Vai trò của nguyên thủ quốc gia trong nhà nước tư sản và nhà nước xã hội chủ nghĩa

MỤC LỤC Lời giới thiệu 2 Mục lục . 3 Mở đầu 4 I. Khái quát về nguyên thủ quốc gia trong nhà nước tư sản và nhà nước xã hội chủ nghĩa 5 I.1 Nhà nước tư sản . 5 I.1.1 Tổ chức bộ máy nhà nước tư sản 5 I.1.2 Hình thức chính thể nhà nước tư sản . 6 I.2.Nhà nước xã hội chủ nghĩa . 8 I.2.1 Bộ máy nhà nước xã hội chủ nghĩa 8 I.1.2 Hình thức chính thể nhà nước xã hội chủ nghĩa . 9 II. Thẩm quyền của nguyên thủ quốc gia 9 II.1 Thẩm quyền của nguyên thủ quốc gia trong nhà nước tư sản 9 II.1.1 Thẩm quyền của nguyên thủ trong lĩnh vực lập pháp 10 II.1.2 Thẩm quyền của nguyên thủ trong lĩnh vực hành pháp 11 II.1.3 Thẩm quyền của nguyên thủ trong lĩnh vực tư pháp và các lĩnh vực khác 12 II.2 Thẩm quyền của nguyên thủ quốc gia trong nhà nước xã hội chủ nghĩa . 13 II.2.1 Nhóm các nhiệm vụ, quyền hạn liên quan đến chức năng đại diện, thay mặt nhà nước về đối nội, đối ngoại . 13 II.2.2 Nhóm các nhiệm vụ và quyền hạn liên quan đến việc phối hợp các thiết chế quyền lực nhà nước trong các lĩnh vực lập pháp, hành pháp, tư pháp . 15 III. Vai trò của nguyên thủ quốc gia . 18 III.1 Vai trò của nguyên thủ quốc gia trong nhà nước tư sản . 18 III.1.1 Vai trò tích cực mà nguyên thủ thực hiện được . 18 III.1.2 Những tiêu cực trong vai trò của nguyên thủ quốc gia . 20 III.2 Vai trò của chủ tịch nước trong nhà nước xã hội chủ nghĩa . 23 Tài liệu tham khảo 25 MỞ ĐẦU Trong hệ thống bộ máy nhà nước của các nước hiện đại hầu như đều có một thiết chế đặc biệt với những tên gọi khác nhau như: vua, hoàng đế, tổng thống, đoàn chủ tịch, hội đồng nhà nước, chủ tịch nước. Những cơ cấu này có vị trí khác nhau trong bộ máy nhà nước của từng nước, cùng được gọi chung là nguyên thủ quốc gia – người đứng đầu nhà nước, đại diện cho nhà nước về đối nội, đối ngoại. Nguyên thủ quốc gia là một chế định thuần tuý của bộ máy Nhà nước tư sản. Khi cách mạng tư sản diễn ra và dành thắng lợi, giai cấp tư sản chiến thắng giai cấp phong kiến và lập ra bộ máy cai trị mới. Trong bộ máy đó có sự xuất hiện của một thể chế mới, đó là thể chế nguyên thủ quốc gia. Như vậy, về cơ bản thiết chế nguyên thủ quốc gia của các nước trên thế giới hiện nay đều được xây dựng dựa trên thiết chế của nhà nước tư sản. Nhìn chung sự hiện diện của nguyên thủ quốc gia ở các nước tư bản với nhiều vẻ khác nhau song cũng đóng một vai trò nhất định trong việc tổ chức quyền lực nhà nước. Đặc biệt là vai trò biểu tượng cho dân tộc, liên kết phối hợp các nhánh quyền lực thể hiện quan điểm thỏa hiệp giai cấp tại các nước tư bản. Đến nhà nước xã hội chủ nghĩa, bộ máy nhà nước được tổ chức theo chế độ tập quyền, thì về nguyên tắc thiết chế nguyên thủ quốc gia riêng là không cần thiết, nếu không muốn nói là không dung hợp. Tại một số nước xã hội chủ nghĩa khác do truyền thống lịch sử của mình, còn lưu giữ thiết chế chủ tịch nước, thì chủ tịch nước tuy được coi là nguyên thủ quốc gia đứng đầu nhà nước, song phát sinh từ cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất và cùng cơ quan này thực hiện các chức năng nguyên thủ. Sự hiện diện các biểu hiện “nguyên thủ quốc gia” trong cơ chế nhà nước xã hội chủ nghĩa phần nhiều là do thông lệ quốc tế - để thuận lợi trong việc thực hiện một số hoạt động nhà nước có tính chất long trọng, hình thức và chừng mực nhất định, để phối hợp hoạt động của các cơ quan trong cơ chế nhà nước. Vị trí thứ hai này của nguyên thủ quốc gia xã hội chủ nghĩa khá khác nhau, tùy thuộc vào từng nước.

doc25 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 8404 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Vai trò của nguyên thủ quốc gia trong nhà nước tư sản và nhà nước xã hội chủ nghĩa, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỞ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH KHOA KINH TẾ VÀ LUẬT cöö&ööd ĐỀ TÀI: VAI TRÒ CỦA NGUYÊN THỦ QUỐC GIA TRONG NHÀ NƯỚC TƯ SẢN V À NHÀ NƯỚC XÃ HỘI CHỦ NGHĨA gñh GVHD Th.S TRẦN ĐỨC TUẤN SVTH MAI THỊ KIỀU NHI MSSV 0954062121 LỚP LK09A2 Tp.HCM ngày 14 tháng 11 năm 2010 C ác môn khoa học pháp lý nói chung đều nghiên cứu các vấn đề thuộc lĩnh vực của Nhà nước và pháp luật nhưng mỗi môn khoa học lại có đối tượng nghiên cứu các vấn đề về nhà nước và pháp luật một cách toàn diện và hoàn chỉnh. Luật Hiến pháp Việt Nam là một bộ môn khoa học quan trọng thuộc lĩnh vực khoa học pháp lý – lý luận lịch sử có vị trí quan trọng trong hệ thống khoa học pháp lý nói chung. Vì rằng đối tượng nghiên cứu của nó không phải là một khía cạnh, một góc độ nào đó mà là tổng thể về nhà nước và pháp luật. Trong tất cả các nội dung quan trọng của Luật Hiến pháp nói chung thì chế định về nguyên thủ quốc gia là một chế định quan trọng trong thể chế chính trị. Nhưng ở mỗi nước nguyên thủ quốc gia có tên gọi, vị trí, chức năng và vai trò khác nhau tuỳ thuộc vào thể chế chính trị và cách thức tổ chức nhà nước, hay nói cách khác là phụ thuộc vào hình thức chính thể của những nhà nước đó. Bài tiểu luận này sẽ phần nào giúp các bạn hiểu rõ hơn nữa vai trò và quyền hạn của nguyên thủ quốc gia ở mỗi nước. Mặc dù đã cố gắng hết sức trong việc tìm kiếm tư liệu và trình bày bài, nhưng vẫn còn nhiều thiếu sót và hạn chế, rất mong thầy và các bạn đóng góp ý kiến để những bài tiểu luận sau được hoàn chỉnh hơn. Hy vọng bài tiểu luận này sẽ là tài liệu học tập, tham khảo hữu ích cho những bạn nghiên cứu về thể chế chính trị và nguyên thủ quốc gia. Xin chân thành cảm ơn./. Tháng 11 năm 2010 MỤC LỤC Lời giới thiệu 2 Mục lục 3 Mở đầu 4 I. Khái quát về nguyên thủ quốc gia trong nhà nước tư sản và nhà nước xã hội chủ nghĩa 5 I.1 Nhà nước tư sản 5 I.1.1 Tổ chức bộ máy nhà nước tư sản 5 I.1.2 Hình thức chính thể nhà nước tư sản 6 I.2.Nhà nước xã hội chủ nghĩa 8 I.2.1 Bộ máy nhà nước xã hội chủ nghĩa 8 I.1.2 Hình thức chính thể nhà nước xã hội chủ nghĩa 9 II. Thẩm quyền của nguyên thủ quốc gia 9 II.1 Thẩm quyền của nguyên thủ quốc gia trong nhà nước tư sản 9 II.1.1 Thẩm quyền của nguyên thủ trong lĩnh vực lập pháp 10 II.1.2 Thẩm quyền của nguyên thủ trong lĩnh vực hành pháp 11 II.1.3 Thẩm quyền của nguyên thủ trong lĩnh vực tư pháp và các lĩnh vực khác 12 II.2 Thẩm quyền của nguyên thủ quốc gia trong nhà nước xã hội chủ nghĩa 13 II.2.1 Nhóm các nhiệm vụ, quyền hạn liên quan đến chức năng đại diện, thay mặt nhà nước về đối nội, đối ngoại 13 II.2.2 Nhóm các nhiệm vụ và quyền hạn liên quan đến việc phối hợp các thiết chế quyền lực nhà nước trong các lĩnh vực lập pháp, hành pháp, tư pháp 15 III. Vai trò của nguyên thủ quốc gia 18 III.1 Vai trò của nguyên thủ quốc gia trong nhà nước tư sản 18 III.1.1 Vai trò tích cực mà nguyên thủ thực hiện được 18 III.1.2 Những tiêu cực trong vai trò của nguyên thủ quốc gia 20 III.2 Vai trò của chủ tịch nước trong nhà nước xã hội chủ nghĩa 23 Tài liệu tham khảo 25 MỞ ĐẦU Trong hệ thống bộ máy nhà nước của các nước hiện đại hầu như đều có một thiết chế đặc biệt với những tên gọi khác nhau như: vua, hoàng đế, tổng thống, đoàn chủ tịch, hội đồng nhà nước, chủ tịch nước. Những cơ cấu này có vị trí khác nhau trong bộ máy nhà nước của từng nước, cùng được gọi chung là nguyên thủ quốc gia – người đứng đầu nhà nước, đại diện cho nhà nước về đối nội, đối ngoại. Nguyên thủ quốc gia là một chế định thuần tuý của bộ máy Nhà nước tư sản. Khi cách mạng tư sản diễn ra và dành thắng lợi, giai cấp tư sản chiến thắng giai cấp phong kiến và lập ra bộ máy cai trị mới. Trong bộ máy đó có sự xuất hiện của một thể chế mới, đó là thể chế nguyên thủ quốc gia. Như vậy, về cơ bản thiết chế nguyên thủ quốc gia của các nước trên thế giới hiện nay đều được xây dựng dựa trên thiết chế của nhà nước tư sản. Nhìn chung sự hiện diện của nguyên thủ quốc gia ở các nước tư bản với nhiều vẻ khác nhau song cũng đóng một vai trò nhất định trong việc tổ chức quyền lực nhà nước. Đặc biệt là vai trò biểu tượng cho dân tộc, liên kết phối hợp các nhánh quyền lực thể hiện quan điểm thỏa hiệp giai cấp tại các nước tư bản. Đến nhà nước xã hội chủ nghĩa, bộ máy nhà nước được tổ chức theo chế độ tập quyền, thì về nguyên tắc thiết chế nguyên thủ quốc gia riêng là không cần thiết, nếu không muốn nói là không dung hợp. Tại một số nước xã hội chủ nghĩa khác do truyền thống lịch sử của mình, còn lưu giữ thiết chế chủ tịch nước, thì chủ tịch nước tuy được coi là nguyên thủ quốc gia đứng đầu nhà nước, song phát sinh từ cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất và cùng cơ quan này thực hiện các chức năng nguyên thủ. Sự hiện diện các biểu hiện “nguyên thủ quốc gia” trong cơ chế nhà nước xã hội chủ nghĩa phần nhiều là do thông lệ quốc tế - để thuận lợi trong việc thực hiện một số hoạt động nhà nước có tính chất long trọng, hình thức và chừng mực nhất định, để phối hợp hoạt động của các cơ quan trong cơ chế nhà nước. Vị trí thứ hai này của nguyên thủ quốc gia xã hội chủ nghĩa khá khác nhau, tùy thuộc vào từng nước. KHÁI QUÁT VỀ NGUYÊN THỦ QUỐC GIA TRONG NHÀ NƯỚC TƯ SẢN – NHÀ NƯỚC XÃ HỘI CHỦ NGHĨA. I.1 NHÀ NƯỚC TƯ SẢN I.1.1 Tổ chức bộ máy nhà nước Tư Sản Bộ máy Nhà nước Tư sản được tổ chức theo nguyên tắc “tam quyền phân lập”. Học thuyết này do S.Montesquieu (1689 – 1715) nhà Tư tưởng vĩ đại người Pháp đã phát triển các quan điểm của J.Locke và nâng nó lên thành một học thuyết. Tư tưởng tự do chính trị của S. Montesquieu gắn chặt với quyền tự do công dân. Theo ông, tự do chỉ có thể có được khi pháp luật được tuân thủ nghiêm ngặt. Để đạt được điều này phải áp dụng chế độ phân quyền. Nếu toàn bộ quyền lực nằm trong tay một cá nhân, hoặc một cơ quan nhất định thì sẽ nảy sinh sự độc đoán chuyên quyền và có sự lạm dụng quyền lực. Theo S.Montesquieu: “quyền lực nhà nước chia thành 3 bộ phận: quyền lập pháp, quyền hành pháp, quyền tư pháp”. Ba quyền này đối trọng nhau, không có một cơ quan nào đứng trên 3 cơ quan đó. Học thuyết “tam quyền phân lập” đã trở thành nền tảng cho nguyên tắc tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước tư sản. Tuy nhiên, việc áp dụng học thuyết này ở mỗi nước tư sản cũng khác nhau. Ở Pháp không được áp dụng triệt để, còn ở Mỹ thì người ta lại tuân thủ học thuyết này một cách chặt chẽ. Hiến pháp Mỹ năm 1787 là hiện thân của học thuyết “tam quyền phân lập”. Quyền lập pháp thuộc về Nghị viện; Quyền hành pháp thuộc về Chính phủ; Quyền tư pháp thuộc về Toà án. Xét về bản chất, nguyên thủ quốc gia là một chế định thuần tuý của bộ máy nhà nước tư sản. Với thắng lợi của cách mạng tư sản, xác lập chế độ đại nghị thì về nguyên tắc, nghị viện là cơ quan nắm quyền lực nhà nước cũng đồng thời là người “thay mặt nhà nước”, “đứng đầu nhà nước”, tức “nguyên thủ quốc gia”, thế chân cho nhà chuyên chế trước đây trong nhà nước phong kiến. Tuy nhiên, giai cấp tư sản do nhiều nguyên nhân, trong đó có việc muốn sử dụng vị thế của vua phục vụ cho mục đích chính trị của mình, đã không hoàn toàn xoá bỏ ngai vàng phong kiến mà vẫn để vua tồn tại để “trị vì nhưng không cai trị”. Những nước tư bản được coi là tiến bộ có hình thức nhà nước cộng hoà thì lại tạo lập ra một cơ cấu mới là tổng thống, có vị trí tương tự như vua – vua hiến định. Vua, tổng thống được coi là nguyên thủ quốc gia song không còn chuyên chế (nguyên thủ) theo đúng nghĩa của từ này. Lúc này chức năng của nguyên thủ quốc gia do ba cơ quan: Nghị viện, chính phủ và nguyên thủ quốc gia cùng thực hiện. Nguyên thủ quốc gia (vua, tổng thống) nói chung có vai trò thực tế không lớn trong cơ chế nhà nước tư sản. Một số quốc gia thiết lập chế độ đại nghị “bảo thủ” (ở các nước gọi là cộng hoà tổng thống) thì tổng thống được quy định có nhiều quyền hành hơn – vừa đứng đầu nhà nước, vừa đứng đầu quyền hành pháp – Song vẫn tuân thủ theo nguyên tắc trên, tức là cùng với nghị viện thực hiện chức năng nguyên thủ quốc gia. Vị trí của các nguyên thủ quốc gia kiểu này giống như vua trong chế độ quân chủ nhị nguyên tồn tại ở giai đoạn đầu của chế độ nhà nước tư sản. Nhìn chung sự hiện diện của nguyên thủ quốc gia ở các nước tư bản với nhiều vẻ khác nhau song cũng đóng một vai trò nhất định trong việc tổ chức quyền lực nhà nước. Đặc biệt là vai trò biểu tượng cho dân tộc, liên kết phối hợp các nhánh quyền lực thể hiện quan điểm thoả hiệp giai cấp ở các nước tư bản. I.1.2 Hình thức chính thể nhà nước tư sản Nhà nước tư sản là một thể chế hết sức phức tạp không những vì tính đa dạng về hình thức mà còn vì cấu tạo bên trong của nó. Nhà nước tư sản đa dạng về hình thức bởi trình độ phát triển kinh tế, tương quan lực lượng giữa các giai cấp và mức độ mâu thuẫn giữa chúng khác nhau ở mỗi nước. Hình thức chính thể của nhà nước tư sản là cách thức và trình tự thành lập các cơ quan quyền lực tối cao và xác lập mối quan hệ giữa chúng. Hình thức chính thể của nhà nước tư sản bao gồm Chính thể quân chủ lập hiến và chính thể cộng hoà. Đối với chính thể quân chủ lập hiến, quyền lực của nguyên thủ (quốc vương, vua…) được truyền lại cho người kế vị. Hình thức quân chủ lập hiến hiện còn tồn tại ở một số nước tư bản như Anh, Nhật, Hà Lan… Sự tồn tại của chính thể quân chủ lập hiến ở một số nhà nước tư sản có nguyên nhân lịch sử và chính trị của nó. Ở một số nước buổi đầu giai cấp tư sản không thể xoá bỏ ngay được chế độ phong kiến nên đành thoả hiệp và sau đó thì quay ra sử dụng một số thể chế phong kiến để phục vụ lợi ích của mình. Ở chính thể quân chủ lập hiến, chúng ta thấy có sự hạn chế nhất định đối với quyền lực của nguyên thủ. Nó cũng có những đặc trưng của một nền hiến pháp mặc dù chưa thật sự đầy đủ và hoàn chỉnh theo đúng nghĩa của nó. Căn cứ vào tương quan giữa vai trò của vua và nghị viện, chúng ta thấy ở chính thể quân chủ lập hiến có hai biến dạng là: chính thể quân chủ nhị hợp và chính thể quân chủ đại nghị. Ở chính thể quân chủ nhị hợp, quyền lực của nguyên thủ bị hạn chế trong lĩnh vực lập pháp, song lại rất rộng trong lĩnh vực hành pháp. Hình thức chính thể này hầu như không còn thấy ở các nước tư bản phát triển. Nhật Bản (theo Hiến pháp 1889 tồn tại đến năm 1947), Đức (theo Hiến pháp 1871) được tổ chức theo chính thể này. Chính thể quân chủ đại nghị tồn tại khá phố biến hiện nay. Ở chính thể này, chúng ta thấy nguyên thủ quốc gia không có quyền hạn trong lĩnh vực lập pháp và trong lĩnh vực hành pháp cũng bị hạn chế đến mức tối đa. Nghị viện thông qua luật và nguyên thủ không được quyền phủ quyết. Chính thể này hiện đang tồn tại ở Nhật Bản (theo Hiến pháp 1947), Thuỵ Điển (theo Hiến pháp 1974), Anh và Bỉ… Chính thể cộng hoà là hình thức tổ chức chính quyền nhà nước phổ biến nhất hiện nay ở các nước tư sản vì nó khắc phục được những tàn dư của nhà nước phong kiến. Lênin đã chỉ rõ: “Quyền lực vô hạn” của “sự giàu có” trong chế độ cộng hoà dân chủ sở dĩ đã trở thành chắn chắn hơn là vì nó không lệ thuộc vào một số thiếu sót của cơ cấu chính trị, vào cái vỏ chính trị xấu xa của chủ nghĩa tư bản. Chế độ cộng hoà dân chủ là hình thức chính trị tốt nhất có thể có được của chủ nghĩa tư bản cho nên khi nắm được hình thức tốt nhất ấy thì giai cấp tư sản nâng nó để xây dựng quyền lực của mình”. Chính thể cộng hoà biến dạng là cộng hoà tổng thống và cộng hoà đại nghị. Trong chính thể cộng hoà tổng thống, vai trò của nguyên thủ quốc gia rất quan trọng. Tổng thống được nhân dân bầu ra. Tổng thống vừa là nguyên thủ quốc gia, vừa đứng đầu Chính phủ. Chính phủ không do nghị viện thành lập. Các thành viên Chính phủ do tổng thống cử và chịu trách nhiệm trước tổng thống. Quốc hội không được bổ phiếu không tín nhiệm Chính phủ. Hình thức này tồn tại ở Mỹ và một số nước châu Mỹ Latinh. Cộng hoà tổng thống có một số đặc trưng chủ yếu là: tổng thống được bầu không phải bởi nghị viện; sự phân định ranh giới rõ ràng giữa quyền lực của nguyên thủ của nghị viện và của Chính phủ; tổng thống không được giải tán nghị viện trước thời hạn và nghị viện không được giải tán Chính phủ. Cộng hoà đại nghị được đặc trưng bởi việc nghị viện thành lập ra chính phủ; bởi vai trò không lớn của tổng thống do nghị viện bầu ra. Tổng thống chọn thành viên của nội các không phải tuỳ thích mà phải chọn từ số đại biểu của phe đa số trong nghị viện. Hình thức này được áp dụng ở Tây Đức, Áo, Phần Lan, Italia… Hiện nay, ngoài chính thể cộng hoà tổng thống và cộng hoà đại nghị thì còn một hình thức chính thể khác đó là hình thức hỗn hợp giữa cộng hoà tổng thống và cộng hoà đại. Hình thức này đang được sử dụng ở Pháp. I.2 NHÀ NƯỚC XÃ HỘI CHỦ NGHĨA I.2.1 Bộ máy nhà nước xã hội chủ nghĩa Sau đại chiến thế giới lần thứ II, năm 1945 hàng loạt nhà nước theo hình thức xã hội chủ nghĩa ra đời, trong đó có Việt Nam. Bộ máy nhà nước xã hội chủ nghĩa có những đặc điểm: mang tính chất nhân dân sâu sắc, tổ chức và hoạt động trên cơ sở sự uỷ nhiệm của nhân dân; luôn bảo đảm quyền lực nhà nước thống nhất, có sự phân công, phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp (có sự chuyên môn hoá cao nhưng vẫn thiếu sự đồng bộ); các cơ quan quản lý kinh tế phát triển hoàn thiện để thực hiện quản lý mọi mặt đời sống xã hội và các cơ quan cưỡng chế chuyên nghiệp ngày càng tổ chức thu hẹp lại; đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng cộng sản. Các bộ phận cấu thành: Nguyên thủ quốc gia do Quốc hội bầu, đứng đầu và thay mặt nhà nước về đối nội và đối ngoại; Cơ quan quyền lực nhà nước: Quốc hội do nhân dân bầu, hội đồng nhân dân cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, nhân dân địa phương bầu; Cơ quan xét xử: tổ chức theo đơn vị lãnh thổ; Cơ quan kiểm sát có thẩm quyền rộng; Cơ quan quốc phòng an ninh có tổ chức và đặc thù riêng. Nhà nước xã hội chủ nghĩa được tổ chức và hoạt động trên các nguyên tắc: Đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng cộng sản; Nguyên tắc đảm bảo tính thống nhất của quyền lực nhà nước; Bảo đảm sự tham gia của nhân dân vào tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước xã hội chủ nghĩa; Nguyên tắc tập trung dân chủ; Nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa; Nguyên tắc bình đẳng, đoàn kết giữa các dân tộc. I.2.2 Hình thức chính thể nhà nước xã hội chủ nghĩa Nhà nước xã hội chủ nghĩa theo hình thức chính thể cộng hoà: Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, do nhân dân trực tiếp bầu ra một cách dân chủ, chịu sự giám sát của nhân dân. Thành viên của Quốc hội có thể bị bãi nhiệm hoặc miễn nhiệm; không có tình trạng Quốc hội bị giải tán trước thời hạn; Quốc hội thành lập Chính phủ, Chủ tịch nước… Nguyên thủ quốc gia là mắc xích, cơ chế phối hợp hoạt động các cơ quan tối cao trong nhà nước. Chính phủ là cơ quan chấp hành của Quốc hội, thực hiện chức năng hành pháp, chịu trách nhiệm trước Quốc hội; không có tình trạng tập thể Chính phủ bị giải tán. Đảng cộng sản là chính Đảng duy nhất nắm giữ quyền lực nhà nước. THẨM QUYỀN CỦA NGUYÊN THỦ QUỐC GIA. II.1 THẨM QUYỀN CỦA NGUYÊN THỦ QUỐC GIA TRONG NHÀ NƯỚC TƯ SẢN. Thẩm quyền của nguyên thủ quốc gia các nước phụ thuộc nhiều vào cơ chế chính trị và hình thể chính thể. Tại các nước Vaticăng, Mônacô, Síp và các nước cộng hoà hỗn hợp, nguyên thủ có quyền hành rộng lớn và can thiệp đáng kể vào lĩnh vực lập pháp. Ngược lại, tại các nước đại nghị cả cộng hoà và quân chủ, mặc dù Hiến pháp các nước này quy định nguyên thủ nắm quyền hành pháp và cùng với Nghị viện nắm quyền lập pháp nhưng trên thực tế, nguyên thủ chủ yếu đóng vai trò nghi lễ, quyền lực mang tính tượng trưng. Tuy nhiên trên thực tế, quyền lực nguyên thủ của mỗi nước khác nhau, phụ thuộc vào cơ chế chính trị, quy định cụ thể Hiến pháp mỗi quốc gia… Quyền lực của nguyên thủ với vai trò là người đứng đầu nhà nước, trải trên các lĩnh vực lập pháp, hành pháp và tư pháp. II.1.1 Thẩm quyền của nguyên thủ trong lĩnh vực lập pháp: Tại hầu hết các quốc gia quyền này thuộc về nghị viện nhưng nguyên thủ cũng có một phần quyền trong lĩnh vực lập pháp đó là sáng kiến lập pháp và phủ quyết lập pháp. Quyền sáng kiến lập pháp của nguyên thủ chỉ có một số nước châu Âu áp dụng. Tuy nhiên, nguyên thủ vẫn có quyền tác động đến lập pháp thông qua việc gửi các thông điệp đến nghị viện, hay chủ trì công việc soạn thảo dự luật của Chính phủ trình nghị viện…Nguyên thủ nhiều nước còn có quyền công bố các đạo luật và có quyền phủ quyết lập pháp. Tại các nước đại nghị, nguyên thủ thực hiện quyền phủ quyết luật nhằm hạn chế khả năng lạm quyền của nghị viện, và có thể là của cả Chính phủ. Tại các nước có chế độ tổng thống thì tổng thống được trao quyền phủ quyết lập pháp nhằm bảo đảm thế cân bằng quyền lực giữa hành pháp và lập pháp. Có ba cách phủ quyết là phủ quyết tuyệt đối, phủ quyết tương đối và phủ quyết lựa chọn. Phủ quyết tuyệt đối là khi nguyên thủ phủ quyết, dự luật đó không thể trở thành luật (Anh, Bỉ…). Phủ quyết tương đối là dự luật đã bị nguyên thủ phủ quyết vẫn có thể trở thành luật nếu nghị viện thông qua lần thứ hai với một đa số tương tự hay cao hơn là 2/3 hay 3/4 thì dự luật đó trở thành luật. Phủ quyết lựa chọn là nguyên thủ có quyền nguyên thủ phủ quyết một số điều khoản trong dự luật hay phủ quyết một số điều khoản trong dự luật hay phủ quyết toàn văn dự luật. Nguyên thủ nhiều nước đại nghị còn có quyền bổ nhiệm một số thượng nghị sĩ, có quyền triệu tập các khóa họp của nghị viện, khai mạc kỳ họp nghị viện. II.1.2 Thẩm quyền của nguyên thủ trong lĩnh vực hành pháp Quyền hạn của nguyên thủ thể hiện trước hết bằng việc bổ nhiệm các quan chức cấp cao của Chính phủ và điều hành hoạt động của nó. Tại các nước quân chủ chuyên chế, quân chủ nhị nguyên, cộng hoà tổng thống hay cộng hoà hỗn hợp, nguyên thủ tự mình lựa chọn và bổ nhiệm các thành viên Chính phủ hay phối hợp với Nghị viện thực hiện quyền này. Tại Mỹ, Síp, Mônacô nguyên thủ trực tiếp lãnh đạo Chính phủ. Nguyên thủ cũng có quyền cách chức các thành viên Chính phủ theo quy định của mỗi nước. Các nước cộng hoà hỗn hợp, tổng thống cũng có quyền lãnh đạo Chính phủ cho dù tổng thống không nằm trong cơ cấu của Chính phủ. Tại các nước đại nghị, nguyên thủ có quyền lựa chọn người giữ chức Thủ tướng đứng ra thành lập Chính phủ. Nguyên thủ thực hiện quyền này theo sự tư vấn của cơ quan giúp việc, thường gồm đại diện của các nhánh quyền lực hay theo sự tư vấn của thủ lĩnh các Đảng có ghế trong Nghị viện. Nguyên thủ không trực tiếp nắm quyền hành pháp và cũng không chỉ đạo trực tiếp Chính phủ. Quyền hành pháp của nguyên thủ đa số chỉ mang tính tượng trưng vì hầu hết các quyền quyết định mang tính hành pháp, nguyên thủ chỉ thực hiện dựa trên đề xuất của Chính phủ hay phải được Nghị viện phê chuẩn. Với tư cách là người đứng đầu nhà nước, đa số các nguyên thủ đều có quyền thống lĩnh các lực lượng vũ trang (được hiểu thông thường gồm quân đội, an ninh và cảnh sát hay chỉ riêng quân đội) hay tổng tư lệnh các lực lượng vũ trang. Ban bố tình trạng khẩn cấp hay thiết quân luật trong một địa phương hay cả nước, có quyền ban bố tổng động viên cục bộ trong các trường hợp được ấn định trong Hiến pháp. Theo quy định của Hiến pháp nhiều nước, nguyên thủ thực hiện quyền này phải được Nghị viện hay thượng viện phê chuẩn. Trong thời gian thiết quân luật hay tình trạng khẩn cấp, nguyên thủ có thể ban hành sắc lệnh có giá trị như một đạo luật để thực hiện quyền lực. Nguyên thủ một số nước có quyền công bố quyết định chiến tranh và hoà bình, tuy nhiên phải được Nghị viện tán thành trước đó. Có quyền phong hàm cao cấp trong lực lượng vũ trang. Quyết định phong hàm của nguyên thủ tại đa số các nước theo sự đề xuất của Chính phủ. Trong lĩnh vực đối ngoại, nguyên thủ các nước đều có quyền thay mặt cho nhà nước. Tại đa số các nước, quyền hạn của nguyên thủ trong lĩnh vực đối ngoại là rất lớn. Nguyên thủ có thể đàm phán ký kết các hiệp ước quốc tế song phương hay đa phương theo sự đề xuất của Chính phủ, phê chuẩn các hiệp ước quốc tế đã được Chính phủ ký kết. Nguyên thủ còn có quyền bổ nhiệm đại sứ, đại diện ngoại giao (tại nhiều nước phải được thượng viện hay nghị viện phê chuẩn); triệu hồi các đại sứ; tiếp nhận uỷ nhiệm thư của các đại diện ngoại giao nước ngoài; quyết định phong hàm cấp ngoại giao. Vai trò của nguyên thủ chỉ nổi bật khi đất nước hay chế độ chính trị rơi vào khủng hoảng hay tê liệt. Mặc dù nguyên thủ không nắm quyền hành pháp trực tiếp nhưng vẫn giữ cương vị trên để đảm bảo các lực lượng vũ trang thống nhất và đoàn kết, không bị các lực lượng chính trị chi phối, làm việc tuân theo Hiến pháp và pháp luật. II.1.3 Thẩm quyền của nguyên thủ trong lĩnh vực tư pháp và các lĩnh vực khác. Trong lĩnh vực tư pháp, nguyên thủ được Hiến pháp quy định bảo đảm cho tư pháp độc lập vì nguyên thủ là người đứng giữa ba nhánh quyền lực hay đứng trên ba nhánh quyền lực và nguyên thủ là phi chính trị. Nguyên thủ có quyền bổ nhiệm thẩm phán các cấp hay toà án cấp cao, hay tổng công tố, người đứng đầu ngành tư pháp. Hầu hết Hiến pháp các nước quy định nguyên thủ có quyền ân xá hay đặc xá. Vị trí độc lập và phi Chính phủ của nguyên thủ nhiều nước giúp cho nguyên thủ thực hiện quyền ân xá hay đặc xá vô tư và khách quan. Nguyên thủ các nước còn có quyền ban thưởng huân, huy chương, danh hiệu vinh dự nhà nước. Tại các nước đại nghị và một số nước khác, nhà vua hay tổng thống còn đảm nhiệm các chức năng liên quan đến các vấn đề đạo đức, tôn giáo, an sinh xã hội, chăm lo giáo dục, y tế, môi trường, việc làm, thực hiện chính sách đối với người nghèo, với dân tộc thiểu số… đưa ra kiến nghị tới Chính phủ và nghị viện; là người bạo trợ hay bảo đảm hoạt động cho các cơ quan, tổ chức làm việc một cách độc lập hay mang tính chất phi Chính phủ, phi chính trị để làm chức năng xã hội, bảo vệ quyền con người và các chức năng theo quan điểm ở nhiều nước đòi hỏi cần có sự độc lập khi thực hiện nhiệm vụ. Có quyền đề nghị sửa đổi Hiến pháp. Để giúp đỡ nguyên thủ thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của mình, nhiều nước thiết lập một cơ quan giúp việc cho nguyên thủ, ví dụ Hội đồng nhà nước tại Hà Lan, Bồ Đào Nha, Ailen…, Hội đồng cộng hoà tại Hy Lạp, Văn phòng Tổng thống tại Nga… Vai trò của cơ quan giúp việc này tại mỗi nước không giống nhau. Ngoài ra còn có các hội đồng hay uỷ ban làm nhiệm vụ có tính chất chuyên môn, theo quy định của mỗi nước. Tại một vài nước đại nghị hay hỗn hợp cũng có chức vụ phó tổng thống (Thuỵ Sỹ, Bungari,…) Các nước châu Âu không thiết lập chức vụ phó tổng thống khi duy trì chế độ Thủ tướng, trừ một số nước như Bungari. II.2 THẨM QUYỀN CỦA NGUYÊN THỦ TRONG NHÀ NƯỚC XÃ HỘI CHỦ NGHĨA. Thẩm quyền của Chủ tịch nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam được Hiến pháp quy định ở Điều 103 (gồm 12 vấn đề) và ở một số điều khoản khác có liên quan ( như Điều 135, Điều 139). Có thể phân chia các nhiệm vụ, quyền hạn của Chủ tịch nước thành hai nhóm: II.2.1 Nhóm các nhiệm vụ, quyền hạn liên quan đến chức năng đại diện, thay mặt nhà nước về đối nội, đối ngoại. Chủ tịch nước ở nước ta cũng như hết các nguyên thủ quốc gia đều được quy định quyền này. Đó là: Cử, triệu hồi đại sứ đặc mệnh toàn quyền của Việt Nam; tiếp nhận Đại sứ đặc mệnh toàn quyền của nước ngoài. Tiến hành đàm phán, kí kết điều ước quốc tế nhân danh Nhà nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam với người đứng đầu Nhà nước khác. Trình Quốc hội phê chuẩn điều ước quốc tế đã trực tiếp kí. Quyết định phê chuẩn hoặc gia nhập điều ước quốc tế, trừ trường hợp cần trình Quốc hội quyết định. Ở đây tuỳ mức độ quan trọng của điều ước hoặc theo quy định và điều ước mà quyết định Chủ tịch nước hay Quốc hội phê chuẩn. Quyết định cho nhập, thôi, hoặc tước quốc tịch Việt Nam. Thống lĩnh các lực lượng vũ trang nhân dân và giữ chức vụ Chủ tịch Hội đồng quốc phòng an ninh. Căn cứ vào quyết định của Quốc hội hoặc của Uỷ ban thường vụ Quốc hội công bố hoặc quyết định tuyên bố tình trạng chiến tranh, ra lệnh tổng động viên hoặc động viên cục bộ, công bố tình trạng khẩn cấp trong cả nước hoặc từng địa phương; trường hợp Uỷ ban thường vụ Quốc hội không hợp được thì ban bố tình trạng khẩn cấp. Quyết định phong hàm sĩ quan cao cấp trong các lực lượng vũ trang nhân dân, hàm cấp ngoại giao và những hàm cấp Nhà nước khác. Quyết định tặng thưởng huân, huy chương và các danh hiệu vinh dự nhà nước khác. Công quyết định đại xá và ra quyết định đặc xá. Đại xá là việc tha miễn truy tố đối với một số loại tội nhân một dịp long trọng nào đó. Đại xá do Quốc hội quyết định, Chủ tịch nước công bố. Còn đặc xá là việc Chủ tịch nước tha tù hoặc miễn hình phạt tù còn lại đối với những phạm nhân có hoàn cảnh đặc biệt như: ốm đau nặng, già cả, có công lao hoặc có hoàn cảnh gia đình quá khó khăn… Việc đặc xá này thường được thực hiện nhân dịp lễ, tết hay kết hợp với việc tha tù trước thời hạn và giảm án. II.2.2 Nhóm các nhiệm vụ và quyền hạn liên quan đến việc phối hợp các thiết chế quyền lực Nhà nước trong các lĩnh vực lập pháp, hành pháp, tư pháp. Trong lĩnh vực lập pháp, Chủ tịch nước có quyền: Trình dự án luật ra trước Quốc hội, kiến nghị về luật thông qua việc kiến nghị ban hành luật mới sửa đổi, bổ sung luật hiện hành ( Điều 62 Luật tổ chức Quốc hội). Công bố hiến pháp, luật và pháp lệnh. Việc công bố các văn bản này là một quá trình lập pháp. Đối với Hiến pháp, luật do Quốc hội thông qua thì Chủ tịch nước công bố để thực hiện. Thời hạn công bố chậm nhất là 15 ngày kể từ ngày thông qua ( Điều 50 Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật, Điều 91 Luật tổ chức Quốc hội sửa đổi năm 2001). Văn bản có hiệu lực kể từ khi công bố theo quy định tại văn bản. Đối với pháp lệnh do Uỷ ban thường vụ Quốc hội thông qua thì Chủ tịch nước công bố trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày thông qua. Chủ tịch nước có quyền đề nghị Uỷ ban thường vụ Quốc hội xem xét lại pháp lệnh trong thời hạn 10 ngày. Nếu pháp lệnh đó vẫn được Uỷ ban thường vụ Quốc hội biểu quyết tán thành mà Chủ tịch nước vẫn không nhất trí thì trình Quốc hội quyết định tại kỳ hợp gần nhất. Trong trường hợp này thời hạn công bố chậm nhất là 10 ngày kể từ ngày được Uỷ ban thường vụ Quốc hội xem xét lại thông qua hoặc từ khi Quốc hội quyết định (Điều 49 và Điều 51 Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật). Việc quy định cho Chủ tịch nước đề nghị Uỷ ban thường vụ Quốc hội xem xét lại pháp lệnh đã được thông qua được nhiều người coi giống như quyền phủ quyết của nguyên thủ quốc gia một số nước. Tuy nhiên, về bản chất không hẳn là như vậy. Quyền phủ quyết thường nảy sinh trong cơ chế nhà nước có sự kiềm chế và đối tượng (cơ chế phân quyền), còn ở nước ta giữa Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội và Chủ tịch nước là thống nhất không có sự đối trọng nên không có vấn đề phủ quyết lẫn nhau ở đây. Thực chất vấn đề là ở chỗ, do Hiến pháp quy định cho Uỷ ban thường vụ Quốc hội được ban hành pháp lệnh – một loại văn bản có tính chất luật – lẽ ra phải do Quốc hội ban hành dưới hình luật nên cần phải thận trọng. Sự tham gia của Chủ tịch nước nhằm phối hợp giải quyết các vấn đề quan trọng đó một cách chính xác nhất. Theo quy định của luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật thì Chủ tịch nước còn công bố nghị quyết của Quốc hội tương tự như đối với luật; công bố hoặc đề nghị xem xét lại nghị quyết của Uỷ ban thường vụ Quốc hội tương tự như đối với pháp lệnh. Tất nhiên, không phải công bố tất cả nghị quyết mà chỉ đối với các nghị quyết nhất định (thường là các nghị quyết có tính quy phạm). Hiện nay quyền này của Chủ tịch nước chưa được đưa vào Hiến pháp mà chỉ được quy định tại Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật. Thiết nghĩ, Hiến pháp cần phải ghi rõ cả điểm này để tạo sự đầy đủ và thống nhất. Trong lĩnh vực hành pháp, Chủ tịch nước tham gia thành lập Chính phủ, giám sát hoạt động của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, các bộ trưởng và các thành viên khác của Chính phủ, nghe báo cáo công tác của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, miễn nhiệm, cách chức Phó Thủ tướng, bộ trưởng và các thành viên khác của Chính phủ (căn cứ vào nghị quyết của Quốc hội); Ban bố tình trạng khẩn cấp khi Uỷ ban thường vụ Quốc hội không thể họp được; trong thời gian Quốc hội không họp, quyết định tạm đình chỉ công tác của Phó Thủ tướng, bộ trưởng, thủ trưởng cơ quan ngang bộ theo đệ (trình) của Thủ tướng (Điều 20 Luật tổ chức Chính phủ năm 2001). Trước đây, Hiến pháp quy định cho Chủ tịch nước thẩm quyền lớn đối với hai vấn đề (thuộc lĩnh vực hành pháp) được Hiến pháp quy định cho Uỷ ban thường vụ Quốc hội giải quyết trong thời gian Quốc hội không họp là: Phê chuẩn đề nghị của Thủ tướng Chính phủ về bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Phó Thủ tướng, bộ trưởng, các thành viên khác của Chính phủ và quyết định việc tuyên bố chiến tranh khi nhà nước bị xâm lược thì Chủ tịch nước có quyền đề nghị Uỷ ban thường vụ Quốc hội xem xét lại các nghị quyết về vấn đề đó (trong thời hạn mười ngày); nếu nghị quyết đó vẫn được Uỷ ban thường vụ Quốc hội biểu quyết tán thành mà Chủ tịch nước vẫn không nhất trí thì Chủ tịch nước trình Quốc hội quyết định tại kỳ họp gần nhất (khoản7 Điều 103 Hiến Pháp). Nay nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 1992 (Quốc hội thông qua tháng 12/2001) đã bỏ quyết định của Uỷ ban thường vụ Quốc hội về phê chuẩn đề nghị của Thủ tướng về việc bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Phó Thủ tướng và các thành viên khác của Chính phủ cũng như quyền quyết định tuyên bố tình trạng chiến tranh khi Nhà nước bị xâm lược (Uỷ ban thường vụ Quốc hội chỉ thực hiện quyền này khi Quốc hội không thể họp được và sau đó phải đưa ra Quốc hội xem xét, quyết định tại kỳ họp gần nhất), do đó Chủ tịch nước không còn thực hiện quyền này nữa. Trong lĩnh vực tư pháp và giám sát, Chủ tịch nước giới thiệu để Quốc hội bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Chánh án Toà án nhân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao; bổ nhiệm Phó Chánh án và thẩm phán Toà án nhân dân tối cao, Chánh án, Phó Chánh án, thẩm phán Toà án quân sự trung ương, Phó viện trưởng và kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Chủ tịch nước xem xét và quyết định việc ân xá (giảm án tử hình). Chánh án Toà án nhân dân tối cao và Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Quốc hội; trong thời gian Quốc hội không họp thì chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Uỷ ban thường vụ Quốc hội và Chủ tịch nước. Để bảo đảm thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn của mình Hiến pháp quy định Chủ tịch nước có quyền tham dự các phiên họp của Uỷ ban thường vụ Quốc hội. Khi xét thấy cần thiết Chủ tịch nước có quyền tham dự các phiên họp của Chính phủ (Điều 105 Hiến pháp). Chủ tịch nước ban hành pháp lệnh, quyết định để thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình. VAI TRÒ CỦA NGUYÊN THỦ QUỐC GIA Tuy thẩm quyền của nguyên thủ ở mỗi quốc gia có sự khác nhau, nhưng qua đó ta cũng phần nào hiểu được vai trò của nguyên thủ đối với đất nước. Thực chất vai trò của nguyên thủ chú trọng đến hai vấn đề chính là chính sách đối nội và đối ngoại của quốc gia. Nguyên thủ chính là “bộ mặt” của quốc gia, nhìn vào một đất nước thì đầu tiên mọi người thường xem vị nguyên thủ quốc gia này là ai, có vị trí và ảnh hưởng như thế nào đối với đất nước. Những vấn đề chính trong chính sách đối nội và đối ngoại. III.1 VAI TRÒ CỦA NGUYÊN THỦ QUỐC GIA TRONG NHÀ NƯỚC TƯ SẢN. III.1.1 Vai trò tích cực mà nguyên thủ thực hiện được Trong hệ thống cơ quan nhà nước tư sản nguyên thủ có vị trí và vai trò rất quan trọng. Ở những nước có chính thể cộng hoà tổng thống, nơi mà nguyên thủ quốc gia đồng thời là người đứng đầu Chính phủ thì vị trí của cơ quan này có thể coi là trung tâm của quyền hành pháp. Việc trở thành hoặc thôi giữ chức vụ nguyên thủ quốc gia hoàn toàn tuỳ thuộc vào hình thức chính thể của nhà nước tư sản. Trong các nước theo chế độ cộng hoà, chức vụ này do cử tri bầu lên (Mỹ) hoặc do nghị viện bầu ra (Italia, Đức…). Quyền hạn và vai trò của nguyên thủ quốc gia được quy định khác nhau, tuỳ theo hình thức chính thể. Ở các nước cộng hoà tổng thống, vai trò của nguyên thủ rất lớn. Ở Mỹ, tổng thống có vị trí và vai trò rất lớn, không những ảnh hưởng đến nền chính trị của nước Mỹ mà còn có ảnh hưởng đến thế giới. Vai trò lập pháp theo Điều khoản I Hiến pháp: Quyền lực đầu tiên được Hiến pháp Hoa Kỳ qui định dành cho tổng thống là quyền phủ quyết của tổng thống đối với các qui trình lập pháp của Quốc hội Hoa Kỳ. Đoạn 2 và 3, Phần 7, Điều khoản 1, Hiến pháp Hoa Kỳ bắt buộc bất cứ đạo luật nào mà Quốc hội Hoa Kỳ thông qua đều phải được trình lên tổng thống trước khi trở thành luật. Một khi đạo luật đã được trình lên thì tổng thống có ba sự chọn lựa: Ký văn bản luật và đạo luật sẽ trở thành luật. Phủ quyết văn bản luật, trả về Quốc hội kèm theo bất cứ lý do vì sao mình phản đối. Đạo luật sẽ không thành luật trừ khi cả hai viện lập pháp của Quốc hội biểu quyết với tỉ lệ 2/3 phiếu thuận để gạt bỏ sự phủ quyết của tổng thống. Không hành động gì. Trong trường hợp này, tổng thống không ký và cũng không phủ quyết văn bản luật. Sau 10 ngày, không kể chủ nhật, có hai trường hợp có thể xảy ra: Nếu Quốc hội vẫn còn nhóm họp thì đạo luật trở thành luật. Nếu Quốc hội không nhóm họp thì văn bản luật không thể trả về Quốc hội được. Lúc đó đạo luật không thành luật. Trường hợp này được biết đến là "pocket veto" (tạm dịch là "phủ quyết gián tiếp"). Năm 1996, Quốc hội tìm cách nâng cao quyền phủ quyết của tổng thống qua Đạo luật phủ quyết từng phần (Line Item Veto Act). Dự luật này cho phép tổng thống ký thành luật bất cứ đạo luật chi tiêu nào trong khi đó có quyền phủ quyết các mục chi tiêu nào đó trong đạo luật này, đặc biệt là bất cứ khoản chi tiêu mới nào, hay bất cứ tổng số chi tiêu nào, hoặc bất cứ lợi ích về thuế có giới hạn mới nào. Một khi tổng thống đã phủ quyết một mục nào đó trong đạo luật thì Quốc hội cũng có thể tái thông qua mục đó. Thường thì các nguyên thủ không có sứ mạng thực hiện các cuộc thay đổi lớn khi nhiệm chức, trừ khi vào các thời kỳ có kinh tế khó khăn hay tình trạng khẩn trương về quân sự. Tổng thống cũng không chủ trì các buổi họp đảng bộ trong viện lập pháp để ấn định chiến lược của đảng. Tổng thống hoạt động theo chu kỳ bầu cử là 4 năm. Có lẽ điều quan trọng nhất trong số những quyền lực của tổng thống là quyền lực tư lệnh Quân đội Hoa Kỳ trong vai trò tổng tư lệnh. Trong lúc quyền lực tuyên chiến được hiến pháp đặt nằm trong tay Quốc hội thì tổng thống là người nắm quyền tư lệnh và điều khiển trực tiếp quân đội và có trách nhiệm lập kế hoạch chiến lược quân sự. Tổng thống phải là tổng tư lệnh lục quân và hải quân của Hoa Kỳ. ... Điều này không bao trùm hơn quyền tư lệnh tối cao và quyền điều khiển các lực lượng hải quân và quân sự ... trong khi đó quyền lực này của vua Anh bao trùm cả việc tuyên chiến, tuyển mộ thành lập quân đội và đặt ra các qui định đối với các hạm đội và lục quân. Tất cả những quyền lực như thế... phải do quốc hội đảm trách. Song song việc nắm giữ các lực lượng vũ trang, tổng thống cũng là người nắm giữ chính sách ngoại giao của Hoa Kỳ. Qua Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ và Bộ Quốc phòng Hoa Kỳ, tổng thống có trách nhiệm bảo vệ người Mỹ ở hải ngoại và công dân ngoại quốc tại Hoa Kỳ. Tổng thống có quyền quyết định việc có nên công nhận các quốc gia mới và chính phủ mới hay không, và thương thuyết các hiệp định với các quốc gia khác. Các hiệp định này có hiệu lực khi được Thượng viện Hoa Kỳ chấp thuận với 2/3 số phiếu tán thành. Mặc dù không được qui định trong hiến pháp nhưng tổng thống đôi khi cũng có quyền thực hiện những "thỏa ước hành pháp" trong quan hệ đối ngoại. Thường thường, những thỏa ước này có liên quan đến các vấn đề nằm trong phạm vi quyền lực hành pháp; thí dụ, thỏa ước với một quốc gia nào đó mà Hoa Kỳ có lực lượng quân sự hiện diện tại đó, cách nào để một quốc gia thi hành các hiệp định về bản quyền, hay làm sao để thực hiện việc giao dịch thư từ ngoại quốc. Tuy nhiên, thế kỷ 21 đã cho thấy rằng có một sự mở rộng rất lớn về những thỏa hiệp hành pháp như thế. Những người chỉ trích đã chống lại việc nới rộng việc sử dụng những thỏa ước hành pháp như thế vì chúng đã bỏ qua các qui trình tạo ra hiệp định và cũng như loại bỏ sự kiểm soát và cân bằng quyền lực mà hiến pháp đã qui định đối với ngành hành pháp trong quan hệ đối ngoại. Những người ủng hộ đáp trả lại rằng những thỏa ước như thế tạo ra một giải pháp mang tính thời đại khi nhu cầu hành động nhanh chóng, bí mật và đồng điệu ngày càng gia tăng. III.1.2 Những tiêu cực trong vai trò nguyên thủ quốc gia. Bên cạnh những vai trò được đánh giá là có ảnh hưởng lớn thì tổng thống Mỹ cũng không tránh khỏi những sự chỉ trích và phản đối của dư luận: Tổng thống quá quyền lực: vô số những người chỉ trích ngày nay cho rằng tổng thống quá nhiều quyền lực, không bị kiểm soát và cân bằng quyền lực và bản chất giống như "đế vương". Những học giả về hiến pháp đã chỉ quyền lực quá mức của tổng thống và cho rằng tổng thống giống như "những nhà độc tài lập hiến" có "động cơ để tuyên bố tình trạng khẩn cấp" nhằm nắm lấy quyền lực "gần giống như độc tài. Một người chỉ trích khác viết rằng quyền lực tổng thống mở rộng là “mối đe dọa lớn nhất chưa từng thấy đối với sự tự do cá nhân và luật pháp dân chủ”. Hình ảnh và quan hệ công chúng: Một số người cho rằng hình ảnh của tổng thống có chiều hướng bị các viên chức hành pháp đặc trách quan hệ công chúng và chính tổng thống ngụy tạo lên. Một người chỉ trích diễn tả tổng thống giống như "giới lãnh đạo bị tuyên truyền" mà có một "quyền lực mê hoặc quanh chức vị này"; một người chỉ trích khác diễn tả hiện tượng quanh chức vị tổng thống bằng từ "cult", có nghĩa là sự sùng bái. Những quan chức điều hành về quan hệ công chúng của chính phủ đã giàn cảnh một cách mưu mẹo những dịp ghi hình có tổng thống đang tươi cười với đám đông cũng đang tươi cười cho các máy quay thu hình. Chi tiêu thâm thủng: Trong suốt 100 năm qua, ít có vị tổng thống nào tinh thông trong việc kiềm chế mức chi tiêu nằm trong giới hạn. Các tổng thống hứa hẹn kiểm soát chi tiêu nhưng trên thực tế đã khó kiểm soát nổi ngân sách. Sau sự kiện 11 tháng 9, chi tiêu thâm thủng trở lại dưới thời Tổng thống Bush và giữ ở mức độ cao. Năm 2009, văn phòng ngân sách ước tính tổng số nợ liên bang sẽ lên đến $12 ngàn tỉ đô la, trong đó gồm có $565 tỉ đô la tiền lời phải trả, hay 4 phần trăm GDP. Năm 2009, theo ước tính, Hoa Kỳ có thể bị bắt buộc mượn nợ gần $9,3 ngàn tỉ trong vòng 10 năm tới. Một người chỉ trích đồng thời cũng là một thượng nghị sĩ cảnh báo rằng điều này "gần như tạo ra một kịch bản mà trong đó quốc gia này sẽ lâm vào tình trạng phá sản." Năm 2009, Tổng thống Barack Obama thừa kế 1 ngân sách thâm thủng choáng váng lên đến 10% GDP. Quyền lực đối với lập pháp và ngân sách: Một số người chỉ trích tố cáo rằng các tổng thống đã lấn chiếm nhiều quyền lực quan trọng thuộc lập pháp và ngân sách mà thông thường phải thuộc về Quốc hội Hoa Kỳ. Tổng thống kiểm soát một số lượng lớn các cơ quan liên bang đặc trách việc tạo ra những qui định luật lệ nhưng chỉ có ít sự theo dỏi của quốc hội. Một người chỉ trích khác tố cáo rằng tổng thống có thể bổ nhiệm một "đội quân gồm nhiều 'sa hoàng' ảo – những người này hoàn toàn không có trách nhiệm gì với Quốc hội nhưng được giao phó nhiệm vụ dẫn đầu những nỗ lực về chính sách lớn của Tòa Bạch Ốc". Lạm quyền: Đôi khi các tổng thống dùng đến các hoạt động ngoài pháp chế và bất hợp pháp, đặc biệt là trong thời chiến. Franklin D. Roosevelt sử dụng những nhà điều tra liên bang để nguyên cứu hồ sơ tài chính và thuế của những nhà chính trị đối lập. Trong một nỗ lực nhằm ngăn ngừa khủng bố, George W. Bush cho phép nghe lén trên hệ thống điện thoại mà không cần lệnh từ tòa án. Hành động này cũng như việc tra trấn và từ chối quyền pháp lý của những người bị giam giữ đã bị tòa án liên bang phán quyết là vi hiến. Richard Nixon phạm vô số luật lệ khi yêu cầu một nhóm người đột nhập văn phòng của một nhà tâm lý học thuộc đảng đối lập cũng như văn phòng của Ủy ban Quốc gia Đảng Dân chủ Hoa Kỳ rồi tìm cách che dấu sự nhúng tay của Tòa Bạch Ốc qua việc mua chuộc những nhân chứng trong một sự kiện mà sau đó trở thành vụ tai tiếng Watergate. Phát động chiến tranh mà không có sự tuyên chiến từ Quốc hội: Một số người chỉ trích tố cáo rằng ngành hành pháp đã lấn quyền tuyên chiến, vốn đã được Hiến pháp Hoa Kỳ giao phó cho Quốc hội. Năm 1993, một người chỉ trích viết rằng "Quyền tuyên chiến của Quốc hội đã trở thành điều khoản bị xem thường rỏ ràng nhất trong Hiến pháp Hoa Kỳ. Ưu thế bầu cử của đương kim tổng thống: Các đương kim tổng thống tìm cách tái cử cho nhiệm kỳ 2 đều có lợi thế hơn đối thủ của mình, và những người chỉ trích tố cáo rằng đều này là không công bằng Các đương kim tổng thống tái tranh cử luôn có được lợi thế mà đối thủ của họ không có, trong đó phải kể đến quyền lực dẫn dắt giới truyền thống đưa tin nhiều hơn và gây ảnh hưởng với những sự kiện cũng như sử dụng nhiều nguồn tài trợ của chính phủ. Một thông tín viên ghi nhận rằng "gần như tất cả đương kim tổng thống đều gây quỹ nhiều hơn đối thủ của mình". Điều này đã mang lợi thế hơn cho những đương kim tổng thống. Lạm dụng quyền ân xá: Các tổng thống đã bị chỉ trích vì lạm dụng quyền lực này. Thí dụ, Gerald Ford đã ân xá người đã từng chọn mình làm phó tổng thống trước đó, Richard Nixon.  Bill Clinton đề xuất 140 lệnh ân xá trong những ngày cuối cùng còn tại chức, ân xá cho những người đào phạm và những người đóng góp qũy vận động tranh cử nổi tiếng. George W Bush giảm án cho một nhân viên văn phòng bị truy tố vì che dấu sự dính líu của chính phủ trong vụ Valerie Plame Wilson. III.1 VAI TRÒ CỦA CHỦ TỊCH NƯỚC TRONG NHÀ NƯỚC XÃ HỘI CHỦ NGHĨA. Trong bộ máy nhà nước xã hội chủ nghĩa, Chủ tịch nước xã hội chủ nghĩa, chủ tịch nước là một trong những thành tố quan trọng và trong Hiến pháp thường có hẳn một chế định pháp luật về Chủ tịch nước. Tuy nhiên, xuất pháp từ bản chất và mục đích của bộ máy nhà nước xã hội chủ nghĩa, vị trí, vai trò, quyền hạn và nhiệm vụ của Chủ tịch nước cũng có nhiều điểm quy định mới nhằm phát huy cao độ uy tín và trách nhiệm của cá nhân Chủ tịch nước, đồng thời phát huy vai trò của các hệ thống cơ quan nhà nước và của nhân dân trong quản lý nhà nước, quản lý xã hội. Ở nước ta theo Hiến pháp năm 1992, “ Chủ tịch nước là người đứng đầu nhà nước, thay mặt nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam về đối nội và đối ngoại” - Điều 101. Chủ tịch nước do Quốc hội bầu ra trong số các Đại biểu Quốc hội, chịu trách nhiệm báo cáo công tác trước Quốc hội. Chủ tịch nước được trao nhiều quyền hạn rộng lớn trong ba lĩnh vực lập pháp, hành pháp và tư pháp, là người giữ quyền thống lĩnh các lực lượng vũ trang nhân dân và giữ chức vụ Chủ tịch Hội đồng quốc phòng và an ninh. Tuy nhiên, Chủ tịch nước không phải là một cơ quan thuộc hệ thống cơ quan quyền lực nhà nước hoặc cơ quan quản lý nhà nước… Chủ tịch nước xét trên nhiều phương diễn là cơ quan có vị trí đặc biệt và giữ vai trò quan trọng trong việc bảo đảm sự phối hợp thống nhất giữa các bộ phận của bộ máy nhà nước xã hội chủ nghĩa. Như vậy, vai trò của nguyên thủ quốc gia phụ thuộc nhiều vào thể chế chính trị của mỗi quốc gia. Sự đổi mới trong các chính sách và các quyết định quan trọng của một quốc gia hầu như phải thông qua nguyên thủ. Nguyên thủ không những có vị trí và quyền lực cao mà còn có vai trò hết sức quan trọng đối với quốc gia. TÀI LIỆU THAM KHẢO Giáo trình Luật Hiến Pháp Giáo trình Lý Luận Nhà Nước Và Pháp Luật Sile bài giảng Luật Hiền Pháp Thể chế chính trị các nước châu Âu – Nhà xuất bản chính trị quốc gia. Câu hỏi và hướng dẫn trả lời Môn Lý Luận Chung Về Nhà Nước Và Pháp luật – Nhà xuất bản Tư pháp. Trang web tham khảo:

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc74356609-Vai-Tro-Cua-Nguyen-Thu-Quoc-Gia-Trong-Nha-Nuoc-Tu-San-Va-Nha-Nuoc-Xhcn.doc