Tự do hóa thương mại dịch vụ phân phối theo các yêu cầu của WTO và các cam kết của Việt Nam

Tính cấp thiết của đề tài Ngành dịch vụ phân phối là ngành kinh tế quốc dân quan trọng, không chỉ ở việc chiếm tỉ lệ 13 – 14% GDP cả nước, mà còn ở ý nghĩa kinh tế - xã hội khi nó là cầu nối giữa nhà sản xuất và người tiêu dùng. Với vai trò chi phối mạnh mẽ các ngành sản xuất công – nông nghiệp, ngành dịch vụ phân phối có ý nghĩa quan trọng trong an ninh kinh tế quốc gia. Hiện nay, có một thực tế là hệ thống phân phối của Việt Nam đang bị đánh giá là rất yếu kém về tài chính, quản lý, thiếu chuyên môn, thiếu sự liên kết, và rất dễ bị tiêu diệt bởi các tập đoàn phân phối khổng lồ của thế giới trong cạnh tranh ngay trên sân nhà, thì sự quan tâm của Nhà nước và xã hội lại hoàn toàn chưa tương xứng mà biểu hiện cụ thể nhất là các quy định của pháp luật về lĩnh vực này còn chứa đựng nhiều mâu thuẫn và hạn chế. Hơn thế nữa, sự phức tạp và tỷ lệ 85% của kênh phân phối truyền thống (chợ và tiệm tạp hóa nhỏ) trong hệ thống phân phối khiến nhiều ý kiến lo ngại rằng gia nhập WTO, ngành phân phối non trẻ của Việt Nam sẽ là ngành đầu tiên chịu ảnh hưởng trực tiếp từ cạnh tranh và có thể sẽ bị nuốt chửng bởi các tập đoàn khổng lồ của thế giới. Tuy nhiên, ngay cả khi phải đối mặt với những khó khăn đó, không một chuyên gia kinh tế nào phủ định được những mặt, những khía cạnh tích cực mà tự do hóa thương mại dịch vụ mang lại cho người tiêu dùng và xã hội. Chấp nhận tự do hóa, chấp nhận cạnh tranh nghĩa là chấp nhận một cơ chế minh bạch và bình đẳng trước pháp luật trong gia nhập thị trường nhưng không đồng nghĩa với chấp nhận sự lạm dụng vị thế kẻ mạnh (chủ yếu là nhà đầu tư nước ngoài) để chèn ép kẻ yếu (chủ yếu là các doanh nghiệp trong nước), từng bước khống chế rồi thống trị thị trường. Đứng trước hoàn cảnh thực tế nhiều mâu thuẫn như vậy, một chính sách vĩ mô cho ngành dịch vụ phân phối cần được nghiên trên cơ sở những tư tưởng cơ bản thể hiện trong các quy phạm pháp luật hiện hành đang điều chỉnh ngành thương mại này, và so sánh với các nội dung chủ yếu trong các cam kết WTO của Chính phủ ta ở lĩnh vực này. Hơn thế nữa, việc hình dung và khái quát hóa một lộ trình phát triển [quy luật phát triển nội tại] của chúng [các quy phạm pháp luật] trong thời gian tới trên cơ sở nỗ lực duy trì sự cân bằng lợi ích kinh tế, bằng các điều tiết của Nhà nước bằng pháp luật, giữa tự do thương mại và bảo hộ hay an ninh kinh tế quốc gia không chỉ có ý nghĩa lý luận mà còn có giá trị thực tiễn quan trọng. 2. Tình hình nghiên cứu về đề tài Hiện tại, các nghiên cứu về luật thương mại rất phong phú, tập trung ở rất nhiều chủ đề: quy chế thương nhân, hành vi thương mại, hợp đồng mua bán hàng Tuy nhiên, riêng đối với lĩnh vực phân phối mới chỉ có một số nghiên cứu nhỏ, được thể hiện dưới hình thức những bài báo trên một số tạp chí khoa học pháp lý của các tác giả. Tương tự, có rất nhiều các nghiên cứu tổng quát về các vấn đề pháp lý trong việc gia nhập WTO cũng như các cam kết của Chính phủ cũng như tác động của nó đến hệ thống pháp luật Việt Nam, nhưng chưa có nghiên cứu riêng, cụ thể về lĩnh vực phân phối. Bên cạnh đó, đối với một số chuyên mục của đề tài như franchising, đại lý mua bán hàng hóa, hiện đã có luận văn thạc sỹ luật học và khóa luận tốt nghiệp đề cập, chẳng hạn, luận văn “Những vấn đề lý luận và thực tiễn về nhượng quyền thương mại tại Việt Nam” của học viên Nguyễn Thị Minh Huệ bảo vệ năm 2005 tại Đại học Luật Hà Nội ( luận văn này viết vào thời điểm Việt Nam chưa gia nhập WTO). 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu Mục đích của việc nghiên cứu đề tài là làm sáng tỏ các nội dung của tự do hóa thương mại dịch vụ phân phối theo yêu cầu WTO; đánh giá đúng thực trạng pháp luật về thương mại dịch vụ phân phối và phân tích tác động của các cam kết WTO đối với sự điều chỉnh pháp luật về thương mại dịch vụ phân phối ở Việt Nam. Để đạt được mục đích nói trên, luận văn cần giải quyết những nhiệm vụ sau đây: - Làm sáng tỏ nội dung của tự do hóa thương mại dịch vụ phân phối theo các yêu cầu của WTO. - Phân tích nội dung các cam kết WTO của Việt Nam về thương mại dịch vụ phân phối. - Đánh giá thực trạng pháp luật Việt Nam về thương mại dịch vụ phân phối. - Phân tích sự tác động của các cam kết WTO của Việt Nam về thương mại dịch vụ phân phối đối với sự điều chỉnh pháp luật về thương mại dịch vụ phân phối. 4. Phương pháp luận và các phương pháp nghiên cứu Luận văn vận dụng các nguyên tắc, phương pháp luận triết học duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác – Lênin, của tư tưởng Hồ Chí Minh. Các phương pháp nghiên cứu cụ thể được vận dụng trong luận văn là các phương pháp: diễn dịch, quy nạp, so sánh, lịch sử, khảo sát, thống kê. 5. Ý nghĩa của việc nghiên cứu Các kết quả nghiên cứu của đề tài có thể trở thành tài liệu tham khảo hữu ích đối với những người nghiên cứu, học tập về vấn đề tự do hóa thương mại dịch vụ phân phối và tác động của các cam kết WTO của Việt Nam về thương mại dịch vụ phân phối đối với sự điều chỉnh pháp luật về thương mại dịch vụ phân phối. 6. Cơ cấu của luận văn Cơ cấu luận văn bao gồm 4 phần: Mở đầu, nội dung, kết luận và phụ lục. Phần 1: Mở đầu Phần 2: Nội dung, bao gồm 2 chương: Nội dung chương 1 về tự do hóa thương mại dịch vụ phân phối theo các yêu cầu của WTO và các cam kết của Chính phủ Việt Nam . Chương 1 tập trung làm rõ vấn đề tự do hóa thương mại dịch vụ phân phối trong tình hình hiện nay trên thế giới và ở Việt Nam . Chương 1 nhấn mạnh về tính hiện thực của tự do hoá thương mại từ thương mại hàng hoá đến thương mại dịch vụ như một xu hướng tất yếu thể hiện qua Hiệp định thương mại tự do về dịch vụ của Tổ chức Thương mại thế giới WTO – Hiệp định GATS. Chương 1 cũng đặt trọng tâm phân tích những cam kết chung của Việt Nam trong lĩnh vực dịch vụ và phân phối từ góc độ quan điểm lập pháp và chính sách thương mại. Nội dung chương 2 về thực trạng pháp luật Việt Nam và tác động của các cam kết WTO và xu hướng phát triển của quy phạm pháp luật đối với ngành thương mại dịch vụ phân phối. Chương 2 dành cho việc phân tích, đánh giá hiện trạng pháp luật Việt Nam (trước khi gia nhập WTO và sau khi gia nhập WTO) về ngành dịch vụ phân phối nói chung và từng lĩnh vực của phân phối nói riêng như: dịch vụ đại lý ủy quyền, dịch vụ bán buôn, dịch vụ bán lẻ, franchising. Trên cơ sở những phân tích về hiện trạng, đối chiếu với quy định của WTO, chương 2 tập trung vào việc phát hiện những nét thay đổi của các quy phạm pháp luật để chỉ ra sự tác động của các cam kết WTO và xu hướng phát triển của các quy phạm pháp luật ngành dịch vụ phân phối nói chung. Phần 3: Kết luận Kết luận của đề tài được rút ra và tóm tắt từ những kết quả nghiên cứu ở Chương 1 và Chương 2. Phần 4: Phụ lục.

docx60 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 3617 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tự do hóa thương mại dịch vụ phân phối theo các yêu cầu của WTO và các cam kết của Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
i) sẽ cản trở nhất định hàng hóa trong nước tiếp cận người tiêu dùng. e.         Việc cụ thể hóa nội dung nhu cầu kinh tế (ENT) trong Biểu cam kết tương ứng với quy hoạch chợ, trung tâm thương mại và siêu thị             Trong Biểu cam kết dịch vụ, cam kết theo phương thức (3) – hiện diện thương mại, việc thành lập các cơ sở bán lẻ (ngoài cơ sở thứ nhất) sẽ được xem xét trên cơ sở kiểm tra nhu cầu kinh tế (ENT) nhưng trong Nghị định 23/2007 và các văn bản hướng dẫn hoàn toàn chưa có hướng dẫn cụ thể về nội dung này. Trong khi đó, hoàn toàn có thể dựa trên quy hoạch phát triển tổng thể (đến năm 2010, tầm nhìn định hướng đến năm 2020) đối với hệ thống chợ [35] và thương mại trong nước [36] để thực hiện hướng dẫn về nội dung này, vừa đảm bảo tính an toàn vừa đảm bảo phát triển đồng đều thương mại nói chung và hệ thống phân phối nói riêng. g.         Những tác động khác của Cam kết WTO trong lĩnh vực bán lẻ và xu hướng của quy phạm pháp luật trong dịch vụ bán lẻ Trong nội dung trước, liên quan đến thương mại điện tử, chúng ta đã đề cập đến Thông tư 09/2008/BCT quy định chi tiết về hoạt động bán lẻ thông qua internet, tuy nhiên, trong Thông tư 09/2008/BCT này không có bất kỳ quy định nào về đối tượng sử dụng cách thức bán lẻ thông qua mạng internet này, hơn nữa, cần xét về gốc, Nghị định 57/2006 (văn bản mà Thông tư 09/2008/BCT hướng dẫn) áp dụng cho mọi giao dịch sử dụng các bằng chứng giao kết điện tử trên phạm vi lãnh thổ Việt Nam, cũng không quy định rõ về đối tượng được sử dụng loại hình này. Xa hơn nữa, Luật giao dịch điện tử năm 2005 cũng không chú ý đến các yếu tố có tính phân loại là thương nhân trong nước hay thương nhân có vốn đầu tư nước ngoài hay thương nhân nước ngoài hoạt động thương mại tại Việt Nam . Vậy thì, có phải vấn đề chỉ đơn giản đây là những quy định về hình thức thể hiện của giao dịch nên không cần chú ý đến nội dung của các quan hệ này hay về cơ bản, chúng ta đang chứng kiến một xu hướng đối xử quốc gia phát triển trong lĩnh vực này. 2.4.    Thực trạng pháp luật nước ta về nhượng quyền thương mại (franchising) và tác động của cam kết WTO của Việt Nam đối với sự điều chỉnh pháp luật về  nhượng quyền thương mại 2.4.1. Nhượng quyền thương mại theo quan niệm tại một số nước trên thế giới Nhượng quyền thương mại hay franchise được coi là khởi nguồn tại Mỹ, vào giữa thế kỷ 19. Doanh thu từ hoạt động kinh doanh nhượng quyền trên thế giới năm 2000 là khoảng 1.000 tỷ USD với khoảng 320.000 DN từ 75 ngành khác nhau. Tại Mỹ, hoạt động nhượng quyền chiếm trên 40% tổng mức bán lẻ, thu hút được trên 8 triệu người lao động trong khu vực này và bình quân cứ 12 phút lại có 1 franchise mới ra đời.  Ở Anh, franchising là một trong những hoạt động tăng trưởng nhanh nhất của nền kinh tế với khoảng 32.000 DN nhượng quyền, doanh thu mỗi năm 8,9 tỷ bảng Anh. Khu vực franchising cũng thu hút một lượng lao động lớn với khoảng 317.000 lao động và chiếm trên 29% thị phần bán lẻ. Hiện nay, hình thức này không ngừng được mở rộng, phát huy tính hiệu quả trong kinh doanh và cùng với các hình thức kinh doanh khác đã tạo nên một bức tranh sống động của nền kinh tế thế giới. Nhượng quyền thương mại là một hình thức kinh doanh phổ biến tại nhiều quốc gia trên thế giới. Tuy nhiên, do sự khác biệt về quan điểm và môi trường kinh tế, chính trị, xã hội giữa các quốc gia, nên khái niệm nhượng quyền thương mại cũng được hiểu và vận dụng rất khác nhằm giải thích, hướng dẫn các thương nhân hoạt động nhượng quyền đạt hiệu quả. Có thể liệt kê các quan niệm về nhượng quyền thương mại tiêu biểu gồm:  a.        Hiệp hội Nhượng quyền thương mại Quốc tế (The International Franchise Association, viết tắt là IFA) [37]: “Nhượng quyền thương mại là hợp đồng hoặc cấp li-xăng giữa hai chủ thể pháp lý độc lập, theo đó: -           Một người hoặc một nhóm người (bên nhận quyền) có quyền cung cấp sản phẩm hay dịch vụ sử dụng nhãn hiệu và tên thương mại của người khác (bên nhượng quyền); -           Bên nhận quyền cung cấp sản phẩm hay dịch vụ theo đúng phương thức hoạt động do bên nhượng quyền quy định; -           Bên nhận quyền có nghĩa vụ trả phí cho bên nhượng quyền để được hưởng các quyền trên. -           Bên nhượng quyền có trách nhiệm giao quyền và hỗ trợ những người nhận nhượng quyền.” b.         Uỷ ban Thương mại Liên bang Hoa Kỳ (The US Federal Trade Commission - FTC)[38]: Khái niệm một hợp đồng nhượng quyền thương mại là hợp đồng theo đó Bên giao: -           Hỗ trợ đáng kể cho Bên nhận trong việc điều hành doanh nghiệp hoặc kiểm soát chặt chẽ phương pháp điều hành doanh nghiệp của Bên nhận; -           Li-xăng nhãn hiệu cho Bên nhận để phân phối sản phẩm hoặc dịch vụ theo nhãn hiệu hàng hóa của Bên giao và -           Yêu cầu Bên nhận thanh toán cho Bên giao một khoản phí tối thiểu. Như vậy, franchising được người Mỹ khởi xướng và định nghĩa như một sự liên kết, một hợp đồng giữa phía chuyển giao (nhà sản xuất hoặc tổ chức dịch vụ) với người nhận chuyển giao (người kinh doanh độc lập). c.         Cộng đồng chung Châu Âu EC (nay là liên minh Châu Âu EU) Khái niệm nhượng quyền thương mại không được định nghĩa trực tiếp mà được tiếp cận gián tiếp thông qua khái niệm quyền thương mại: Quyền thương mại là một "tập hợp những quyền sở hữu công nghiệp và sở hữu trí tuệ liên quan tới nhãn hiệu hàng hóa, tên thương mại, biển hiệu cửa hàng, giải pháp hữu ích, kiểu dáng, bản quyền tác giả, bí quyết, hoặc sáng chế sẽ được khai thác để bán sản phẩm, hoặc cung cấp dịch vụ tới người sử dụng cuối cùng". Nhượng quyền thương mại có nghĩa là việc chuyển nhượng quyền kinh doanh được nêu trong khái niệm trên. d.         Mêhicô Luật sở hữu công nghiệp của Mêhicô có hiệu lực từ 6/1991 quy định: “Nhượng quyền thương mại tồn tại khi với một li-xăng cấp quyền sử dụng một thương hiệu nhất định, có sự chuyển giao kiến thức công nghệ  hoặc hỗ trợ kỹ thuật để một người sản xuất, chế tạo, hoặc bán sản phẩm, hoặc cung cấp dịch vụ đồng bộ với các phương pháp vận hành (operative methods), các hoạt động thương mại, hoặc hành chính đã được chủ thương hiệu (brand owner) thiết lập, với chất lượng (quality), danh tiếng (prestige), hình ảnh của sản phẩm, hoặc dịch vụ đã tạo dựng được dưới thương hiệu đó.” e.         Nga Chương 54, Bộ luật dân sự Nga Khái niệm bản chất pháp lý của sự nhượng quyền thương mại như sau: “Theo Hợp đồng nhượng quyền thương mại, một bên (bên có quyền) phải cấp cho bên kia (bên sử dụng) với một khoản thù lao, theo một thời hạn, hay không thời hạn, quyền được sử dụng trong các hoạt động kinh doanh của bên sử dụng một tập hợp các quyền độc quyền của bên có quyền bao gồm, quyền đối với dấu hiệu, chỉ dẫn thương mại, quyền đối với bí mật kinh doanh, và các quyền độc quyền theo hợp đồng đối với các đối tượng khác như nhãn hiệu hàng hoá , nhãn hiệu dịch vụ,..” Tất cả các khái niệm về nhượng quyền thương mại trên đây đều dựa trên quan điểm cụ thể của các nhà làm luật tại mỗi nước. Tuy nhiên, có thể thấy rằng các điểm chung trong tất cả những Khái niệm này là việc một Bên độc lập (Bên nhận) phân phối (marketing) sản phẩm, hoặc dịch vụ dưới nhãn hiệu hàng hóa, các đối tượng khác của các quyền sở hữu trí tuệ, và hệ thống kinh doanh đồng bộ do một Bên khác (Bên giao) phát triển và sở hữu; để được phép làm việc này, Bên nhận phải trả những phí và chấp nhận một số hạn chế do Bên giao quy định. 2.4.2.  Nhượng quyền thương mại tại Việt Nam Như đã trình bày ở trên, các quốc gia trên thế giới đã hình thành và phát triển một cách hợp lý các vấn đề pháp lý liên quan tới hoạt động nhượng quyền thương mại. Do vậy, những cái tên như: Kentucky , Burger Khan, Five Star Chicken, Jollibee, Carvel, Baskin Robbins, Texas Chicken, Kentucky Fried Chicken, Hard Rock Café, Chili's không những chỉ xuất hiện tại các nước sở tại mà còn vươn xa đến rất nhiều nước trên thế giới trở thành những hệ thống nhượng quyền toàn cầu. Tại Việt Nam, cùng với sự phát triển của các hệ thống nhượng quyền quốc tế, đã xuất hiện các hệ thống nhượng quyền của Việt Nam như: Cà phê Trung nguyên, Phở 24, Qualitea, Hệ thống chuỗi Bakery Kinh Đô,… Thật vậy, chỉ từ giữa thập niên 90, ở nước ta đã có một vài doanh nghiệp kinh doanh thiết bị lọc nước do Việt kiều về đầu tư đã đưa ra hình thức nhượng quyền thương mại, nhưng thị trường lúc bây giờ chưa thực sự sôi động và bản thân thương hiệu của các doanh nghiệp đó cũng chưa nổi tiếng nên đã không thành công. Mãi đến 3 - 4 năm trở lại đây, hình thức nhượng quyền thương mại mới bắt đầu phát triển với các tên tuổi như trên. [39] Nhượng quyền thương mại - Franchising - đã ra đời và phát triển trong hơn 6 thập kỷ qua tại nhiều nước Âu - Mỹ, còn tại Việt Nam, dù đã hình thành cách đây gần chục năm, nhưng vẫn là phương thức kinh doanh hoàn toàn mới trong xã hội. Tuy vậy, sự cải thiện môi trường kinh doanh tại Việt Nam với tốc độ nhanh đã tạo ra cơ hội hấp dẫn cho hình thức nhượng quyền thương mại, nhất là trong các ngành hàng tiêu dùng và bán lẻ. Mặc dù đã xuất hiện trên thực tế từ sớm hơn với chuỗi nhượng quyền thương hiệu của cà phê Trung Nguyên, nhưng pháp luật Việt Nam nhắc đến nhượng quyền thương mại (franchise) lần đầu tiên tại Thông tư số 1254/1999/TT – BKHCNMT của Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi trường ngày 12/7/1999 hướng dẫn chi tiết thi hành Nghị định của Chính phủ số 45/1999/NĐ – CP ngày 1/7/1998 về chuyển giao công nghệ. Mục 4.1.1, điểm a của Thông tư 1254 nêu trên nêu khái niệm hợp đồng cấp phép đặc quyền  kinh doanh – tiếng anh gọi là franchise – trong nhóm các hợp đồng chuyển giao công nghệ, dùng ám chỉ các hợp đồng cấp li xăng sử dụng nhãn hiệu hàng hoá kèm theo các bí quyết sản xuất, kinh doanh được chuyển giao kèm. Như vậy, ở góc độ chính sách luật, franchise chỉ mới được nhìn nhận trong phạm vi như là sự chuyển giao các đối tượng thuộc sở hữu công nghiệp (nhãn hiệu hàng hóa, bí quyết sản xuất, kinh doanh) từ chủ thể thương mại này sang chủ thể thương mại khác và Nhà nước thực thi sự quản lý của mình thông qua một thủ tục hành chính: Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi trường phê duyệt hợp đồng franchise có giá trị trên 30.000 đô la Mỹ, do bên nước ngoài chuyển giao cho bên Việt Nam. Sau đó, với Nghị định của Chính phủ số 11/2005/NĐ – CP ngày 2/2/2005 về chuyển giao công nghệ (sửa đổi), cấp phép đặc quyền kinh doanh tiếp tục được xem như là một trong những nội dung chuyển giao công nghệ (chương 1, Điều 4, khoản 6) với sự chi tiết hơn, đó là: -           Bên cạnh chuyển giao nhãn hiệu hàng hóa và bí quyết, còn bổ sung thêm việc chuyển giao tên thương mại (được bảo hộ bằng Nghị định của Chính phủ số 54/2000/NĐ – CP ngày 3/10/2000 về bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với bí mật kinh doanh, chỉ dẫn địa lý, tên thương mại và bảo hộ quyền chống cạnh tranh không lành mạnh liên quan tới sở hữu công nghiệp); -           Cấp phép đặc quyền kinh doanh để tiến hành hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực dịch vụ thương mại. Thủ tục hành chính phê duyệt hợp đồng franchise như quy định tại Thông tư số 1254 nêu trên dỡ bỏ và thay thế bằng thủ tục đăng ký hợp đồng chuyển giao công nghệ tại cơ quan Nhà nước có thẩm quyền. Theo phân cấp, Bộ Khoa học và Công nghệ nhận đăng ký đối với hợp đồng cấp phép đặc quyền kinh doanh từ nước ngoài vào Việt Nam có tổng giá trị thanh toán của hợp đồng trên 1.000.000.000 VNĐ, và từ Việt Nam ra nước ngoài (không phân biệt giá trị thanh toán của hợp đồng),  Sở Khoa học Công nghệ thuộc UBND cấp tỉnh nhận đăng ký hợp đồng cấp phép đặc quyền kinh doanh từ nước vào Việt Nam có tổng giá trị thanh toán từ hợp đồng từ 1.000.000.000 VNĐ trở xuống và các hợp đồng cùng loại trong nước có giá trị từ 500.000.000 VNĐ trở lên (Nghị định số 11/2005 nêu trên, chương 4, điều  31). Vấn đề không chỉ nằm trong sự thay đổi về cách gọi của thủ tục hành chính (phê duyệt và đăng ký) đối với hợp đồng chuyển giao công nghệ nói chung và hợp đồng franchise nói riêng mà chính trong suy nghĩ về phương pháp điều chỉnh đối với quan hệ pháp luật này: hành chính mệnh lệnh sang tự thỏa thuận trong khuôn khổ kiểm soát của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền. Tuy thế, khuôn khuổn kiểm soát còn rất nặng nề vì vai trò của văn bản xác nhận việc đăng ký hợp đồng của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền không chỉ là căn cứ để hợp đồng có hiệu lực mà còn là cơ sở pháp lý để thực hiện hợp đồng: i)         Văn bản xác nhận đăng ký Hợp đồng chuyển giao công nghệ là Văn bản xác nhận tính hợp pháp của Hợp đồng, tính hợp lệ của Hồ sơ đăng ký. ii)        Văn bản xác nhận đăng ký Hợp đồng là căn cứ để hưởng các chính sách ưu đãi của Nhà nước về chuyển giao công nghệ, là căn cứ cho việc chuyển ngoại tệ thanh toán cho việc mua, bán công nghệ và là cơ sở pháp lý cho việc hạch toán các chi phí chuyển giao công nghệ.[40] Bộ luật Dân sự năm 2005 tiếp tục mạch tư duy nhấn mạnh về bản chất quan hệ hợp đồng franchise, khẳng định rằng cấp phép đặc quyền kinh doanh là một trong các đối tượng chuyển giao công nghệ. [41] Nhưng cũng cần phải hiểu rằng, khi Bộ luật Dân sự từ đạo luật chỉ chuyên điều chỉnh các quan hệ dân sự (năm 1994) trở thành một đạo luật gốc cho các quan hệ dân sự, hôn nhân gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động (năm 2005) thì đồng thời, Luật Thương mại năm 2005 (được thông qua cùng ngày với Bộ luật Dân sự năm 2005) trở thành đạo luật chuyên sâu trong hoạt động kinh doanh thương mại và đã dành nguyên Chương 6, Mục 8 để quy định về nhượng quyền thương mại (franchise). Trong khi đó, Luật chuyển giao công nghệ của Quốc hội khóa 11, kỳ họp thứ 10, số 80/2006/QH11 ngày 29/11/2006 có hiệu lực từ ngày 1/7/2007, với điều 7 về đối tượng chuyển giao công nghệ, thì cấp phép đặc quyền kinh doanh không còn được nhắc đến như là một đối tượng của chuyển giao công nghệ. Sự khác biệt không chỉ bắt đầu từ chính thuật ngữ mà hai đạo luật sử dụng: cấp phép đặc quyền kinh doanh và nhượng quyền thương mại mà chính từ sự tư duy tiếp cận. Nếu Bộ luật dân sự 2005 nhấn mạnh yếu tố bản chất đối tượng của chuyển giao công nghệ (nhãn hiệu hàng hóa, bí quyết và tên thương mại)  của quan hệ pháp luật này thì Luật Thương mại năm 2005 lại xác định franchise như là một hành vi thương mại của thương nhân trên thị trường và tính toán xác lập một khung quản lý Nhà nước đối với hoạt động franchise. Theo Luật Thương mại năm 2005, điều 284, nhượng quyền thương mại hay franchise là hoạt động thương mại, theo đó bên nhượng quyền cho phép và yêu cầu bên nhận quyền tự mình tiến hành việc mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ theo các điều kiện sau đây: -           Một là, việc mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ được tiến hành theo cách thức tổ chức kinh doanh do bên nhượng quyền quy định và được gắn với nhãn hiệu hàng hoá, tên thương mại, bí quyết kinh doanh, khẩu hiệu kinh doanh, biểu tượng kinh doanh, quảng cáo của bên nhượng quyền; -           Hai là, bên nhượng quyền có quyền kiểm soát và trợ giúp cho bên nhận quyền trong việc điều hành công việc kinh doanh. Bên cạnh nội dung điều 284 nêu trên, Luật Thương mại năm 2005 còn qui định chi tiết các vấn đề liên quan đến hoạt động nhượng quyền thương mại tại các điều 284, 286, 287, 288, 289, 290, 291. Như vậy, Luật Thương mại năm 2005 đã xây dựng rõ một khái niệm hoàn chỉnh về nhượng quyền thương mại hay franchise vừa là một hoạt động thương mại vừa đồng thời như một quan hệ pháp luật giữa thương nhân nhượng quyền và thương nhân nhận quyền. Khung pháp lý quản lý Nhà nước đối với nhượng quyền thương mại hay franchise được Quốc hội giao cho Chính phủ quy định (Luật Thương mại năm 2005, chương 6, điều 291) đã được xây dựng tương đối đầy đủ, bao gồm: -           Nghị định của Chính phủ số 35/2006/NĐ – CP ngày 31/3/2006 quy định chi tiết Luật Thương mại về hoạt động nhượng quyền thương mại (sau đây gọi tắt là Nghị định 35/2006); -           Thông tư của Bộ Thương mại số 09/2006/TT-BTM ngày 25/5/2006 hướng dẫn đăng ký hoạt động nhượng quyền thương mại.             Nội dung cơ bản của khung pháp lý này như sau: -           Quan hệ pháp luật giữa bên nhượng quyền và  bên nhận quyền: hợp đồng nhượng quyền thương mại; -           Thủ tục hành chính: đăng ký hoạt động nhượng quyền thương mại. Đây là một thủ tục hành chính mới, nhằm xác lập năng lực chủ thể của thương nhân có quyền thực hiện nhượng quyền thương mại (franchise) bên cạnh việc tiếp tục duy trì thủ tục đăng ký hợp đồng cấp phép đặc quyền kinh doanh như quy định tại Nghị định của Chính phủ số 11/2005/NĐ – CP ngày 2/2/2005 về chuyển giao công nghệ (sửa đổi); -           Hợp đồng nhượng quyền thương mại, phải bao gồm các nội dung cơ bản và bắt buộc là: (i) Nội dung của quyền thương mại, (ii) quyền và nghĩa vụ của hai bên, (iii) giá cả, phí nhượng quyền định kỳ và phương thức thanh toán, (iv) thời hạn hiệu lực, gia hạn, chấm dứt hợp đồng, (v) giải quyết tranh chấp, vi phạm. Như vậy, cũng cần nhấn mạnh thêm rằng, quan niệm về nhượng quyền thương mại được xây dựng tại Luật Thương mại năm 2005 (Chương VI, Mục 8, và điều 284) được xây dựng trên cơ sở kết hợp 2 nội dung cơ bản: -           Là hình thức “bán” quyền thương mại (điểm mấu chốt trong quan hệ nhượng quyền thương mại, và -           Là một phương thức kinh doanh đặc trưng bởi việc “mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ theo cách thức tổ chức kinh doanh do bên nhượng quyền quy định và được gắn với nhãn hiệu hàng hoá, tên thương mại, bí quyết kinh doanh, biểu tương kinh doanh, quảng cáo của bên nhượng quyền...”. Nội dung thứ nhất chính là tư duy của Châu Âu, còn nội dung thứ hai là cách định nghĩa nhượng quyền thương mại của Mỹ. 2.4.3. Những hạn chế, thiếu sót trong khung pháp lý của Việt Nam về nhượng quyền thương mại Một số nghiên cứu pháp lý gần đây đã tập trung vào khung pháp lý này và đã có những phát hiện về những khúc mắc của nó như sau [42]: a.         Về điều kiện để thực hiện việc nhượng quyền             Hợp đồng nhượng quyền thương mại có thể được ký kết theo mô hình sau: i)         Giữa bên nhượng quyền ban đầu đến bên nhận quyền sơ cấp; ii)        Giữa bên nhượng quyền thứ cấp (cũng là bên nhận quyền sơ cấp) với bên nhận quyền thứ cấp; iii)       Giữa bên nhượng quyền (ban đầu) và bên nhận quyền (thứ cấp), tức là không có bước trung gian. Nghị định 35/2006 xác lập điều kiện để nhượng quyền là hệ thống kinh doanh nhượng quyền phải đã được hoạt động ít nhất là một năm. Nếu bên nhượng quyền thứ cấp (cũng là bên nhượng quyền sơ cấp) Việt Nam nhận nhượng quyền từ bên nhượng quyền ban đầu nước ngoài thì phải hoạt động/kinh doanh theo phương thức nhượng quyền đó ít nhất một năm trước khi tiến hành cấp lại quyền quyền thương mại. [43] Như vậy, rõ ràng việc một thương nhân nhận quyền sơ cấp (của thương nhân nhượng quyền ban đầu Việt Nam) thì được cấp lại quyền thương mại ngay nếu là nhượng quyền trong nước, trong khi đó, cũng chính thương nhân nhận quyền sơ cấp đó (của thương nhân nhượng quyền ban đầu nước ngoài) lại phải tiến hành kinh doanh theo phương thức nhượng quyền một năm mới được cấp lại quyền thương mại, là một sự phân biệt đối xử. b.         Thủ tục đăng ký hoạt động nhượng quyền thương mại             Nghị định 35/2006 xác định Sở Thương mại các tỉnh là cơ quan thực hiện đăng ký nhượng quyền trong nước, Bộ Thương mại (nay là Bộ Công thương) là cơ quan thực hiện đăng ký hoạt động nhượng quyền quốc tế: từ nước ngoài vào Việt Nam và ngược lại. [44] Khu vực Khu Chế xuất, Khu Phi Thuế quan, Khu Hải quan riêng được xem như là khu vực nước ngoài, tuy nhiên, không thể không có sự xuất hiện hoạt động nhượng quyền từ quốc gia hay vùng lãnh thổ nước ngoài vào các khu vực này, và vì thế hoặc hoạt động nhượng quyền này cũng cần được đăng ký hoặc không nên xem các khu vực này như là khu vực nước ngoài. Hơn thế nữa, việc xác định doanh nghiệp nhượng quyền có nghĩa vụ phải đăng ký hoạt động nhượng quyền thương mại nhưng vẫn chưa có quy định xử phạt hành chính trong lĩnh vực nhượng quyền thương mại. c.         Về sự phối hợp không nhịp nhàng giữa các đạo luật cơ bản (Luật Thương mại, Luật Sở hữu trí tuệ, Luật Chuyển giao Công nghệ) trong nhượng quyền. Pháp luật về thuế cũng chưa có quy định cụ thể việc hạch toán, tính thuế đối với mức phí nhượng quyền và các khoản thu khác liên quan đến nhượng quyền. Tuy rằng trước đây, cấp đặc quyền kinh doanh đã từng được xem là một hoạt động chuyển giao công nghệ, nhưng cùng với Luật Thương mại 2005, nhượng quyền thương mại được xem là bán quyền thương mại đặc trưng bởi mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ theo cách thức tổ chức kinh doanh do bên nhượng quyền quy định và được gắn với nhãn hiệu hàng hoá, tên thương mại, bí quyết kinh doanh, biểu tương kinh doanh, quảng cáo của bên nhượng quyền ... Vậy thì, theo quan niệm của ngành thương mại “chuyển giao công nghệ” là một khái niệm con của khái niệm “nhượng quyền thương mại”. Trong khi đó, với Luật Chuyển giao công nghệ 2006 lại quy định: “Đối tượng công nghệ được chuyển giao có thể gắn hoặc không gắn với đối tượng sở hữu công nghiệp”. [45] Và đối tượng sở hữu công nghiệp, theo Luật Sở hữu trí tuệ, bao gồm cả tên thương mại, chỉ dẫn địa lý, nhãn hiệu hàng hóa …[46] Hơn nữa, trong Luật Chuyển giao công nghệ cũng quy định, việc chuyển giao công nghệ được thực hiện thông qua các hình thức “(1) Hợp đồng chuyển giao công nghệ độc lập; (2) Phần chuyển giao công nghệ trong dự án hoặc hợp đồng sau đây: dự án đầu tư; hợp đồng nhượng quyền thương mại; hợp đồng chuyển giao quyền sở hữu công nghiệp; hợp đồng mua bán máy móc, thiết bị kèm theo chuyển giao công nghệ; (3) Hình thức chuyển giao công nghệ khác theo quy định của pháp luật”[47]. Điều này nghĩa là, theo quan niệm của ngành Khoa học và Công nghệ thì “nhượng quyền thương mại” là khái niệm con của “chuyển giao công nghệ”. Hệ lụy cho sự tồn tại hai quan niệm trên là cùng một hoạt động cụ thể nhưng có thể doanh nghiệp/thương nhân sẽ vừa phải đăng ký nhượng quyền thương mại ở Bộ Thương mại (hoặc các Sở Thương mại) vừa phải đăng ký chuyển giao công nghệ ở Bộ Khoa học và Công nghệ (hoặc các Sở Khoa học và Công nghệ). Tình trạng chồng chéo này nếu không được giải quyết sẽ gây khó khăn rất lớn cho DN trong quá trình thực hiện. 2.4.4.  Tác động của các cam kết WTO đối với sự điều chỉnh pháp luật về franchising a.         Nội dung các cam kết WTO đối với nhượng quyền thương mại             Ở góc độ chung nhất, chúng ta đã phân tích những khác biệt và hạn chế mà Chính phủ Việt Nam đã và đang đặt ra nhằm hạn chế tự do thương mại trong thương mại dịch vụ từ hai góc độ chính: hạn chế tiếp cận thị trường và hạn chế đối xử quốc gia. Đối với vấn đề nhượng quyền thương mại, cam kết WTO của Chính phủ Việt Nam được thể hiện tại Bảng 5: Cam kết WTO đối với nhượng quyền thương mại tại phần Phụ lục để ở cuối luận văn (tr. vii). Sau đây xin giải thích thêm về nội dung cam kết: Có thể nói, trong nội dung cam kết này, Chính phủ Việt Nam chỉ thuần túy xây dựng một rào cản đối với thương nhân nước ngoài (từ các quốc gia và lãnh thổ thành viên WTO). Cụ thể như sau: Đối với phương thức (1) - cung cấp dịch vụ qua biên giới - và phương thức (2) - sử dụng dịch vụ ở nước ngoài - thì hoàn toàn không có bất kỳ một sự phân biệt đối xử nào giữa thương nhân Việt Nam và thương nhân nước ngoài (từ các quốc gia và vùng lãnh thổ thành viên WTO). Tuy nhiên, vì nhượng quyền thương mại đồng nghĩa với việc ký kết hợp đồng nhượng quyền thương mại từ bên nhượng quyền đến bên nhận nhượng quyền tương ứng với thời gian đủ dài để bên nhận nhượng bù đắp lại chi phí đầu tư ban đầu, nên phương thức (2) - sử dụng dịch vụ ở nước ngoài - hầu như không được sử dụng trong nhượng quyền thương mại và cam kết này thực sự không có ý nghĩa thực tế. Với phương thức (4) - hiện diện thể nhân - thì trên thực tế, đối với nhượng quyền thương mại, điều này rất khó sảy ra. Do đó, bên cạnh sự khác biệt trong tư duy về doanh nghiệp như đã phân tích tại phần chung, nội dung cụ thể về phương thức (4) trong cam kết nêu trên của Chính phủ Việt Nam về nhượng quyền không có ý nghĩa nhiều trên thực tế. Với phương thức (3) - hiện diện thương mại - thì cần nhấn mạnh sự khác biệt của nó với phương thức (1) - cung cấp dịch vụ qua biên giới - ở chỗ, nếu theo phương thức (1) thì bên nhượng quyền là một thương nhân nước ngoài trực tiếp ký hợp đồng nhượng quyền thương mại với thương nhân Việt Nam hoặc ngược lại, còn theo phương thức (3) bên nhượng quyền sẽ thành lập một doanh nghiệp hoặc chi nhánh  tại Việt Nam, và sử dụng doanh nghiệp hoặc chi nhánh đó cung cấp và ký hợp đồng nhượng quyền thương mại với các thương nhân Việt Nam. Cam kết của Chính phủ Việt Nam đối với phương thức (3) trong vấn đề nhượng quyền thương mại có những rào cản từ các giác độ: Trong rào cản tiếp cận thị trường, Nhà nước Việt Nam duy trì một lộ trình: -           Từ 11/1/2007 -1/1/2008, thương nhân nước ngoài (từ các quốc gia và lãnh thổ thành viên WTO) chỉ được thành lập công ty liên doanh với thương nhân Việt Nam mà quyền kiểm soát thuộc về phía thương nhân Việt Nam (vốn phía nước ngoài không quá 49%); -           Từ 1/1/2008, bãi bỏ quy định về quyền kiểm soát thuộc về phía thương nhân Việt Nam ; -           Từ 1/1/2009, thương nhân nước ngoài được thành lập doanh nghiệp 100% vốn của mình (một hình thức công ty con) để tiến hành các hoạt động nhượng quyền thương mại tại Việt Nam. -           Từ 11/1/2010 trở về sau, thương nhân nước ngoài được phép mở chi nhánh tại Việt Nam . Trong đối xử quốc gia, tương tự như với góc độ hạn chế tiếp cận thị trường, thương nhận nước ngoài cấp hay ký hợp đồng nhượng quền thương mại với thương nhân Việt Nam theo các phương thức (1) và phương thức (2) được hưởng đối xử quốc gia. Tuy nhiên, với phương thức (3), hạn chế là trưởng chi nhánh của thương nhân nước ngoài phải là người cư trú tại Việt Nam (không phân biệt yếu tố quốc tịch). Đây thực chất cũng là một dạng hạn chế bổ sung đối với tiếp cận thị trường sau ngày 11/1/2010, thời điểm mà thương nhân nước ngoài có quyền mở chi nhánh tại Việt Nam để hoạt động nhượng quyền. b.         Tác động của các cam kết WTO nêu trên tới pháp luật về nhượng quyền thương mại hiện hành             Dù đã liệt kê những bất cập của pháp luật Việt Nam trong nhượng quyền thương mại nhưng cần lưu ý rằng, các cam kết WTO sẽ không phải là phương thuốc chữa những điểm bất cập đó, khi chúng chỉ giới hạn trong những quy định nhằm dỡ bỏ hàng rào cản trở việc tiếp cận thị trường của thương nhân đến từ các quốc gia Thành viên WTO, cũng như chống lại phân biệt đối xử giữa thương nhân nước ngoài và thương nhân trong nước. Với một lộ trình tiếp cận thị trường Việt Nam tương đối rõ ràng, lại chỉ có một hạn chế đơn giản về chiều ngang: người đứng đầu chi nhánh là người Việt Nam, cộng thêm đặc thù ngành về phương thức 1 chiếm ưu thế hơn các phương thức khác, mức độ tác động của các cam kết WTO đến pháp luật về nhượng quyền thương mại sẽ như sau: -           Với các quy phạm pháp luật chung như Luật đầu tư, Luật doanh nghiệp, Luật cạnh tranh, Luật phá sản: Tác động sẽ rất hạn chế, thậm chí là không đáng kể; -           Với nội bộ các quy phạm pháp luật trong phạm vi chuyên ngành nhượng quyền thương mại: Tác động tích cực nhất định, đặc biệt là vấn đề thủ tục hành chính (như đã phân tích về bất cập tại 2.5.3, điểm b) khi mà đối tượng tham gia thủ tục hành chính là các doanh nghiệp nước ngoài với yêu cầu minh bạch hoá thông tin và trong mối quan hệ với Luật Công nghệ và Luật sở hữu trí tuệ (như đã phân tích về bất cập tại 2.5.3, điểm c). 2.5.    Tác động của các cam kết WTO và xu hướng phát triển của các quy phạm pháp luật về thương mại dịch vụ phân phối             Trước hết, đến thời điểm hiện tại, sau hơn 10 năm bền bỉ đàm phán với nhiều đối tác, trên cơ sở tự hoàn thiện hệ thống pháp luật cũng như cơ cấu tổ chức xã hội của mình, Việt Nam đã gia nhập WTO được gần 02 năm, các cam kết WTO đã được Quốc hội, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất phê chuẩn và đã có hiệu lực thi hành.             Nghị định số 23/2007/NĐ – CP ngày 12/02/2007 về hoạt động mua bán hàng hóa và các hoạt động có liên quan của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và Thông tư 09/2007/TT – BTM hướng dẫn thi hành Nghị định 23/2007/NĐ – CP nêu trên và thậm chí cả Thông tư 05/2008/TT – BCT ngày 14/4/2008 sửa đổi Thông tư 09/2007/TT – BTM cũng đã được ban hành. Tức là, cam kết về một văn bản pháp lý của Việt Nam trong khi gia nhập đã được thực hiện. Tuy nhiên, từ khung pháp lý mà văn bản này thiết lập, còn rất nhiều vấn đề cần phải được tiếp tục làm rõ và phát triển.             Chẳng hạn, khi nghiên cứu khung pháp lý này, đối chiếu với hoạt động của các Thành viên của mình, các doanh nghiệp Thành viên đã gửi những vấn đề khúc mắc đến Phòng Thương mại Hoa Kỳ tại Việt Nam đã đề nghị Bộ Công Thương trao đổi về rất nhiều vấn đề, nhưng có thể tóm tắt như sau: a.         Nghị định 23/2007, Thông tư 09/2007 xây dựng trên cơ sở tách biệt nhiều thuật ngữ: +          “Quyền kinh doanh hoạt động mua bán hàng hóa” (dựa trên giấy phép kinh doanh mua bán hàng hóa); +          “Quyền phân phối” (khoản 6, điều 3, Nghị định 23/2007); +          “Quyền xuất khẩu” (khoản 3, điều 3, Nghị định 23/2007); +          “Quyền nhập khẩu” (khoản 4, điều 3, Nghị định 23/2007);  và nhiều thủ tục tách biệt tương ứng theo từng quyền năng mà nhà đầu tư nước ngoài yêu cầu, cụ thể: +          Tương ứng với “quyền nhập khẩu” và “quyền xuất khẩu” là đăng ký bổ sung Giấy chứng nhận hoặc Giấy phép đầu tư; +          Tương ứng với “quyền kinh doanh hoạt động mua bán hàng hóa” và “quyền phân phối” là thủ tục xin cấp Giấy phép kinh doanh hoạt động mua bán hàng hóa và hoạt động có liên quan, một giấy phép riêng bên cạnh Giấy chứng nhận hoặc Giấy phép đầu tư. Theo lộ trình, vào tháng 01 năm 2009, với dịch vụ phân phối, theo cam kết của Chính phủ các nhà đầu tư nước ngoài được cho phép mở doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, vậy đến thời điểm đó, việc phân biệt nhiều thuật ngữ, nhiều trình tự và nhiều cấp độ quyền năng như vậy còn phù hợp không? Hơn nữa, nếu chỉ tập trung ở nhóm quyền xuất khẩu và quyền nhập khẩu, lưu ý rằng các doanh nghiệp Việt Nam thực hiện hoạt động xuất nhập khẩu không phụ thuộc vào ngành nghề trên giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, vậy thì việc quy định điều chỉnh bổ sung ngành nghề với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài có cần thiết hay chỉ tạo ra cơ sở cho khiếu nại phân biệt đối xử. Vì thế, cần thiết nên thống nhất trong một định nghĩa về “Quyền kinh doanh hoạt động mua bán hàng hóa” là đủ. b.         Khi lập hồ sơ xin bở sung quyền nhập khẩu, đối với hoạt động bán các sản phẩm hoàn thiện nhập khẩu của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, các doanh nghiệp được yêu cầu phải giới hạn ở chỉ một nhà phân phối được cấp phép đối với mỗi nhóm hàng thuộc một chương của Hệ thống Hài hòa (“Harmonized System – HS”), theo điểm 3.1d của Thông tư 09/2007. Rõ ràng, đây là một quy định phản ánh một tư duy áp đặt của nhà quản lý về thói quen, và cảm tính hợp lý của mình lên hoạt động kinh tế thương mại trong khi trên thực tế, một doanh nghiệp sẽ kinh doanh rất nhiều nhóm sản phẩm khác biệt, việc giới hạn ở một nhà phân phối được cấp phép sẽ cản trở khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Hơn nữa, trước khi nêu vấn đề điểm 3.1d của Thông tư 09 có tương thích với các cam kết WTO hay không, khi thử xác định những ai thuộc đối tượng điều chỉnh của Ðiểm 3.1d với một trường hợp cụ thể: Nếu một doanh nghiệp liên doanh trong lĩnh vực phân phối đã được thành lập theo các thủ tục được phép theo WTO (không quá 49% sở hữu nước ngoài trong năm 2007 và không quá 99% trong năm 2008), liệu rằng doanh nghiệp liên doanh đó có bị giới hạn bởi Ðiểm 3.1d đối với hoạt động phân phối mỗi nhóm hàng nhập khẩu cho chỉ một thương nhân tại Việt Nam hay không? Tương tự như vậy, liệu Ðiểm 3.1d có giới hạn các pháp nhân 100% vốn nước ngoài chỉ được bán mỗi nhóm hàng nhập khẩu cho một pháp nhân kinh doanh hay không? Thêm vào đó, theo Ðiểm 3.1d liệu giới hạn của hoạt động bán một nhóm hàng nhập khẩu cho một nhà phân phối theo uỷ quyền sẽ áp dụng theo mỗi chuyến hàng hay theo mỗi nhóm sản phẩm? Ví dụ, liệu một công ty có thể bán cho công ty X một nhóm sản phẩm nhập khẩu vào tháng Một và sau đó bán cùng nhóm sản phẩm đó cho công ty Y vào tháng Hai được hay không? Trả lời các câu hỏi trên đều đi đến một kết luận rằng, nội dung giới hạn mà điểm 3.1d là chưa phù hợp và dưới sự phản ứng của các doanh nghiệp, Thông tư 05/2008 đã sửa nội dung một nhóm hàng cho một nhà phân phối thành “Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đã được cấp phép thực hiện quyền nhập khẩu được bán hàng nhập khẩu cho các thương nhân có quyền phân phối hàng hoá đó.” (nội dung đ trong điểm 3.1 mới)             Nghĩa là, trong trường hợp này, việc khiếu nại hay phản ánh của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài sẽ tạo ra chuyển biến tích cực trước hết đối với thái độ, phong cách làm việc, và sau đó, sẽ mang lại những điều chỉnh pháp lý phù hợp.             Hơn thế nữa, cũng trong chính vấn đề này, các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài cũng phản ánh cách hiểu khác nhau về Nghị định 23/2007 của UBND tỉnh và cơ quan quản lý đầu tư (Sở Kế hoạch đầu tư hay Ban Quản lý Các Khu công nghiệp và Khu chế xuất tỉnh). Chẳng hạn, HEPZA (Ban Quản lý các Khu chế xuất và Khu công nghiệp TP HCM) tại Thành phố Hồ Chí Minh đã yêu cầu người nộp hồ sơ đăng ký quyền nhập khẩu phải nêu rõ danh tính của nhà phân phối duy nhất mà họ lựa chọn cho mỗi sản phẩm nhập khẩu, thậm chí trước khi họ được cấp giấy phép hoạt động, và Giấy Ðăng ký Kinh doanh của nhà phân phối đó phải được đính kèm theo hồ sơ đăng ký. Tuy nhiên, các mẫu đơn đính kèm theo Thông tư 09 không yêu cầu cụ thể điều này, và các cơ quan có thẩm quyền khác ở địa phương cũng không yêu cầu điều này. Những người nộp đơn đăng ký đã phản đối vì họ không thể luôn xác định được nhà phân phối mà họ sẽ sử dụng cho tới khi họ đã được thành lập, và họ có thể muốn thay đổi nhà phân phối của mình sau khi họ đã thành lập mà không cần phải nộp đơn để xin phép lại.             Đương nhiên, yêu cầu trên của HEPZA là có cơ sở pháp lý khi áp dụng một cách cứng nhắc quy định 3.1d Thông tư 09/2007, nhưng lưu ý rằng đây là một quy định rất mới, cụ thể trong khi Nghị định 23/2007 không yêu cầu về vấn đề này.             Thành viên của Phòng Thương mại và Công nghiệp Mỹ cũng đề nghị, nếu các nhà đầu tư gặp phải những khúc mắc với các cơ quan có thẩm quyền tại địa phương về vấn đề thực thi các cam kết WTO trong lĩnh vực nhập khẩu và phân phối, thì họ cần liên hệ với ai để giải quyết những câu hỏi này một cách hiệu quả nhất ?             Đương nhiên, vì cơ quan quyết định là UBND cấp tỉnh, nhưng hồ sơ được thụ lý giải quyết tại cơ quan chuyên môn là Sở Kế hoạch và Đầu tư hoặc Ban Quản lý các Khu công nghiệp và Khu chế xuất nên nếu cần liên hệ, địa chỉ vẫn là UBND tỉnh. Thực tế, sự hiện diện của các nhà đầu tư nước ngoài với phong cách làm việc mới của phương Tây, nhấn mạnh sự minh bạch, kết hợp với thủ tục và trình tự của Luật Khiếu nại và tố cáo, sẽ gây tác động rất lớn đến tác phong và phương pháp làm việc một cách nhanh chóng hơn là đến các văn bản pháp luật. c.         Nghị quyết 23/2007 và Thông tư 09/2007 chưa tính đến tình hình là trong quá khứ, một số doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (đặc biệt là doanh nghiệp trong Khu chế xuất) đã từng được Bộ Thương mại cấp quota hàng năm để bán một lượng nhất định các sản phẩm hoàn thiện nhập khẩu cho số lượng bất kỳ các nhà phân phối trong nước đã được cấp phép, vậy tương ứng với Nghị định 23/2007, đây là quyền nhập khẩu, và liệu họ có khả năng sẽ bảo lưu các quyền kinh doanh của mình hay phải tiến hành thủ tục xin cần thiết. d.         Bên cạnh đó, Nghị định 23/2007 cũng không đề cập đến trường hợp những nhà sản xuất có vốn đầu tư nước ngoài, khi thực hiện dự án đầu tư tại Việt Nam, họ có toàn quyền thực hiện việc sản xuất và bán ra thị trường Việt Nam toàn bộ các sản phẩm mà chúng tôi sản xuất trong nước. Họ có những “người bán lẻ” (hoặc nhà phân phối) của riêng mình, bao gồm các cửa hàng riêng (các cửa hàng riêng biệt hoặc nằm trong các siêu thị bách hóa) hoặc thông qua các thương nhân độc lập (họ có thể là những nhà bán buôn có mạng lưới bán lẻ của riêng họ hoặc những nhà bán lẻ bán hàng trực tiếp tới người tiêu dùng sau cùng). Vấn đề của những nhà sản xuất này là họ đã có quyền mua bán hàng hóa theo Giấy phép đầu tư thì liệu họ đương nhiên có quyền nhập khẩu các sản phẩm hoàn thiện cùng loại từ tập đoàn (nhà máy tại các quốc gia khác) để phân phối cho các cửa hàng và cơ sở bán lẻ thuộc sở hữu của họ hay không.             Về vấn đề này, Nghị định 23/2007, Thông tư 09/2007 (đã sửa đổi bởi Thông tư 05/2008) cũng chưa đề cập. e.         Bên cạnh đó, một thành viên của Phòng Thương mại và Công nghiệp Mỹ đề nghị công bố thông tin về những doanh nghiệp có hay không có quyền phân phối và nội dung quyền phân phối họ được cấp như thế nào. Hiện nay, về cơ chế cung cấp thông tin này, và bản thân việc cung cấp thông tin về các doanh nghiệp hiện nay còn nhiều hạn chế. Trong trường hợp này, rõ ràng, trên cơ sở các cam kết nền (minh bạch hóa), đây là một yêu cầu chính đáng. g .        Có một hiện tượng diễn ra tại Hà Nội, đó là đã có rất nhiều công ty trách nhiệm hữu hạn được thành lập chỉ thông qua thủ tục đăng ký kinh doanh tại Phòng đăng ký kinh doanh Hà Nội, trong đó, có phần vốn góp của đối tác nước ngoài (lần đầu vào Việt Nam) chiếm tỷ lệ thấp hơn 49%, đã đăng ký kinh doanh hoạt động mua bán hàng hóa như một công ty Việt Nam trên cơ sở Nghị định 139/2007/NĐ – CP hướng dẫn một số điều của Luật doanh nghiệp.    Đây là cách hiểu sai quy định, nhất là quy định về tại Luật đầu tư 2005 cũng như cam kết WTO, trình tự đúng phải là nộp hồ sơ xin cấp giấy phép đầu tư theo đúng trình tự, và giấy phép đầu tư trong trường hợp này cũng đồng thời là giấy phép kinh doanh mua bán hàng hóa. [48] Cuối cùng, quy trình gia nhập WTO đã mang lại phong cách lập pháp mới với việc sử dụng liên tục nhiều định nghĩa làm rõ từng khái niệm. Phong cách lập pháp này được sử dụng rất chi tiết trong các văn bản pháp luật được ban hành trong thời gian gần đây. KẾT LUẬN             Quá trình nghiên cứu đề tài đã giúp cho học viên rút ra những kết luận chủ yếu sau đây: 1.         Khi gia nhập WTO, với ngành dịch vụ phân phối, việc ban hành Nghị định 23/2007 và các văn bản hướng dẫn thi hành để thực hiện cam kết đã thể hiện sự nghiêm túc của Chính phủ Việt Nam . Bên cạnh đó, cũng cần nhìn nhận rằng, sự ra đời của Nghị định 23/2007 và các văn bản hướng dẫn là hệ quả của cả một quá trình xây dựng văn bản pháp luật từ trước khi gia nhập WTO và chúng được hình thành từ những nền tảng vững chắc: Luật Thương mại năm 2005, Luật Doanh nghiệp năm 2005 và Luật Đầu tư năm 2005.             Tuy vậy, trong chừng mực nhất định, nội dung và cách thức điều chỉnh pháp luật về thương mại dịch vụ phân phối được phản ánh qua các quy định trong Nghị định 23/2007 và Thông tư 09/2007 vẫn còn nhiều thiếu sót, bất thể hiện sự chủ quan. cảm tính. Dù được khắc phục kịp thời trong Thông tư 09/2008, nhưng vẫn còn trong đó, những bất cập khác cần được tiếp tục điều chỉnh. 2.         Cam kết gia nhập WTO, cam kết khi gia nhập được hình thành trên cơ sở quá trình tự đổi mới hệ thống pháp luật của chính mình. Các  cam kết này chính là kết quả của quá trình đổi mới hệ thống pháp luật quốc gia phù hợp với các chuẩn mực pháp luật của thế giới, nhưng không chỉ dừng lại ở đó, các cam kết gia nhập đến lượt mình, lại là động lực nhất định để thúc đẩy hệ thống pháp luật quốc gia phát triển, trong đó có pháp luật về thương mại dịch vụ phân phối.             Tác động của Các cam kết WTO đối với pháp luật nói chung, cần được tiếp cận theo hai góc độ, cụ thể như sau (1) các quy phạm khung của quyền tự do kinh doanh (gia nhập thị trường, rút khỏi thị trường), (2) các quy phạm chuyên ngành của ngành và lĩnh vực. Trước hết, cam kết WTO, về tổng thể nói chung và trong lĩnh vực phân phối nói riêng, vừa mang tư cách là cam kết nhằm mở cửa thị trường, đối xử quốc gia, nhưng đồng thời cũng là căn cứ duy trì chính sách bảo hộ thương mại nội địa một cách khéo léo. Vì thế, tác động đối với quy phạm khung trong việc gia nhập và rút khỏi thị trường đã và đang hình thành một khung pháp luật tổng thể với những nguyên tắc chung cho tất cả các đối tượng tham gia thị trường, bên cạnh những yêu cầu riêng về điều kiện và trình tự thủ tục đối với nhóm đối tượng nước ngoài.  Với lộ trình gia nhập (và nay đang trong giai đoạn thực hiện lộ trình gia nhập) thì định hướng sau khi kết thúc lộ trình gia nhập WTO, các quy định pháp luật nói trên sẽ không có biến động lớn vì về cơ bản, Việt Nam đã thực hiện nguyên tắc đối xử quốc gia ở mức độ cao. 3.         Hiện tại, việc triển khai các nội dung trong cam kết WTO về lĩnh vực phân phối vẫn còn chậm, cụ thể nhất là quy định về “Việc thành lập các cơ sở bán lẻ (ngoài cơ sở thứ nhất) sẽ được xem xét trên cơ sở kiểm tra nhu cầu kinh tế (ENT)” vẫn chưa được thể chế hóa. 4.         Xu hướng phân loại nhằm liệt kê đã gộp chung vào một nội dung những hành vi thương mại tương đối khác nhau về bản chất, như cách thức Ban thư ký WTO thực hiện với việc xác định các dịch vụ trong lĩnh vực phân phối và Hệ thống ngành kinh tế trong xác định nội dung hoạt động Bán lẻ, bán buôn góp phần chi tiết hóa các quy định của pháp luật trở nên cụ thể, dễ áp dụng trong đời sống nhưng ngược lại, lại gây những trở ngại nhất định trong công tác lập pháp và điều chỉnh pháp luật, đặc biệt là trong xây dựng một khung pháp lý thống nhất. Việc gia nhập WTO đã là một thành công lớn của Việt Nam vì nó không chỉ là cơ hội để chúng ta hội nhập vào kinh tế thế giới mà còn là cơ sở thực tiễn thúc ép chúng ta phải tự thay đổi chính mình cho mục tiêu phát triển. Bản thân quá trình hơn 10 năm đàm phán và gia nhập đã mang lại cho hệ thống quy phạm pháp luật của chúng ta nhiều đổi thay to lớn, thì nay, khi đã gia nhập, những đổi thay đó lại là tiền đề cho những đổi thay mới để hệ thống pháp luật của chúng ta hoàn thiện hơn. [1] Xem thông tin tại liên kết ự_do_hóa [2] Xem thông tin tại liên kết ương_mại_tự_do [3] Xem www.wikipedia.org theo liên kết sau:  [4] Xem www.wikipedia.org theo liên kết sau: [5] WTO, Note by the Secretariat. SERVICES SECTORAL CLASSIFICATION LIST. MTN.GNS/W/120, 1991, trang 1 và 2 [6] Xem Xem www.chinhphu.vn, phần cơ sở dữ liệu pháp luật, thống kê tra cứu theo từ khóa “phân phối”. [7] Bộ luật Tố tụng dân sự số 24/2004/QH11 được Quốc hội khóa 11, kỳ họp thứ 5 thông qua ngày 15/6/2004, có hiệu lực từ ngày 1/1/2005. [8] Nghị định số 25/CP của Chính phủ ngày 25/4/1996 ban hành Quy chế đại lý mua bán hàng hóa. [9] Luật Thương mại số 58 - L/CTN của Quốc hội khóa IX, kỳ họp thứ 11, thông qua ngày 10/5/1997, được  ban hành ngày 23/5/1997, có hiệu lực từ ngày 1/1/1998. [10] Luật Thương mại số 36/2005/QH11 của Quốc hội khóa 11, kỳ họp thứ 7, thông qua ngày 14/06/2005, được ban hành và có hiệu lực từ ngày 1/1/2006. [11] Nghị định số 57/CP của Chính phủ ngày 31/7/1998 ngày năm 1998 hướng dẫn Luật Thương mại năm 1997 về xuất khẩu, nhập khẩu, gia công và đại lý mua bán hàng hóa với nước ngoài; và Nghị định số 44/2001/NĐ – CP của Chính phủ sửa đổi bổ sung Nghị định số 57/CP của Chính phủ ngày 31/7/1998 ngày năm 1998 hướng dẫn Luật Thương mại năm 1997 về xuất khẩu, nhập khẩu, gia công và đại lý mua bán hàng hóa với nước ngoài. [12] WTO, Background Note by the Secretariat. DISTRIBUTION SERVICES. Council for Trade in Services. S/C/W/37, 1998, (98-2354). [13] Ban Công tác về gia nhập WTO, Báo cáo về việc Việt Nam gia nhập WTO, ngày 27/10/2006, số WT/ACC/VNM/48, (06-5205), bản dịch tiếng Việt của Bộ Thương mại, nay là Bộ Công Thương, mục 500. [14] Nghị định số 23/2007/NĐ – CP của Chính phủ ngày 12/2/2007 về việc quy định chi tiết Luật Thương mại về hoạt động mua bán hàng hoá và các hoạt động liên quan trực tiếp đến mua bán hàng hoá của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. [15] Quyết định số 337/2007/QĐ – BKHĐT của Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư ngày 10/4/2007chi tiết thi hành Quyết định 10/2007/TTg ngày 23/1/2007 của Thủ tướng Chính phủ về việc ban hành Hệ thống ngành kinh tế quốc dân [16]  Quyết định số 10/2007/QĐ – TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 23/1/2007 về việc ban hành Hệ thống ngành kinh tế quốc dân, và Quyết định số 337/2007/QĐ – BKHĐT của Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư ngày 10/4/2007chi tiết thi hành Quyết định 10/2007/TTg ngày 23/1/2007 của Thủ tướng Chính phủ về việc ban hành Hệ thống ngành kinh tế quốc dân. [17] Luật Dược số 34/2005/QH11 của Quốc hội được thông qua ngày 27/6/2005 và có hiệu lực từ ngày 1/1/2006 [18] Quyết định số 10/2007/QĐ – TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 23/1/2007 về việc ban hành Hệ thống ngành kinh tế quốc dân, và Quyết định số 337/2007/QĐ – BKHĐT của Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư ngày 10/4/2007chi tiết thi hành Quyết định 10/2007/TTg ngày 23/1/2007 của Thủ tướng Chính phủ về việc ban hành Hệ thống ngành kinh tế quốc dân. [19] Quyết định số 337/2007/QĐ – BKHĐT của Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư ngày 10/4/2007chi tiết thi hành Quyết định 10/2007/TTg ngày 23/1/2007 của Thủ tướng Chính phủ về việc ban hành Hệ thống ngành kinh tế quốc dân, ngành G, phần đầu. [20] WTO, Background Note by the Secretariat. DISTRIBUTION SERVICES. Council for Trade in Services. S/C/W/37, 1998, (98-2354) [21] TS. Bùi Ngọc Cường (2004). Một số vấn đề về quyền tự do kinh doanh trong pháp luật kinh tế hiện hành ở Việt Nam. Nhà Xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội – 2004, trang 45. [22] TS. Bùi Ngọc Cường (2004). Một số vấn đề về quyền tự do kinh doanh trong pháp luật kinh tế hiện hành ở Việt Nam. Nhà Xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội – 2004, trang 47. [23] Luật Đầu tư số 59/ 2005/QH11 được Quốc hội khóa 11, kỳ họp thứ  8 thông qua ngày 29/11/2005 có hiệu lực từ ngày 1/7/2006., điều 29, khoản 2 và khoản 4. [24] Bộ luật Tố tụng dân sự số 24/2004/QH11 được Quốc hội khóa 11, kỳ họp thứ 5 thông qua ngày 15/6/2004, có hiệu lực từ ngày 1/1/2005. [25] Nghị quyết số 03/2005/NQ – HĐTP của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao ngày 28/04/2004 hướng dẫn thi hành một số quy định của Luật phá sản. [26] PGS.TS Dương Đăng Huệ (2005) Pháp luật Phá sản của Việt Nam . Nhà xuất bản Tư pháp năm 2005, và PGS. TS Nguyễn Như Phát – Thạc sỹ Nguyễn Ngọc Sơn (2006). Phân tích và Luận giải các quy định của Luật cạnh tranh về Hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường, vị trí độc quyền để hạn chế cạnh tranh. Nhà Xuất bản Tư pháp 2006. [27] Luật Cạnh tranh số 27/2004/QH11 được Quốc hội khóa 11, kỳ họp thứ 6 thông qua ngày 03/12/2004, có hiệu lực từ ngày 1/7/2005. [28] Luật Giao dịch điện tử số 51/2005/QH11 được Quốc hội khóa 11, kỳ họp thứ 10 thông qua ngày 29/ 11/ 2005, có hiệu lực từ ngày 1/7/2006. [29] Nghị định số 57/2006/NĐ – CP của Chính phủ ngày 29/6/2006 quy định về thương mại điện tử. [30] Quyết định số 10/2007/QĐ – TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 23/1/2007 về việc ban hành Hệ thống ngành kinh tế quốc dân, và Quyết định số 337/2007/QĐ – BKHĐT của Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư ngày 10/4/2007chi tiết thi hành Quyết định 10/2007/TTg ngày 23/1/2007 của Thủ tướng Chính phủ về việc ban hành Hệ thống ngành kinh tế quốc dân. [31] Viện Chính sách và Chiến lược phát triển Nông nghiệp nông thôn (2005). Báo cáo nghiên cứu đánh giá những nhân tố ảnh hưởng đến phát triển kết cấu hạ tầng thương mại vùng kinh tế trọng điểm phía Nam. Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia 2005, và Viện Chính sách và Chiến lược phát triển Nông nghiệp nông thôn (2006). Báo cáo nghiên cứu Qui hoạch tổng thể phát triển một số Kết cấu hạ tầng thương mại vùng kinh tế trọng điểm miền Trung thời kỳ 2006 – 2020. Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia 2006. [32] Quyết định số 1371/2004/QĐ – BTM của Bộ trưởng Bộ Thương mại ngày 24/9/2004 ban hành Quy chế siêu thị, trung tâm thương mại, điều 2, khoản 2. [33] Quyết định số 1371/2004/QĐ – BTM của Bộ trưởng Bộ Thương mại ngày 24/9/2004 ban hành Quy chế siêu thị, trung tâm thương mại, điều 2, khoản 1. [34] Tài liệu Hội nghị Ban chỉ đạo phát triển thương mại vùng kinh tế trọng điểm phía Nam tổ chức ngày 18/12/2006 tại Thành phố Hồ Chí Minh. [35] Quyết định số 12/2007/QĐ - BCT của Bộ trưởng Bộ Công thương ngày 26/12/2007 phê duyệt quy hoạch tổng thể phát triển mạng lưới chợ đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020; và Quyết định số 03/2008/QĐ – BCT của Bộ trưởng Bộ Công thương ngày 4/2/2008 đính chính Quyết định phê duyệt quy hoạch tổng thế phát triển mạng lưới chợ đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020. [36] Quyết định số 27/2007/QĐ – TTg của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt đề án phát triển thương mại trong nước đến 2010 và định hướng đến năm 2020. [37] Barbara Beshel (2001). An Introducion to frachising. IFA Educational Foundation. 2001, trang 5. [38] Xem cổng tri thức www.saga.vn, nhóm bài viết về nhượng quyền thương mại. [39] Xem cổng tri thức www.saga.vn, nhóm bài viết về nhượng quyền thương mại. [40] Thông tư của Bộ Thương mại số 09/2006/TT-BTM ngày 25/5/2006 hướng dẫn đăng ký hoạt động nhượng quyền thương mại, phần III, mục I. [41] Bộ luật Dân sự số 33/2005/QH11 của Quốc hội được thông qua ngày 27/6/2005 và có hiệu lực từ ngày 1/1/2006;, điều 755, khoản 1 [42] Thạc sỹ Nguyễn Bá Bình (2006). Nhượng quyền thương mại – một số vấn đề về bản chất và về mối quan hệ với hoạt động li-xăng, hoạt động chuyển giao công nghệ. Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp số tháng 2/2006 và Thạc sỹ Nguyễn Bá Bình (2008). Bước đầu tìm hiểu hợp đồng nhượng quyền thương mại có yếu tố nước ngoài dưới giác độ pháp luật Việt Nam. Tạp chí Luật học, Đại học Luật Hà Nội số tháng 5/2008; [43] Nghị định số 35/2006/NĐ – CP của Chính phủ ngày 31/3/2006 quy định chi tiết Luật Thương mại về hoạt động nhượng quyền thương mại., điều 5, khoản 1. [44] Nghị định số 12/2006/NĐ – CP của Chính phủ ngày 23/01/2006 hướng dẫn chi tiết thi hành Luật Thương mại (2005) về hoạt động mua bán hàng hóa quốc tế, các hoạt động đại lý, mua bán, gia công và quá cảnh hàng hóa với nước ngoài, điều 18. [45] Luật Chuyển giao công nghệ số được Quốc hội khóa 11, kỳ họp thứ thông qua ngày 22/11/2006, có hiệu lực từ ngày 1/7/2007, điều 7, khoản 2. [46] Luật Sở hữu trí tuệ số 50/2005/QH11 được Quốc hội thông qua ngày 29/11/2005, ban hành ngày 12/12/2005, có hiệu lực từ ngày 1/7/2006. [47] Luật Chuyển giao công nghệ số được Quốc hội khóa 11, kỳ họp thứ thông qua ngày 22/11/2006, có hiệu lực từ ngày 1/7/2007, điều 12. [48] Xem theo liên kết sau

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docxTthạc sỹ luật (chuyên ngành luật kinh tế).docx