Vai trò của báo chí đối với việc xây dựng và giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc

A: Phần mở đầu: Gồm có: Lý do chọn đề tài; Mục đích nghiên cứu đề tài Phương pháp nghiên cứu đề tài; Phạm vi nghiên cứu đề tài. B: Phần nội dung Chương I: Đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước với việc giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc Chương II: Vai trò của Đài Truyền thanh – Truyền hình Huyện Mộc Châu với vấn đề giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc của huyện nhà Chương III: Thực trạng và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của Đài Truyền thanh – Truyền hình cơ sở với vấn đề giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc. C: phần kết luận:

doc32 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 4615 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Vai trò của báo chí đối với việc xây dựng và giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
yện cửa ngõ của tỉnh Sơn La, nằm trên trục giao thông Quốc lộ 6 huyết mạch của vùng Tây Bắc, tuyến đường nối liền vùng Th? đô Hà Nội – tỉnh Điện Biên – tỉnh Lai Châu. Huyện Mộc Châu có trên 39 Km đường biên giới với nước Cộng hoà dân chủ nhân dân Lào, có Cửa khẩu Quốc gia Lóng Sập, vì vậy Mộc Châu có vị trí kinh tế – xã hội, an ninh quốc phòng rất quan trọng. Nằm trên cao nguyên, có độ cao 1.050 mét so với mực nước biển, có đỉnh Pha Luông cao 1.889 mét, Mộc Châu nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, mùa đông lạnh thường có mưa phùn, sương mù; mùa hè mát mẻ, nhiệt độ trung bình 18,50C. Biên độ nhiệt ngày/ đêm là 7,50C. Khí hậu Mộc Châu thích hợp với nhiều loại cây trồng, vật nuôi, đặc biệt là cây công nghiệp: Chè, dâu tằm, cây ăn quả á nhiệt đới, thuận lợi trong việc chăn nuôi đại gia súc: trâu, bò thịt, bò sữa… Cao nguyên Mộc Châu có 12 dân tộc anh em cùng sinh sống: Thái, Mường, Mông, Dao, Kinh, Sinh Mun, Khơ Mú,…trong đó chiếm tỉ lệ đông dân nhất phải kể đến dân tộc Mông, dân tộc Thái. Mỗi một dân tộc sinh sống trên địa bàn lại có một nét văn hoá riêng đậm đà bản sắc dân tộc, chính vì vậy, Mộc Châu cũng là địa phương có văn hoá rất phong phú và đa dạng. Mộc Châu có tiềm năng khá mạnh về phát triển du lịch, có nhiều danh lam thắng cảnh và di tích lịch sử được xếp hạng có giá trị thu hút khách du lịch tham quan, giải trí và nghỉ dưỡng. Với tiềm năng khá thuận lợi về kinh tế, giao thông, khí hậu mát mẻ quanh năm và được ví như một Sa Pa, một Đà Lạt của Tây Bắc. Do đó những loại hình, giá trị văn hoá tại Mộc Châu cần đề cập khai thác, bảo tồn trong phát triển du lịch: 1.1: Hệ thống danh lam thắng cảnh, di tích lịch sử: Cho đến nay một số danh lam thắng cảnh và di tích lịch sử đã được các cơ quan quản lý nhà nước làm thủ tục xếp hạng di tích – danh thắng nhằm bảo vệ và phát huy giá trị. Đây những di sản văn hoá đã tồn tại từ lâu đời trường tồn với không gian, thời gian và luôn gắn bó với lịch sử phát triển của người dân đất Mộc. Đến với di tích lịch sử động Sơn Mộc Hương, quí khách sẽ được thưởng thức cảnh quan kỳ vĩ của thiên nhiên ban tặng, được nghe huyền thoại về lịch sử kháng chiến của nhân dân các dân tộc Mộc Châu thời kỳ chống chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ . Di tích Đồn Mộc Lỵ là chứng tích tố cáo tội ác của thực dân Pháp cũng như ghi lại cuộc chiến đấu anh dũng của bộ đội ta trong cuộc đấu tranh giải phóng Mộc Châu thời kỳ kháng chiến chống Pháp (thời kỳ này, Mộc Châu có tên gọi là Châu Mộc). Chiến thắng cứ điểm Đồn Mộc Lỵ đã đánh bại Thực Dân Pháp trên đất Mộc Châu. Mộc Châu được giải phóng năm 1952, tiếp tục tiến lên tập kích cứ điểm Nà Sản và tiến tới giải phóng Điện Biên Phủ năm 1954. Đi qua Đồn Mộc Lỵ về phía tây khoảng 6 km chúng ta sẽ thấy vết tích của một ngôi Chùa Cổ, có tên Chùa Vắt Hồng (thuộc bản Vặt xã Mường Sang). Đó là dấu ấn của ngôi chùa cổ tồn tại tại Mộc Châu từ thời phong kiến nơi giao thoa giữa nền văn hoá Việt – Lào. Bên cạnh ngôi chùa cổ du khách sẽ đến với thác Dải Yếm ngay trên địa bàn Bản Vặt bạn sẽ được ngắm nhìn dòng nước trắng xoá như mái tóc cô gái trong huyền thoại ẩn hiện trong 7 sắc cầu vồng, cảnh đẹp của thác, không khí trong lành nơi đây làm mê đắm lòng người, giúp bạn quên đi những mệt mỏi của những ngày vất vả. Trong tua du hành tại Mộc châu du khách sẽ tới Bản áng xã Đông Sang với Rừng Thông xanh mướt trải dài có diện tích 35,6 ha. Tại đây các ngôi nhà sàn cổ bằng gỗ lim với những cột chính đen nhánh to tròn bằng vòng tay một người ôm, khang trang đủ điều kiện đón khách thập phương. Khi nghỉ lại Bản áng khách sẽ được thưởng thức các giá trị văn hoá ẩm thực, chiêm ngưỡng những sản phẩm thổ cẩm, xem biểu diễn văn nghệ với những bài hát, điệu múa xoè chá mang đậm bản sắc dân tộc thái và trực tiếp hoà mình cùng vòng tay các cô gái Thái trắng Mộc Châu trong điệu múa xoè. Sau đó bạn sẽ bách bộ trong Rừng Thông rộng lớn hoặc đắm mình trong hồ nước trong xanh ngay giữa Rừng Thông quyến rũ. Đi qua vùng chè của Công ty cổ phần chè Mộc Châu ngắm đàn bò sữa đang gặm cỏ trên cao nguyên cỏ xanh ngát, bạn sẽ đến một hang động mới được phát hiện tại bản Ôn thuộc địa phận của thị trấn Nông Trường Mộc Châu, tại đây một lần nữa du khách được thưởng thức cảnh quan kỳ vĩ của thiên nhiên. Đi qua vùng tái định cư bản Dọi, bản Hoa bạn sẽ say sưa ngắm nhìn những đồi chè, vườn quả và nhà sàn lợp ngói của đồng bào vùng tái định cư ẩn hiện trong những đám mây, khiến du khách như cảm thấy lạc vào cõi tiên. Sự kết hợp hài hoà giữa con người với cảnh quan nơi đây tạo nên một khung cảnh khác biệt so với các vùng miền khác trong tỉnh Sơn La. 1.2: Các bản du lịch văn hoá cộng đồng: Bên cạnh các di tích và danh lam thắng cảnh, loại hoạt động du lịch thứ hai khá thu hút khách đó là cộng đồng các bản của đồng bào Thái, Mường, Mông, Dao. Giai đoạn trước mắt 2008 – 2010 và 2010- 2015 huyện Mộc Châu tập trung xây dựng các bản văn hoá tại 4 xã trong huyện. Các bản được qui hoạch lựa chọn gồm: Bản áng xã Đông Sang (Thái); bản Nà Bai, Phụ Mẫu xã Chiềng Yên (Mường); bản Co Chàm xã Lóng Luông (Mông); bản Suối Lìn xã Vân Hồ (Dao) lựa chọn bản tiêu biểu đủ điều kiện xây dựng thành Bản du lịch văn hoá cộng đồng. Loại hình bản du lịch là mô hình du lịch tổng hợp cả cộng đồng nên nội dung hoạt động các thể loại văn hoá, sản xuất, kinh doanh, dịch vụ,…đều được diễn ra trong không gian của bản, do đó loại hình này bao gồm các hoạt động: ẩm thực; hoạt động văn nghệ như: múa, hát, du lịch. Các hoạt động có liên quan chặt chẽ với nhau và hoạt động dưới sự điều hành của bản hay câu lạc bộ. 1.3: Loại hình cấu trúc nhà cửa: Cấu trúc nhà cửa là văn hoá vật thể chứa đựng văn hoá tinh thần thông qua hoạt động, bố trí không gian và hoạt động tín ngưỡng của từng dân tộc. Văn hoá vật thể được giới nghiên cứu đề cập là kiến trúc nhà sàn Thái, Mường, không gian sinh hoạt nhà đất của người Mông, Dao; hoạt động hàng ngày của chủ ngôi nhà thể hiện tập quán sản xuất, tập quán sinh hoạt văn hoá của cả cộng đồng được diễn ra tại mỗi ngôi nhà, do đó nghiên cứu không gian, kiến trúc, các hoạt động trong ngôi nhà chính là hoạt động văn hoá của tộc người được diễn ra thường xuyên. Từ kết quả nghiên cứu sẽ đề xuất các giải pháp để phục dựng, bảo tồn giá trị văn hoá ngôi nhà của đồng bào dân tộc. 1.4: Loại hình văn hoá thông qua hoạt động ngành nghề thủ công truyền thống Các nghề thủ công của từng dân tộc rất có ý nghĩa trong khai thác du lịch, các làng nghề truyền thống đang được các cơ quan chức năng nghiên cứu, khôi phục, phát triển, như: nghề dệt thổ cẩm, dệt lanh, nhuộm chàm, in sáp ong, làm giấy bản của các dân tộc. Đồng thời cũng đề xuất phương án nâng cấp kết cấu hạ tầng cơ sở, hoàn thiện lại cấu trúc không gian nhà sàn, bổ sung các công trình vệ sinh, các dụng cụ thiết yếu trong nhà như: chăn, gối, đệm…bằng thổ cẩm đáp ứng nhu cầu sinh hoạt của khách du lịch. 1.5: Loại hình văn hoá ẩm thực: Việc nghiên cứu, giới thiệu các món ăn truyền thống một nhiệm vụ không thể thiếu nhằm tạo dựng những nét văn hoá ẩm thực đặc trưng của các dân tộc Mộc Châu. Đặc biệt khi nói đến du lịch cộng đồng du khách nghĩ ngay ngủ ở đâu, ăn món gì, uống đồ uống gì,…Đến Mộc Châu du khách sẽ được thưởng thức các món ăn dân tộc như: Xôi trắng, xôi bốn màu (xôi tình yêu), cơm lam, bánh dầy, mèn mén, thắng cố, thịt nướng, cá nướng, nặm pịa, nộm hoa chuối…Để duy trì tốt các món ăn dân tộc phải tuân thủ nghiêm ngặt cách chế biến truyền thống cũng như việc chuẩn bị các gia vị, qui hoạch chăn nuôi hợp lý trên diện tích từng bản. Đây cũng là điều kiện để mỗi bản chủ động được nguyên liệu và thực phẩm. Cùng với bữa ăn đậm đà, đặc trưng du khách không thể thiếu được các loại rượu đặc sản của các dân tộc như rượu ngô của dân tộc Mông, rượu hoãng của dân tộc dao… để rồi du khách được ngất ngây cùng men rươu và xoay vần bên vòng xoè hay những trò chơi dân gian kỳ thú. Song bên cạnh đó cũng cần mở thêm các dịch vụ ăn uống, nghỉ dưỡng tại các bản kết hợp với việc tập huấn về vệ sinh an toàn thực phẩm, cách bảo quản và chế biến, cách thức bày mâm, mời khách nhằm thu hút thêm du khách đến với Mộc Châu. 1.6: Loại hình văn hoá văn tự: Nói tới văn hoá Mộc Châu không thể không nói tới soạn thảo, xuất bản tài liệu hướng dẫn du lịch, quảng bá du lịch, các loại sách giới thiệu về văn học dân gian, múa dân gian, các lễ hội tín ngưỡng của từng dân tộc. Các tác phẩm truyền thuyết dân gian gắn với vùng đất và con người Mộc Châu, truyện thần thoại: ải Lậc Cậc, truyện lập Mường của Chúa đất Mường Sang, các tác phẩm văn thơ nổi tiếng của dân tộc Thái như: Khoan khắp Văn Hoan, Sự sọn côn, xống chụ xôn xao, đẻ đất đẻ nước (dân tộc Mường). Các dân tộc Mông, Dao sưu tập, khôi phục lại các sách chữ nho của người Dao, tái bản lại một số tác phẩm truyện thơ dân tộc Mường như Tiếng hát mồ côi, các truyện tình của dân tộc Mông, Dao. 1.7:Về múa, hát Đây là một nét văn hoá không chỉ được người dân các dân tộc thiểu số truyền lại cho đời sau mà hiện nay, các đội múa thuộc các trường nghệ thuật cũng tích cực duy trì và phát triển các loại múa này như: múa xoè, múa sạp, múa khăn piêu, múa quạt, ….của các dân tộc. Bên cạnh múa là hát dân tộc như “Khắp” dân tộc Thái; “Đang” dân tộc Mường; và bài hát giao duyên của dân tộc Mông - Dao. 1.8: Về lễ hội và tín ngưỡng Các dân tộc Mộc Châu đã đặc biệt chú trọng tập quán lễ nghi dân gian, lễ nghi nông nghiệp: Thờ cúng trời, đất, mường, bản, lễ hội cầu mùa, ăn cơm mới, lên nhà mới, tục cưới xin, ma chay, tổ tiên, thờ thầy thuốc… Mỗi dân tộc đều có hình thức lễ hội riêng tuy nhiên đến nay một số lễ hội đã bị mai một. Để phục dựng lại các lại hội này đòi hỏi tốn rất nhiều công sức sưu tầm và biên đạo trình diễn, do vậy trong những năm gần đây Bộ Văn hoá và huyện Mộc Châu chỉ tập trung tổ chức phục dựng một số lễ hội đã từng tồn tại lâu đời và được dồng bào các dân tộc đặc biệt quan tâm như: Hết Chá, Lễ hội Hoa Ban, Nào xồng… 2. Một số nét văn hoá truyền thống của các dân tộc Trải qua bao thăng trầm lịch sử cùng với sự hình thành và phát triển đã tạo nên cộng đồng các dân tộc Mộc Châu chung sống đoàn kết. Cho đến hôm nay, ở Mộc Châu có 12 dân tộc anh em là: Thái, Mông, Kinh, Mường, Dao, Tày, Xinh mun, La Ha, Kháng, Lào, Hoa và Khơ mú. Mỗi dân tộc có tiếng nói, phong tục tập quán riêng, tạo nên sự phong phú, đa dạng nhưng vẫn giữ những nét văn hoá riêng biệt đặc sắc của từng dân tộc. Những truyền thống văn hoá đó luôn được trân trọng, giữ gìn và phát huy trong sự phát triển thống nhất trong cộng đồng các dân tộc Tây Bắc cũng như dân tộc Việt Nam Tuy nhiên, do nhiều yếu tố khách quan và chủ quan, nên trong phần khảo sát này em xin được đề cập đến 2 dân tộc hiếm tỷ lệ dân số cao nhất trong huyện và có những nét văn hoá đặc trưng tiêu biểu đó là: dân tộc Mông( chiếm tỷ lệ 30,9%) và dân tộc Thái( chiếm 38,7%), để biết thêm về những nét văn hoá, cũng như phong tục tập quán của 2 dân tộc này: 2.1: Về lễ hội: Những ai đã từng một lần đến với các bản của dân tộc Thái, dân tộc Mông ở Mộc Châu thì không được trực tiếp tham dự cũng được nghe chuyện kể về những lễ hội đặc sắc của mỗi dân tộc. Nếu dân tộc Thái có Lễ hội Hoa Ban hay còn gọi là Lễ hội Xên bản, Xên mường thì dân tộc Mông có Tết Độc Lập và lễ hội Nào Sồng rất nổi tiếng. Dân tộc Thái là cộng đồng đông nhất ở Mộc Châu, chiếm 38,7% dân số, gồm các nhóm Tay Đăm (Thái Đen) và Tay Khao (Thái Trắng). Lễ hội Hoa Ban là một lễ hội đặc biệt của dân tộc Thái. Theo tiếng Thái thì “Ban” có nghĩa là ngon, đẹp đẽ. Tất cả những gì ngon ngọt, đẹp đẽ đều được gọi là “Ban”. Lễ hội có một ý nghĩa rất quan trọng đối với người Thái, thường được tổ chức vào dịp 5/2 âm lịch. Đó là lúc họ thỉnh bái thần rừng, thần hang và hồn vía đôi trai gái qua sự tích, cầu mong cho mưa thuận gió hoà, mùa màng tươi tốt. Lễ hội được chia làm 2 phần rõ rệt, đó là: phần lễ và phần hội. Bắt đầu vào buổi lễ, già làng cùng Thầy mo và một số thanh niên mang lễ vật lên hang Thẩm Lé để cúng. Lễ vật gồm: 1 con lợn, mấy cành hoa ban, chai rượu, 2 bát gạo, 2 bát cơm, vài nén hương, cùng với trầu cau. Thầy mo làm lễ cúng thần hang, thần rừng, cầu cho dân chúng có được cuộc sống ấm no, hạnh phúc trong năm mới. Sau phần lễ là phần hội, thanh niên trai gái bắt đầu vui hội hái hoa, sôi nổi với những trò chơi dân gian độc đáo. Con trai thổi khèn, con gái dập dìu múa điệu Thẩm Lé, điệu múa dành riêng cho việc đi hái hoa ban, âm vang nhộn nhịp của tiếng Pí, tiếng khèn, tiếng trống chiêng. Các chàng trai thi nhau trèo lên các cây ban hái hoa. Mỗi cây thường có từ 5 đến 6 người trèo, ở bên dưới các cô gái lấy cái ớp (giống như cái giỏ của người kinh) đón những bông hoa mà các chàng trai thả xuống. Anh chàng nào có ý với cô gái nào thì thả hoa ban vào ớp của cô gái đó. Các cô gái cũng vậy, nếu họ ưng chàng trai nào sẽ đứng về phía đó để đón những bông hoa ban mà chàng trai thả xuống. Kết thúc lễ hội, cũng là lúc đôi trai gái chia tay nhau để xuống đồng cày cấy, bởi mùa xuân cũng là mùa làm nương, làm rẫy. Cho nên họ cùng nhau vui chơi trong lễ hội rồi động viên nhau trong mùa màng mới gắng làm thật nhiều, thật tốt để cuộc sống sung túc hơn. Nắm bắt được những nét văn hoá này của đồng bào dân tộc Thái, Đài TT-TH Mộc Châu tích cực đưa tin, bài về lễ hội Hoa Ban, lễ hội Hết Chá… với mong muốn, những thông tin được truyền tải sẽ mang đến cho người dân hiểu biết sâu sắc hơn về lễ cũng như hội độc đáo này, bên cạnh đó giúp người dân hiểu được giá trị văn hoá mang tính nhân văn, từ đó họ sẽ có ý thức hơn trong việc giữ gìn bản sắc văn hoá của dân tộc mình. Ngày 6/3/2008, phóng viên Minh Đức - Đài TT-TH Mộc Châu có bài viết: “Lễ hội Hoa Ban”. Trong bài phóng viên Minh Đức có đoạn: “ Lễ hội Hoa Ban được chuẩn bị rất chu đáo, có sự tham khảo ý kiến các nhà nghiên cứu văn hoá dân gian do vậy mà lễ vẫn giữ được khá đầy đủ các nội dung tích cực, đồng thời loại bỏ được những yếu tố lạc hậu không phù hợp với cuộc sống của nhân dân ngày nay”. Đây không chỉ là nhận định của phóng viên Minh Đức trước những gì đã được chứng kiến tại lễ hội, mà qua đó phóng viên Minh Đức còn muốn truyền tải tới công chúng, đặc biệt là đồng bào dân tộc Thái thông điệp: Lễ hội Hoa Ban là một lễ hội đặc sắc cần được lưu giữ và phát huy, đồng thời xoá bỏ những hủ tục, lạc hậu không còn phù hợp để lễ hội này sẽ không chỉ là nét văn hoá riêng của dân tộc Thái mà còn của cả dân tộc Việt Nam. Nhắc đến nét văn hoá lễ hội của dân tộc Thái ta không thể không nói đến điệu Múa xoè . Từ xưa đến nay, vòng xoè của dân tộc Thái luôn có sức hấp dẫn đặc biệt. Mỗi khi âm thanh trầm bổng, nhịp điệu của trống xoè nổi lên lại thôi thúc mọi người đến với vòng xoè. Trong tiếng trống, tiếng chiêng, mọi người xích lại gần nhau, quây quần bên nhau vui tươi đầm ấm; Tay trong tay, vai kề vai, chân người nọ dịch bước theo chân người kia mọi người có thể tâm sự chuyện trò, tâm sự riêng cùng nhau mà không hề làm ảnh hưởng đến những người xung quanh. Trong vòng xoè tình cảm riêng được đặt trong tình cảm chung, tình cảm tập thể tạo điều kiện cho tình cảm riêng phát triển. Những động tác xoè đều rất giản dị; độ nhún, bước đi của vòng xoè rất nhịp nhàng và gần gũi với những hoạt động của con người trong lao động và sinh hoạt hàng ngày. Âm nhạc của vòng xoè thường là một chiếc trống, 2 hoặc 3 chiếc chiêng, một đôi chũm choẹ và mấy ống tre dỗ trên máng gỗ. Có khi còn dùng cả pí, khèn pí. Nắm bắt được nét nét văn hoá này ngày 27/8/2007 phóng viên Hà Sơn Đài TT-TH Mộc Châu viết bài: “ Nét đẹp từ vòng xoè” trong bài có đoạn viết: “…Nằm trong hệ thống múa dân gian Vịêt Nam, vòng xoè đã đóng góp vai trò quan trọng vào kho tàng múa dân gian cổ truyền. Vòng Xoè được dân tộc Thái tự hào là đặc trưng văn hoá truyền thống, góp phần xây dựng cuộc sống lành mạnh, thúc đẩy sản xuất góp phần xây dựng nền văn hoá Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc.” Chỉ bấy nhiêu thôi cũng đủ thể hiện vòng xoè không chỉ là sản phẩm tinh thần quý giá trong đời sống xã hội, mà vòng xoè còn có giá trị đặc biệt quan trọng trong nghiên cứu, xây dựng nghệ thuật múa dân tộc Việt Nam. Múa Xoè của dân tộc thái Mộc Châu cũng như các tỉnh khác đã, đang tiếp tục phát triển, Cũng như dân tộc Thái, dân Tộc Mông được coi là một thành viên quan trọng trong cộng đồng các dân tộc thiểu số ở Việt Nam. Với số dân hơn 80 vạn người, dân tộc Mông thuộc dân tộc thiểu số có số lượng cư dân đứng hàng thứ 8 trong bảng danh sách các dân tộc ở Việt Nam. Dân tộc Mông thường cư trú ở độ cao từ 800 đến 1500m so với mực nước biển. Người ta chia tộc Mông ra làm các nhóm khác nhau như: Mông Trắng (Mông Đơ), Mông Đen (Mông Đu), Mông Hoa (Mông Lênh), Mông Đỏ (Mông Si), Mông Xanh (Mông Njuo), Na Miểu (Mỡo Nước). Tuy được chia thành nhiều nhóm nhưng hễ nhắc đến đồng bào dân tộc Mông ở Mộc Châu ta không thể không nhắc đến ngày Tết Độc Lập cùng với lễ hội Nào Sồng. Cứ đến ngày 1/9 hàng năm, người Mông ở khắp nơi thuộc các tỉnh miền núi phía bắc lại đổ về trung tâm Huyện Mộc Châu, tỉnh Sơn La để vui Tết Độc Lập cùng các dân tộc khác trong huyện. Rất nhiều gia đình dân tộc Mông đã đến đây trước 1 ngày để được thưởng ngoạn, vui vầy và tìm cho mình những chàng trai, cô gái ưng ý. Có lẽ cũng chính bởi vậy mà ngày này ở Mộc Châu được nhiều người biết đến với cái tên “ Chợ tình”. Những năm trước đây, vào dịp 1/9, người Mông xuống núi đi chợ. Những người có tuổi thì đi tìm bạn cũ để hàn huyên; những chàng trai, cô gái thì làm quen và hẹn hò với nhau. Tiếng hát, tiếng khèn vang lên khắp nơi gọi bạn tình…Ngoài những bản sắc vốn có của ngày Tết Độc Lập xưa, người Mông giờ đây cũng có nhiều hoạt động khác, họ đến để bán những chiếc váy tự tay người phụ nữ Mông thêu, mỗi năm họ chỉ thêu được 2 đến 3 chiếc váy nhưng giá của mỗi chiếc váy thường rất đắt từ 1.500.000 đồng đến 2 triệu đồng. Bán được những chiếc váy đó, họ rủ nhau đi ăn uống và mua về cho người thân những món quà làm kỉ niệm. Một số tập tục lạc hậu cũng đã được người dân đồng bào Mông thay đổi, nếu trước đây, các chàng trai đến với nơi này để bắt về cho mình một người vợ. Gọi là vợ chứ trên thực tế là bắt về để làm nương, làm rẫy cho nhà mình thì giờ đây, các chàng trai đến đây là để tìm cho mình một người bạn tình, họ tỏ tình cùng nhau, cho nhau biết tình cảm của mình, nếu người con gái ấy cũng có tình cảm với chàng trai thì họ sẽ chính thức hẹn hò. Đến với Tết Độc Lập, người Mông còn tổ chức các trò chơi dân gian: Đánh lu tu, giã bánh dày, nấu thắng cố…và tổ chức các môn thể thao đặc trưng như đẩy gậy, bắn nỏ…Những người chơi giỏi nhất bản sẽ được lựa chọn để thi tài trong những cuộc thi do huyện tổ chức. “Chợ tình”. Cái tên cũng độc đáo như chính những nét văn hoá diễn ra ở đó. Phóng viên Trường Chinh – Hà Sơn của Đài Truyền thanh – Truyền hình Mộc Châu có phóng sự: “ Người Mông Mộc Châu đón Tết Độc Lập”. Trong bài có đoạn viết: “Đêm xuống cả thị trấn Mộc Châu lung linh huyền ảo. Từng đôi nam nữ dắt tay nhau đi dạo. Vẫn còn đó tiếng khèn gọi bạn của các chàng trai hoà trong tiếng hát tình tự của các cô gái – một kiểu tỏ tình, trao duyên rất riêng, có lẽ chỉ đồng bào Mông mới có. Đêm trở về khuya, đâu đó các bà, các chị đã tìm được những đỉêm ngả lưng khá thú vị. Còn với các chàng trai chưa tìm được người bạn ưng ý thì ba, bốn giờ sáng vẫn còn sớm lắm. Sau đêm chợ này chắc chắn sẽ có rất nhiều đôi bạn trẻ nên vợ nên chồng”.Chỉ với bấy nhiêu thôi, ta cũng đã hình dung ra một phiên chợ nhộn nhịp, đông vui, chứa đựng nét văn hoá rất riêng và đầy ấn tượng của người Mông. Ngoài ngày Tết Độc Lập, người Mông còn có rất nhiều lễ hội khác mang đậm bản sắc văn hoá dân tộc như: Lễ hội Nào Sồng (Đây là lễ hội được tổ chức dịp đầu năm thể hiện những ao ước, khát vọng cho một năm mới tốt lành), không những thế lễ hội còn có ý nghĩa giáo dục con cháu tính đoàn kết, đồng thời lập ra những quy ước tốt đẹp để mọi người cùng thực hiện như: Không chặt phá rừng, không ăn trộm của người khác, quy định chăn thả gia súc, không tảo hôn, không tổ chức ma chay rườm rà… Điều này được thể hiện rất rõ qua phóng sự “ Nét đẹp từ Lễ hội Nào Sồng” của phóng viên Minh Đức - Đài Truyền thanh - Truyền hình Mộc Châu Có thể nói, mỗi một dân tộc lại có những lễ hội khác nhau thể hiện được nét văn hoá riêng của đồng bào mình. Những nét văn hoá đa dạng phong phú đó đang được các dân tộc, các cơ quan chức năng phát huy và giữ gìn. 2.2: Về ẩm thực: Do sắc thái cũng như tập tục sinh hoạt của mỗi dân tộc khác nhau nên cũng có những món ăn khác nhau, nó chứa đựng những nét văn hoá riêng và tạo nên bản sắc khá đặc biệt, gây được ấn tượng trong lòng mỗi du khách thập phương. Người dân tộc Thái có nhiều món ăn truyền thống có nguyên liệu được lấy từ tự nhiên rồi chế biến, chuẩn bị công phu ăn vừa lạ miệng, vừa ngon như: xôi màu đỏ, màu xanh, màu nâu đen càng nhai càng bùi, cơm lam càng nhai càng dẻo, lại có mùi thơm của nếp mới; ngô bung ăn mềm và dẻo; canh rêu có hương vị đặc trưng của núi rừng - ăn vào khó quên, cá nướng, thịt khô,..rượu cần có hương vị thơm mát... Để khắc hoạ sự phong phú về ẩm thực của đồng bào dân tộc Thái ngày 18/4/2007 Thế Anh cộng tác viên Đài TT-TH Mộc Châu có bài “ Rêu món ăn đặc biệt của đồng bào thái Sơn La” trong bài có đoạn viết: “…Rêu chế biến được nhiều món ăn ngon; Canh rêu tươi “kinh tau”nấu với xương hầm hoặc nước luộc gà, nấu vừa chín tới, cho nắm muối và các gia vị, ăn nóng. Rêu nộm “tau nửng chụp”, thường lấy rêu non, cho vào chõ đồ xôi, đồ vừa chín tới, trộn cùng súp, mì chính và các gia vị, gừng, mắc khén, thích ăn cay cho thêm quả ớt nướng giã nhỏ…” Chỉ bấy nhiêu thôi ta có thể thấy được món ăn của dân tộc Thái là những món ăn mà thoáng qua ta thấy mộc mạc, giản dị song quan sát kỹ thì lại rất cầu kỳ. Cầu kỳ cả trong nguyên liệu lẫn cách chế biến. Có thể nói những món ăn của người Thái là một sự gia công đúng mực về kỹ thuật và nghệ thuật, và điều đó cho thấy văn hoá ẳm thực của tộc người Thái Tây Bắc nói chung và Mộc Châu nói riêng, mang một phong vị rất riêng, độc đáo, một phong vị không hề trộn lẫn. Văn hoá ẳm thực không chỉ da dạng phong phú với dân tộc thái mà người dân tộc Mông ở Mộc Châu cũng có nhiều món ăn truyền thống như xôi bốn màu (xôi tình yêu) thường dùng trong dịp cưới xin. Người dân Mông nấu được loại rượu ngô đặc sản, một loại rượu có mùi vị đặc trưng của râu ngô, uống vào có vị ngon riêng biệt khác với các thứ rượu khác. Món thịt hun khói đặc trưng, món thịt này được người dân tẩm ướp gia vị sau đó gác lên gác bếp, khi ăn mang xuống gói vào lá chuối nướng qua trên than hồng, giã nát rồi ăn. Nước chấm của món thịt này cũng rất đặc trưng, pha một chút muối, ớt, và không thể thiếu được hương vị đặc trưng từ quả mắc khén. Khi nhắc đến ẩm thực của người Mông ta không thể không nói tới món “ Thắng Cố”. Thắng cố là món ăn dân dã, đại chúng, mang tính cố kết cộng đồng, giúp cho mọi người gần nhau hơn và dễ hiểu nhau hơn. Cao hơn món ăn đó còn là một nét văn hoá mà qua đấy ta thấy rõ những chuẩn mực ứng xử, tập tục và truyền thống văn hoá của một dân tộc. Món Tháng Cố xưa và nay đã có nhiều sự thay đổi: Trước kia Thắng cố được chế biến từ xương bò, trâu, ninh nhừ với lục phủ ngũ tạng. Nồi Thắng cố to sôi lục bục nổi lên những tảnh thịt, tảng mỡ màu vàng nhạt trông rất hấp dẫn. Món ăn nhiều đạm như thế mới đủ ấm lòng những người đi chợ xa, lâu lâu mới có dịp thưởng thức món ăn đặc sản này. Thắng cố ngày nay nhất là thắng cố ở trong các nhà hàng mang thương hiệu dân tộc hương vị đã bị bay đi ít nhiều. Bởi nồi thắng cố ấy đã bị các gia vị tẩm ướp “ tung hoả mù” khiến thực khách bị mụ mị bởi mùi thơm, bởi ngọt của bột nêm, mỳ chính. “Hai bát thắng cố, một hũ rượu Ngô, thêm chút rau thơm được đặt trên bàn phủ khăn khá lịch sự. Chỉ với từng ấy thứ đã tạo được sự chú ý đặc biệt của khách hàng tại hội chợ thương mại Mộc Châu. Món Thắng cố không xa lạ đối với đồng bào dân tộc vùng Tây Bắc, song gần đây nó ít được nói đến và cũng không thường xuyên xuất hiện trên các bàn ăn. Chính vì thế sự xuất hiện trở lại của món ăn mang đậm bản sắc dân tộc Mông được đông đảo người dân đón nhận đầy phấn khởi”. Đây chính là nội dung của bài “ Nét văn hoá độc đáo trong hội chợ” do phóng viên Trường Chinh và Minh Tạo đài TT-TH Mộc Châu phát ngày 3/9/2008. Mỗi một dân tộc lại có những nét đặc trưng riêng. Chính những cái riêng đó đã tạo lên sự đa dạng phong phú của các dân tộc Mộc Châu. 2.3: Về phong tục tập quán: Trong các phong tục tập quán, người dân thường chú trọng đến lễ cưới xin, ma chay, thờ cúng. Đồng bào dân tộc thiểu số cũng vậy. Dân tộc Thái có những phong tục tập quán rất riêng biệt, dễ nhận thấy. Trong tổ chức ma chay cho người đã khuất, người nhà thường bắn súng để báo hiệu cho dân làng biết trong làng đã có một người chết, 1 tiếng súng là người già, 3 tiếng súng là người trẻ. Hễ nghe thấy tiếng súng phát ra ở đâu, người già thì đến giúp việc tắm rửa, thay quần áo, hương khói, thanh niên trong làng cùng tổ chức ma chay cho người đã khuất. Mỗi lần gia chủ ăn cơm lại xới cho người đã khuất 1 bát để bên cạnh, mỗi món thức ăn, gia chủ sẽ gắp vào bát đó 1 miếng, thể hiện sự tôn trọng và chứng tỏ rằng người còn sống sẽ nhớ mãi về người đẫ khuất. Sau ít ngày, người đã khuất được cho vào áo quan, đưa đi chôn. Khi chôn, họ đào huyệt sâu từ 2 đến 2,5 m, sau khi chôn, lấp đất bằng và dựng nhà mồ bên trên có cây nêu và rào xung quanh, người thái quan niệm rằng đóng cửa mả là xong, chỉ khi nào gia đình gặp rủi ro thì mới lên thăm mả. Trong tục lệ cưới xin, người Thái quan niệm không có hát không phải là đám cưới. Nhưng việc đầu tiên cần chuẩn bị cho lễ cưới là phải chọn được người đại diện cho 2 họ. Người đó phải biết ứng xử, giao tiếp giỏi và quan trọng là phải biết hát và hát hay. Trong lễ cưới, nếu không có người lĩnh xướng mà chỉ có 2 người hát đối đáp với nhau thì buổi lễ sẽ rất đơn điệu, tẻ nhạt. Hát được mọi người lĩnh xướng sẽ làm cho cuộc vui thêm đậm đà, cũng từ đó lễ cưới sẽ trở nên ý nghĩa hơn. Trong lễ cưới xin của người Thái mọi người được thưởng thức những áng văn hay, những câu hát đẹp, là dịp để mọi người trò chuyện, kết bạn với nhau, tạo ra được không khí êm đềm, ấm áp, hiểu biết lẫn nhau. Người dân tộc Thái quan niệm thờ cúng tổ tiên là hình thức thờ cúng ở từng dòng họ. Họ quan niệm, tổ tiên ở trên trời chỉ được mời về trong các dịp gia đình có việc lớn trọng đại. Vì vậy, khi có của ngon vật lạ, người Thái đều đặt lên bàn thờ mời tổ tiên thưởng thức trước. Đây là tục lệ đáng quý, tỏ sự kính trọng ông bà, tổ tiên của dân tộc Thái. Ngoài ra, dân tộc Thái còn có những buổi lễ cầu mưa, giúp bà con trong làng, trong bản có một mùa màng tươi tốt, cuộc sống ấm no, hạnh phúc. Bên cạnh đó, dân tộc Mông là dân tộc có phong tục ma chay khá khác biệt. Mỗi khi người trong tộc qua đời, người nhà phải tổ chức ma chay chu đáo, và nếu là người già mất thì phải dành 1 ngày để nghe những người trong họ mắng, chửi vì không làm tốt việc chăm sóc, phụng dưỡng người già. Sau đó đưa đi chôn trên núi cao, với quan niệm khi còn sống dù phải chịu khổ cực thế nào thì khi chết cũng phải được nằm nơi thoáng mát và có thể nhìn bao quát bản làng, đồng thời để bảo vệ gia đình khỏi những khó khăn trong cuộc sống. Trong lễ cưới, trước kia người dân tộc Mông thường có tục bắt vợ ở những phiên “chợ tình”. Khi chàng trai xuống chợ mà trên đường gặp một cô gái mà mình thấy ưng thuận thì quay về gọi thêm một số thanh niên trong bản, làng cùng đi bắt cô gái ấy về làm vợ. Nếu cô gái ấy cũng ưng chàng trai thì sẽ để chàng đưa về nhà vài hôm sau đó chàng trai sẽ đưa cô gái về nhà bố mẹ đẻ để làm lễ xin cưới. Nhưng hiện nay, tục lệ này đã được xoá bỏ. Thay vào đó, những đôi trai gái có tình ý với nhau, qua một thời gian tìm hiểu nhất định, chàng trai sẽ đưa cô gái mình thích về nhập ma nhà mình. Nếu trong 3 ngày cô gái ở nhà chàng trai cảm thấy thoải mái, không bị gò bó trong sinh hoạt, hợp tính mọi người trong gia đình, không cãi vã thì sẽ chính thức xin cưới, và tổ chức lễ cưới theo phong tục. Nắm bắt phong tục này ngày 11/10/2007 cộng tác viên Sa Hoàng của Đài TT-TH Mộc Châu viết bài “ Đám cưới của người H’Mông” trong bài có doạn viết ; “ Sau khi ước hẹn, chàng trai báo cho bố mẹ biết cô con dâu tương lai. Để chuẩn bị đón cô gái về nhà, chàng làm một cái chõng ( hoặc phản) ngăn phòng riêng. chọn ngày lành tháng tốt, chàng báo với bố mẹ rồi đi tìm cô gái. Đôi nam nữ dẫn nhau vào rừng chơi, chờ đến tối mới đưa về nhà. Bao giờ cô gái cũng giằng co, buộc chàng phải chạy một đoạn. Cái lý là để mai ngày sống với nhau có điều gì khúc mắc, chàng không được nói cô tự theo tôi về và cô gái cũng được nói anh kéo tôi về đấy chứ…” Người Mông cũng thờ cúng tổ tiên và cầu mưa giúp màu màng tươi tốt, bà con được sống ấm no, hạnh phúc. 2.4: Các nhạc cụ truyền thống Người dân tộc Mông có nhiều nhạc cụ âm nhạc truyền thống như: kèn lá, sáo, khèn, đàn môi,…Mỗi một nhạc cụ lại phát ra những tiếng khác nhau. Mỗi một chàng trai lựa chọn cho mình một loại nhạc cụ để thể hiện phong cách riêng của mình và dùng để gọi bạn tình. Đối với kèn lá và đàn môi không quá đòi hỏi về cách làm vì thực chất chỉ là việc cuốn chiếc lá vào rồi thổi, tuy nhiên để thổi được kèn lá và đàn môi thì rất khó. Khèn là một nhạc cụ không thể thiếu trong đời sống văn hoá tinh thần của đồng bào Mông. Tuy nhiên điều đáng nói là hiện nay người biết thổi khèn đang ngày càng ít đi, người biết làm khèn lại càng trở nên hiếm hoi hơn. Để lưu truyền cách làm khèn của dân tộc Mông, phóng viên Hà Sơn - Trường Chinh – Minh Tạo đã có phóng sự “ Người làm khèn Mông”. Trong bài có đoạn viết: “ Làm khèn chỉ cần các nguyên liệu: gỗ thông đá để làm “Tau rơ”, trúc làm các “Thanh lo”, lá đồng làm lỡi gà và 1 loại vỏ cây để làm dây buộc. Để có một chiếc khèn đẹp về thẩm mỹ, có âm thanh tốt đòi hỏi sự tỉ mỉ, tính toán rất kỹ của người thợ. Các thanh Lo dài, ngắn, to nhỏ phải có kích thước phù hợp với bầu chứa khí “Tau rơ”, lỡi gà có độ đàn hồi tuyệt đối, nhẵn và lắp thật khíp”. Chỉ bấy nhiêu thôi đủ chứng tỏ rằng việc làm khèn là rất công phu mà không phải ai cũng làm được. 2.5: Văn hoá trang phục Đối với dân tộc thái thì mỗi địa phương có những trang phục khác nhau. Trang phục thường nhật trong lao động và sinh hoạt của nam giới thái là áo cánh ngắn, xẻ ngực, quần xẻ đũng; áo là loại cổ tròn, không cầu vai, hai túi dưới và trước cài cúc vải hoặc xương. Nét độc đáo của trang phục thái Mộc Châu là ở màu sắc đa dạng ở loại vải cổ truyền do cộng đồng sáng tạo lên không chỉ có màu trắng, tràm mà còn có màu cà phê sữa, hay dệt các ô vuông bằng các sơi màu đỏ, xanh, cà phê.. . Trong các ngày lễ, tết họ mặc áo dài xẻ nách phải màu chàm, đầu quấn khăn, chân đi guốc. Trong tang lễ họ mặc trang phục sặc sỡ tương phản với màu sắc ngày thường. Với phụ nữ thái thường nhật họ mặc áo cánh ngắn còn gọi là xửa cóm, áo thường có cổ hình chữ V hoặc cổ tròn, cúc áo bằng bạc hình con bướm, thân áo ngắn tạo dáng ôm chặt lấy thân, khi mặc cho vào trong cạp váy. Váy là loại váy kín, phía trong gấu đáp vải đỏ. Đầu đội khăn Piêu thêu hoa văn nhiều mô típ trang trí theo phong cách của từng vùng. Đặc biệt riêng con gái Thái Đen khi lấy chồng sẽ búi tóc lên đỉnh đầu gọi là “ Tằng cẩu”. Chiếc khăn phiêu được xem là một đặc trưng cơ bản tạo nên vẻ đẹp cho những cô gái thái. Để góp phần giữ gìn và bảo tồn nét đẹp của chiếc khăn piêu ngày 6/7/2008 phóng viên Đức Cường có bài “ Khăn piêu bản sắc dân tộc Thái” trong bài có đoạn viết: “Trong l?ch s? d?u tranh c?a dồng bào cácdân t?c Son La, chi?c khan Piêu đã tr? thành huy?n tho?i. Piêu dã t?ng là s?i to kéo pháo b?n b? quy?t li?t, góp ph?n vào th?ng l?i c?a cu?c kháng chi?n ch?ng th?c dân Pháp ? Tây B?c. Trong d?i s?ng sinh ho?t, lao d?ng, h?i hố l? t?t, trong tình yêu nam n? và hôn nhan, chi?c Piêu bao gi? cung là m?t y ph?c khụng th? thi?u, th? hi?n ý th?c về n?p s?ng d?p c?a c?ng d?ng. Trai gái Thái yêu nhau còn nh? Piêu nói h? lòng mình. Lúc xa nhau các cô gái Thaii thu?ng dem t?ng chàng trai mình yêu chi?c Piêu d?p nhu trao g?i m?t l?i tâm tình. Chàng trai luôn ghi d?u s? tài hoa và hoi ?m c?a bàn tay cô gái mình yêu.”chỉ bấy nhiêu thôi ta có thể nhận thấy vai trò giá trị của chiếc khăn piêu là vô cùng quan trọng đối với người dân tộc thái. Với đồng bào dân tộc Mông, nam thường mặc ấo cánh ngắn, thân hẹp, ống tay hơi rộng, áo nam có 2 loại là năm thân và bốn thân, loại bốn thân xé ngực hai túi trên, hai túi dưới. Loại năm thân xẻ nách phải dài quá mông. Quần nam giới là loại chân quần ống rộng, đầu thường chít khăn, đeo vòng cổ bằng bạc. Đối với phụ nữ người Mông thì trang phục có sự khác biệt giữa các nhóm. Nhìn chung thì phụ nữ thường mặc áo bốn thân, xẻ ngực không cài nút, gấu áo không khâu, ống tay áo thường trang trí hoa văn với những đường thêu vằn ngang. Phụ nữ mông còn dùng loại áo xẻ nách phải trang trí cổ, hai vai xuống ngực giữa và cửa ống tay áo. Phía sau gáy thường được đính miệng và trang trí hoa văn dày đặc bằng các chỉ ngũ sắc. Váy phụ nữ Mông có nhiều nếp gấp, rộng, khi xoè ra có hình tròn. Váy là tiêu chuẩn nhiều người đã dựa vào để phân biệt các nhóm Mông. Đó là các loại váy trắng, đen, váy in hoa, vẽ sáp ong kết hợp thêu. Váy được mang trên người với chiếc thắt lưng vải được thêu trang trí ở đoạn giữa. Khi mặc váy thường mang theo tạp dề. Tạp dề mang trước bụng phủ xuống chân là giao thoa giữa miếng vải hình tam giác và chữ nhật, phần trang trí hoa văn là miếnh vải hình tam giác cân phía trên, miếng hình chữ nhật là màu tràm đen, kích thước tuỳ từng bộ phận người Mông. Phụ nữ thường để tóc dài quấn quanh đầu, có một số nhóm đội khăn quấn thành khối cao trên đầu. Đồ trang sức bao gồm khuyên tai, vòng cổ, vòng tay, vòng chân và nhẫn. Tóm lại, những phong tục tập quán, lễ hội, ẩm thực,… của các dân tộc thiểu số là nét văn hoá cần được lưu giữ và phát triển. Bên cạnh đó cũng cần khắc phục và loại bỏ những hủ tục lạc hậu để hoàn thiện hơn nét văn hoá của toàn dân tộc. Ngoài ra để góp phần tích cực vào công tác tuyên truyền Đài TT-TH Mộc Châu còn đưa rất nhiều tin, bài để giới thiệu đến công chúng biết về những hoạt động văn hoá do huyện tổ chức. 2.6: Nhận xét chung “Từ cách hoà giải tranh chấp đất canh tác độc đáo tại bản Chiềng Đi thị trấn Nông trường và bản Chiềng Đi xã Vân Hồ huyện Mộc Châu cho thấy: Cấp uỷ Đảng chính quyền tiểu khu nơi xảy ra tranh chấp phải biết khơi dậy trưyền thống đoàn kết tinh thần tương thân tương ái của nhân dân. Đặc biệt bên cạnh việc chú trọng phát triển kinh tế giúp dân xoá đói giảm nghèo không thể bỏ qua việc phát triển văn hoá, xã hội nâng cao đời sống tinh thần của nhân dân. Đúng như lời dạy của chủ tịch Hồ Chí Minh: Kinh tế văn hoá là hai cái chân của một cơ thể. Nếu chỉ chú ý phát triển một mặt cơ thể con người sẽ đi khập khiễng, con người đó không có một cơ thể khoẻ mạnh và phát triển toàn diện.” Đây chính là đoạn kết trong tác phẩm “ Một cách hoà giải” do phóng viên Hà Sơn và Trường Chinh Đài TT-TH Mộc Châu viết phát sóng ngày 5/7/2007. Qua bài viết rắt ngắn nhưng ta có thể thấy vai trò quan trọng của việc bảo tồn và phát huy nền văn hoá trong giai đoạn hiện nay. Tôi cũng lấy bài viết này để chứng minh tầm quan trọng của Đài TT-TH Mộc Châu trong lĩnh vực tuyên truyền và để khẳng định Đài TT-TH Mộc Châu đã rất tích cực trong công tác tuyên truyền. Bên cạnh những nét văn hoá phi vật thể đặc sắc, Cao nguyên Mộc Châu còn nổi tiếng với tiềm năng du lịch đang được khai thác. Mộc Châu có những dòng thác hùng vĩ tuyệt đẹp, những hang động nổi tiếng và khu du lịch rừng thông với hồ nước trong xanh nằm giữa rừng, tạo cho du khách cảm giác thoải mái, sảng khoái mỗi khi tới đây. Trong phóng sự ngắn: “Thức dậy đi em” của phóng viên Mùa Sơn phát ngày 13/5/2008 có đoạn viết: “Có thể nói tiềm năng du lịch của Mộc Châu không chỉ nằm ở những gì thiên nhiên ban tặng, đằng sau những tuyệt tác của khí hậu, của phong cảnh thiên nhiên, của di tích lịch sử còn có cả trong những nét văn hoá truyền thống đậm nét của cư dân nơi này. Một lễ hội Hoa Ban của dân tộc Thái, một Tết Độc Lập của người Mông đã từng làm du khách ngây ngất với tiếng khèn, tiếng khắp ngọt ngào bất tận. Tất cả đã tạo nên một Mộc Châu kỳ diệu, quyến rũ mà không nơi nào có được”. Với những tiềm năng du lịch đang dần được khai thác, huyện Mộc Châu hứa hẹn sẽ là nơi đầu tư an toàn của các nhà đầu tư trong nước và ngoài nước. Bên cạnh đó, nó còn tạo cho Mộc Châu một vẻ đẹp hài hoà, một ngày có 4 mùa xuân, hạ, thu, đông với nhiệt độ trung bình 180C và độ ẩm 80%. Du khách tới đây không chỉ được hưởng khí hậu trong lành, các món ăn độc đáo của các dân tộc thiểu số sinh sống trên địa bàn, được uống rượu dân tộc, được tham gia vào các trò chơi dân gian, cầm tay các cô gái Thái nhảy sạp, được học thổi kèn lá, đàn môi, được thám hiểm các hang động như động Sơn Mộc Hương, núi Bâng Khuâng,…được tắm mình trong dòng thác đầy quyến rũ như thác Dải Yếm, thác nàng tiên…Không chỉ thể, khi du khách muốn đắm mình trong sự yên tĩnh có thể đến với rừng thông, một khu du lịch sinh thái mới được đầu tư tại Mộc Châu. Đến với rừng thông, du khách có thể tản bộ ven hồ hay đi nhặt những quả thông rụng trên đồi và tự tạo cho mình những vật kỉ niệm ngộ nghĩnh từ quả thông và những lá thông khô. Mộc Châu đang ngày một khởi sắc, một thị xã mới sẽ mọc lên chính nơi đây, với một vẻ đẹp hoang sơ nhưng lại hội tụ đầy đủ những nét đẹp của vùng Tây Bắc. Đặc biệt là mỗi độ hoa ban nở trắng rừng, những đôi trai gái người Mông dập dìu trong đêm hội, những trò chơi dân gian như ném còn, ném pao, đua ngựa, múa xoè, nhảy sạp,…thì Mộc Châu chính là điểm đến lí tưởng của du khách thập phương. Qua phần khảo sát thực tế tại Đài TT-TH Mộc Châu ta có thể thấy được những nét đẹp, đặc sắc của các dân tộc sinh sống trên địa bàn huyện cần được lưu giữ và phát triển. Chương III: Thực trạng và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của Đài TT - TH cơ sở với vấn đề gìn giữ và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc I. Thực trạng Đài TT-TH Mộc Châu tuy chỉ là Đài cấp cơ sở nhưng luôn thực hiện và hoàn thành các nhiệm vụ mà huyện giao phó, bên cạnh đó Đài luôn tạo được lòng tin của quần chúng nhân dân, truyền tải tới quần chúng nhân dân những chủ trương chính sách mới của Đảng, pháp luật của Nhà nước trên mọi lĩnh vực; Tuyên truyền những nét văn hoá đặc sắc của các dân tộc thiểu số trong huyện. Tuy nhiên, bên cạnh nhưng mặt đã làm được thì các tin bài được Đài TT-TH Mộc Châu truyền tải tới bạn nghe đài và xem ti vi vẫn có phần hạn chế đó là không thường xuyên đưa những tin bài về văn hoá của các dân tộc trong huyện mà chỉ đưa vào những dịp lễ hội, điều này ảnh hưởng khá sâu sắc tới việc giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc. Hơn nữa, một mặt huyện Mộc Châu là một huyện có địa hình đồi núi hiểm trở, việc phủ sóng truyền thanh – truyền hình còn hạn chế, mặt khác huyện Mộc Châu có 12 dân tộc anh em sinh sống, mỗi dân tộc lại có một nét văn hoá riêng. Tuy nhiên sự tập trung lại không đồng đều, chủ yếu là dân tộc Thái, dân tộc Mông và dân tộc Kinh. Còn các dân tộc khác như: dân tộc Hoa, dân tộc Lào, dân tộc Kháng, dân tộc La Ha, dân tộc Khơ Mú, dân tộc Tày, dân tộc Xinh Mun, dân tộc Mường, dân tộc Dao là rất ít, chỉ là một bộ phận nhỏ di cư đến, cho nên nét văn hoá của các dân tộc này có phần hạn chế hơn và không được phổ biến. Chính vì thế, việc tuyên truyền những nét văn hoá cổ truyền của các dân tộc này là không thường xuyên, thậm chí chỉ là đọc lại những chủ trương, chính sách của Bộ văn hoá, phòng văn hoá huyện về việc giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc. Như chúng ta đã biết, những nét văn hoá của các dân tộc không chỉ giúp cho chúng ta hiểu được bản sắc lâu đời của dân tộc ta mà còn giúp nét văn hoá cổ truyền lan rộng trong giới trẻ không chỉ trong nước mà còn trên Thế giới. Tuy nhiên, việc tuyên truyền cho giới trẻ hiểu và phát huy những nét văn hoá này còn rất hạn chế. Về hình thức thể hiện cũng chưa thực sự phong phú đó chỉ là những tin bài đựơc sử dụng dựa trên những thông tư chỉ thị của Phòng Văn hoá huyện hay của Bộ trưởng Bộ Văn hoá… chưa thực sự đáp ứng được nhu cầu của nhân dân, đặc biệt là của nhân dân các dân tộc thiểu số bởi hơn hết họ là những người phát huy truyền thống văn hoá của dân tộc mình. Bên cạnh đó, Đài cũng chưa xây dựng được một chuyên mục rõ ràng và thường niên về văn hoá; chưa cập nhật tin tức một cách nhanh nhạy, kịp thời nên việc truyền tải những thông tin mới về văn hoá còn nhiều hạn chế. Ngoài ra, Đài TT-TH Mộc Châu là đài cấp cơ sở lên còn gặp rất nhiều khó khăn, cơ sở vật chất thiếu thốn, trang thiết bị kỹ thuật còn thấp, đội ngũ cán bộ phóng viên còn ít. Dẫn dến gặp khó khăn trong quá trình làm việc. II. Phương hướng, giải pháp Nâng cao hiểu biết và giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc là một việc làm hết sức cấp thiết và đặc biệt quan trọng, trong vài năm trở lại đây, phòng Văn hoá huyện Mộc Châu luôn chú trọng công tác này nhằm góp phần phát triển nét văn hoá đặc sắc của huyện. Song song với ngành Văn hoá, Đài Truyền thanh - Truyền hình Mộc Châu cũng tập trung tuyên truyền cũng như đổi mới phương pháp tuyên truyền, tăng số lượng tin bài về lĩnh vực văn hoá để truyền tải tới nhân dân. Việc nâng cao hiệu quả tuyên truyền trong việc bảo tồn, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc là một việc làm khó, đòi hỏi sự đoàn kết, nỗ lực, cố gắng của mỗi cá nhân trong tập thể toàn ngành. Nước ta đã trở thành thành viên chính thức của tổ chức thương mại thế giới WTO mở ra nhiều cơ hội và thách thức mới trên mọi lĩnh vực. Đây vừa là điều kiện thúc đẩy nền văn hoá đa sắc màu của dân tộc ta phát triển, vừa là bước đi khó khăn cần có sự kiên trì và dũng cảm đấu tranh vượt qua hoàn cảnh chung của đất nước, để nền văn hoá của nước ta lan rộng toàn Thế giới. Để nâng cao hiệu quả đối với việc giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc, ngành Văn hoá phải phối hợp chặt trẽ với Đài Truyền thanh - Truyền hình các cấp để đẩy mạnh hơn nữa công tác tuyên truyền và giáo dục trên phương tiện thông tin đại chúng để nhân dân các dân tộc hiểu biết hơn về những giá trị của nét văn hoá đặc biệt này. Giáo dục trên sóng truyền thanh - truyền hình phải ngắn gọn, dễ hiểu, không sáo rỗng, giúp người dân đặc biệt là người dân các dân tộc thiểu số tiếp thu một cách nhanh nhạy nhưng phải chính xác, khách quan bởi trình độ nhận thức của người dân các dân tộc thiểu số còn rất hạn chế. Có như vậy truyền thanh - truyền hình cơ sở mới góp phần đắc lực trong việc tuyên truyền giúp vào việc giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc tạo nên một thế đứng vững chắc của nền văn hoá đa màu sắc của dân tộc ta thời kỳ công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước, giúp nền văn hoá như một tấm thảm lụa vừa mềm mại, vừa rực rỡ, và ngày càng toả sáng trên bầu trời nhân loại. Để tạo được sự hấp dẫn và thu hút sự quan tâm chú ý của nhân dân đối với vấn đề giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc, Đài TT-TH Mộc Châu cần phát huy hết tiềm lực của mình về đội ngũ phóng viên, cộng tác viên,…để thu thập thông tin một cách nhanh nhất, có hiệu quả và ngày một cập nhật hơn để từ đó truyền tải tới nhân dân đặc biệt là đối với nhân dân các dân tộc thiểu số những thông tin mới về những quy định mới để nhân dân các dân tộc trong huyện đặc biệt là các già làng, trưởng bản hiểu qua đây tuyên truyền tới bà con để ngày một phát huy nét văn hoá của dân tộc mình cho con cháu đời sau. Khi đã có được một số lượng thông tin cần thiết thì cần có sự sàng lọc để nội dung được cập nhật liên tục nhưng vẫn luôn là những thông tin mới, cần phát hiện và đưa những tin bài đáp ứng được nhu cầu của nhân dân đặc biệt là đồng bào các dân tộc thiểu số đúng lúc, đúng thời điểm. Ví dụ: Vào những dịp tổ chức Tuần lễ văn hoá các dân tộc Tây Bắc, phiên chợ tình của dân tộc Mông, mùa Lễ hội Hoa Ban của dân tộc Thái thì Đài TT-TH Mộc Châu cần có thêm những tin bài để nhân dân biết để cùng tham gia, cũng như giao lưu giữa các bản, làng, làm phong phú thêm nét văn hoá của huyện…có như vậy mới giúp các dân tộc thắt chặt thêm tình đoàn kết và giúp cho nét văn hoá của các dân tộc được lưu truyền cho thế hệ sau. Ngoài những tin bài tích cực cần làm phong phú thêm những tin bài viết về tiêu cực trong Văn hoá. Những tin bài này không phải là những tin bài kéo nền văn hoá huyện nhà đi xuống mà ngược lại nó chính là tấm gương phản chiếu để nền văn hoá khắc phục và đẩy lùi, nhận ra những sai lầm để sửa đổi từ đó thúc đẩy, giữ gìn và phát huy nền văn hoá của huyện nhà ngày một phát triển. 1. Về mặt nội dung Đối với đồng bào các dân tộc vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn hay địa bàn biên giới việc tuyên truyền gương người tốt, việc tốt có tầm quan trọng đặc biệt vì một mặt sự xuất hiện các nhân tố, điển hình tiên tiến khẳng định tính đúng đắn chủ trương đường lối, chính sách phát luật của nhà nước, mặt khác khơi dậy năng lực, sự sáng tạo của cán bộ, quần chúng nhân dân trong việc thực hiện mục tiêu nhiệm vụ chung. Bên cạnh việc phát hiện cổ vũ động viên những “cái mới” tích cực, tiến bộ nội dung tuyên truyền trên sóng Phát thanh - Truyền hình của Đài cần có những thông tin “trái chiều”, đó là phê phán cái “xấu” đi ngược với quan điểm của Đảng, lợi ích của nhân dân. Khắc phục tình trạng “né tránh” những vấn đề liên quan đến sai lầm trong chỉ đạo, lãnh đạo đến đạo đức lối sống của cán bộ lãnh đạo có chức, có quyền lợi dụng tham ô, tham nhũng, sách nhiễu nhân dân, tha hoá biến chất về đạo đức, lối sống….Đài cần dũng cảm thẳng thắn phê phán trên quan điểm khách quan, trung thực với tinh thần xây dựng. Thực hiện được điều này công tác tuyên truyền của Đài sẽ tác động mạnh mẽ vào tâm tư, tình cảm của nhân dân. tạo sự tin tưởng của nhân dân với Đảng, Nhà nước. Đặc biệt chú ý tới việc tuyên truyền nét văn hoá đa màu sắc tại địa phương nhằm góp phần thúc đẩy nét văn hoá của huyện ngày một phát triển. Để làm được điều đó cần đảm bảo những yêu cầu sau: Phải nêu bật được quan điểm đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước về việc giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc, nhất là những chính sách mới, để giải thích rõ cho đồng bào các dân tộc thiểu số hiểu được từ đưa vào cuộc sống, giúp xây dựng nền văn hoá trở nên hoàn thiện hơn, sâu sắc hơn: Cần xoá bỏ tục lệ tảo hôn; cần cho các em được đến trường để biết cái chữ và hơn hết là thoát khỏi đói nghèo, lạc hậu; cần xoá bỏ những tục lệ không phù hợp như: Tục Chài, tục để người đã mất trong nhà quá lâu, tục bắt vợ,… - Phổ biến những chính sách mới trong việc giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc là giúp người dân đặc biệt là thanh thiếu niên tiếp cận với hình thức mới, tránh những hủ tục lạc hậu đã từng tồn tại của mỗi dân tộc,…đồng thời giúp cho lớp trẻ hiểu được rõ hơn truyền thống văn hoá của dân tộc mình, phát huy những mặt tốt và sớm loại bỏ những hủ tục lạc hậu, không còn phù hợp còn sót lại.Phổ biến nhiều hơn những tấm gương học tập tốt, điển hình, bên cạnh đó cũng cần phải phê phán những mặt không tốt… Vì trong giai đoạn hiện nay nhiều hủ tục lạc hậu vẫn còn tồn tại ít nhiều như tục “bắt vợ”, tục lệ tảo hôn mà đối tượng ở đây là các em nhỏ mới 12 – 13 tuổi... Chính vì thế, Đài TT-TH Mộc Châu cần kịp thời phổ biến và tuyên truyền những tấm gương sáng có ý thức trong việc loại bỏ những hủ tục lạc hậu, giúp cho đời sống văn hoá tinh thần của nhân dân các dân tộc thiểu số ngày một nâng cao, nét văn hoá của các dân tộc sẽ được lưu truyền. Đặc biệt từ những tấm gương điển hình sẽ được nhân rộng trong cộng đồng dân cư giúp việc xây dựng đời sống văn hoá mới cũng như nền văn hoá của dân tộc phát triển theo hướng tích cực, hiện đại. 2. Về hình thức - Tạo những chuyên mục mới nhằm giúp ích hơn nữa trong việc giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc như: Giới thiệu các điệu múa, các bài hát đặc sắc của từng dân tộc; Hướng dẫn làm nghề thủ công truyền thống như thêu và làm những chiếc váy; dệt thổ cẩm…. Những chuyên mục này sẽ giúp cho các dân tộc đặc biệt là giới trẻ tìm hiểu và học hỏi được nhiều kiến thức mới, điều đó không chỉ góp phần gìn giữ những nét đẹp truyền thống văn hoá mà còn là cơ sở xây dựng những nét văn hoá mới lành mạnh giúp nền văn hoá ngày một phát triển. - Mở các chương trình truyền thanh truyền hình tiếng Thái, tiếng Mông, để đồng bào dân tộc dễ tiếp thu, nhận thức các vấn đề tuyên truyền vì đại đa số đồng bào dân tộc dân tộc ở vùng sâu, vùng xa của huyện không biết tiếng phổ thông. - Bên cạnh đó nên thêm chuyên mục: “Điểm hẹn văn hoá”. Chuyên mục này có thể phát theo tháng, theo quý để giúp cho người dân hiểu biết thêm những nét văn hoá cũ đã có từ lâu đời và những nét văn hoá cũ nhưng mới được tìm lại, hay có thể chỉ là tổng hợp và khuyến khích những việc làm, những nét văn hoá mới cần được giữ gìn và phát huy rộng rãi C: Kết luận Vai trò của Đài phát thanh - truyền hình nói chung và Đài cấp huyện nói riêng hiện nay là hết sức quan trọng không thể thay thế được. Thông qua các chương trình của đài đã cung cấp cho công chúng những thông tin về tất cả các lĩnh vực trong cuộc sống, nó không chỉ phản ánh các sự kiện xẩy ra trong huyện mà còn thông qua các chương trình chuyển tiếp của các đài Trung ương và địa phương, đài dẫ góp phần đưa thông tin tới các vùng sâu, xa trong huyện. Từ việc thâm nhập thực tế cho thấy giữa lý luận báo chí và thực tiễn báo chí có sự tồn tại độc lập nhưng lại có quan hệ hữu cơ với nhau. Trên thực tế báo chí hiện nay, các cơ quan báo chí không lấy lý luận báo chí để áp đặt mà tuỳ thuộc vào hoàn cảnh, tình hình cụ thể ở từng địa phương mà có cách thức thể hiện tác phẩm khác nhau. Qua thời gian thực tập và nghiên cứu tại Đài TT -TH Mộc Châu tôi thấy rằng “Báo chí với việc giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc” đã giúp ích rất nhiều cho nhân dân, nhất là đồng bào các dân tộc thiểu số vùng sâu, vùng xa hẻo lánh, góp phần vào việc định hướng cho các nhân dân các dân tộc hiểu sâu sắc và thực hiện hiệu quả những chính sách mới của Đảng, Nhà nước. Để giúp thông tin được cập nhật nhanh chóng, kịp thời, chính xác thì yêu cầu phóng viên phải luôn luôn bám sát cơ sở, am hiểu đời sống đồng bào các dân tộc địa phương, hiểu được nhu cầu của họ, để từ đó phát hiện ra những vấn đề mới và có những tin bài, phóng sự hay và hấp dẫn Phát thanh- truyền hình là loại hình báo chí yêu cầu rất nhiều về cơ sở vật chất, phương tiện kỹ thuật, để nâng cao chất lượng cho tác phẩm nói chung và đặc biệt là cho các tác phẩm về vấn đề “ Giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc” nói riêng thì không những yêu cầu về khả năng của phóng viên mà còn cần sự trợ giúp đắc lực của kỹ thuật. Để báo chí phát triển thì một yêu cầu quan trọng hàng đầu là việc nâng cao chất lượng cho tác phẩm, đó không chỉ là yêu cầu thực tiễn của hôm nay mà còn là yêu cầu đối với báo chí trong tương lai nhằm theo kịp sự phát triển chung của thời đại.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docVai trò của báo chí đối với việc xây dựng và giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc.doc
Luận văn liên quan