển con người (Cobb, 2000), kết hợp với cách tiếp cận hạnh phúc chủ quan. Điều này có nghĩa là, CLCS ở Việt Nam phải được đo lường bằng cả yếu tố khách quan và chủ quan. Quan điểm này đã nhận được sự đồng thuận của nhiều chuyên gia ở trong nước và phù hợp với xu hướng quốc tế. 1.2.3. Đề xuất khung lý thuyết chất lượng cuộc sống ở Việt Nam Với cách tiếp cận trên, CLCS ở Việt Nam là một khái niệm đa chiều. Trong đó, CLCS khách quan được đo lường qua các chỉ tiêu KTXH nhằm phản ánh mức độ các nhu cầu về điều kiện sống của con người được hoặc có thể được đáp ứng; CLCS chủ quan được đo lường qua mức độ hạnh phúc, dễ chịu, thỏa mãn hay những trạng thái tương tự của mỗi cá nhân. Do đó, theo quan điểm của tác giả, khái niệm về CLCS ở Việt Nam được hiểu như sau: “Chất lượng cuộc sống là mức độ đáp ứng các nhu cầu về điều kiện sống khách quan của con người trong mối liên hệ với các cảm nhận về sự hạnh phúc chủ quan của cá nhân”. Để lựa chọn các thành phần của CLCS, luận án sử dụng cách tiếp cận từ trên xuống. Ngoài ra, cần phải dựa trên lý thuyết hình thành khái niệm kết hợp với sử dụng một danh sách đã có và lựa chọn dựa trên tính sẵn có của số liệu. Các thành phần này không những phải phù hợp với bối cảnh của Việt Nam mà còn phải phù hợp với thông lệ quốc tế. Những ý tưởng của Allardt (1993) và Stiglitz và cộng sự (2009) là cơ sở lý thuyết để tác giả xác định các thành phần khách quan của CLCS ở Việt Nam theo cách tiếp cận năng lực. Trong khi đó, cảm nhận của cá nhân - thành phần chủ quan của khái niệm CLCS ở Việt Nam được xác định theo lý thuyết về sự hạnh phúc 8 chủ quan. Cơ sở thực tiễn là kinh nghiệm của các tổ chức quốc tế và các nước trên thế giới cũng như tình hình thực tế tại Việt Nam hiện nay. Tổng hợp các thành phần của khái niệm CLCS hình thành nên khung lý thuyết nghiên cứu CLCS ở Việt Nam được thể hiện trong hình 1.1 dưới đây. Hình 1.1. Khung lý thuyết nghiên cứu chất lượng cuộc sống ở Việt Nam. Nguồn: Tác giả đề xuất Khung lý thuyết này là cơ sở để thực hành đo lường, đánh giá về CLCS ở Việt Nam đảm bảo tính hệ thống và khoa học. Khía cạnh chủ quan: - Sự hài lòng với cuộc sống Khía cạnh khách quan: - Điều kiện kinh tế - Nhà ở và CSHT căn bản - Giáo dục - Y tế - Quan hệ gia đình - Sinh hoạt cộng đồng, văn hóa, giải trí - Môi trường tự nhiên - Môi trường xã hội - Quản trị - Quyền chính trị CHẤT LƯỢNG CUỘC SỐNG 9 KẾT LUẬN CHƯƠNG 1 Mục tiêu của chương 1 là xây dựng khung lý thuyết về CLCS ở Việt Nam, trong đó bao gồm khái niệm và thành phần của khái niệm CLCS. Khung lý thuyết này phải được xây dựng dựa trên nền tảng cơ sở lý luận và thực tiễn vững chắc. Cơ sở lý luận cơ bản để xây dựng khung lý thuyết về CLCS ở Việt Nam là các lý thuyết về CLCS trên thế giới. Nhìn chung, CLCS được tiếp cận theo hướng đa chiều đa ngành. Các lý thuyết về CLCS có thể được xây dựng theo nhiều cách tiếp cận khác nhau như cách tiếp cận khách quan dựa trên các nguồn lực và điều kiện sống; cách tiếp cận chủ quan dựa trên sự hạnh phúc của cá nhân; cách tiếp cận nhu cầu cơ bản hay cách tiếp cận năng lực. Sự đa dạng trong cách tiếp cận đã dẫn đến nhiều quan điểm khác nhau về CLCS. Mặc dù vậy, không có khái niệm nào được chấp nhận rộng rãi. Cơ sở thực tiễn để xây dựng khung lý thuyết về CLCS ở Việt Nam là quan điểm phát triển, mục tiêu phát triển KTXH cũng như bối cảnh KTXH ở Việt Nam hiện nay và kinh nghiệm của tổ chức quốc tế, các quốc gia trong nghiên cứu về CLCS. Phân tích cho thấy, CLCS ở Việt Nam gắn liền với phát triển con người, phát triển kinh tế, phát triển văn hóa, công bằng xã hội và xây dựng môi trường sống lành mạnh và an toàn. Từ đó, luận án kết luận rằng, CLCS ở Việt Nam là một khái niệm đa chiều và nên được xem xét theo cách tiếp cận năng lực kết hợp với cách tiếp cận hạnh phúc chủ quan. Do đó, CLCS ở Việt Nam phải được đo lường bằng cả yếu tố khách quan và chủ quan. Cấu trúc của khái niệm CLCS ở Việt Nam được chia thành 11 thành phần, trong đó 10 thành phần phản ánh các nhu cầu về điều kiện sống khách quan cần được đáp ứng gồm: (1) điều kiện kinh tế, (2) điều kiện nhà ở và cơ sở hạ tầng căn bản, (3) giáo dục, (4) chăm sóc y tế và sức khỏe, (5) quan hệ gia đình, (6) tham gia sinh hoạt cộng đồng và các hoạt động văn hóa, giải trí, (7) môi trường tự nhiên, (8) môi trường xã hội, (9) quản trị và (10) quyền chính trị; thành phần (11) phản ánh cảm nhận chủ quan của người dân về cuộc sống thông qua sự hài lòng với cuộc sống. 10 CHƯƠNG 2. HỆ THỐNG CHỈ TIÊU THỐNG KÊ ĐO LƯỜNG CHẤT LƯỢNG CUỘC SỐNG Ở VIỆT NAM 2.1. Một số vấn đề chung về xây dựng hệ thống chỉ tiêu đo lường chất lượng cuộc sống 2.1.1. Phương pháp xây dựng hệ thống chỉ tiêu đo lường chất lượng cuộc sống Luận án sử dụng cách tiếp cận từ trên xuống hay còn gọi là cách tiếp cận lý thuyết để xây dựng hệ thống chỉ tiêu đo lường CLCS. Với cách tiếp cận đó, luận án áp dụng thiết kế thứ bậc của Maggino & Zumbo (2012), bắt đầu từ mô hình khái niệm xác định các thành phần của khái niệm, xác định các biến, các chỉ tiêu/ chỉ báo cơ bản có thể đo lường được, cuối cùng, các chỉ tiêu sẽ được sắp xếp một cách phù hợp trong hệ thống chỉ tiêu. Theo cách tiếp cận này, quá trình đo lường CLCS đòi hỏi phải có một khung lý thuyết tốt. Khi đó, các chỉ tiêu không đơn thuần chỉ cung cấp thông tin mà còn phải thể hiện được mối liên hệ với mô hình khái niệm. 2.1.2. Một số yêu cầu và nguyên tắc xây dựng hệ thống chỉ tiêu thống kê đo lường chất lượng cuộc sống ở Việt Nam Theo Noll (2004), một hệ thống chỉ tiêu phải đảm bảo các yêu cầu chung gồm: (1) được xây dựng trên cơ sở khoa học, có cách tiếp cận theo hướng lý thuyết và khái niệm rõ ràng; (2) là một hệ thống toàn diện và tích hợp; (3) sử dụng các chỉ tiêu phù hợp (có giá trị và đáng tin cậy) nhất; và (4) sử dụng cơ sở dữ liệu sẵn có tốt nhất và đảm bảo tính so sánh giữa các quốc gia (hoặc địa phương). Ngoài những yêu cầu trên, hệ thống chỉ tiêu thống kê đo lường CLCS ở Việt Nam phải bao quát đầy đủ các lĩnh vực chủ yếu của CLCS, đáp ứng yêu cầu đo lường CLCS ở Việt Nam phù hợp với bối cảnh lịch sử cụ thể; các chỉ tiêu được quy định chặt chẽ về nội dung, phạm vi, phương pháp tính, bảo đảm tính pháp lý, thống nhất cao; phải ổn định trong thời gian tương đối dài nhưng có thể thay đổi cho phù hợp với điều kiện ở từng giai đoạn; Để đáp ứng các yêu cầu trên, việc xây dựng hệ thống chỉ tiêu thống kê đo lường CLCS phải tuân thủ các nguyên tắc: (1) đảm bảo tính hướng đích; (2) đảm bảo tính hệ thống; (3) đảm bảo tính cụ thể; (4) đảm bảo tính chính xác; (5) đảm bảo tính khả thi; (6) đảm bảo tính so sánh quốc tế; (7) đảm bảo tính thích nghi; (8) đảm bảo tính hiệu quả. 11 2.1.3. Các tiêu chí lựa chọn chỉ tiêu thống kê đo lường chất lượng cuộc sống Với mục tiêu đo lường CLCS, luận án sẽ sử dụng cả các chỉ tiêu trực tiếp và chỉ tiêu gián tiếp (proxy). Bên cạnh đó, các chỉ tiêu CLCS có thể đo lường đầu vào, đo lường đầu ra và đo lường kết quả, trong đó ưu tiên lựa chọn các chỉ tiêu đầu ra và các chỉ tiêu kết quả. Luận án sử dụng 14 tiêu chí do Hội đồng Cộng đồng Jacksonville, Florida, Mỹ đưa ra khi lựa chọn chỉ tiêu đo lường CLCS. Các tiêu chí gồm có: (1) Có mục đích; (2) Tầm quan trọng; (3) Tính giá trị và chính xác; (4) Tính liên quan; (5) Có độ nhạy; (6) Tính dự đoán; (7) Có thể hiểu được; (8) Tính sẵn có và kịp thời; (9) Tính ổn định và độ tin cậy; (10) Định hướng kết quả; (11) Định hướng tích cực; (12) Phạm vi; (13) Rõ ràng; (14) Tính đại diện. 2.1.4. Qui trình xây dựng hệ thống chỉ tiêu thống kê đo lường chất lượng cuộc sống Như đã trình bày ở trên, nội dung đo lường CLCS chủ quan vượt ra ngoài phạm vi nghiên cứu của luận án. Với các thành phần đo lường mức độ đáp ứng các nhu cầu về điều kiện sống khách quan, việc xác định các chỉ tiêu phản ánh được thực hiện theo các bước sau: Bước 1: Tổng quan tài liệu, nghiên cứu kinh nghiệm quốc tế trong việc xây dựng hệ thống chỉ tiêu đo lường CLCS; xem xét các mục tiêu phát triển quốc gia; nghiên cứu các hệ thống chỉ tiêu thống kê có liên quan. Bước 2: Lập danh mục chỉ tiêu và xây dựng bảng tóm tắt đặc điểm của chúng. Bước 3: Lựa chọn các chỉ tiêu theo các tiêu chí đề ra và đảm bảo các yêu cầu của hệ thống chỉ tiêu cũng như tuân thủ nguyên tắc xây dựng hệ thống chỉ tiêu. Bước 4: Tham vấn ý kiến chuyên gia về danh mục chỉ tiêu đề xuất ở bước 3. Bước 5: Tổng hợp ý kiến chuyên gia, nghiên cứu lại một lần nữa đặc điểm của dữ liệu và các tiêu chí lựa chọn và để rút ra hệ thống chỉ tiêu cuối cùng. 2.2. Đề xuất hệ thống chỉ tiêu thống kê đo lường chất lượng cuộc sống ở Việt Nam Hệ thống chỉ tiêu thống kê đo lường CLCS ở Việt Nam được chia thành 12 nhóm, trong đó 10 nhóm đầu tiên phản ánh các khía cạnh khách quan của CLCS, nhóm 11 phản ánh khía cạnh chủ quan của CLCS và nhóm cuối cùng phản ánh đánh giá tổng hợp về CLCS. 2.2.1. Nhóm chỉ tiêu phản ánh điều kiện kinh tế Chỉ tiêu 1.1: Tỷ lệ dân số từ 15 tuổi trở lên có việc làm Chỉ tiêu 1.2: Thu nhập bình quân đầu người 1 tháng 12 Chỉ tiêu 1.3: Tỷ lệ nghèo Chỉ tiêu 1.4: Tỷ lệ người dân cho rằng điều kiện kinh tế hộ gia đình khá hơn so với 5 năm trước Chỉ tiêu 1.5: Tỷ lệ lao động tham gia bảo hiểm xã hội 2.2.2. Nhóm chỉ tiêu phản ánh điều kiện nhà ở và cơ sở hạ tầng căn bản Chỉ tiêu 2.1: Tỷ lệ hộ gia đình có nhà ở kiên cố Chỉ tiêu 2.2: Diện tích nhà ở bình quân đầu người Chỉ tiêu 2.3: Tỷ lệ dân số được sử dụng nguồn nước hợp vệ sinh Chỉ tiêu 2.4: Tỷ lệ hộ gia đình dùng điện lưới sinh hoạt Chỉ tiêu 2.5: Tỷ lệ hộ gia đình dùng hố xí hợp vệ sinh Chỉ tiêu 2.6: Tỷ lệ hộ gia đình có hoặc sử dụng ít nhất một loại thiết bị thông tin, truyền thông 2.2.3. Nhóm chỉ tiêu phản ánh giáo dục Chỉ tiêu 3.1: Tỷ lệ dân số từ 15 tuổi trở lên biết chữ Chỉ tiêu 3.2: Tỷ lệ dân số từ 15 tuổi trở lên có bằng tốt nghiệp trung học phổ thông và trên trung học phổ thông Chỉ tiêu 3.3: Số học sinh phổ thông bình quân trên 1 giáo viên Chỉ tiêu 3.4: Tỷ lệ học sinh đi học phổ thông đúng tuổi Chỉ tiêu 3.5: Tỷ lệ học sinh hoàn thành cấp học Chỉ tiêu 3.6: Tỷ lệ trẻ em từ 5 tuổi trở xuống được theo dõi phát triển về sức khỏe, học tập và tâm lý xã hội Chỉ tiêu 3.7: Số năm đi học trung bình của dân số từ 15 tuổi trở lên 2.2.4. Nhóm chỉ tiêu phản ánh điều kiện chăm sóc y tế và sức khỏe Chỉ tiêu 4.1: Tuổi thọ trung bình tính từ lúc sinh Chỉ tiêu 4.2: Tỷ suất chết của trẻ em dưới 1 tuổi Chỉ tiêu 4.3: Số bác sĩ bình quân trên 10000 dân Chỉ tiêu 4.4: Số giường bệnh bình quân trên 10000 dân Chỉ tiêu 4.5: Tỷ lệ trẻ em dưới 1 tuổi được tiêm chủng đầy đủ các loại vắcxin Chỉ tiêu 4.6: Tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi suy dinh dưỡng Chỉ tiêu 4.7: Tỷ lệ người dân tham gia bảo hiểm y tế 2.2.5. Nhóm chỉ tiêu phản ánh quan hệ gia đình Chỉ tiêu 5.1: Tỷ lệ gia đình đạt chuẩn văn hóa Chỉ tiêu 5.2: Tỷ suất ly hôn 13 Chỉ tiêu 5.3: Tỷ lệ hộ gia đình có bạo lực gia đình Chỉ tiêu 5.4: Tỷ số giới tính khi sinh 2.2.6. Nhóm chỉ tiêu phản ánh sự tham gia sinh hoạt cộng đồng và các hoạt động văn hóa, giải trí Chỉ tiêu 6.1: Tỷ lệ làng (thôn, bản, ấp) có nhà văn hóa Chỉ tiêu 6.2: Tỷ lệ làng (thôn, bản, ấp) văn hóa Chỉ tiêu 6.3: Tỷ lệ người dân đã đóng góp tự nguyện cho một công trình công cộng ở xã/phường nơi sinh sống 2.2.7. Nhóm chỉ tiêu phản ánh điều kiện môi trường tự nhiên Chỉ tiêu 7.1: Tỷ lệ người dân cho rằng chất lượng không khí nơi cư trú hiện nay so với 3 năm trước là kém hơn Chỉ tiêu 7.2: Tỷ lệ người dân cho rằng chất lượng nước của các con sông/ kênh/ rạch/ suối hiện nay so với 3 năm trước là kém hơn Chỉ tiêu 7.3: Tỷ lệ che phủ rừng Chỉ tiêu 7.4: Tỷ lệ thu gom chất thải rắn sinh hoạt 2.2.8. Nhóm chỉ tiêu phản ánh môi trường xã hội Chỉ tiêu 8.1: Tỷ lệ tội phạm trên 10000 dân Chỉ tiêu 8.2: Tỷ lệ dân số là nạn nhân của bốn loại tội phạm về an ninh trật tự Chỉ tiêu 8.3: Tỷ lệ dân số cảm thấy an toàn khi đi lại một mình vào ban đêm Chỉ tiêu 8.4: Mức độ an toàn, trật tự ở địa bàn đang sinh sống Chỉ tiêu 8.5: Tỷ lệ tử vong do tai nạn giao thông trên 100000 dân 2.2.9. Nhóm chỉ tiêu phản ánh quản trị Chỉ tiêu 9.1: Chỉ số công khai, minh bạch ở địa phương Chỉ tiêu 9.2: Chỉ số kiểm soát tham nhũng trong khu vực công Chỉ tiêu 9.3: Chỉ số thủ tục hành chính công 2.2.10. Nhóm chỉ tiêu phản ánh quyền chính trị Chỉ tiêu 10.1: Tỷ lệ người dân trực tiếp đi bầu đại biểu Quốc hội Chỉ tiêu 10.2: Tỷ lệ người dân trực tiếp đi bầu đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp Chỉ tiêu 10.3: Tỷ lệ người dân trực tiếp đi bầu trưởng thôn/tổ trưởng tổ dân phố Chỉ tiêu 10.4: Tỷ lệ người dân cho biết chính quyền không gợi ý bầu cho một ứng viên cụ thể 14 2.2.11. Nhóm chỉ tiêu phản ánh sự hài lòng với cuộc sống Chỉ tiêu 11.1: Mức độ hài lòng với cuộc sống 2.2.12. Nhóm chỉ tiêu đánh giá tổng hợp về chất lượng cuộc sống Chỉ tiêu 12.1: Chỉ số tổng hợp CLCS Ở Việt Nam, hiện chưa có nghiên cứu nào công bố dữ liệu về mức độ hài lòng với cuộc sống của người dân. Ngoài ra, cũng giống như CLCS, sự hài lòng với cuộc sống là một khái niệm trừu tượng, thường được đo lường bằng một thang đo có nhiều chỉ báo. Xây dựng thang đo này là một quá trình phức tạp, cần phải thực hiện trong một đề tài nghiên cứu riêng. Điều này vượt quá khả năng thực hiện của nghiên cứu sinh. Chính vì vậy, trong phạm vi nghiên cứu của luận án, tác giả chỉ dừng lại ở việc đặt ra vấn đề: cần phải nghiên cứu về sự hài lòng với cuộc sống khi thực hiện đo lường CLCS ở Việt Nam. Nội dung và phương pháp đo lường sự hài lòng với cuộc sống sẽ được tiếp tục nghiên cứu trong tương lai. Các nội dung liên quan đến chỉ số tổng hợp CLCS sẽ được trình bày trong chương 3 của luận án. 15 KẾT LUẬN CHƯƠNG 2 Mục tiêu của chương 2 là xây dựng hệ thống chỉ tiêu thống kê đo lường CLCS ở Việt Nam. Hệ thống này phải đáp ứng các yêu cầu chung của một hệ thống chỉ tiêu như có cơ sở khoa học, là hệ thống toàn diện và tích hợp, bao gồm các chỉ tiêu phù hợp, dữ liệu sẵn có và đảm bảo tính so sánh theo không gian. Ngoài ra, để đo lường CLCS, hệ thống này phải bao quát đầy đủ các lĩnh vực chủ yếu của CLCS, ổn định trong thời gian dài nhưng có thể được điều chỉnh cho phù hợp theo từng giai đoạn. Quá trình xây dựng hệ thống chỉ tiêu đo lường CLCS phải tuân thủ các nguyên tắc như đảm bảo: tính hướng đích, tính hệ thống, tính cụ thể, tính chính xác, tính khả thi, tính so sánh quốc tế, tính thích nghi và tính hiệu quả. Mỗi chỉ tiêu trong hệ thống được lựa chọn theo những tiêu chí nhất định như có tính mục đích, có tầm quan trọng, tính giá trị và chính xác, tính liên quan, tính nhạy, tính dự đoán, mức độ có thể hiểu được, tính sẵn có và kịp thời, tính ổn định và độ tin cậy, theo định hướng kết quả, theo định hướng tích cực, có tính rõ ràng, tính đại diện và theo phạm vi phản ánh. Về cơ bản, hệ thống chỉ tiêu đo lường CLCS được xây dựng theo thiết kế thứ bậc, theo cách tiếp cận lý thuyết. Kết quả của quá trình này là một hệ thống chỉ tiêu thống kê được chia thành 12 nhóm. Trong đó 10 nhóm đầu tiên đo lường 10 thành phần của CLCS khách quan gồm 48 chỉ tiêu; nhóm 11 đo lường CLCS chủ quan và nhóm 12 đo lường tổng hợp về CLCS. Mỗi chỉ tiêu trong hệ thống đều được trình bày đầy đủ về nội dung, ý nghĩa, phương pháp tính và nguồn số liệu. Chỉ tiêu đo lường CLCS chủ quan chưa được nghiên cứu trong phạm vi của luận án này. 16 CHƯƠNG 3. XÂY DỰNG PHƯƠNG PHÁP TÍNH CHỈ SỐ TỔNG HỢP CHẤT LƯỢNG CUỘC SỐNG Ở VIỆT NAM 3.1. Tổng quan về các phương pháp xây dựng chỉ số tổng hợp 3.1.1. Khái niệm và ưu, nhược điểm của chỉ số tổng hợp Theo OECD (2008), chỉ số tổng hợp là một chỉ số được xây dựng trên cơ sở kết hợp các chỉ tiêu riêng lẻ dựa trên một mô hình cơ bản về khái niệm đa chiều được đo lường. Chỉ số tổng hợp thường dùng để giải thích cho các vấn đề phức tạp và khó nắm bắt trong các lĩnh vực rộng lớn như kinh tế, xã hội, môi trường. Ưu điểm của chỉ số tổng hợp là: dễ giải thích; giúp đưa ra một cái nhìn tóm lược về các vấn đề phức tạp, đa chiều nhằm hỗ trợ người ra quyết định; cho phép thực hiện những so sánh đơn giản giữa các quốc gia, các vùng, các địa phương Tuy nhiên, nhược điểm của chỉ số tổng hợp là dễ bị sai lạc về chính sách nếu bị giải thích sai hoặc quá trình xây dựng chỉ số tổng hợp không minh bạch hay không dựa trên một khung khái niệm tốt. Bên cạnh đó, tính chủ quan cao thể hiện qua việc lựa chọn các chỉ tiêu và trọng số có thể là vấn đề gây nhiều tranh cãi. 3.1.2. Phương pháp tính chỉ số tổng hợp Hiện nay, có hai phương pháp tính chỉ số tổng hợp nhận được nhiều quan tâm của giới nghiên cứu, đặc biệt khi tính chỉ số tổng hợp CLCS hay các chỉ số tương tự. Đó là phương pháp của OECD và phương pháp Alkire-Foster. Nhìn chung, mỗi phương pháp đều có những ưu, nhược điểm riêng. Việc lựa chọn phương pháp nào sẽ phụ thuộc chủ yếu vào điều kiện số liệu cũng như bối cảnh KTXH của mỗi quốc gia. Tuy nhiên, khó khăn lớn nhất với phương pháp Alkire-Forster là yêu cầu toàn bộ dữ liệu phải được lấy từ cùng một cuộc điều tra để có thể xác định đồng nhất các đối tượng bị thiếu hụt theo một tiêu chí nào đó (Alkire & Santos, 2011). Ngoài ra, việc thiếu các ngưỡng thiếu hụt CLCS ở Việt Nam cũng là trở ngại lớn. Vì vậy, tác giả đề xuất xây dựng chỉ số tổng hợp CLCS ở Việt Nam theo phương pháp của OECD (2008). 3.1.3. Lựa chọn phương pháp tính chỉ số tổng hợp Phương pháp xây dựng chỉ số tổng hợp của OECD (2008) khá phức tạp, với nhiều lựa chọn khác nhau ở mỗi bước của quy trình, đặc biệt trong nội dung về chuẩn hóa dữ liệu, xác định trọng số và cách thức tổng hợp. 17 Theo Mazziotta và Pareto (2013), để lựa chọn phương pháp tốt nhất khi tính chỉ số tổng hợp, có bốn vấn đề cần chú ý là: (1) loại chỉ tiêu (có thể thay thế/ không thể thay thế); (2) cách tổng hợp (đơn giản/ phức tạp); (3) cách so sánh (tuyệt đối/ tương đối); và (4) loại trọng số (chủ quan/ khách quan). Tùy theo mỗi giả định, yêu cầu và điều kiện thực tế mà lựa chọn giải pháp phù hợp. 3.2. Đề xuất phương pháp tính chỉ số tổng hợp chất lượng cuộc sống ở Việt Nam Luận án đề xuất quy trình xây dựng và tính chỉ số tổng hợp CLCS ở Việt Nam gồm 5 bước: (1) xây dựng khung lý thuyết về CLCS; (2) lựa chọn hệ thống chỉ tiêu thống kê đo lường CLCS; (3) chuẩn hóa dữ liệu; (4) xác định trọng số; và (5) tính các chỉ số thành phần và chỉ số tổng hợp. Các bước 1 và 2 đã được giải quyết chi tiết trong hai chương đầu của luận án. Các phương pháp trong ba bước còn lại được lựa chọn theo gợi ý của Mazziotta và Pareto (2013), điều kiện số liệu sẵn có và khả năng vận dụng trên thực tế. 3.2.1. Chuẩn hóa dữ liệu Chuẩn hóa là bước cần phải thực hiện trước khi tổng hợp một hệ thống gồm nhiều chỉ tiêu với các đặc điểm, tính chất khác nhau. Phương pháp chuyển đổi Min-Max được lựa chọn để chuẩn hóa dữ liệu trong luận án này. Cách chuyển đổi này dễ giải thích vì nó đưa giá trị của chỉ tiêu về dải biến động [0,1] nhưng không nhất thiết có cùng phương sai. Điểm số của chỉ tiêu chuẩn hóa càng cao chứng tỏ kết quả càng tốt. Công thức chuẩn hóa là: Giá trị chuẩn hóa = Giá trị thực tế-Giá trị tối thiểu Giá trị tối đa-Giá trị tối thiểu (3.1) Với các chỉ tiêu có độ biến thiên lớn, phân phối lệch nhiều nên lấy logarit cho các giá trị trước khi chuẩn hóa. Công thức là: Giá trị chuẩn hóa = ln(Giá trị thực tế)-ln(Giá trị tối thiểu) ln(Giá trị tối đa)-ln(Giá trị tối thiểu) (3.2) Với các chỉ tiêu có định hướng tiêu cực, chuẩn hóa sẽ giúp chuyển giá trị về dạng thuận để đảm bảo khả năng so sánh theo công thức: Giá trị chuẩn hóa = 1- Giá trị thực tế-Giá trị tối thiểu Giá trị tối đa-Giá trị tối thiểu (3.3) Với các chỉ tiêu hướng tâm, giá trị của nó càng gần với một giá trị trung tâm nào đó (ngưỡng tối ưu) thì càng tốt. Do vậy, công thức chuẩn hóa là: 18 Giá trị chuẩn hóa = 1- Giá trị thực tế-Giá trị trung tâm Giá trị tối đa-Giá trị tối thiểu (3.4) Với các chỉ tiêu thuộc dạng số tuyệt đối, số tương đối cường độ hay số bình quân, việc xác định các giá trị tối thiểu và tối đa có thể căn cứ vào giá trị nhỏ nhất và lớn nhất tương ứng của chỉ tiêu trên thực tế; hoặc căn cứ vào mức độ thực tế đạt được trong nhiều năm của nhiều đơn vị; nên dự đoán để mở rộng khoảng cách đạt được của chỉ tiêu; hoặc tham khảo các mức tối thiểu và tối đa do các tổ chức quốc tế đưa ra đối với những chỉ tiêu đã công bố và áp dụng. Với các chỉ tiêu thuộc dạng số tương đối kết cấu và có đơn vị tính là %, chọn giá trị tối thiểu là 0 và giá trị tối đa là 100. 3.2.2. Xác định trọng số Xác định trọng số nhìn chung là vấn đề gây nhiều tranh cãi. Nhìn chung, việc lựa chọn trọng số phải phù hợp với khung lý thuyết và đặc tính số liệu. Trọng số có thể được xác định một cách chủ quan hoặc khách quan. Trọng số khách quan được xác định bằng các phương pháp thống kê, dựa trên các mô hình toán học, vì vậy ít gây tranh cãi hơn. Tuy nhiên, do không có dữ liệu phù hợp nên luận án không thực hiện được việc xác định trọng số khách quan. Trọng số chủ quan sẽ được sử dụng để tính chỉ số tổng hợp CLCS ở Việt Nam. Do cấu trúc của khái niệm CLCS bao gồm nhiều thành phần nên trước khi đi đến chỉ số tổng hợp cuối cùng, phải tính được các chỉ số thành phần. Dựa trên ý kiến tham vấn của các chuyên gia cũng như điều kiện số liệu thực tế, luận án lựa chọn trọng số bằng nhau cho các chỉ tiêu khi tính chỉ số thành phần nhưng trọng số khác nhau cho các chỉ số thành phần khi tính chỉ số tổng hợp. Phương pháp quy trình phân bổ ngân sách (BAP) được sử dụng nhằm xác định trọng số của các chỉ số thành phần. Đây là một phương pháp xác định trọng số chủ quan qua phỏng vấn chuyên gia. 3.2.3. Xác định phương pháp tổng hợp Thủ tục tổng hợp chỉ số được thực hiện theo cách nào là tùy thuộc vào quan điểm có cho phép bù trừ hay không bù trừ giữa các chỉ tiêu hay các thành phần của hiện tượng nghiên cứu. Trong đo lường CLCS, với quan điểm cho phép các chỉ tiêu trong một thành phần có thể bù trừ hoặc bổ sung cho nhau, chỉ số thành phần được tính bằng công 19 thức trung bình cộng. Do các chỉ tiêu có vai trò như nhau trong mỗi thành phần nên các chỉ số thành phần được tính theo công thức trung bình cộng giản đơn: Chỉ số thành phần Ii= ∑ Chỉ số riêng biệt jmj=1 m (3.5) Trong đó: i là số thứ tự thành phần,  = (1, n) ; n là số lượng thành phần; j là số thứ tự chỉ tiêu trong mỗi thành phần, = (1, ) ; m là số lượng chỉ tiêu thuộc mỗi thành phần. Tuy nhiên, việc tính chỉ số tổng hợp CLCS được thực hiện theo quan điểm cho phép bù trừ một phần do đòi hỏi các thành phần của CLCS phải phát triển một cách đồng đều. Do các thành phần có vai trò khác nhau trong đánh giá CLCS nên chỉ số tổng hợp CLCS được tính theo công thức trung bình nhân gia quyền: I=  Iifi n i=1 ∑ fi (3.6) Trong đó: I là chỉ số tổng hợp CLCS; Ii là chỉ số thành phần thứ i; fi là trọng số của chỉ số thành phần thứ i. Theo kinh nghiệm của Liên hợp quốc khi xây dựng chỉ số Phát triển Con người, tác giả đề xuất đánh giá CLCS ở Việt Nam tùy vào giá trị của chỉ số như sau. Bảng 3.1. Khung giá trị của chỉ số tổng hợp CLCS ở Việt Nam Giá trị của chỉ số tổng hợp CLCS Kết luận I < 0,3 CLCS rất thấp 0,3 ≤ I < 0,5 CLCS thấp 0,5 ≤ I < 0,7 CLCS trung bình 0,7 ≤ I < 0,8 CLCS khá 0,8 ≤ I < 0,9 CLCS cao I ≥ 0,9 CLCS rất cao Nguồn: Tác giả đề xuất. 3.3. Tính thử nghiệm chỉ số tổng hợp chất lượng cuộc sống ở Việt Nam 3.3.1. Kết quả tính thử nghiệm chỉ số tổng hợp chất lượng cuộc sống ở Việt Nam Trong điều kiện số liệu không đồng nhất giữa các chỉ tiêu về không gian và thời gian, luận án chọn tính thử nghiệm chỉ số tổng hợp CLCS ở Việt Nam ở cấp quốc gia năm 2016. Ngoài ra, do không có dữ liệu về mức độ hài lòng với cuộc 20 sống nên chỉ số tổng hợp chỉ được tính dựa trên 10 nhóm chỉ tiêu phản ánh CLCS khách quan. 48 chỉ tiêu được chuẩn hóa theo phương pháp chuyển đổi Min-Max. Các giá trị tối thiểu và giá trị tối đa được xác định như đã nêu trong mục 3.2.1. Trọng số của các chỉ số thành phần được xác định theo phương pháp BAP qua thang điểm có tổng điểm không đổi. Điểm trung bình của mỗi thành phần là cơ sở để xác định trọng số cho mỗi thành phần đó. Ngoài ra, kiểm định t-test được áp dụng để xác định liệu có sự khác biệt giữa điểm số trung bình của các thành phần. Kết quả cho thấy, có thể chia 10 thành phần CLCS thành 4 nhóm. Trọng số của các thành phần trong mỗi nhóm được gán bằng nhau và được tính là trung bình cộng giản đơn của điểm trung bình của các thành phần trong nhóm - có điều chỉnh sao cho tổng trọng số của tất cả các thành phần là bằng 10. Kết quả, trọng số của nhóm (1) điều kiện kinh tế là 1,9; nhóm (2) gồm nhà ở, giáo dục, y tế và gia đình là 1,2; nhóm (3) gồm môi trường tự nhiên và môi trường xã hội là 0,9; và nhóm (4) gồm quản trị, tham gia sinh hoạt cộng đồng và quyền chính trị là 0,5. Các chỉ số thành phần được tính theo công thức 3.5, là trung bình cộng giản đơn của các chỉ số cá nhân đã được chuẩn hóa. Bảng 3.7. Kết quả tính các chỉ số thành phần STT Thành phần Ký hiệu Chỉ số 1 Điều kiện kinh tế I1 0,617 2 Nhà ở và cơ sở hạ tầng căn bản I2 0,791 3 Giáo dục I3 0,608 4 Chăm sóc y tế và sức khỏe I4 0,695 5 Quan hệ gia đình I5 0,864 6 Tham gia sinh hoạt cộng đồng và các hoạt động văn hóa, giải trí I6 0,574 7 Môi trường tự nhiên I7 0,601 8 Môi trường xã hội I8 0,733 9 Quản trị I9 0,572 10 Quyền chính trị I10 0,564 Nguồn: Tính toán của tác giả. Chỉ số tổng hợp được tính theo công thức 3.6. Kết quả cho thấy, với giá trị của chỉ số tổng hợp là 0,671, CLCS ở Việt Nam năm 2016 ở mức trung bình khá. 21 3.3.2. Một số vấn đề rút ra từ kết quả tính thử nghiệm Từ kết quả tính thử nghiệm, luận án rút ra một số vấn đề như sau: (1) số liệu phục vụ tính chỉ số tổng hợp là tương đối phong phú và sẵn có từ các nguồn chính thống; (2) việc áp dụng phương pháp luận nói trên vào tính chỉ số tổng hợp CLCS ở Việt Nam là đảm bảo tính khoa học và khả thi; (3) phương pháp chuyên gia, cụ thể là BAP tương đối dễ áp dụng với chi phí thấp nhưng vẫn đem lại kết quả khá chính xác khi xác định trọng số của các thành phần CLCS; (4) kết quả tính được khá phù hợp với tình hình thực tế hiện nay. Mặc dù vậy, kết quả tính thử nghiệm vẫn bộc lộ một số hạn chế, chủ yếu do thiếu số liệu. Vì vậy, chỉ số tổng hợp CLCS tính được mới chỉ bao gồm 10 thành phần đo lường CLCS khách quan. Mối quan hệ giữa CLCS chủ quan và CLCS khách quan cũng chưa được đề cập tới. Ngoài ra, do chỉ tính thử nghiệm ở cấp quốc gia trong một năm nên hạn chế khả năng so sánh, đánh giá CLCS qua thời gian, không gian. Kết quả tính thử nghiệm cũng chưa được so sánh, kiểm tra tương quan với những chỉ số, chỉ tiêu phản ánh các khái niệm tương tự. 3.4. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện phương pháp xây dựng và tính chỉ số tổng hợp chất lượng cuộc sống ở Việt Nam Luận án còn tồn tại một số hạn chế là: (1) hệ thống chỉ tiêu đo lường CLCS còn chưa thật đầy đủ, cần phải bổ sung, hoàn thiện hơn; (2) chưa đo lường được CLCS chủ quan; (3) chưa đề cập đến mối liên hệ giữa CLCS khách quan và CLCS chủ quan; (4) quá trình xây dựng và tính chỉ số tổng hợp CLCS không tránh khỏi tính chủ quan vốn có; và (5) chưa thực hiện được việc đánh giá tính vững và độ nhạy của chỉ số, chưa kết nối được chỉ số với các chỉ tiêu, chỉ số khác có liên quan. Vì vậy, tác giả kiến nghị cần tiếp tục phát triển các nghiên cứu về CLCS và những chủ đề tương tự trong tương lai. Cụ thể: (1) cần hoàn thiện khung lý thuyết về CLCS ở Việt Nam, đặc biệt qua xây dựng thang đo CLCS; (2) cần nghiên cứu xây dựng thang đo sự hài lòng với cuộc sống; (3) các cơ quan sản xuất số liệu cần tuân thủ nghiêm qui định sản xuất và công bố dữ liệu thuộc phạm vi quyền hạn và trách nhiệm của mình; (4) mở rộng nghiên cứu về CLCS ở Việt Nam đến cấp tỉnh, thành phố nhằm đáp ứng nhu cầu so sánh về CLCS theo không gian; (5) cần nghiên cứu hoàn thiện hơn nữa phương pháp luận tính chỉ số tổng hợp CLCS ở Việt Nam; và (6) đưa chỉ số tổng hợp CLCS vào danh mục chỉ tiêu thống kê quốc gia và được tính hàng năm. 22 KẾT LUẬN CHƯƠNG 3 Mục tiêu của chương này là đề xuất phương pháp tính chỉ số tổng hợp CLCS ở Việt Nam đảm bảo tính khoa học và khả thi. Trên cơ sở nghiên cứu phương pháp luận tính chỉ số tổng hợp CLCS, kinh nghiệm của các tổ chức quốc tế và các quốc gia trong tính chỉ số CLCS và các chỉ số tương tự, điều kiện dữ liệu và khả năng của người nghiên cứu, luận án đề xuất phương pháp tính chỉ số tổng hợp CLCS ở Việt Nam gồm 5 bước: (1) xây dựng khung lý thuyết về CLCS; (2) lựa chọn hệ thống chỉ tiêu; (3) chuẩn hóa dữ liệu; (4) xác định trọng số và (5) tính các chỉ số thành phần và chỉ số tổng hợp. Hai bước đầu của qui trình đã được làm rõ trong chương 1 và 2 của luận án. Ba bước còn lại được trình bày trong chương 3. Trong đó, phương pháp chuẩn hóa dữ liệu được lựa chọn là chuẩn hóa Min- Max. Các giá trị tối thiểu và giá trị tối đa được xác định tùy thuộc đặc điểm của chỉ tiêu. Trọng số chủ quan được gán bằng nhau cho các chỉ tiêu khi tính chỉ số thành phần và khác nhau cho các thành phần khi tính chỉ số tổng hợp CLCS theo phương pháp quy trình phân bổ ngân sách. Với quan điểm cho phép có sự bù trừ giữa các chỉ tiêu trong một thành phần nên phép trung bình cộng được dùng để tính các chỉ số thành phần; nhưng chỉ cho phép bù trừ một phần giữa các thành phần nên phép trung bình nhân được dùng để tính chỉ số tổng hợp CLCS. Kết quả tính thử nghiệm với số liệu của năm 2016 cho thấy CLCS ở Việt Nam mới ở mức trung bình khá khi giá trị của chỉ số tổng hợp là 0,671. Trên cơ sở kết quả phân tích, luận án đã chỉ ra một số hạn chế của nghiên cứu và đề xuất một số kiến nghị nhằm hoàn thiện nội dung nghiên cứu trong tương lai. 23 KẾT LUẬN Trong nhiều năm qua, CLCS đã là vấn đề thu hút sự quan tâm của nhiều đối tượng như các nhà nghiên cứu, nhà hoạch định chính sách, người dân trên khắp thế giới. Ở Việt Nam, mặc dù CLCS là vấn đề đã được đặt ra trong các chương trình nghị sự quốc gia nhưng các nghiên cứu về CLCS vẫn còn hạn chế. Trên thực tế, CLCS của người dân Việt Nam được cải thiện tương đối chậm và bị nhiều tổ chức quốc tế đánh giá ở mức thấp so với các quốc gia trên thế giới. Luận án được thực hiện với mong muốn góp phần lấp đầy một góc nhỏ trong khoảng trống nghiên cứu lớn về CLCS ở Việt Nam. Với mục tiêu chính là đề xuất phương pháp xây dựng và tính chỉ số tổng hợp CLCS ở Việt Nam, luận án đã lần lượt trả lời các câu hỏi nghiên cứu đặt ra. Kết quả nghiên cứu cho thấy, có nhiều cách tiếp cận khác nhau khi nghiên cứu và đo lường CLCS. Tuy nhiên, với quan điểm phát triển của Việt Nam hiện nay, CLCS ở Việt Nam gắn liền với phát triển con người, phát triển kinh tế, phát triển văn hóa, công bằng xã hội và xây dựng môi trường sống lành mạnh và an toàn. Vì vậy, luận án đã lựa chọn nghiên cứu và đo lường CLCS theo cách tiếp cận năng lực kết hợp với cách tiếp cận hạnh phúc chủ quan. Khi đó, CLCS ở Việt Nam được hiểu là: “mức độ đáp ứng các nhu cầu về điều kiện sống khách quan của con người trong mối liên hệ với các cảm nhận của cá nhân về sự hạnh phúc chủ quan”. Trong đó, CLCS khách quan bao gồm 10 thành phần: điều kiện kinh tế; điều kiện nhà ở và cơ sở hạ tầng căn bản; giáo dục; y tế; quan hệ gia đình; tham gia sinh hoạt cộng đồng và các hoạt động vui chơi giải trí; môi trường; an ninh, an toàn xã hội; quản trị; và quyền chính trị. CLCS chủ quan được đánh giá qua trạng thái hạnh phúc chủ quan với thành phần sự hài lòng với tổng thể cuộc sống. Trên cơ sở khái niệm CLCS và các thành phần của CLCS, luận án đã đề xuất hệ thống chỉ tiêu thống kê đo lường CLCS ở Việt Nam. Hệ thống chỉ tiêu được xây dựng phải đáp ứng các yêu cầu cơ bản và đảm bảo những nguyên tắc nhất định. Các chỉ tiêu được lựa chọn vào hệ thống này theo những tiêu chí xác định. Được xây dựng theo thiết kế thứ bậc, hệ thống chỉ tiêu đo lường CLCS gồm 12 nhóm chỉ tiêu, trong đó 10 nhóm đầu tiên gồm 48 chỉ tiêu riêng biệt đo lường CLCS khách quan; nhóm thứ 11 đo lường CLCS chủ quan và nhóm thứ 12 đo lường chỉ số tổng hợp. 24 Luận án đã đề xuất phương pháp luận tính chỉ số tổng hợp CLCS ở Việt Nam trên cơ sở nghiên cứu phương pháp tính chỉ số tổng hợp nói chung và chỉ số tổng hợp CLCS nói riêng của quốc tế. Nhìn chung, chỉ số này được tính theo phương pháp luận cơ bản do OECD (2008) đưa ra nhưng với qui trình đơn giản hơn. Các phương pháp sử dụng trong quy trình này được lựa chọn sao cho phù hợp với nhau, phù hợp với điều kiện số liệu cũng như khả năng vận dụng trên thực tế. Với phương pháp đề xuất, luận án đã tính thử nghiệm chỉ số tổng hợp CLCS cho năm 2016 ở cấp quốc gia. Do không có số liệu phản ánh sự hài lòng với cuộc sống nên chỉ số tổng hợp CLCS chỉ bao gồm 10 chỉ số thành phần đo lường khía cạnh khách quan của CLCS ở Việt Nam. Giá trị của chỉ số tổng hợp tính ra bằng 0,671 cho thấy, CLCS ở Việt Nam chỉ ở ngưỡng trung bình khá. Mặc dù đã đạt được mục tiêu đặt ra nhưng do đây là một chủ đề nghiên cứu mới, hơn nữa, do giới hạn về trình độ, nguồn lực và thời gian nên kết quả nghiên cứu vẫn còn hạn chế, như: hệ thống chỉ tiêu đo lường CLCS còn thiếu nhiều chỉ tiêu phản ánh thực chất CLCS; chưa đo lường được CLCS chủ quan; chưa nghiên cứu mối liên hệ giữa CLCS khách quan và CLCS chủ quan; chưa đánh giá tính vững và độ nhạy của chỉ số, tính chủ quan trong lựa chọn chỉ tiêu và phương pháp... Vì vậy, luận án kiến nghị cần tiếp tục phát triển các nghiên cứu về CLCS và những chủ đề tương tự như sự hài lòng với cuộc sống, sự hạnh phúc ... trong tương lai. Các nghiên cứu nên tập trung vào hoàn thiện khung lý thuyết về CLCS; xây dựng thang đo sự hài lòng với cuộc sống; nghiên cứu mối liên hệ giữa CLCS chủ quan và CLCS khách quan, đặc biệt trong tính chỉ số tổng hợp CLCS; nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến CLCS; mở rộng nghiên cứu đến cấp vùng, tỉnh thành phố, hoàn thiện phương pháp tính chỉ số CLCS Ngoài ra, luận án cũng kiến nghị các cơ quan sản xuất số liệu cần tuân thủ qui định sản xuất và công bố dữ liệu thuộc phạm vi quyền hạn và trách nhiệm của mình; đưa chỉ số tổng hợp CLCS vào danh mục chỉ tiêu thống kê quốc gia và cần được tính và công bố hàng năm. Mặc dù còn tồn tại nhiều hạn chế nhưng tác giả rất hy vọng luận án sẽ góp phần phát triển lĩnh vực nghiên cứu còn non trẻ về CLCS ở Việt Nam. Kết quả nghiên cứu của luận án sẽ giúp các nhà nghiên cứu, các nhà hoạch định chính sách có được “cái nhìn” tổng thể về CLCS cũng như các khía cạnh của nó. Đây là những cơ sở, bằng chứng khoa học tốt cho việc ra chính sách ở Việt Nam nhằm nâng cao CLCS của người dân. 25 DANH MỤC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ 1. Nguyen Thi Xuan Mai (2018). ‘Measuring the quality of life in Vietnam’. Eurasian Journal of Social Sciences, 6(4), 2018. DOI: 10.15604/ejss.2018.06.04.001. Online ISSN: 2148-0214. Trang 1-13. 2. Nguyễn Thị Xuân Mai (2018). ‘Kiểm định thang đo sự hài lòng với cuộc sống ở Việt Nam’. Tạp chí Kinh tế và Phát triển, số 252 (II), tháng 6/2018. ISSN: 1859-0012. Trang 11-19. 3. Nguyễn Thị Xuân Mai (2018). ‘Một số phương pháp xác định trọng số khi tính chỉ số tổng hợp đo lường các hiện tượng kinh tế, xã hội’. Tạp chí Con số và Sự kiện, số 533, tháng 4/2018. ISNN 0866-7322. Trang 48-49. 4. Nguyễn Thị Xuân Mai (2017), 'Nghiên cứu khía cạnh chủ quan trong khái niệm chất lượng cuộc sống’. Kỷ yếu Hội thảo khoa học quốc gia: Các vấn đề kinh tế-xã hội trong thực hiện các Mục tiêu phát triển bền vững (SDG) 2030 của Việt Nam. Đại học Kinh tế quốc dân, Viện Dân số và các vấn đề xã hội. NXB Lao động – Xã hội, 6/2017. Trang 100-108. 5. Nguyễn Thị Xuân Mai (2016), ‘Đo lường chất lượng cuộc sống ở Việt Nam: cách tiếp cận chủ quan hay khách quan’. Tạp chí Kinh tế và Phát triển, số 232 (II), tháng 10/2016. ISSN: 1859-0012. Trang 15-22. 6. Nguyễn Thị Xuân Mai (2016), ‘Quality of Life dimensions in Viet Nam’. International Conference Proceedings: Emerging issues in Economics and Business in the context of international intergration (EIEB 2016), Volume 02, Hanoi, November 4, 2016. National Economics University Press. Trang 54-68. 7. Nguyễn Thị Xuân Mai, Nguyễn Đăng Khoa (2015), ‘Hệ thống chỉ tiêu thống kê phản ánh chất lượng cuộc sống ở Việt Nam’. Kỷ yếu Hội thảo khoa học quốc tế: Hoàn thiện hệ thống chỉ tiêu Kế hoạch phát triển Kinh tế - Xã hội. Ban Kinh tế Trung ương, Đại học Kinh tế quốc dân, Ngân hàng thế giới, Ủy ban kinh tế của Quốc hội, Hà Nội, 6/2015, trang 103-113.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdftom_tat_luan_an_phuong_phap_xay_dung_va_tinh_chi_so_tong_hop.pdf
Luận văn liên quan