Tổng hợp Tiểu luận tình huống quản lý nhà nước về giáo dục

Với những nội dung đã trình bày trong đề tài cho thấy đề tài đã được thực hiện phù hợp với yêu cầu và mục tiêu đã đặt ra. Mặc dù đề tài đã được nghiên cứu hết sức cẩn trọng và phù hợp với tình hình thực tế của nhà trường trong giai đoạn hiện nay, nhưng chắc chắn còn những biện pháp khác chưa được đề cập tới. Trong những năm tiếp theo, sự chỉ đạo cần tập trung nhiều hơn nữa vào việc hướng dẫn mang tính chuyên môn, nâng cao trình độ và kỹ năng ứng dụng CNTT cho giáo viên nhà trường thông qua việc xây dựng kế hoạch đào tạo ngắn hạn, dài hạn; việc đầu tư thiết bị tin học - nghe nhìn hiện nay không còn là việc xa vời, quá sức đối với nhà trường, vấn đề là phải chủ động đầu tư, phải có kế hoạch và lộ trình cho từng năm học, từng học kỳ và sử dụng có văn hoá các thiết bị này. Đó chính là hướng nghiên cứu tiếp tục của đề tài trong thực tiễn quản lý chỉ đạo đẩy mạnh ứng dụng CNTT trong dạy học của nhà trường sau này.

pdf90 trang | Chia sẻ: ngoctoan84 | Lượt xem: 2096 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tổng hợp Tiểu luận tình huống quản lý nhà nước về giáo dục, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
dục và Đào tạo. Giáo dục và Đào tạo hiện đang là vấn đề thách thức của toàn cầu. Hiện nay các quốc gia trên thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng đang nỗ lực đổi mới nội dung và phương pháp giáo dục và đào tạo với nhiều mô hình, biện pháp khác nhau nhằm mở rộng quy mô, nâng cao chất lượng và hiệu quả giáo dục và đào tạo. Một trong số các biện pháp đó là đẩy mạnh ứng dụng khoa học công nghệ vào các hoạt động giáo dục và đào tạo. Ngày 17/10/2000, Bộ chính trị đã ra chỉ thị số 58-CT/TW về đẩy mạnh ứng dụng và phát triển CNTT phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa- hiện đại hóa đất nước. Trong bối cảnh đó, nếu muốn nền giáo dục đáp ứng được đòi hỏi cấp thiết của công cuộc công nghiệp hóa- hiện đại hóa đất nước, nếu muốn việc dạy học theo kịp cuộc sống chúng ta nhất thiết phải cải cách phương pháp quản lý và phương pháp dạy học theo hướng vận dụng CNTT và các thiết bị dạy học hiện đại nhằm phát huy mạnh mẽ vai trò và năng lực của người cán bộ quản lý giáo dục, kỹ năng thực hành sư phạm của giáo viên và hứng thú học tập của học sinh, từ đó góp phần nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo. Do có sự phát triển của CNTT mà mọi người đều có trong tay nhiều công cụ hỗ trợ cho quá trình dạy học nói chung và phần mềm dạy học nói riêng. Nhờ có CNTT mà học sinh trung bình, thậm chí học sinh trung bình yếu cũng có thể hoạt động tốt trong môi trường học tập. CNTT giúp nối dài cánh tay giao tiếp của người quản lý tới từng giáo viên, của giáo viên tới từng cá nhân học sinh trong quá trình dạy học. Như vậy, với tác động của CNTT môi trường dạy học cũng thay đổi, nó tác động mạnh mẽ tới mọi thành tố của quá trình quản lý, giảng dạy và học tập dựa trên sự hỗ trợ của hệ thống các phần mềm ứng dụng, website và hạ tầng CNTT đi kèm. Do đó mục tiêu cuối cùng của việc ứng dụng CNTT trong quản lý và dạy học là nâng cao một bước cơ bản chất lượng giáo dục, tạo ra môi trường giáo dục có tính tương tác cao chứ không phải đơn thuần chỉ là “ thầy đọc, trò chép” như kiểu truyền thống, giáo viên tích cực, chủ động đổi mới phương pháp giảng dạy, học sinh được khuyến khích và tạo điều kiện để chủ động tìm kiếm tri thức, sắp xếp hợp lý quá trình tự học tập, tự rèn luyện của bản thân mình. Bởi vậy, việc đẩy mạnh ứng dụng và phát triển CNTT trong quản lý quá trình dạy học ở các trường THPT là đặc biệt quan trọng và cần thiết, ảnh hưởng trực tiếp tới chất lượng và hiệu quả giáo dục. Tuy nhiên việc ứng dụng CNTT trong quản lý và dạy học là vấn đề khó khăn và lâu dài đòi hỏi rất nhiều điều kiện về cơ sở vật chất, tài chính và năng lực của đội ngũ cán bộ quản lý, đội ngũ giáo viên ở các nhà trường. Trường THPT Hoà Phú, Chiêm Hoá, Tuyên Quang là một trường mới được thành lập được gần 3 năm ( tháng 7/2005), đội ngũ cán bộ quản lý và giáo viên đa số còn non trẻ, những hiểu biết và kỹ năng về tin học của hầu hết giáo viên khi mới về trường còn rất hạn chế, ý thức vận dụng tin học trong chuyên môn còn chưa rõ nét. Hơn nữa trong giai đoạn đầu nhà trường chưa có đủ các phương tiện nghe nhìn nên hầu như tin học chưa được vận dụng trực tiếp vào công tác chuyên môn ngoài việc dạy tin học văn phòng, tin học nghề cho học sinh. Xuất phát từ thực tiễn công tác, là một cán bộ quản lý bản thân tôi đã nhận thức rõ tầm quan trọng của việc đẩy mạnh ứng dụng CNTT vào công tác quản lý và hoạt động dạy học của nhà trường. Điều này đòi hỏi người cán bộ quản lý giáo dục phải có sự dày công nghiên cứu, trên cơ sở kế thừa những kinh nghiệm quý báu đã được đúc kết về quản lý trường học ( cả về lý luận và thực tiễn ); phải đề xuất ra được những biện pháp quản lý hữu hiệu nhằm đẩy mạnh ứng dụng CNTT trong dạy học phù hợp với thực tiễn của đơn vị. Trên cơ sở đó, tôi chọn đề tài “ Các biện pháp quản lý nhằm đẩy mạnh ứng dụng CNTT trong dạy học tại trường THPT Hoà Phú, Chiêm Hoá, Tuyên Quang” làm tiểu luận tốt nghiệp khoá bồi dưỡng cán bộ quản lý giáo dục khoá 54. 2. Mục đích nghiên cứu: - Đề xuất các biện pháp quản lý nhằm đẩy mạnh ứng dụng CNTT trong dạy học tại trường THPT Hoà Phú, Chiêm Hoá, Tuyên Quang. 3. Nhiệm vụ nghiên cứu. 3.1. Nghiên cứu cơ sở lý luận, cơ sở pháp lý của việc ứng dụng CNTT trong dạy học tại trường THPT hiện nay. 3.2. Phân tích thực trạng quá trình quản lý việc ứng dụng CNTT trong dạy học tại trường THPT Hoà Phú, Chiêm Hoá, Tuyên Quang. 3.3. Đề xuất các biện pháp quản lý nhằm đẩy mạnh ứng dụng CNTT trong dạy học tại trường THPT Hoà Phú, Chiêm Hoá, Tuyên Quang. 4. Đối tượng nghiên cứu: Các biện pháp quản lý nhằm đẩy mạnh ứng dụng CNTT trong dạy học tại trường THPT Hoà Phú, Chiêm Hoá, Tuyên Quang. 5. Phương pháp nghiên cứu: 5.1. Nhóm phương pháp lý luận : Các Nghị quyết, chỉ thị của Đảng, Nhà nước, của Bộ giáo dục - đào tạo và lý luận dạy học. 5.2. Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn: Quan sát, điều tra, tổng kết kinh nghiệm quản lý giáo dục. 5.3. Nhóm phương pháp hỗ trợ: Bảng biểu thống kê, sơ đồ... PHẦN NỘI DUNG CHƯƠNG 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ CƠ SỞ PHÁP LÝ CỦA CÔNG TÁC QUẢN LÝ ỨNG DỤNG CNTT TRONG DẠY HỌC TẠI TRƯỜNG THPT I. Cơ sở lý luận 1. Khái niệm công nghệ thông tin: CNTT ( Information Techlonogy – IT) là thuật ngữ bao gồm tất cả những dạng công nghệ được dùng để xây dựng, sắp xếp, biến đổi và sử dụng thông tin trong các hình thức đa dạng của nó. Cụ thể là việc sử dụng máy tính điện tử và các phần mềm để lưu giữ, sắp xếp, bảo mật, truyền dẫn và khôi phục các thông tin bất cứ đâu, bất cứ lúc nào. 2. Vai trò của CNTT trong giáo dục và đào tạo 2.1. Vai trò của CNTT trong giáo dục và đào tạo Việt Nam: Những thành tựu mới của khoa học công nghệ nửa cuối thế kỷ XX và đầu thế kỷ XXI đang làm thay đổi hình thức và nội dung các hoạt động kinh tế, văn hóa, xã hội của loài người. Một số quốc gia phát triển đã bắt đầu chuyển dần từ văn minh công nghiệp sang văn minh thông tin. Các quốc gia đang phát triển tích cực áp dụng những tiến bộ mới của khoa học và công nghệ, đặc biệt là công nghệ thông tin, để phát triển và hội nhập. Đối với giáo dục và đào tạo, CNTT có tác động mạnh mẽ, làm thay đổi nội dung, phương pháp, phương thức dạy và học. CNTT là phương tiện để tiến tới một “ xã hội học tập ”. Mặt khác giáo dục và đào tạo góp phần thúc đẩy sự phát triển của CNTT thông qua việc cung cấp nguồn nhân lực có chất lượng cao cho CNTT. Bộ Giáo dục và đào tạo cũng đã yêu cầu: “ Đẩy mạnh ứng dụng CNTT trong giáo dục và đào tạo ở tất cả các cấp học, bậc học, ngành học theo hướng sử dụng CNTT như là một công cụ hỗ trợ đắc lực nhất cho đổi mới phương pháp giảng dạy, học tập ở tất cả các môn học” ( Trích Chỉ thị số 29/2001/CT-BGD&ĐT ngày 30/7/2001 của Bộ trưởng Bộ GD&ĐT về việc tăng cường giảng dạy, đào tạo và ứng dụng CNTT trong ngành giáo dục giai đoạn 2001-2005 ). Theo tài liệu Hội nghị quốc tế về giáo dục và đào tạo thế kỷ XXI: “ Tầm nhìn và hành động” ( từ ngày 5-9/10/1998 tại Paris do UNESCO tổ chức) đã đưa ra một hệ thống phân loại các mô hình giáo dục theo hướng phát triển: Mô hình Trung tâm Vai trò người học Công nghệ Truyền thống Người dạy Thụ động Bảng/TV/Radio Thông tin Người học Chủ động Máy tính cá nhân Kiến thức Nhóm Thích nghi PC + mạng Theo hệ thống phân loại trên, Việt Nam đang dần chuyển dịch từ mô hình truyền thống sang mô hình thông tin, mà trong mô hình thông tin cũng có chủ yếu là máy tình cá nhân và kết hợp với mạng LAN, WAN hoặc Internet. Chương trình hoạt động của APEID (Aisia and the Parcific Programme of Education Innovation Development) của UNESCO chuẩn bị cho giai đoạn 2002-2007 cũng đã nhấn mạnh vấn đề sử dụng CNTT để đổi mới giáo dục. Như vậy việc sử dụng CNTT hỗ trợ quá trình dạy học góp phần đổi mới phương pháp dạy học đã được đặt ra và thực hiện trên phạm vi toàn thế giới. Trong nhà trường phổ thông Việt Nam hiện nay, việc sử dụng CNTT đang ở mức độ sử dụng máy tính cá nhân cùng các thiết bị ghép nối như ổ đĩa CD, loa, máy chiếu Projector... song nó đã góp phần quan trọng làm thay đổi cục diện chất lượng và hiệu quả của giáo dục và đào tạo. 2.2. Vai trò của CNTT trong đổi mới công tác quản lý dạy học tại các trường trung học phổ thông: 2.2.1. Vai trò của CNNT trong đổi mới phương pháp dạy học Chúng ta đang tiến hành đổi mới phương pháp dạy học trong bối cảnh mà CNTT đã phát triển như vũ bão, toàn diện; ứng dụng của CNTT đã mở ra triển vọng to lớn trong việc đổi mới các phương pháp và hình thức học. Những phương pháp dạy học theo cách tiếp cận kiến tạo, theo dự án, theo hướng phát hiện và giải quyết vấn đề càng có nhiều điều kiện để ứng dụng rộng rãi. Các hình thức dạy học như dạy học đồng loạt, dạy học theo nhóm, dạy học cá nhân cũng có những đổi mới trong môi trường CNTT và truyền thông. Nếu trước kia người ta nhấn mạnh tới phương pháp dạy học sao cho học sinh nhớ lâu, dễ hiểu thì nay phải đặt trọng tâm là hình thành và phát triển cho học sinh các phương pháp học chủ động. Nếu trước kia người ta thường quan tâm nhiều đến khả năng ghi nhớ kiến thức và thực hành kỹ năng vận dụng, thì nay chú trọng đặc biệt đến phát triển năng lực sáng tạo của học sinh. Như vậy, việc chuyển từ “ Lấy giáo viên làm trung tâm” sang “ Lấy học sinh làm trung tâm” sẽ trở lên dễ dàng hơn. Ưu điểm nổi bật của phương pháp dạy học ứng dụng CNTT so với phương pháp giảng dạy truyền thống là những thí nghiệm, tài liệu được cung cấp bằng nhiều kênh: kênh hình, kênh chữ, âm thanh sống động làm cho học sinh dễ thấy, dễ tiếp thu và bằng suy luận có lý, học sinh có thể có những dự đoán về các tính chất, những quy luật mới. Đây là công dụng to lớn của CNTT trong quá trình đổi mới phương pháp dạy học. 2.2.2. Vai trò của CNTT đối với giáo viên và học sinh Có thể khẳng định rằng môi trường CNTT chắc chắn sẽ có tác động tích cực tới sự phát triển năng lực sư phạm của giáo viên và trí tuệ của học sinh và điều này làm nảy sinh những lý thuyết dạy học mới. Theo nhận định của một số chuyên gia, thì việc đưa CNTT và truyền thông ứng dụng vào dạy học bước đầu đã đạt được những kết quả khả quan. CNTT giúp giáo viên có cơ hội kết hợp việc giáo dục, học tập và khoa học kỹ thuật; sáng tạo cái mới có sự kết hợp giữa truyền thông và khoa học kỹ thuật hiện đại, phát triển mô hình “giáo dục sáng tạo”, xây dựng tố chất chuyên nghiệp... Nhờ ứng dụng CNTT, giáo viên có thể khai thác các nguồn thông tin phong phú trên Internet để phục vụ cho bài dạy; phát triển những hoạt động sử dụng CNTT để thúc đẩy khả năng suy nghĩ tích cực, chủ động trong bài học, thoát khỏi lao động phổ thông; dễ dàng triển khai một lượng kiến thức lớn, khó trong một thời gian nhắn nhưng học sinh vấn hiểu bài; phát triển những hoạt động học tập đòi hỏi học sinh làm việc theo nhóm, tạo được những điều kiện tốt để hoạt động nhận thức của học sinh được diễn ra một cách tích cực, độc lập, chủ động và sáng tạo, đồng thời dùng CNTT để đánh giá việc học của học sinh như hồ sơ điện tử và sách giáo khoa, sách tham khảo theo trình độ; các giáo án điện tử có thể được lưu trữ lâu dài, dễ dàng chỉnh sửa và hoàn thiện khi cần thiết; Việc trao đổi, học hỏi kinh nghiệm giữa các đồng nghiệp trên hệ thống mạng nội bộ và Internet trở lên dễ dàng hơn, giúp đồng nghiệp phát triển kỹ năng CNTT cần thiết và xây dựng chiến lược dạy học phù hợp cho việc dạy học tích hợp CNTT. Đối với học sinh, CNTT giúp học sinh nâng cao khả năng học tập thông qua việc tự tìm kiếm và tiếp cận với các nguồn kiến thức liên quan trên Internet và trên hệ thống thư viện điện tử do giáo viên giới thiệu và hướng dẫn; sử dụng các phần mềm bộ môn để học tập và tự kiểm tra, đánh giá; làm các bài tập trắc nghiệm trên máy vi tính hoặc trên Internet. Chính vì thế, học sinh được khuyến khích và tạo điều kiện để chủ động tìm kiếm tri thức, sắp xếp hợp lý quá trình tự học tập, tự rèn luyện của bản thân mình. Những khả năng mới mẻ và ưu việt này của CNTT đã nhanh chóng làm thay đổi cách nghĩ, cách làm việc, cách học tập, cách tư duy của giáo viên và học sinh trong các nhà trường hiện nay. 2.2.3. Vai trò của CNTT đối với cán bộ quản lý giáo dục và sự cần thiết phải đẩy mạnh việc ứng dụng CNTT trong dạy học Trong giáo dục và đào tạo, yếu tố quyết định làm nên chất lượng chính là đội ngũ nhà giáo, tuy nhiên có một yếu tố đóng vai trò dẫn dắt hoạt động dạy học - đó là những người làm công tác quản lý giáo dục trong hệ thống ngành học và cơ sở giáo dục. Phó thủ thướng Nguyễn Thiện Nhân đã nhấn mạnh “ Sự nghiệp đổi mới giáo dục thành công hay không một phần quan trọng phụ thuộc ở năng lực, điều hành của người cán bộ quản lý ”. Bởi vậy, người cán bộ quản lý vừa phải có “ tâm” vừa phải có “ tầm”. Một người cán bộ quản lý giỏi phải đáp ứng được các yêu cầu: có phẩm chất chính trị tốt, có hiểu biết về pháp luật, vững vàng về chuyên môn, có năng lực quản lý, có tác phong làm việc khoa học và có tác phong lãnh đạo; có khả năng tập hợp được sức mạnh của tào thể cán bộ giáo viên, nhân viên nhà trường, xây dựng được tập thể sư phạm đoàn kết, biết xây dựng và nhân được điển hình tiên tiến, nhân tố mới, thực hiện tốt quy chế dân chủ, lấy quy chế dân chủ làm chỗ dựa cho công tác quản lý. Tuy nhiên, trong thời kỳ hội nhập và thời đại công nghệ thông tin đang phát triển mạnh mẽ hiện nay đòi hỏi người cán bộ quản lý bên cạnh uy tín, năng lực chuyên môn và năng lực quản lý vững vàng, người quản lý còn phải có khả năng quản lý kinh tế, có trình độ ngoại ngữ và đặc biệt phải có trình độ và hiểu biết nhất định về tin học, biết ứng dụng có hiệu quả CNTT vào công tác quản lý nhằm mục tiêu cuối cùng là quản lý tốt quá trình dạy học, nâng cao hiệu quả và chất lượng giáo dục. CNTT là một phương tiện quan trọng, hữu hiệu phục vụ công tác quản lý giáo dục nói chung và công tác quản lý dạy học nói riêng. CNTT giúp người quản lý nâng cao được hiệu suất quản lý, lao động của người quản lý trong lĩnh vực quản lý dạy học. Thông qua CNTT và hệ thống mạng nội bộ, người quản lý dễ dàng kiểm tra được quá trình dạy học của giáo viên ( cả về tiến trình lẫn chất lượng ), hoạch định những biện pháp quản lý mang tính chiến lược nhằm không ngừng đẩy mạnh ứng dụng CNTT nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động dạy học. Do đó, chỉ đạo đẩy mạnh ứng dụng CNTT vào dạy học là một nhiệm vụ có tính bức thiết, góp phần quan trọng để đáp ứng điều kiện đảm bảo cho quá trình đổi mới phương pháp quản lý, phương pháp dạy học trong giai đoạn hiện nay và cả sau này. 3. Cơ sở pháp lý 3.1. Quyết định số 221/TTg ngày 07/4/1995 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chương trình quốc gia về CNTT. 3.2. Quyết định số 94/2006/QĐ-TTg ngày 27/4/2006 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Kế hoạch cải cách hành chính Nhà nước giai đoạn 2006-2010. 3.3. Chỉ thị số 29/2001/CT-BGD&ĐT ngày 30/7/2001 của Bộ trưởng bộ Giáo dục và Đào tạo về tăng cường giảng dạy, đào tạo và ứng dụng CNTT trong ngành giáo dục. 3.4. Nghị định 64/2007/NĐ-CP ban hành ngày 10/4/2007 về việc ứng dụng CNTT trong các cơ quan nhà nước. 3.5. Công văn số 9584/BGD&ĐT ngày 07/9/2007 của Bộ Giáo dục và Đào tạo hướng dẫn thực hiện nhiệm vụ năm học 2007-2008 về CNTT. 3.6. Công văn số 12966/BGD&ĐT-CNTT ngày 10/12/2007 của Bộ Giáo dục và Đào tạo về việc đẩy mạnh triển khai một số hoạt động về CNTT. 3.7. Quyết định số 07/2008/QĐ-TTg nagfy 10/01/2008 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt Chương trình mục tiêu quốc gia giáo dục và đào tạo đén năm 2010. 3.8. Thông báo kết luận số 679/TB-BGD&ĐT ngày 25/01/2008 của Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Nguyễn Thiện Nhân tại cuộc họp Ban chỉ dạo CNTT Bộ GD&ĐT. 3.9. Kế hoạch số 90/KH-SGD&ĐT ngày 21/01/2008 của Sở GD&ĐT Tuyên Quang về CNTT năm học 2007-2008. CHƯƠNG 2 THỰC TRẠNG CÔNG TÁC QUẢN LÝ ĐẨY MẠNH ỨNG DỤNG CNTT TRONG DẠY HỌC TẠI TRƯỜNG THPT HOÀ PHÚ, CHIÊM HOÁ, TUYÊN QUANG 1. Đặc điểm tình hình trường THPT Hoà Phú 1.1. Đặc điểm kinh tế - xã hội địa phương: Trường đóng trên địa bàn xã Hòa Phú, huyện Chiêm Hóa, Tuyên Quang và vùng tuyển sinh là hai xã Hoà Phú, Yên Nguyên– hai xã thuộc diện nghèo, kinh tế chậm phát triển chủ yếu dựa vào nông nghiệp, đời sống nhân dân còn nhiều khó khăn, trình độ dân trí thấp; trên 70% dân số là người dân tộc thiểu số. Các điều kiện cơ sở vật chất, tài chính đầu tư phát triển giáo dục nói chung và phát triển CNTT trong giáo dục nói riêng còn rất hạn hẹp. 1.2. Một số đặc điểm chung của nhà trường: Trường THPT Hòa Phú - Chiêm Hóa - Tuyên Quang được thành lập theo Quyết định số 63/ QĐ-UB ngày 15 tháng 7 năm 2005, của Chủ tịch UBND tỉnh Tuyên Quang. Qua hơn 3 năm xây dựng và phát triển, hiện nay trường có 18 lớp với hơn 800 học sinh; 38 cán bộ giáo viên và nhân viên. Đội ngũ cán bộ giáo viên và nhân viên nhà trường trẻ, chuẩn hoá về trình độ chuyên môn, đồng bộ về cơ cấu, nhiệt tình, năng động và tâm huyết với nghề. 1.3. Chất lượng đội ngũ cán bộ giáo viên, nhân viên và học sinh: * Đội ngũ cán bộ giáo viên, nhân viên: - Về trình độ chuyên môn: Đội ngũ Tổng số Trên đại học Đại học Cao đẳng CBQL 2 1 1 0 Giáo viên 33 0 33 0 Nhân viên 3 0 1 2 - Về trình độ ngoại ngữ - tin học: - Về khả năng ứng dụng CNTT: Đội ngũ Mức độ Word Excel Power point Internet Có địa chỉ e- mail CBQL Chưa biết Khá thành thạo 100% 100% 100% 100% 100% Giáo viên Chưa biết 5,2% 2,6% 2,6% 5,2% Khá thành thạo 100% 94,8% 97,4% 97,4% 94,8% Nhân viên Chưa biết 66,3% 66,3% Khá thành thạo 100% 100% 33,3% 100% 33,3% * Học sinh: Khối Năm học 2005- Năm học 2006- Năm học 2007- Đội ngũ Tổng số Trình độ ngoại ngữ Trình độ tin học Đại học Chứn g chỉ A Chứn g chỉ B Chứn g chỉ C Đại học Chứn g chỉ A Chứn g chỉ B Chứn g chỉ C CBQL 2 1 1 2 Gi¸o viªn 33 4 1 25 3 2 1 27 3 Nhân viên 3 3 3 lớp 2006 2007 2008 Được học ngoại ngữ Được học tin học Được học ngoại ngữ Được học tin học Được học ngoại ngữ Được học tin học 10 x x x x x 11 x x x x 12 x x x x x x 2. Cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ việc ứng dụng CNTT trong dạy học: 2.1. Cơ sở vật chất Stt Hạng mục Số lượng Năm được trang bị Hiện trạng sử dụng 1. Phòng máy vi tính 2 2006, 2007 Khá tốt 2 Phòng học đa năng 2 2007 Tốt 3 Phòng thiết bị dạy hoc. 1 2006 Tốt 4 Phòng thư viện 1 2005 Khá 2.2. Trang thiết bị dạy học: Stt Hạng mục Sè l­îng 1. M¸y vi tÝnh 44 m¸y ( 21 cò, 23 míi ) cã kÕt nèi Internet 2 M¸y chiÕu Projector 4 3 M¸y chiÕu ®a n¨ng 4 4 C¸c ph­¬ng tiÖn nghe nh×n 04 tivi, 02 ®Çu DVD, 02 radio 5 C¸c thiÕt bÞ ©m thanh 3 bé 6 C¸c phÇn mÒm qu¶n lý 01 phÇn mÒm qu¶n lý, c¸c bé vµ d¹y häc m«n ®Òu cã c¸c phÇn mÒm øng dông 7 HÖ thèng m¹ng Lan néi bé 02 3. Việc quản lý ứng dụng CNTT trong dạy học của nhà trường: 3.1.Thuận lợi: Hầu hết cán bộ giáo viên, nhân viên và học sinh nhà trường đã nhận thức rõ về vai trò của CNTT trong quản lý và dạy học. Đội ngũ cán bộ quản lý và giáo viên đều còn rất trẻ, tuổi đời chưa quá 35 tuổi, có trình độ ngoại ngữ và tin học khá nên có khả năng thích ứng với các phương pháp dạy học mới cũng như với các trang thiết bị dạy học hiện đại rất tốt, đặc biệt là việc ứng dụng CNTT trong hoạt động giáo dục. Bên cạnh đó, nhà trường cũng đã được Sở GD&ĐT trang bị 01 phòng máy vi tính với 21 máy, 01 máy chiếu projector, 02 máy chiếu overhead, 02 máy chiếu đa năng và đầy đủ các phương tiện nghe nhìn khá hiện đại phục vụ dạy học. Nhà trường cũng đã tự trang bị thêm 02 máy chiếu projector bằng nguồn quỹ xã hội hoá giáo dục. Đặc biệt, tháng 7/2007, nhà trường là đơn vị duy nhất của tỉnh Tuyên Quang được Công ty Liên doanh Phú Mỹ Hưng và Quỹ Hỗ trợ cộng đồng Lawrence S.Ting tài trợ 01 phòng máy vi tính với 23 máy, 01 máy chiếu projector và hệ thống nối mạng Internet hiện đại, tốc độ cao. Nhà trường cũng đã tổ chức một số đợt tập huấn kỹ năng ứng dụng CNTT cho giáo viên và nhân viên; tiến hành sưu tầm, mua sắm một số phần mềm dạy học của các bộ môn, bước đầu thiết lập thư viện điện tử cho giáo viên và học sinh; lắp đặt phòng máy kết nối Internet tốc độ cao giúp giáo viên và học sinh truy cập mạng 24/24h... 3.2. Khó khăn: Là trường mới thành lập được gần 3 năm, đội ngũ cán bộ giáo viên và nhân viên đa phần còn trẻ, kiến thức và kỹ năng về CNTT ở một số giáo viên còn hạn chế, chưa đủ vượt ngưỡng để đam mê và sáng tạo, thậm chí đôi khi còn né tránh. Mặt khác, phương pháp dạy học cũ vẫn còn như một lối mòn khó thay đổi; việc dạy học tương tác giữa người-máy, dạy theo nhóm, dạy phương pháp tư duy sáng tạo cho học sinh, cũng như dạy học sinh cách biết, cách làm, cách chung sống và cách tự khẳng định mình vẫn còn mới mẻ đối với giáo viên. Việc ứng dụng CNTT trong dạy học chưa thực sự phổ biến, còn mang tính cá nhân, ít có sự liên kết, trao đổi với nhau. Không khí tin học trong nhà trường chưa thực sự sôi nổi, một số ít vận dụng để mở rộng hiểu biết, bồi dưỡng chuyên môn, dạy tin học cơ bản chính khoá cho học sinh; việc vận dụng tin học hỗ trợ đổi mới phương pháp dạy học chưa nhiều, chủ yếu thể hiện ở một bộ phận nhỏ môn học như: Tiếng Anh, Hoá học, Sinh học, Địa lý, Lịch sử. Điều đó làm cho CNTT, dù đã được đưa vào quá trình dạy học, vẫn chưa thể phát huy tính trọn vẹn tích cực và tính hiệu quả của nó. Việc sử dụng CNTT để đổi mới phương pháp dạy học chưa được nghiên cứu kỹ, dẫn đến việc ứng dụng nó nhiều khi không đúng chỗ, không đúng lúc thậm chí nhiều khi còn lạm dụng nó. Với các trường trung học phổ thông nói chung và trường THPT Hoà Phú nói riêng, đội ngũ quản lý thường được trưởng thành từ giáo viên giảng dạy, được bồi dưỡng các lớp ngắn hạn về quản lý giáo dục nên công tác quản lý thường mang tính chủ quan và nặng về kinh nghiệm. Các biện pháp quản lý nhằm đẩy mạnh ứng dụng CNTT trong dạy học chưa có chiều sâu chất lượng, hiệu quả chưa cao và chưa mang tính chiến lược. Nhà trường đã có chủ trương khuyến khích việc ứng dụng CNTT trong dạy học nhưng các chủ trương này chưa thực sự biến thành hành động cụ thể. Việc xây dựng các kế hoạch dài hạn, lộ trình cụ thể cho việc ứng dụng CNTT vào các hoạt động nói chung và dạy học nói riêng chưa được tiến hành. Nhà trường đã tiến hành kết nối mạng Internet cho 01 phòng máy vi tính và 02 phòng làm việc của Ban giám hiệu song việc sử dụng chưa triệt để và chưa có chiều sâu, các phòng bộ môn, phòng tổ chuyên môn, đoàn thanh niên, tài vụ chưa được kết nối Internet; hệ thống mạng lan chưa được thiết lập. Công tác bồi dưỡng, đào tạo, tập huấn kỹ năng sử dụng CNTT cho giáo viên, nhân viên còn hạn chế và mang tính thời vụ, mới chỉ dừng lại ở việc xoá mù tin học nên nhiều giáo viên chưa đủ kiến thức để sử dụng CNTT trong dạy học một cách có hiệu quả . Các tài liệu phục vụ việc ứng dụng CNTT trong dạy học còn thiếu, chưa có hệ thống “ thư viện thông tin - điện tử ” với nhiều nguồn tư liệu phong phú cho cả giáo viên và học sinh; chưa có cơ sở khoa học để lựa chọn các phần mềm hỗ trợ dạy học, ngay cả số lượng phầm mềm dạy học cũng rất ít chưa đáp ứng được nhu cầu sử dụng. Việc đánh giá một tiết dạy có ứng dụng CNTT còn lúng túng, chưa xác định được hướng ứng dụng CNTT trong giờ dạy. Nhà trường đã bước đầu xây dựng cơ sở vật chất, đầu tư mua các trang thiết bị phục vụ việc ứng dụng CNTT tuy nhiên mới chỉ đủ để đáp ứng nhu cầu ứng dụng CNTT trong một bộ phận giáo viên và học sinh. Nguồn kinh phí dành riêng cho ứng dụng CNTT chưa có trong khi đó các trang thiết bị đầu tư cho CNTT đòi hỏi đắt tiền, hiện đại nhưng lại mau hỏng và mau lạc hậu. Đội ngũ cán bộ chuyên trách phụ trách kỹ thuật tin học của nhà trường chưa được xây dựng; bên cạnh đó chưa xây dựng được quy chế, quy định về vai trò, trách nhiệm của các cán bộ, giáo viên, nhân viên trong việc ứng dụng CNTT vào công việc; chưa có chế độ đãi ngộ, thi đua khen thưởng thích đáng cho cán bộ, giáo viên, nhân viên nghiên cứu, triển khai, ứng dụng tích cức các giải pháp CNTT trong nhà trường. Chính vì những lý do trên, việc triển khai ứng dụng CNTT trong dạy học của nhà trường gặp nhiều trở ngại. Nếu không có những biện pháp quản lý hiệu quả sẽ dẫn tới việc đầu tư manh mún, không hiệu quả thậm chí gây lãng phí, chỗ thừa, chỗ thiếu. Việc xây dựng được cơ chế quản lý và vận hành việc đẩy mạnh ứng dụng CNTT trong nhà trường nói chung và trong dạy học nói riêng là hết sức cần thiết, mang tính chất quyết định cho sự thành công của nghiệp giáo dục nhà trường. CHƯƠNG 3 CÁC BIỆN PHÁP QUẢN LÝ NHẰM ĐẨY MẠNH ỨNG DỤNG CNTT TRONG DẠY HỌC TẠI TRƯỜNG THPT HOÀ PHÚ, CHIÊM HOÁ, TUYÊN QUANG 1. Nâng cao nhận thức của cán bộ giáo viên, nhân viên nhà trường về CNTT Năm học 2008-2009, theo chủ trương của Bộ GD&ĐT sẽ là năm học đầu tiên và cũng là năm bản lề cho một giai đoạn ứng dụng CNTT rộng rãi trong các cấp học và trong toàn ngành giáo dục. Do đó, người quản lý phải giúp giáo viên thấy được sự “ máu lửa” và quyết tâm của lãnh đạo nhà trường trong việc đưa tin học vào phục vụ dạy học. Qua đó bồi dưỡng không ngừng về nhận thức, trách nhiệm, động lực học tập và vận dụng tin học trong chuyên môn. Đây là biện pháp thể hiện tính chất lãnh đạo ( kích thích, động viên ) đối với hoạt động tin học ở trường, cần tiến hành trong những tình huống tự nhiên, thích hợp mới thấm được vào từng giáo viên. Vấn đề không đơn giản vì thực tế cho thấy rằng, nhiều đơn vị có khá đầy đủ máy vi tính, thiết bị tin học, có cử nhân/ kỹ sư tin học nhưng hầu hết mọi người thờ ơ với việc vận dụng tin học trong công tác chuyên môn, có chăng chỉ dùng máy vi tính để thay máy đánh chữ hoặc xem vài thông tin giải trí trên Internet. Để giúp giáo viên thấy được sự “ máu lửa” và quyết tâm của lãnh đạo nhà trường trong vấn đề này, người quản lý cần: + Thông qua các cuộc họp, hội nghị thể hiện rõ chủ trương từng bước đưa tin học vào các hoạt động của nhà trường, trước hét là phục vụ công tác chuyên môn và quản lý. + Đưa tiêu chí hiểu biết về tin học vào mục “ tiêu chuẩn chuyên môn của giáo viên” trong quy chế nhà trường. Trong các tiêu chí về tự học tự rèn luyện và đổi mới phương pháp dạy học của giáo viên có lồng ghép yêu cầu về học tập và ứng dụng CNTT. + Hiệu trưởng, phó hiệu trưởng phải đi đầu trong việc nghiên cứu và ứng dụng CNTT phục vụ công tác ngày một nhiều hơn: quản lý nhân sự, quản lý tài chính, hồ sơ sổ sách ... + Yêu cầu tất cả các báo cáo nội bộ, chuyên đề, các loại kế hoạch của tổ- nhóm chuyên môn và cá nhân ... phải đánh máy và in vi tính; Giáo viên phải dùng tin học để làm đề kiểm tra, đề thi, lập bảng điểm, và cao hơn nữa là phải dùng máy vi tính và các phần mềm cần thiết để thiết kế giờ dạy ( soạn giáo án điện tử ) và thực hiện giờ dạy trên lớp với sự hỗ trợ tối đa của các thiết bị hiện đại như projector, camera, máy tính, máy scan, tivi, dầu ghi... Hệ thống bài tập dạy ôn thi đại học, bồi dưỡng học sinh giỏi, ôn thi tốt nghiệp phải được in sẵn bằng vi tính để học sinh có thể tự phôtô trước, không phải mất thời gian chép đề trên lớp. + Cho phép và có quy định cụ thể việc soạn giáo án bằng vi tính, tiến hành trao đổi giáo án trong các thành viên của nhóm bộ môn để cùng thảo luận, thống nhất cùng thực hiện; vào cuối năm học giáo viên phải nộp cho giáo vụ nhà trường đĩa CD giáo án để lưu trữ và theo dõi. + Tuyên dương, động viên kịp thời những giáo viên có quyết tâm và thể hiện được nhiều sự học hỏi và áp dụng tin học trong công tác. 2. Xây dựng cơ chế quản lý và vận hành việc triển khai ứng dụng CNTT trong nhà trường Việc triển khai ứng dụng CNTT trong nhà trường là một công việc hết sức cần thiết nhưng cũng rất khó khăn. Chính vì vậy để tạo thuận lợi, tránh đầu tư manh mún, không hiệu quả thậm chí gây lãng phí người quản lý phải xây dựng được cơ chế quản lý và vận hành việc triển khai ứng dụng CNTT trong nhà trường. Điều này mang tính quyết định cho yếu tố thành công. 2.1. Xây dựng bộ máy quản lý về CNTT trong nhà trường: 2.1.1. Cán bộ phụ trách CNTT: Trong nhà trường cần phải có đội ngũ cán bộ phụ trách về CNTT. Cán bộ phụ trách CNTT phải có trình độ cử nhân hoặc kỹ sư tin học và có nhiệm vụ: giúp hiệu trưởng trong việc tổ chức, quản lý, triển khai các công việc liên quan đén CNTT; nghiên cứu các giải pháp công nghệ, trang thiết bị CNTT để đề xuất với hiệu trưởng quyết định đầu tư sao cho hiệu quả; xây dựng kế hoạch ngắn hạn ( hàng tháng, kỳ, năm ) và dài hạn trong việc ứng dụng CNTT, kế hoạch CNTT cần nêu bật được các công việc cần làm, nhân lực cần thiết, kế hoạch đào tạo nhân lực, kinh phí cần thiết; Tổ chức đào tạo, tập huấn cho cán bộ, giáo viên, học sinh nhằm nâng cao khả năn ứng dụng CNTT, khai thác Internet trong quản lý, giảng dạy và học tập. 2.1.2. Đội ngũ cốt cán CNTT Trong nhà trường bên cạnh cán bộ phụ trách CNTT còn cần có đội ngũ cốt cán CNTT. Mỗi tổ chuyên môn, tổ chức trong nhà trường phải có ít nhất một cán bộ, giáo viên làm nòng cốt ứng dụng tích cực CNTT trong dạy học và trong công việc, cũng như làm nòng cốt cho phong trào tự học, giúp nhau hoàn thiện kỹ năng ứng dụng CNTT. 2.1.3. Cơ chế mua sắm, bảo hành, bảo quản trang thiết bị CNTT: Các thiết bị phần cứng và giải pháp phần mềm thường là đắt tiền nhưng nhanh chóng lạc hậu. Vì lẽ đó nếu không có cơ chế rõ ràng thì việc đầu tư sẽ dẫn đến tình trạng không những lãng phí, tổn thất về kinh phí, công sức mà còn làm cho những lần triển khai kế tiếp sẽ gặp nhiều khó khăn. Việc đầu tư mua sắm cần phải được tiến hành theo cơ chế, quy định như sau: + Đánh giá hiện trạng, nhu cầu về đầu tư trang thiết bị, công nghệ. + Xem xét tính cấp thiết của việc đầu tư, mua sắm. + Đánh giá khả năng phù hợp với trình độ, năng lực của cán bộ, giáo viên trong việc sử dụng khai thác các trang thiết bị công nghệ. Tránh tình trạng đầu tư lớn nhưng không sử dụng được hoặc ít người sử dụng được. + Tính tiên tiến của trang thiết bị, công nghệ. + Đánh giá hiệu quả của việc đầu tư, mua sắm. + Có cơ chế kiểm tra, theo dõi, bảo hành, bảo trì thường xuyên. Người quản lý cần phải năng động, chủ động tìm kiếm các nguồn tài chính trong và ngài ngân sách để mua sắm các trang thiết bị tin học; không nên ngồi chờ vì nếu thế sẽ bị động, vụn vặt, thiếu đồng bộ, thiếu tính ưu tiên, giá trị và hiệu quả sử dụng thấp. Bên cạnh đó phải xây dựng kế hoạch tổng thể, dài hạn về trang thiết bị tin học cho trường theo các giai đoạn, trong đó có lộ trình trang bị từng bước - hàng năm. Trên cơ sở đó, tích cực tham mưu, vận động xã hội hoá, tiết kiệm chi tiêu để có kinh phí mua sắm dần hàng năm theo thứ tự ưu tiên, cái gì bức xúc thì trang bị trước. Để tránh lãng phí, cần chọn cấu hình thiết bị phù hợp với yêu cầu sử dụng của từng chủ thể. Chẳng hạn, máy vi tính cho học sinh học, các máy dùng chung ở thư viện không cần đĩa cứng có dung lượng lớn; máy in dùng chung cho giáo viên không cần phải loại đắt tiền như máy của Ban giám hiệu hay văn thư... Để góp phần quan trọng hình thành văn hoá sử dụng thiết bị CNTT, nhà trường cần ban hành các văn bản quy định cụ thể về sử dụng, bảo quản thiết bị, trong đó làm rõ trách nhiệm cá nhân. Chẳng hạn: định kỳ lau chùi máy tính, máy in; niêm phong thùng máy; thủ tục đề nghị và bảo trì, sửa chữa; không tháo linh kiện ở máy này lắp sang máy khác ... 2.1.4. Cơ chế triển khai các ứng dụng CNTT trong nhà trường: Khi triển khai ứng dụng CNTT trong dạy học, trước tiên phải đảm bảo khả năng thích ứng làm chủ công nghệ, thiết bị cho đội ngũ cốt cán về CNTT trong nhà trường; đội ngũ này cần có đủ trình độ, năng lực, phẩm chất để triển khai công việc, giúp đỡ và hướng dẫn các thành viên khác tạo nên hình thức đào tạo hiệu quả và lôi cuốn đồng nghiệp cùng tham gia vào việc ứng dụng CNTT. Bên cạnh đó cần có các hình thức để huy động mọi thành viên trong nhà trường tham gia vào việc triển khai các giải pháp CNTT trong dạy học tuỳ theo trình độ và khả năng của từng thành viên. Chỉ bằng cách đó mới làm cho mọi thành viên có ý thức về tầm quan trọng, nâng cao dần hiểu biết về CNTT trong dạy học. 2.1.5. Cơ chế động viên, khen thưởng về CNTT: Nhiều đơn vị hiện nay thường tập trung vào đầu tư máy vi tính, projector và một số thiết bị đắt tiền khác mà chưa chú ý đến việc đầu tư cho những người khai thác, sử dụng để tạo ra những sản phẩm cụ thể. Người quản lý cần xây dựng được định mức làm việc cho cán bộ CNTT và các cốt cán CNTT trên cơ sở đó có thù lao tương ứng với đóng góp của mỗi cá nhân và khả năng của đơn vị. Định mức này có thể được xem xét, điều chỉnh định kỳ sao cho phù hợp hơn; tiến hành tổng kết, đánh giá về hiệu quả ứng dụng CNTT trong dạy học định kỳ để biểu dương, khen thưởng kịp thời những nhân tố tích cực, chấn chỉnh những yếu kém. Mạnh dạn thưởng cho những thành viên có sáng kiến, cải tiến thiết bị công nghệ mạng lại hiệu quả cao trong hoạt động dạy học; đưa việc ứng dụng CNTT thành một trong những tiêu chí xếp loại thi đua, căn cứ khen thưởng, sắp xếp, đề bạt các vị trí quan trọng trong đơn vị. 3. Tích cực trang bị tài liệu tin học cho thư viện và tổ chức huấn luyện kỹ năng sử dụng tin học cho giáo viên, nhân viên nhà trường. Do không được đào tạo cơ bản về tin học nên kiến thức, kỹ năng tin học của giáo viên, nhân viên chủ yếu do tự học và học hỏi lẫn nhau. Vì thế người quản lý cần trang bị đầy đủ các tài liệu tin học và bổ sung hàng năm kết hợp với việc huy động các tài liệu riêng của giáo viên và tài liệu trên mạng Internet. Tổ chức huấn luyện cho giáo viên, nhân viên cách sử dụng các thiết bị hiện đại; dạy tin học căn bản như Window, Word, Excel, Internet, phần mềm Power point, phần mềm kiểm tra trắc nghiệm và một số phầm mềm khác... theo đặc trưng của từng bộ môn. Tuỳ từng nội dung và điều kiện cụ thể để linh hoạt hoá các hình thức huấn luyện: huấn luyện cho đông đảo tập thể giáo viên, tách ra huấn luyện từng tổ bộ môn, tổ chức kèm cặp riêng cho một số ít người... Tuỳ theo đặc trưng của mỗi bộ môn và khả năng của từng giáo viên mà nhấn mạnh hướng dẫn các nội dung khác nhau của CNTT, hoặc các tiện ích khác nhau của các thiết bị dạy học. Tập huấn cho các giáo viên kỹ năng kết hợp phần mềm Power point với nhiều phần mềm khác để tự soạn giáo án điện tử; dùng các thiết bị hiện đại như camera để quay phim mô tả bài thí nghiệm, phim tư liệu... để chèn vào bài giảng lý thuyết; biết kết hợp sử dụng máy tính và camera cho nhiều nhóm học sinh cùng làm và cùng sửa bài tập, tiết kiệm thời gian và huy động được đông đảo học sinh tham gia xây dựng bài; biết scan và xử lý ảnh, biết vào Internet để tìm kiếm thông tin, tải bản đồ, hình ảnh, hình mẫu đưa vào minh hoạ cho bài giảng. Vốn tin học đó tuy rất khiêm tốn nhưng là nền tảng giúp giáo viên có tiền đề tự nghiên cứu, học hỏi để tiếp tục những năm tiếp theo. 4. Xây dựng tiêu chuẩn đánh giá chất lượng hiệu quả của giờ dạy ứng dụng CNTT Việc xây dựng tiêu chuẩn trên là rất cần thiết bởi nó sẽ tạo cơ sở để kích thích việc ứng dụng CNTT trong dạy học. Cần quy định rõ một giờ dạy ứng dụng CNTT có hiệu quả, chất lượng phải đảm bảo các tiêu chí sau: 4.1. Tiêu chí về nội dung: Bảo đảm tính chính xác, khoa học, phù hợp với đặc trưng bộ môn và nội dung, phương pháp bài dạy. Thể hiện nổi bật được bài học, khơi gợi được tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh trong nhận thức, luyện tập. 4.2. Tiêu chí về hình thức: Trình bày thẩm mỹ, rõ nét, dễ hiểu, dễ nắm, kích thích được hưng phấn, tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh, không làm học sinh mất tập trung vào bài học. 4.3. Tiêu chí về kỹ thuật (Kỹ thuật trình chiếu và sử dụng thiết bị ). 4.4 Tiêu chí về hiệu quả. 5. Nối mạng Internet cho toàn trường: Internet là một thành tựu khoa học tuyệt vời của thập niên cuối thế kỷ XX. Nó là một phương tiện có tác dụng rất nhiều mặt cho giáo viên, nhất là tự bồi dưỡng chuyên môn, hỗ trợ giảng dạy. Một phòng máy vi tính, phòng tổ chuyên môn, phòng chức năng... với đường truyền Internet ADSL tốc độ cao sẽ giúp giáo viên có thể chủ động khai thác các nguồn thông tin, tư liệu phong phú trên mạng phục vụ cho bài giảng; có thể giao lưu, trao đổi và học hỏi kinh nghiệm chuyên môn với các đồng nghiệp trong và ngoài nhà trường một cách dễ dàng, nhanh chóng và phổ biến. Bên cạnh đó, nhà trường cũng cần thiết lập hệ thống mạng nội bộ kết nối giữa các phòng Ban giám hiệu với các phòng tổ chuyên môn, thư viện, phòng chức năng, đoàn thanh niên, văn thư, tài vụ... nhằm tạo sự liên thông chặt chẽ giữa lãnh đạo với giáo viên và các tổ chức đoàn thể trong các hoạt động, không khí tin học trong nhà trường vì thế càng trở lên nhộn nhịp hơn. CNTT với khả năng kỳ diệu của truyền thông cho phép công nghiệp hoá quá trình quản lý và giảng dạy. Việc sử dụng mạng máy tính và các phương tiện xử lý, phân tích thông tin tiên tiến cho phép đánh giá quá trình dạy học, từ đó góp phần tích cực vào việc thay đổi nội dung và phương pháp giảng dạy. Nhờ có mạng thông tin, sự giao lưu giữa gia đình, nhà trường và xã hội sẽ trở nên nhanh chóng. Nhà trường sẽ trở thành một trường học rộng lớn trong đó có tất cả các lực lượng cùng tham gia giáo dục học sinh. 6. Xây dựng hệ thống “Thư viện điện tử” , thiết lập cổng thông tin điện tử- website của nhà trường: Nhà trường cần đầu tư thiết lập cổng thông tin điện tử -website riêng và duy trì hoạt động có hiệu quả bằng nguồn quỹ hoạt động phí của nhà trường kết hợp với xã hội hoá giáo dục nhằm tạo một phương tiện thông tin đa chức năng, phục vụ ngày càng nhiều khía cạnh cho công tác của trường nói chung và hoạt động dạy học nói riêng; xây dựng kho học liệu điện tử dùng chung cho cả trường bao gồm hệ thống “ Thư viện điện tử ” ( e- library) cho giáo viên và học sinh với các loại sách điện tử (e - book) phong phú, da dạng cho các môn học như sách giảng dạy, sách giáo khoa, sách tham khảo; cùng hệ thống các băng, đĩa, các phần mềm dạy học và ôn luyện, kiểm tra, giáo án điện tử của giáo viên các bộ môn... Danh mục sách của thư viện và các địa chỉ website phục vụ giảng dạy và học tập như: các địa chỉ web của các đơn vị giáo dục và đào tạo trong và ngoài nước... phải được cập nhật thường xuyên, được niêm yết tại phòng Hội đồng, văn phòng và bảng tin cho mọi giáo viên và học sinh dẽ dàng theo dõi, học hỏi kinh nghiệm để hoàn thiện bài soạn và bài học của mình cả về nội dung lẫn hình thức. Công nghệ đa phương tiện ( multimedia ), sách giáo khoa và thư viện điện tử với khả năng trình diễn bằng giao tiếp tương tác đã trở thành công cụ mạnh mẽ yểm trợ cho quá trình truyền thụ tri thức. Khả năng phát triển của mạng máy tính và các ứng dụng phong phú của nó, cho phép phát triển các thư viện điện tử, phát hành nhanh chóng sách giáo khoa trên diện rộng với khả năng truy cập thông tin nhanh nhất. Thư viện điện tử cùng với sách điện tử, với một khối lượng tri thức khổng lồ trải rộng trên phạm vi toàn cầu và có thể truy cập vào bất cứ lúc nào, chắc chắn sẽ là công cụ hữu hiệu phục vụ đắc lực quá trình dạy học, góp phần rất quan trọng vào việc đổi mới phương pháp giáo dục đào tạo, nâng cao chất lượng dạy học. Bên cạnh đó, nhà trường cần nghiên cứu xây dựng mô hình trường học điện tử trong đó việc ứng dụng CNTT và các thành tựu của kỹ thuật điện tử được áp dụng trong tất cả các công việc, các mối quan hệ, giao tiếp, quản lý, giảng dạy, học tập, phục vụ... Xây dựng trường học điện tử giúp nhà trường có được hệ thống cơ sở dữ liệu chuẩn hoá dùng chung trong nhà trường đồng thời xây dựng được kho thông tin tư liệu phong phú, đa chiều phục vụ giảng dạy, học tập, nghiên cứu và tham khảo. MÔ HÌNH TRƯỜNG HỌC ĐIỆN TỬ ( E-SCHOOL ) BGH Website Cha mẹ HS CQ địa phương SỞ GD&ĐT 7. Thường xuyên tổ chức các cuộc hội thảo, các cuộc thi về ứng dụng CNTT trong dạy học Các cuộc hội thảo chuyên đề về CNTT luôn có sức thuyết phục mạnh mẽ đối với các giáo viên. Nội dung các cuộc hội thảo đòi hỏi phải phong phú, thiết thực, đề cập đến những vấn đề mà hiện nay giáo viên cần quan tâm. Ví dụ như: chuyên đề “Cải cách phương pháp dạy học theo hướng vận dụng CNTT và các thiết bị dạy học hiện đại”; chuyên đề “ Cách soạn giáo án điện tử”; chuyên đề “ Việc sử dụng các phần mềm trong quá trình dạy học”; chuyên đề “Khai thác có hiệu quả thông tin trên Internet và thư viện điện tử”... Qua các cuộc hội thảo, người quản lý và giáo viên, nhân viên nhà trường sẽ học hỏi được rất nhiều kinh nghiệm và có điều kiện nhìn lại công tác quản lý và giảng dạy của mình. Trong nội dung hội thảo nên lồng ghép vào đó một số tiết dạy có ứng dụng CNTT để minh hoạ. Việc đưa các tiết dạy minh hoạ sử dụng CNTT và các thiết bị dạy học hiện đại vào nội dung các cuộc hội thảo lầ rất cần thiết và chắc chắn sẽ mang lại hiệu quả cao. Qua đó chắc chắn giáo viên sẽ nhận thức được rằng nếu tiết học nào giáo viên cũng sử dụng CNTT và các thiết bị hiện đại thì chất lượng học tập của học sinh sẽ có kết quả tốt nhất. Song song với việc tổ chức các cuộc hội thảo, nhà trường cần định kỳ tổ chức các đợt thao giảng, các phong trào thi đua, các cuộc thi giảng dạy có ứng dụng CNTT và các trang thiết bị hiên đại lôi kéo tất cả các giáo viên cùng tham gia. Trong thực tế, việc dạy học theo phương pháp hiện đại cũng còn có nhiều vấn đề phải bàn bạc, có bài học thuận lợi, đạt hiệu quả cao. Nhưng cũng có môn học, có tiết học khó khăn, đạt hiệu quả thấp. Tuy nhiên nhà trường cần mạnh dạn để cho tất cả mọi người, mọi môn học tích cực thực hiện việc dạy học theo phương pháp này, cốt để giáo viên thành thạo, vượt qua được nhũng e ngại ban đầu. Khi mọi giáo viên đã có thực tế trong giảng dạy, nhà trường mới tổ chức rút kinh nghiệm. Có như vậy, các cuộc thao giảng, thi giảng mới tạo được hứng thú và sức lôi cuốn mạnh mẽ đối với giáo viên. 8. Định hướng cụ thể, chi tiết việc sử dụng các thiết bị CNTT phục vụ dạy học: Để tạo điều kiện thuận lợi cho việc ứng dụng CNTT trong dạy học đồng thời nâng cao hiệu suất và chất lượng ứng dụng, việc định hướng cho giáo viên khi sử dụng các thiết bị CNTT phục vụ dạy học là hết sức cần thiết. Người quản lý có thể có các định hướng sau ( nội dung định hướng được thể hiện trên văn bản và triển khai tới từng giáo viên ): 8.1. CNTT phục vụ tự học, tự bồi dưỡng chuyên môn cho giáo viên. - Tham khảo tài liệu từ mạng Internet gồm các hình thức: + Tham khảo trực tuyến: giáo viên nghiên cứu, học tập, đọc báo ... trực tiếp qua mạng Internet. + Tải từ mạng tư liệu in thành tập hoặc in ra giấy để nghiên cứu sau. - Giao lưu - trao đổi thông tin chuyên môn qua Email với đồng nghiệp ở các trường bạn. - Tham gia trực tiếp một số chương trình đào tạo, bồi dưỡng trên mạng như: tin học, tiếng Anh, những bài “ dạy mẫu”... - Tham gia trao đổi chuyên môn thông qua website của trường và qua các địa chỉ web khác. 8.2. CNTT phục vụ đổi mới phương pháp dạy học Sự đổi mới phương pháp dạy học đang triển khai ở cấp THPT phần lớn gắn liền với sử dụng đồ dùng dạy học, thí nghiệm thực hành mà các thiết bị tin học nói chung, thiết bị nghe nhìn đa chức năng nói riêng đáp ứng được mọt phần khá quan trọng yêu cầu này. Cụ thể: - Dùng thiết bị tin học như một đồ dùng trực quan sinh động. Có thể dùng: + Trình chiếu Power point thể hiện các sơ đồ, biểu đồ, mô hình, bản đồ, hình ảnh tĩnh và động, phim ... trong tiết dạy. Giáo viên có thể lấy các tư liệu này trên máy, lấy từ mạng có sẵn, scan từ tranh ảnh bên ngoài, chụp ảnh, quay camera kyc thuật số. + Dùng máy thu hình vật thể kết nối với tivi màn ảnh rộng để thể hiện bản đồ, hình ảnh ... + Cần tránh quan điểm đơn giản rằng vận dụng CNTT trong dạy học là trình bày bài giảng bằng Power point. Power point chỉ là công cụ để trình chiếu, còn để có nội dung trình chiếu phù hợp, cần kết hợp với những trình ứng dụng khác như word, excel, media flash, các phần mềm công cụ – Chem ofice, math Type, ... Nếu chỉ dùng Power point thay thế viết bảng thì không nên dùng, trừ khi ôn tập chương, học kỳ. - Dùng Power point, Flash để tạo hệ thống hình ảnh động, hoặc đoạn phim hoạt hình đơn giản, thí nghiệm ảo để giúp học sinh dễ hiểu, hiểu sâu các quá trình, nội dung các thí nghiệm mà chưa có điều kiện tiến hành thực... - Một số tiết dạy giáo dục công dân, ngữ văn và đặc biệt là lịch sử sẽ rất sinh động, thuyết phục nếu biết minh hoạ bằng các đoạn phim tư liệu thích hợp. - Tiết dạy làm dàn ý bài văn, trả bài làm văn sẽ rất hiệu quả nếu biết sử dụng đèn chiếu ( Overhead, projector, máy thu hình vật thể ... ). - Giáo viên bộ môn đưa tài liệu, bài tập do giáo viên biên soạn hoặc thu thập lên Website của nhà trường để học sinh tham khảo và luyện tập thêm, ví dụ như ngân hàng câu hỏi trắc nghiệm các môn: tiếng Anh, Vật lý, Hoá học, Sinh học... PHẦN KẾT LUẬN 1. Bài học kinh nghiệm: Để cho CNTT thực sự đi vào hoạt động quản lý và dạy học, điều quan trọng hàng đầu không phải là kinh phí, đó là phải biết kích thích, động viên tạo nên hứng thú, động lực học hỏi, áp dụng chúng trong thực tiễn công tác. Muốn vậy, điều không thể thiếu là lãnh đạo nhà trường phải có tâm huyết, phải có tư tưởng đi đầu trong lĩnh vực CNTT. Không khí tin học ở nhà trường bắt nguồn từ chỗ đó. Cũng từ đó, biết phát hiện, trân trọng, động viên sẽ hình thành từng bước những nhân tố tin học, có tác dụng lan toả cảm hứng và thái độ tích cực với tin học trong đội ngũ giáo viên. Nhân tố tin học không nhất thiết phải là cử nhân, hay kỹ sư tin học mà phải là người “ máu lửa” và có tư chất cần thiết đối với tin học. Giúp giáo viên nhận thức rằng, CNTT vừa là quyền lợi, vừa là trách nhiệm của mọi thành viên nhà trường; tin học là mọt phương tiện hữu hiệu hỗ trợ giáo viên tự học, tự bồi dưỡng chuyên môn và góp phần cải tiến phương pháp dạy học. Sử dụng có văn hoá các thiết bị tin học đồng thời hạn chế thấp nhất sự lãng phí giá trị sử dụng các thiết bị. Tạo điều kiện tối đa trong khả năng của nhà trường để giáo viên có các phương tiện và môi trường học hỏi, áp dụng về tin học. 2. Kết luận Đổi mới phương pháp dạy học hiện đang là vấn đề cốt tử để nâng cao chất lượng dạy học. Đó là một trong những mục tiêu quan trọng nhất trong cải cách giáo dục ở nước ta hiện nay. Đối với mỗi trường cần phải có những biện pháp sáng tạo, linh hoạt cho phù hợp với đặc điểm tình hình thực tế của đơn vị mình nhằm hạn chế và khắc phục những tồn tại trong công tác quản lý dạy học của nhà trường. Để nâng cao chất lượng dạy học cần phải thực hiện đồng bộ nhiều biện pháp trong đó vấn đề đẩy mạnh ứng dụng CNTT trong dạy học được coi là biện pháp đặc biệt quan trọng, mang tính đột phá quyết định tới sự phát triển của nhà trường. Tuy nhiên, việc ứng dụng CNTT nhằm đổi mới nội dung, phương pháp dạy học là một công việc lâu dài, khó khăn đòi hỏi rất nhiều điều kiện về cơ sở vật chất, tài chính và năng lực của đội ngũ quản lý và giáo viên. Xuất phát từ cơ sở lý luận, thực trạng công tác quản lý tại đơn vị tôi đã mạnh dạn đưa ra 8 giải pháp mang tính khả thi nhằm đẩy mạnh ứng dụng CNTT trong dạy học ở trường THPT Hoà Phú, Chiêm Hoá, Tuyên Quang trong giai đoạn hiện nay, qua đó góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả giáo dục của nhà trường hiện tại và sau này. Với những nội dung đã trình bày trong đề tài cho thấy đề tài đã được thực hiện phù hợp với yêu cầu và mục tiêu đã đặt ra. Mặc dù đề tài đã được nghiên cứu hết sức cẩn trọng và phù hợp với tình hình thực tế của nhà trường trong giai đoạn hiện nay, nhưng chắc chắn còn những biện pháp khác chưa được đề cập tới. Trong những năm tiếp theo, sự chỉ đạo cần tập trung nhiều hơn nữa vào việc hướng dẫn mang tính chuyên môn, nâng cao trình độ và kỹ năng ứng dụng CNTT cho giáo viên nhà trường thông qua việc xây dựng kế hoạch đào tạo ngắn hạn, dài hạn; việc đầu tư thiết bị tin học - nghe nhìn hiện nay không còn là việc xa vời, quá sức đối với nhà trường, vấn đề là phải chủ động đầu tư, phải có kế hoạch và lộ trình cho từng năm học, từng học kỳ và sử dụng có văn hoá các thiết bị này. Đó chính là hướng nghiên cứu tiếp tục của đề tài trong thực tiễn quản lý chỉ đạo đẩy mạnh ứng dụng CNTT trong dạy học của nhà trường sau này. 3. Kiến nghị. Để tạo điều kiện thuận lợi cho việc ứng dụng CNTT trong trường phổ thông hiện nay kính đề nghị Bộ giáo dục và Đào tạo hỗ trợ chỉ đạo một số nội dung sau: - Ban hành Bộ tiêu chí về kiểm định chất lượng trường phổ thông để làm cơ sở cho công tác quản lý, chỉ đạo của nhà trường. - Tổ chức tập huấn và bồi dưỡng cho cán bộ quản lý, giáo viên tin học các trường về kỹ năng ứng dụng CNTT vào trong nhà trường phổ thông. - Xây dựng bộ phần mềm quản lý các hoạt động trong trường phổ thông ( tránh hiện tượng dùng các phần mềm riêng, không đồng bộ dữ liệu ). - Nhân rộng các điển hình xuất sắc trong cả nước về ứng dụng CNTT trong nhà trường. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Nghị quyết IV của BCH TW Đảng CSVN khoá VII về tiếp tục đổi mới sự nghiệp GD&ĐT. 2. Chỉ thị số 58-CT/TW ngày 17/10/2000 của Bộ chính trị về đẩy mạnh ứng dụng và phát triển CNTT phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa- hiện đại hóa đất nước. 3. Chỉ thị số 29/2001/CT-BGD&ĐT ngày 30/7/2001 của Bộ trưởng Bộ GD&ĐT về việc tăng cường giảng dạy, đào tạo và ứng dụng CNTT trong ngành giáo dục giai đoạn 2001-2005. 4. Nghị quyết Đại hội Đảng khoá X, NXB chính trị quốc gia- 2005 5. Luật Giáo dục - NXB chính trị quốc gia, 2005. 6. Hỏi và đáp luật giáo dục 2005 - NXB chính trị quốc gia. 7. Chương trình giáo dục phổ thông - HĐGDNGLL, Bộ GD&ĐT, NXB GD 2006. 8. Nghị quyết BCH Đảng bộ tỉnh Tuyên Quang lần thứ XIV năm 2005, Nghị quyết BCH Đảng bộ huyện Hoà Phú lần thứ XVIII năm 2005. 9. Giáo trình: Quản lý giáo dục và đào tạo- học phần III của Học viện Quản lý Giáo dục

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdftong_hop_tieu_luan_tinh_huong_quan_ly_nha_nuoc_ve_giao_duc_1744_2067762.pdf
Luận văn liên quan