Về vấn đề giáo dục nước ta và vận dụng sinh viên

Tiểu luận về giá trị giáo dục. Trường Đại Học Bách Khoa Hà Nội Khoa lý luận chính trị Mở đầu 1) Lí do chọn đề tài :Có rất nhiều lí do chọn đề tài tư tưởng Hồ Chí Minh đáng quan tâm và được nhắc lại rất nhiều trong rất nhiều tài liệu .Xong một vấn đề không được nhắc đến nhiều nhưng rất đáng được quan tâm dó là công nghệ tuyên truyền và giáo dục .Đảng và nhà nước ta đã khẳng định giáo dục là quốc sách .Là một sinh viên trường đại học bkhn em cũng rất quan tâm đến dề tài này không chỉ bởi vậy đây là vấn đề rất cần thiết và dáng thảo luận . 2) mang tính chất ra sao 3) Đối tượng nguyên cứu , nhiệm vụ nguyên cứu , phương pháp nguyên cứu 4) Ý nghĩa thực tiễn 5) Kết cấu đề tài (bao nhiêu tiết , chương) Nội dung : Chương 1. 1.1 Tiểu tiết 1.1.1 Kết luận : khăng định ý nghĩa của đề tài Danh mục tài liệu tham khảo Thống nhất giữa lý luận và thực tiễn là một trong những tư tưởng cơ bản của Chủ tịch Hồ Chí Minh: Thống nhất giữa lý luận và thực tiễn, học đi đôi với hành, nói và làm đi liền với nhau là một trong những tư tưởng cơ bản của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Đây vừa là nội dung hành động, vừa là phương pháp nghiên cứu theo quan điểm tư tưởng Hồ Chí Minh. Lý luận và thực tiễn là một trong những vấn đề cơ bản của khoa học mácxít nói chung và của nhận thức luận mácxít nói riêng. Hồ Chí Minh coi lý luận và thực tiễn có mối liên hệ khăng khít với nhau, không thể tách rời. Nó tác động lẫn nhau, chuyển hoá cho nhau. Trong mối liên hệ này, thực tiễn có tác động quyết định và lý luận, đến lượt nó, lại phản ánh vào thực tiễn. Theo quan điểm của Hồ Chí Minh, lý luận chính là những kinh nghiệm rút ra từ thực tế (thực tiễn) trong mọi hoạt động của con người và xã hội. Còn thực tiễn lại cũng là toàn bộ những hoạt động của con người để tạo ra những điều kiện cần thiết cho đời sống xã hội. Quan điểm này của Hồ Chí Minh được phát triển trên cơ sở quan điểm lý luận của C.Mác cho rằng, thực tiễn, trước hết, là hoạt động vật chất, là sản xuất, vì đời sống của xã hội, sự sống của con người do sản xuất quyết định. C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin, Hồ Chí Minh đều có chung một nhận định là một trong những nhân tố quan trọng nhất hợp thành thực tiễn là hoạt động cách mạng của những giai cấp, những tập đoàn xã hội nhằm xoá bỏ chế độ xã hội già cỗi, bóc lột, thay thế bằng chế độ xã hội mới, tiến bộ hơn, phát triển hơn. Hồ Chí Minh nói: "Lý luận là đem thực tế trong lịch sử, trong kinh nghiệm, trong các cuộc tranh đấu, xem xét, so sánh thật kỹ lưỡng, rõ ràng, làm thành kết luận. Rồi lại đem nó chứng minh với thực tế. Đó là lý luận chân chính. Lý luận như cái kim chỉ nam, nó chỉ phương hướng cho chúng ta trong công việc thực tế"(1). Người còn nói: "Lý luận cốt để áp dụng vào công việc thực tế. Lý luận mà không áp dụng vào thực tế là lý luận suông. Dù xem được hàng ngàn, hàng vạn quyển lý luận, nếu không biết đem ra thực hành, thì khác nào một cái hòm đựng sách"(2). Người kết luận: "Lý luận phải đem ra thực hành. Thực hành phải nhằm theo lý luận"(3). Ph.Ăngghen có lần nói rằng, mọi cái, xét cho cùng, đều quy công cho sản xuất. Như vậy, rõ ràng, lý luận được đẻ ra trên nền tảng của thực tiễn, là kết quả khoa học của sự khái quát kinh nghiệm thực tiễn của hoạt động đời sống xã hội. Không có thực tiễn, không có lý luận khoa học. Thực tiễn phong phú sẽ làm cho lý luận phong phú. Thực tiễn không phong phú, lý luận cũng không thể phong phú. Như vậy, lý luận và thực tiễn bổ sung cho nhau, làm phong phú lẫn nhau. Thực tiễn đề ra những vấn đề yêu cầu lý luận phải giải đáp. Cho nên không có thứ luận khoa học nào mà "tự nặn ra". Chỉ có lý luận nào gắn chặt với thực tiễn, phục vụ thực tiễn và được thực tiễn kiểm nghiệm, kiểm tra, thì lý luận đó mới đích thực là lý luận, mới bắt rễ sâu trong đời sống. Quan điểm của Hồ Chí Minh là mọi lý luận, xét cho cùng, đều quy về thực tiễn. Một nhà khoa học viết một công trình có "độ nhuyễn" giữa lý luận và thực tiễn, có tính khả thi, cũng là biết kết hợp giữa lý luận và thực tiễn. Trái lại, một công trình nghiên cứu toàn lý luận, không liên hệ gì đến thực tiễn, không đếm xỉa gì đến thực tiễn, công trình ấy cũng chỉ đạt yêu cầu một nửa.

doc30 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 3649 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Về vấn đề giáo dục nước ta và vận dụng sinh viên, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
viên, đề cao năng lực tự học, tự hoàn thiện học vấn và tay nghề, đẩy mạnh phong trào học tập trong nhân dân bằng những hình thức giáo dục chính quy và không chính quy, thực hiện "giáo dục cho mọi người", "cả nước trở thành một xã hội học tập”, thực hiện phương châm "học đi đôi với hành", giáo dục kết hợp với lao động sản xuất, nhà trường gắn với xã hội. Hơn 50 năm qua, tư tưởng Hồ Chí Minh về phương châm, chiến lược, mục đích, nội dung, phương pháp giáo dục - đào tạo con người luôn soi sáng sự nghiệp trồng người ở Việt Nam. Tư tưởng đó không chỉ là cơ sở lý luận cho việc xác định chiến lược đào tạo con người, chủ trương, đường lối chỉ đạo phát triển nền giáo dục Việt Nam của Đảng ta qua các thời kỳ cách mạng, mà còn là những bài học, những kinh nghiệm thực tiễn giáo dục hết sức sinh động, thiết thực và hiệu quả đối với người làm công tác giáo dục nói riêng, ngành giáo dục nói chung hiện nay.     Hồ Chí Minh - anh hùng giải phóng dân tộc, nhà văn hoá kiệt xuất, đồng thời cũng là nhà giáo dục lớn. Người đã đặt nền móng cho nền giáo dục Việt Nam xã hội chủ nghĩa, nền giáo dục toàn dân, toàn diện, khoa học và hiện đại. Bên cạnh đó chúng ta còn biết đến Người là nhà giáo dục chính trị tài tình. Người để lại cho chúng ta tư tuởng lớn về giáo dục lý luận chính trị. ở phạm vi bài viết này chúng tôi chỉ tập trung đề cập đến việc vận dụng tư tưởng của Người vào giáo dục lý luận chính trị.       Giáo dục lý luận chính trị là giải thích, tuyên truyền những vấn đề thuộc lý luận chính trị, bằng việc đi sâu giải thích các sự vật hiện tượng diễn ra trong tự nhiên, xã hội, trên cơ sở đó xây dựng cơ sở khoa học cho nhận thức và niềm tin của con người để đi đến hành động đúng đắn. Giáo dục lý luận chính trị đem đến cho mọi người những hiểu biết về quy luật phát triển của xã hội, về thế giới quan, nhân sinh quan, đường lối chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước, để từ đó vạch ra cho mình tư tưởng, lối sống, hoài bão, ý chí, nguyện vọng, những nguyên tắc chuẩn mực đạo đức để gạt bỏ cái cũ, tiếp thu có chọn lọc cái mới... Bên cạnh đó giáo dục lý luận chính trị là nghiên cứu tổng kết thực tiễn, xây dựng thành hệ thống quan điểm lý luận chính trị, hình thành và phát triển tư tưởng xã hội, phát triển những mâu thuẫn xã hội và đưa ra những dự báo để phát triển cho tương lai.      Nhiệm vụ của giáo dục lý luận chính trị là thông qua các công cụ và phương tiện để truyền bá những kiến thức phong phú của đời sống xã hội, các quan điểm, những đánh giá về các hiện tượng và xu thế phát triển của của xã hội. Với tầm quan trọng như vậy Hồ Chí Minh cho rằng công tác giáo dục lý luận chính trị của Đảng tiên phong phải đạt trình độ tiên phong: "Đảng muốn vững phải có chủ nghĩa làm cốt, trong đảng ai cũng phải hiểu, ai cũng phải theo chủ nghĩa ấy. Đảng mà không có chủ nghĩa cũng như người không có trí khôn, tàu không có bàn chỉ nam"(1). Bên cạnh đó giáo dục lý luận chính trị cần phải định hướng cho nhận thức tư tưởng, mục tiêu và con đường đi lên của các dân tộc trên thế giới. Trong tác phẩm "Đường Kách mệnh" Hồ Chí Minh khẳng định: Không có lý luận cách mệnh, thì không có cách mệnh vận động... Chỉ có theo lý luận cách mệnh tiền phong, đảng mới làm nổi trách nhiệm cách mệnh tiên phong"(2).      Trong qua trình bôn ba tìm đường cứu nước, sau khi đã được đọc, được chứng kiến và qua phân tích, tổng kết các học thuyết chính trị, Hồ Chí Minh đi đến kết luận phải đi theo chủ nghĩa Mác. Bởi đặc trưng của chủ nghĩa Mác là tính cách mạng, tính khoa học. Nó thể hiện lập trường tư tuởng của giai cấp công nhân, bảo vệ lợi ích của giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Nó đem lại sự hiểu biết về quá trinh diễn biến lịch sử, về sự phát triển của thời đại, giúp con nguời nhận thức được bản chất các sự vật và hiện tượng trong thế giới. Nó khác về chất với các học thuyết khác như chủ nghĩa cải lương, cơ hội. Chính vì vậy năm 1927 Người đã khẳng định: "Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng học thuyết chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mạng nhất là chủ nghĩa Lênin" (3)      Công tác giáo dục lý luận chính trị là hoạt động có chủ đích của Đảng Cộng sản nhằm xác lập thế giới quan khoa học trên cơ sở hệ tư tưởng, lập trường của giai cấp công nhân, đó là chủ nghĩa Mác - Lênin. Theo Hồ Chí Minh giáo dục lý luận chính trị là giáo dục chính trị, truyền bá chủ nghĩa Mác Lênin, nâng cao đạo đức cách mạng cho các bộ đảng viên và quần chúng nhân dân, nhằm thống nhất về tư tưởng, ý chí, phẩm chất cách mạng và năng lực hoạt động thực tiễn của họ, hướng dẫn họ vận dụng những hiểu biết ấy vào cuộc sống. Chính vì vậy nội dung của công tác giáo dục lý luận chính trị là rất rộng, bao gồm việc giáo dục những nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lênin, đường lối quan điểm của Đảng về các lĩnh vực của đời sống xã hội, lịch sử Đảng, xây dựng Đảng, những kinh nghiệm thành công cũng như thất bại của các nước. Công tác giáo dục lý luận chính trị có nhiều hình thức như các lớp học tập lý luận, những đợt sinh hoạt chính trị, Nghị quyết của Đảng, những báo cáo chuyên đề lý luận chính trị,... đặc trưng của công tác giáo dục lý luận chính trị là phương pháp giảng dạy và học tập theo chương trình nhất định nhằm làm cho nguời học nắm được một cách cơ bản lý luận Mác - Lênin, đường lối quan điểm, chủ trương, chính sách, Nghị quyết của Đảng và của Nhà nước.       Từ nội dung của giáo dục lý luận chính trị Người đưa ra mục đích và nhiệm vụ sau:       "a) Học để sửa chữa tư tưởng: hăng hái theo cách mạng điều đó rất hay. Nhưng tư tưởng chưa thật đúng là tư tưởng cách mạng, vì thế phải học tập để sửa chữa cho đúng. Tư tưởng đúng thì hành động cho khỏi sai lạc và mới làm tròn được nhiệm vụ cách mạng.       b) Học để tu dưỡng đạo đức cách mạng thì mới hy sinh tận tụy với cách mạng, mới lãnh đạo được quần chúng đưa cách mạng đến thắng lợi hoàn toàn.       c) Học để tin tưởng: tin tưởng vào đoàn thể, tin tưởng vào tương lai dân tộc. Tin tưởng vào tương lai cách mạng. Có tin tưởng thì lúc ra thực hành mới vững chắc, hăng hái, lúc gặp khó khăn mới kiên quyết hy sinh.       d) Học để hành: Học với hành phải đi đôi với nhau. Học mà không hành thì hành không trôi chảy"(4).  Hồ Chí Minh xác định cách mạng cũng là một nghề, làm nghề gì cũng phải học, vậy làm cách mạng thì cần phải học nhiều hơn. Nếu không giáo dục cho đảng viên làm cách mạng mà yêu cầu họ làm cách mạng thì không thể hoàn thành được nhiệm vụ. Vì vậy, xây dựng đất nước đi lên chủ nghĩa xã hội, mỗi cán bộ đảng viên không chỉ bô lô, bô la mà phải ra sức học tập, học ở nhà ở trường, học ở thực tiễn, học ở quần chúng nhân dân. Chính vì vậy, Người yêu cầu: "Tất cả các đảng viên phải cố gắng học tập, coi việc học tập lý luận và chính trị là một nhiệm vụ quan trọng của mình"(5), đó chính là những định hướng mà Người nêu ra cho mỗi cán bộ đảng viên.      Với Hồ Chí Minh, học tập chủ nghĩa Mác là học tập cái biện chứng, bởi cách mạng là sáng tạo. Sự nghiệp cách mạng đòi hỏi mỗi người muốn hoàn thành nhiệm vụ phải sáng tạo, phải có sáng kiến trong các lĩnh vực công tác. Giáo dục, học tập lý luận không phải giáo điều từng câu, từng chữ, mà phải nắm vững lập trường, quan điểm, phương pháp, tinh thần cách mạng, mà học để phân tích và giải quyết các vấn đề cụ thể của cách mạng nước ta. Theo Hồ Chí Minh việc giáo dục lý luận chính trị cho cán bộ đảng viên và nhân dân là giúp họ nắm được bản chất cách mạng và khoa học của học thuyết đó.      Trong cách học, là học ở mọi nơi, mọi lúc, học suốt đời coi trong việc tự học, bởi Người đã chỉ rõ: "Cách mạng tiến lên mãi, Đảng ta tiến lên mãi". Cho nên cán bộ đảng viên phải thường xuyên trau dồi lý luận chính trị, vì cán bộ là gốc của mọi công việc. "Công việc thành hay bại là do cán bộ tốt hay xấu". Sự phát triển của tư duy, nhận thức, học vấn, trình độ văn hoá của cán bộ đảng viên là quá trình khổ công rèn luyện, tích luỹ kiến thức, đó chính là con đường phát triển của tư duy khoa học và tư duy lý luận chính trị. Người căn dặn: "Học tập chủ nghĩa Mác - Lênin là học tập cái tinh thần xử trí mọi công việc đối với mọi người và đối với bản thân mình", "Học để làm việc, học để làm người, học để làm cán bộ". Như vậy, trong quan điểm của Hồ Chí Minh chủ nghĩa Mác - Lênin không chỉ là vũ khí lý luận để cải tạo thế giới, mà còn là vũ khí để cải tạo bản thân mình. Lý luận Mác - Lênin là khoa học làm người, góp phần hình thành đạo đức mới, nếp sống mới của người cách mạng. Người xem học tập chủ nghĩa Mác- Lênin là đạo đức cách mạng. Người căn dặn chúng ta: "Nhân dân ta từ lâu đã sống với ta có tình có nghĩa như thế. Từ khi có Đảng ta lãnh đạo và giáo dục, tình nghĩa ấy càng cao đẹp hơn"(6).      Hồ Chí Minh còn đề ra nhiệm vụ cho Đảng là phải truyền bá lý luận Mác - Lênin vào trong quần chúng nhân dân. Người phân tích, lý luận chính trị làm cho dân giác ngộ, bày cho quần chúng nhân dân tổ chức, động viên quần chúng hành động cách mạng. Có lý luận chính trị Mác - Lênin soi đường thì quần chúng nhân dân hành động mới đúng đắn, mới phát triển tài năng và lực lượng vô tận của họ. Đồng thời, Người cũng chỉ rõ là phải chống thói xem nhẹ học tập lý luận chính trị, "vì không học tập lý luận thì chí khí kém kiên quyết, không trông xa thấy rộng, trong lúc đấu tranh dễ lạc phương hướng, kết quả là "mù chính trị", thậm chí hủ hoá xa rời cách mạng"(7).       Giáo dục lý luận chính trị nhằm quán triệt và vận dụng đúng đắn chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện hoàn cảnh cụ thể của đất nước, đồng thời phải phản ánh hiện thực lịch sử xã hội trong từng thời kỳ. Người giải thích: "Nắm vững đường lối cách mạng mới thấy rõ phương hướng tiến lên của cách mạng, mới hiểu rõ mình phải làm gì và đi theo phương hướng nào để thực hiện mục đích của Đảng trong giai đoạn cách mạng hiện nay"(8). Đồng thời với việc quán triệt chủ nghĩa Mác - Lênin các chủ trương chính sách của Đảng của Nhà nước, Người đòi hỏi cán bộ, đảng viên phải học kinh nghiệm của nhân dân, phải tổng kết phong trào của quần chúng để phải triển thành lý luận.     Trong quan điểm giáo dục lý luận chính trị, Người luôn yêu cầu phải tuân thủ phương châm lý luận phải gắn liền với thực tiễn. Phương châm này đã trở thành thói quen, nếp sống trong hoạt động cách mạng. ở đâu nói về vấn đề gì, làm việc gì, lời nói và việc làm của Người cũng hoà làm một, gắn kết với nhau chặt chẽ. Bởi, Người đã tiếp thu sâu sắc mối quan hệ biện chứng giữa lý luận và thực tiễn - một nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin. Đối với Người những vấn đề lý luận trừu tượng được diễn đạt rất giản dị, dễ hiểu. Chẳng hạn khi nói về sở hữu tập thể, Người chỉ rõ: "Chủ nghĩa xã hội là nhà máy, trường học là của chung". Hay khi định nghĩa về chủ nghĩa xã hội "là mọi người được ăn no, mặc ấm, sung sướng, tự do"(9). Người chỉ rõ "Lý luận không gắn với thực tiễn là lý luận suông, thực tiễn không có lý luận soi đường là thực tiễn mù quáng".       Theo Người, hoạt động lý luận của người cán bộ đều phải đáp ứng nhu cầu của người cách mạng; đồng thời phải vận dụng lý luận đó một cách sáng tạo trước mọi biến đổi của cách mạng, không nên dập khuôn máy móc. Người còn khuyên trong cách viết không nên viết dài, nói dài, trừu tượng mà phải nói ngắn gọn, cô đọng, hàm xúc, sinh động thì quần chúng mới hiểu được. Đặc trưng của giáo dục chính trị là tính khái quát cao. Nhiều câu nói của Người có nội dung bao quát cả nguyên lý, một chiến lược, nhưng Người thâu tóm trong một câu nói dễ hiểu, dễ nhớ, càng ngẫm càng thấm thía. Chính vì vậy, trong công tác giáo dục lý luận chính trị phải quán triệt nguyên tắc này.      Trong giai đoạn hiện nay, tình hình thế giới đã có nhiều biến đổi nhanh chóng và sâu sắc, nhất là sau khi khung hoảng ở Đông âu và Liên Xô, chủ nghĩa xã hội thế giới lâm vào tình trạng bế tắc trong đó có cả sự trì trệ, lạc hậu về công tác lý luận chính trị. Trong bối cảnh đó, Đại hội Đảng CSVN khoá VI đã khởi xướng con đường đổi mới. Trong quá trình đổi mới, Đảng ta từng bước xoá bỏ nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp, thực hiện nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đây là bước chuyển có ý nghĩa cách mạng sâu sắc về lý luận chính trị, không những thế trên con đường đổi mới Đảng ta đã thu được những thắng lợi to lớn, đưa đất nước thoát ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội. Tuy nhiên, bên cạnh những thắng lợi đó thì những mặt trái của cơ chế thị trường đã và đang tạo ra những tiêu cực trong kinh tế xã hội. Mặt khác, do yêu cầu của sự nghiệp đổi mới có những vấn đề thực tiễn cũng đang đặt ra cho công tác lý luận cần phải giải quyết. Để đảm bảo cho công tác giáo dục lý luận chính trị trong giai đoạn hiện nay bắt kịp với sự biến đổi của tình hình thế giới và trong nước, một trong những yêu cầu cần quan tâm là nghiên cứu sâu sắc và vận dụng trên tinh thần biện chứng tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục lý luận chính trị./.      Chú thích: GẮN LIỀN LÝ LUẬN VỚI THỰC TIỄN TRONG CÔNG TÁC GIÁO DỤC VÀ RÈN LUYỆN CÁN BỘ ĐẢNG VIÊN THEO TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH Học lý luận, gắn lý luận với thực tiễn, đáp ứng yêu cầu của Chủ tịch Hồ Chí Minh là học “để làm việc, làm người, làm cán bộ” (9/1949). Bởi vậy, khi học lý luận trở thành nhu cầu để thực hiện mục đích, lý tưởng của những người cộng sản thì lý luận “thực sự là chiếc cẩm nang thần kỳ” cung cấp cho cán bộ, đảng viên những tri thức, những hiểu biết và phương pháp tư duy để giải quyết tốt những công việc, những đòi hỏi của thực tiễn. Mỗi cán bộ đảng viên, mỗi người khi học lý luận, càng cần phải coi trọng và quán triệt nguyên tắc “học đi đôi với hành, lý luận gắn liền với thực tiễn”.  Đỗ Hoàng Linh Khu Di tích Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Phủ Chủ tịch Nhận thức sâu sắc sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn là một trong những nhân tố quan trọng để đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng hoàn thành tốt những nhiệm vụ mà Tổ quốc và nhân dân giao phó. Vì vậy từ quá trình chuẩn bị thành lập cho đến khi Đảng ta trở thành một Đảng cầm quyền, Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn thường xuyên quan tâm đến vấn đề lý luận kết hợp thực tiễn. Người cho đó là một khâu quan trọng trong công tác cán bộ và là một nhiệm vụ cần thiết để xây dựng Đảng luôn trong sạch vững mạnh. 1. Sự cần thiết phải có lý luận Mác- Lênin làm nền tảng tư tưởng Đến với chủ nghĩa Mác- Lênin- học thuyết cách mạng đúng đắn nhất, khoa học nhất và tìm được lý luận tiên tiến soi đường, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc trở về Quảng Châu- Trung Quốc, chuẩn bị về chính trị, tư tưởng và tổ chức cho sự ra đời của chính Đảng kiểu mới ở Việt Nam. Cũng trong những năm tháng đó, một trong những nội dung Người giảng cho những người yêu nước Việt Nam là phải nắm vững và không ngừng nâng cao trình độ lý luận, đặc biệt là gắn liền lý luận với thực tiễn. Vì vậy, lời của Lênin: “Không có lý luận cách mệnh thì không có cách mệnh vận động”[1] đã được in trang trọng ngay phần mở đầu của tác phẩm Đường Kách mệnh (1927)- tác phẩm kinh điển gối đầu của những người cách mạng Việt Nam. Sau đó, chủ nghĩa Mác-Lênin vào được Việt Nam, tỏ rõ sức sống mãnh liệt, được bổ sung và phát triển trong điều kiện cụ thể của Việt Nam cũng chính là nhờ Chủ tịch Hồ Chí Minh- Người luôn đứng vững trên nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn. Cùng với việc chống giáo điều trong học tập chủ nghĩa Mác – Lênin, những người cộng sản Việt Nam còn phải chống giáo điều trong vận dụng lý luận cũng như kinh nghiệm của nước khác, như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: "Không chú trọng đến đặc điểm của dân tộc mình trong khi học tập kinh nghiệm của các nước anh em, là sai lầm nghiêm trọng, là phạm chủ nghĩa giáo điều[2]. Tránh cả hai loại giáo điều này, thì biện pháp cơ bản là phải gắn lý luận với thực tiễn cách mạng nước nhà. Trên tinh thần đó, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, lấy chủ nghĩa Mác- Lênin làm kim chỉ nam, trở thành đội tiền phong của giai cấp công nhân và của cả dân tộc. Trong suốt những năm lãnh đạo nhân dân ta tiến hành cuộc cách mạng giải phóng đất nước “Đảng ta không những đã giành được quyền lãnh đạo cách mạng trong cả nước mà còn giữ vững được quyền lãnh đạo đó trên mọi lĩnh vực”[3]. Tuy nhiên, trong quá trình Đảng ta cầm quyền, lãnh đạo toàn dân vừa bảo vệ thành quả của cuộc cách mạng tháng Tám 1945 và xây dựng chế độ xã hội mới, thì đã xuất hiện những bất cập. Bên cạnh những thành tích rất đáng tự hào, cũng đã có không ít những bài học đau lòng xảy ra trong thực tế. Đó là khi người cán bộ, đảng viên phần lớn xuất thân từ nông dân và công nhân, chưa có điều kiện, thậm chí không có điều kiện học tập, nghiên cứu đến nơi đến chốn, nên trình độ còn nhiều hạn chế. Họ tuy nhiệt thành cách mạng, gương mẫu đi đầu, trưởng thành trong phong trào, song sự yếu kém về trình độ, và thói quen “ít đọc sách và suy nghĩ” đã dẫn họ (với trọng trách mình đang nắm giữ) mặc nhiên làm việc theo chủ nghĩa kinh nghiệm, đầy cảm tính. Họ coi lý luận là việc của những người lãnh đạo cấp cao, của các nhà lý luận. Còn với họ, lý luận chỉ ràng buộc tư tưởng, gò bó hành động. Thiếu hụt về trình độ văn hóa, yếu lý luận, đặc biệt là đuối kém trong việc nắm bắt những nguyên lý lý luận của chủ nghĩa Mác- Lênin đã khiến họ gặp phải không ít khó khăn và lúng túng khi tiếp thu bản chất, tinh thần của những nguyên lý mác xít này. Do trình độ lý luận thấp, họ đã tuyệt đối hóa các nguyên lý của học thuyết cách mạng khoa học, đồng thời coi đó là những chân lý bất biến trong tư duy của mình. Từ đó dần sa vào giáo điều, chủ quan duy ý chí, kinh nghiệm chủ nghĩa, dẫn đến hành động một cách cứng nhắc, sai lầm. Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn nhắc nhở rằng: muốn khẳng định và giữ vững vị thế của một Đảng cầm quyền, đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng phải “có lý tưởng, có tinh thần thiết thực và công tác thực tế hợp lại mới là người đảng viên tốt”[4]. Muốn đạt được điều đó, phải học, làm nghề gì cũng phải học, vì “cách mạng tiến lên mãi, Đảng tiến lên mãi”. Lý luận khoa học mà Người nắm vững, vận dụng một cách sáng tạo và điều kiện cụ thể của Việt Nam và luôn mong mọi cán bộ, đảng viên được trang bị, thấm nhuần chính là lý luận Mác- Lênin, lý luận cách mạng nhất, thiết thực nhất chỉ đạo mọi hành động. Chăm lo đến công tác đào tạo cán bộ, đặc biệt là cán bộ lý luận, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: lý luận có vai trò hết sức to lớn đối với thực tiễn, lý luận "như cái kim chỉ nam, nó chỉ phương hướng cho chúng ta trong công việc thực tế. Không có lý luận thì lúng túng như nhắm mắt mà đi"[5]. Người cũng nói: "Làm mà không có lý luận thì không khác gì đi mò trong đêm tối vừa chậm chạp vừa hay vấp váp"[6], nên nhấn mạnh cán bộ, đảng viên cần nhớ: “Học chủ nghĩa Mác-Lênin là học tập cái tinh thần xử trí mọi việc, đối với mọi người và đối với bản thân mình; là học tập những chân lý phổ biến của chủ nghĩa Mác-Lênin để áp dụng một cách sáng tạo vào hoàn cảnh thực tế của nước ta. Học để mà làm. Lý luận đi đôi với thực tiễn”[7]. Cũng theo quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh, trang bị lý luận Mác- Lênin cho đội ngũ cán bộ, đảng viên là yêu cầu cần thiết, vì trong chiến tranh hay trong hòa bình, lý luận cũng giúp người cán bộ, đảng viên nắm cái tinh thần và nguyên tắc xử trí đối với công việc, đồng thời giúp mọi người sống tình nghĩa với nhau. Tháng 6/1968, khi làm việc với một số cán bộ Ban Tuyên huấn TƯ Đảng về xuất bản loại sách người tốt việc tốt, Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn căn dặn: Hiểu chủ nghĩa MácLênin là phải sống với nhau có tình có nghĩa. Nếu thuộc bao nhiêu sách mà sống không có tình có nghĩa thì sao gọi là hiểu chủ nghĩa Mác Lênin được. Đó chính là: "Học tập lý luận thì nhằm mục đích để vận dụng chứ không phải học lý luận vì lý luận, hoặc để tạo cho mình một cái vốn lý luận để sau này đưa ra mặc cả với Đảng"[8]. 2. Mỗi cán bộ đảng viên phải gắn lý luận với thực tiễn Tuy lý luận là rất cần thiết, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng chỉ rõ có lý luận rồi thì phải kết hợp lý luận với kinh nghiệm thực tế, nếu không lại mắc phải bệnh lý luận suông - bệnh giáo điều. Người khẳng định, "Lý luận cũng như cái tên (hoặc viên đạn). Thực hành cũng như cái đích để hắn. Có tên mà không bắn, hoặc bắn lung tung, cũng như không có tên"[9], nên người cán bộ, đảng viên không thể chỉ lý luận theo sách vở thuần túy. Bởi lẽ, "lý luận cốt để áp dụng vào công việc thực tế. Lý luận mà không áp dụng vào công việc thực tế là lý luận suông. Dù xem được hàng ngàn, hàng vạn quyển lý luận, nếu không biết đem ra thực hành, thì khác nào một cái hòm đựng sách", vì vậy, khi vận dụng lý luận phải luôn xuất phát từ thực tiễn, nếu không cũng sẽ duy ý chí, chủ quan, giáo điều. Để cán bộ, đảng viên luôn thống nhất giữa lý luận và thực tiễn, khắc phục bệnh kinh nghiệm, thì trước hết họ cần phải khắc phục bệnh kém lý luận, bệnh khinh lý luận, vì rằng, kém lý luận, khinh lý luận nhất định sẽ dẫn tới bệnh kinh nghiệm. Vì theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, không có lý luận thì chỉ dựa vào kinh nghiệm, dẫn tới tuyệt đối hóa kinh nghiệm, cho kinh nghiệm là yếu tố quyết định thành công trong hoạt động thực tiễn. Và khi bệnh kinh nghiệm trầm trọng, kéo dài, tổn hại gây ra sẽ không nhỏ. Thực tế cho thấy, có không ít cán bộ, đảng viên "chỉ bo bo giữ lấy kinh nghiệm lẻ tẻ. Họ không hiểu rằng lý luận rất quan trọng cho sự thực hành cách mạng. Vì vậy, họ cứ cắm đầu nhắm mắt mà làm, không hiểu rõ toàn cuộc của cách mạng"[10]. Quên rằng, "kinh nghiệm của họ tuy tốt, nhưng cũng chẳng qua là từng bộ phận mà thôi, chỉ thiên về một mặt mà thôi. Có kinh nghiệm mà không có lý luận cũng như một mắt sáng một mắt mờ"[11], họ thực không hiểu, thậm chí cố tình không hiểu vai trò của lý luận đối với thực tiễn. Vì vậy, cũng từ việc thấm nhuần những lời dạy của Lênin: “Chủ nghĩa cộng sản sẽ trở thành trống rỗng, sẽ chỉ là một chiêu bài rỗng tuếch, người cộng sản sẽ chỉ là một anh khoe khoang khoác lác tầm thường, nếu như tất cả các kiến thức đã thu nhận được không được nghiền ngẫm trong ý thức của anh ta”[12], Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh: người cán bộ, đảng viên muốn không sa vào chủ nghĩa kinh nghiệm, nhất định phải cần có lý luận soi đường, chỉ đạo và hướng dẫn; còn khi họ đã có lý luận dẫn đường cũng rất cần phải dựa trên cơ sở thực tiễn, phải luôn liên hệ với thực tiễn, để tránh sa vào giáo điều. Đó chính là yêu cầu: Lý luận phải gắn liền với thực tiễn, bởi: "Thống nhất giữa lý luận và thực tiễn là một nguyên tắc căn bản của chủ nghĩa Mác - Lênin. Thực tiễn không có lý luận hướng dẫn thì thành thực tiễn mù quáng. Lý luận mà không có liên hệ với thực tiễn là lý luận suông"[13]. Bản thân Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn thống nhất giữa lời nói và việc làm, luôn gắn liền lý luận với thực tiễn. Trong suốt cuộc đời mình, dù lúc bị tù đày hay khi đã trỏ thành một nguyên thủ quốc gia, Hồ Chí Minh vẫn không ngừng học hỏi, làm giàu tri thức, tích lũy kinh nghiệm bằng kho tàng tri thức văn hóa của nhân loại. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kiên trì vượt lên lối tư duy kinh nghiệm, cảm tính để đến với lý luận khoa học, gắn lý luận với thực tiễn cách mạng. Người là tấm gương sáng về việc quán triệt nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn. Trong mọi thời điểm, Người luôn luôn sâu sát thực tế, xuất phát từ thực tế, đặc biệt là gắn bó với cơ sở, gần gũi với nhân dân. Đó là vị Chủ tịch nước ngay sau khi mới giành được độc lập cứ mười ngày nhịn ăn một bữa góp gạo cứu đói cho đồng bào; tham gia cuốc đất tăng gia sản xuất với cán bộ; xuống ruộng dùng thử máy cấy lúa cải tiến; lội bùn tát nước với nông dân; ra biển kéo lưới với ngư dân; cùng đồng bào ăn cơm độn ngô trong giai đoạn chống chiến tranh phá hoại; lấy tiền nhuận bút từ sổ tiết kiệm mua nước uống cho chiến sĩ phòng không; đề nghị dùng tiền đúc tượng mình mua sách vở cho các cháu học sinh… Trong khoảng thời gian từ 1955 - 1965, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã hơn 700 lần đi thăm hỏi, tiếp xúc tìm hiểu thực tế đời sống của cán bộ, bộ đội, công nhân, giáo viên, bác sĩ, nông dân, các đơn vị bộ đội, thanh niên xung phong, các hợp tác xã, bệnh viện, trường học, v.v... theo Người "Làm như thế là tổng kết để làm cho nhận thức của chúng ta đối với các vấn đề đó được nâng cao hơn và công tác có kết quả hơn"[14]. 3. Gắn liền lý luận với thực tiễn trong công tác giáo dục và rèn luyện cán bộ đảng viên theo tư tưởng Hồ Chí Minh Di sản lý luận Chủ tịch Hồ Chí Minh để lại (bao gồm những bài nói, bài viết, bài phát biểu) về sự cần thiết phải học tập lý luận, phải gắn lý luận với thực tiễn cho cho đội ngũ cán bộ, đảng viên chính là những chỉ dẫn, những biện pháp cơ bản nhằm ngăn ngừa, khắc phục bệnh kinh nghiệm và bệnh giáo điều. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phát hiện ra bệnh giáo điều, bệnh kinh nghiệm, hậu quả của việc không nhận thức đúng đắn vai trò của lý luận, không gắn lý luận với thực tiễn đang ngự trị trong đội ngũ cán bộ, đảng viên. Những biểu hiện: “thuộc làu làu”, “tầm chương trích cú”, hoặc biết “dăm ba chữ”,v.v.. của cán bộ, đảng viên chỉ làm mất đi sự hấp dẫn và sức sống của một học thuyết Mác-Lênin – học thuyết cách mạng và khoa học của thời đại vốn có giá trị nhận thức và cải tạo cao. Nếu chỉ hiểu những điều Chủ tịch Hồ Chí Minh nói thôi thì chưa đủ, mỗi cán bộ, đảng viên của Đảng còn phải học tập tinh thần, quan điểm, thái độ quán triệt sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn của Người, phải không ngừng học hỏi và sâu sát thực tiễn. Phải khắc phục bệnh giáo điều, bệnh kinh nghiệm và đổi mới tư duy bằng cách ý thức sâu sắc hơn trách nhiệm chính trị và nghĩa vụ của bản thân bằng cách học và học tập không ngừng để “trở thành một người cộng sản có học thức”. Chúng ta đều biết “chân lý là cụ thể, cách mạng là sáng tạo”. Điều này đúng trong mọi hoàn cảnh, và càng có ý nghĩa sâu sắc hơn trong bối cảnh đất nước ta đang thực hiện đổi mới và hội nhập. Khắc nghiệt của thực tiễn đang hàng ngày, hàng giờ nảy sinh những tình huống, những vấn đề và những câu hỏi không thể tìm được đáp án từ sách vở, từ lý luận đã có. Hơn nữa thực tiễn sinh động biến đổi và phát triển không ngừng luôn yêu cầu chúng ta phải hành động chứ không thể ngồi chờ có lý luận rồi mới hành động. Vì vậy, để cán bộ đảng viên xứng đáng là người lãnh đạo, người đầy tớ trung thành của nhân dân như Chủ tịch Hồ Chí Minh từng mong muốn, chúng ta phải học ở Người phương pháp dùng lý luận tổng kết kinh nghiệm thực tiễn để rồi bổ sung cho lý luận những kết luận mới, phù hợp với thực tiễn. Đó chính là phương pháp luận Hồ Chí Minh: “Công việc gì bất kỳ thành công hoặc thất bại, chúng ta cần nghiên cứu cội rễ, phân tách thật rõ ràng rồi kết luận. Kết luận đó sẽ là cái chìa khóa phát triển công việc và để giúp cho cán bộ tiến tới"[15], vì rằng nghiên cứu kinh nghiệm cũ để giúp cho thực hành mới, lại đem thực hành mới để phát triển kinh nghiệm cũ, làm cho nó đầy đủ dồi dào thêm" chính là quá trình tổng kết kinh nghiệm thực tiễn, đúc rút kinh nghiệm để bổ sung, hoàn thiện, phát triển lý luận. Phương pháp Hồ Chí Minh cũng chính là cách dùng lý luận đã học được để phân tích những thắng lợi và thất bại trong công tác, những mặt đúng hay sai trong tư tưởng để làm cho nhận thức của mỗi người đối với các vấn đề trong thực tiễn được nâng cao hơn, vì thế kết quả thu được cũng sẽ tốt hơn. Trước những thách thức của thời kỳ đổi mới và hội nhập, trước thực trạng trình độ lý luận của đội ngũ cán bộ, đảng viên tỏ ra chưa tương xứng với yêu cầu và nhiệm vụ của thời kỳ mới, sự giảm sút niềm tin, cùng những nhận thức mơ hồ về chủ nghĩa Mác-Lênin và CNXH, đặc biệt là chưa thấm nhuần sâu sắc những lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Công việc ngày càng nhiều và càng phức tạp. Xã hội ngày càng tiến lên. Vì vậy trình độ của đảng viên và cán bộ cũng phải tiến lên mới làm tròn được nhiệm vụ”[16], Nghị quyết Đại hội Đảng ta đã khẳng định: “Mọi cán bộ, đảng viên, trước hết là các cán bộ lãnh đạo chủ chốt, phải có kế hoạch thường xuyên học tập, nâng cao trình độ lý luận chính trị, kiến thức và năng lực hoạt động thực tiễn. Học tập là nghĩa vụ bắt buộc đối với mọi cán bộ, đảng viên và phải được quy định thành chế độ”[17]. Học lý luận, gắn lý luận với thực tiễn, đáp ứng yêu cầu của Chủ tịch Hồ Chí Minh là học “để làm việc, làm người, làm cán bộ” (9/1949). Bởi vậy, khi học lý luận trở thành nhu cầu để thực hiện mục đích, lý tưởng của những người cộng sản thì lý luận “thực sự là chiếc cẩm nang thần kỳ” cung cấp cho cán bộ, đảng viên những tri thức, những hiểu biết và phương pháp tư duy để giải quyết tốt những công việc, những đòi hỏi của thực tiễn. Mỗi cán bộ đảng viên, mỗi người khi học lý luận, càng cần phải coi trọng và quán triệt nguyên tắc “học đi đôi với hành, lý luận gắn liền với thực tiễn”. Lấy chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho mọi hành động, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước ta là kết quả sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh vào thực tiễn cách mạng Việt Nam, hơn bao giờ hết, đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng không những cần phải thấm nhuần chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, mà còn phải dám nghĩ, dám làm, để lãnh đạo quần chúng, biến đường lối của Đảng thành kết quả và thành công trong cuộc sống. Suy ngẫm lại những điều Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng căn dặn, học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh không chỉ là bài học tư tưởng quý giá, mà còn có ý nghĩa đặc biệt thiết thực đối với mỗi người cán bộ, đảng viên chúng ta hôm nay./. GIÁO DỤC, BỒI DƯỠNG ĐẠO ĐỨC CÁCH MẠNG CHO THANH NIÊN VIỆT NAM THEO TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH ThS Nguyễn Thúy Hà Ban Quản lý khoa học Bất cứ một dân tộc, một quốc gia nào, một chế độ xã hội nào muốn tồn tại và phát triển đều phải quan tâm đến việc đào tạo, giáo dục, bồi dưỡng thế hệ trẻ. Lịch sử phát triển của các dân tộc đã chứng minh thanh niên là lực lượng có vai trò quan trọng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước. Sự phát triển của thế hệ trẻ, chẳng những chỉ quan hệ đến vận mệnh và tương lai của đất nước, của dân tộc mà còn ảnh hưởng tới tương lai của toàn nhân loại. Thế hệ trẻ là một trong những lực lượng nòng cốt của cách mạng, luôn xung phong gương mẫu, đi đầu trong mọi nhiệm vụ và góp phần quan trọng vào thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Thế  hệ trẻ là những chủ nhân tương lai của dân tộc, cần được đào tạo, bồi dưỡng để họ trở thành những người vừa  “hồng’’ vừa   “chuyên’’ trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc cũng như trong công cuộc xây dựng và bảo vệ tổ quốc… Do vậy, Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt coi trọng đào tạo, bồi dưỡng, rèn luyện đạo đức cách mạng cho thế hệ trẻ. Người coi đó là một việc rất quan trọng và rất cần thiết. “Vì lợi ích mười năm thì phải trồng cây Vì lợi ích trăm năm phải trồng người” Câu nói tưởng chừng rất đỗi ngắn gọn và giản dị ấy lại chứa đựng một tư tưởng vô cùng sâu sắc và mang tầm chiến lược của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Để hướng tới sự phát triển lâu dài và bền vững của đất nước thì nhân tố con người phải luôn được đặt lên hàng đầu. Chủ tịch Hồ Chí Minh là người có tầm nhìn xa trông rộng, đã sớm nhận ra vai trò to lớn của việc đào tạo, bồi dưỡng, rèn luyện thanh niên. Người coi thanh niên là lực lượng chính và nòng cốt của cuộc cách mạnh; là lực lượng năng động sáng tạo; là người kế tục trung thành sự nghiệp cách mạng của Đảng và nhân dân ta; và là người quyết định vận mệnh của đất nước trong tương lai. Vì vậy việc tổ chức, giáo dục, bồi dưỡng thế hệ thanh niên có ý nghĩa quyết định đối với sự phát triển kinh tế, xã hội của đất nước và sự thắng lợi của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản ở Việt Nam. Nhìn lại toàn bộ di sản tinh thần và hoạt động thực tiễn của Chủ tịch Hồ Chí Minh, từ khi bắt đầu cuộc vận động cách mạng Việt Nam cho tới cuối đời Người một quan điểm tư tưởng nổi bật là: Người luôn luôn bám chắc vào nhiệm vụ chính trị của từng thời kỳ cách mạng khi bàn về nội dung bồi dưỡng thế hệ trẻ, chú ý đến những vấn đề chủ yếu, cấp bách nhất trong khi vẫn đề cập đến các vấn đề khác một cách toàn diện. Và cũng chính vì Người có cách nhìn đúng đắn về mối quan hệ giữa giáo dục, đào tạo và sử dụng thanh niên trong quá trình cách mạng. Từ thực tiễn lịch sử và những kinh nghiệm hoạt động thực tiễn, ngay sau khi tìm thấy con đường cứu nước và giải phóng dân tộc, Hồ Chí Minh đã ý thức sâu sắc rằng thanh niên là một lực lượng to lớn, có vai trò đặc biệt quan trọng trong sự nghiệp cách mạng của dân tộc. Năm 1925, trong thư Gửi thanh niên An Nam, Người đã nêu hiện trạng đội ngũ thanh niên Việt Nam lúc đó và nỗi băn khoăn, trăn trở của người về tương lai của dân tộc, bởi ngày ấy, phần đông thanh niên nước ta mù chữ, bị đầu độc bằng “rượu cồn và thuốc phiện’’ dưới ách áp bức bóc lột của thực dân phong kiến. Với hy vọng sẽ cảnh tỉnh và khơi dậy ý chí tự lực tự cường, tinh thần tự hào, tự tôn dân tộc để thanh niên An Nam sớm thức tỉnh để “hồi sinh’’ dân tộc…, Hồ Chí Minh kêu gọi: “Hỡi Đông Dương đáng thương hại”[1]  Người sẽ chết mất, nếu đám thanh niên già cỗi của người không sớm hồi sinh’’. Từ việc nhìn nhận, đánh giá cao vai trò, vị trí và khả năng to lớn của thanh niên trong sự nghiệp cách mạng của dân tộc, chỉ sau một thời gian ngắn khi về hoạt động tại đây lập ra Hội Việt Nam cách mạng Thanh Niên, cho xuất bản báo “Thanh niên’’, mở lớp huấn luyện, trực tiếp đào tạo, rèn luyện họ thành lực lượng nòng  cốt trong công cuộc cách mạng giải phóng dân tộc. Những tư tưởng chủ yếu của Hồ Chí Minh về thanh niên và công tác thanh niên đã được thể hiện: Hồ Chí Minh coi thanh niên là một lực lượng xã hội to lớn, đánh giá đúng tiềm năng cách mạng hùng  hậu của thanh niên. Bác Hồ dạy: “Nước nhà thịnh hay suy, yếu hay mạnh phần lớn là do các thanh niên’’ (Thư gửi thanh niên 8/1047). Hồ Chí Minh coi giáo dục, đào tạo, bồi dưỡng thế hệ trẻ là sự nghiệp “Trồng người’’. Trong thư gửi các cán bộ giáo dục, học sinh, sinh viên các trường và các lớp bổ túc văn hóa ngày 31/8/1960 Người viết: “Trong việc giáo dục và học tập, phải chú trọng đủ các mặt: đạo đức cách mạng, giác ngộ xã hội chủ nghĩa, văn hóa kỹ thuật, lao động và sản xuất’’[2]. Đó là những nội dung giáo dục hết sức căn bản, gắn bó chặt chẽ với nhau, làm nền tảng cho sự phát triển con người Việt Nam nói chung và thanh niên Việt nam nói riêng.  Trong khi nêu lên những mặt mạnh của thanh niên, Bác Hồ luôn có sự nhìn nhận khách quan về những nhược điểm của họ và chỉ ra cho thanh niên con đường rèn luyện, phấn đấu để trưởng thành. Người đã chú ý đến việc giáo dục ý thức làm chủ tập thể cho thanh niên, bởi vì hiện nay “Nhân dân lao động là những người chủ tập thể của tất cả những của cải vật chất và văn hoá, đều bình đẳng về quyền lợi và  nghĩa vụ’’. Thực hiện cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa, về giáo dục tư tưởng Bác Hồ đã nhấn mạnh đến việc chống chủ nghĩa cá nhân, xây dựng tinh thần làm chủ tập thể. Những tư tưởng, tác phong mới mà đảng và Bác Hồ yêu cầu ở mỗi thanh niên, mỗi người lao động là: “Ý thức làm chủ và tinh thần làm chủ xã hội chủ nghĩa. quan điểm “tất cả phục vụ sản xuất’’ Ý thức cần kiệm xây dựng nước nhà Tinh thần tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội’’[3] Yêu cầu mới của xã hội đòi hỏi người thanh niên tinh thần dám nghĩ, dám làm vươn lên  hàng đầu thành người lao động tiên tiến, phải tin tưởng rằng mình có đầy đủ sức mạnh, can đảm và thông minh để xây dựng cuộc đời mới. Vì vậy, Hồ Chí Minh luôn nhắc nhở thanh niên: phải ra sức học tập, nâng cao trình độ văn hoá kỹ thuật, có tinh thần sáng tạo, tìm tòi cái mới, học tập cái mới, ủng hộ cái mới, thực hiện cái mới. Hồ Chí Minh nói: “Nói chung, thanh niên phải chuẩn bị làm người chủ nước nhà. Muốn thế, phải ra sức học tập chính trị, kỹ thuật, văn hoá, trước hết phải rèn luyện và thuấm nhuần tư tưởng xã hội chủ nghĩa, gột rửa tư tưởng cá nhân chủ nghĩa’’[4] Coi thanh niên là đối tượng giáo dục, Bác luôn quan tâm đến sự phát triển phong phú và nhiều mặt của thế hệ trẻ, đặc biệt là về đạo đức. Hồ Chí minh rất chú trọng đến việc giáo dục những phẩm chất cao quý như: Cần, kiệm, liêm chính, chí công vô tư, những tác phong đẹp đẽ như kiêm tốn, giản dị. Bác thường nói, thanh niên ta “… phải trau dồi đạo đức cách mạng: đạo đức cách mạng là bất kỳ ở cương vị nào, bất kỳ làm công việc gì đều không sợ khó, không sợ khổ, đều một lòng, một dạ phục vụ lợi ích chung của giai cấp, của nhân dân…Bác thường căn dặn nếu không giáo dục thanh niên đức tính giản dị, tiết kiệm thì dễ dẫn đến tiêu pha phung phí, đẩy thanh niên vào con đường làm ăn bất chính, tệ nạn xã hội, vi phạm pháp luật. Hồ Chí Minh thường xuyên nhắc nhở cần phải giáo dục thanh niên tình yêu lao động, có thái độ trân trọng người lao động trí óc cũng như lao động chân tay. Người nói: “Lao động là nghĩa vụ thiêng liêng, là nguồn sống, nguồn hạnh phúc của chúng ta. Trong xã hội ta không có nghề nào thấp kém, chỉ những kẻ lười biếng, ỷ lại mới đáng xấu hổ’’. Cần giáo dục cho thanh niên kỷ luật lao động, ý thức bảo vệ của công, thực hành tiết kiệm, tinh thần giám nghĩ giám làm, không sợ khó, không sợ khổ, cần cù trong lao động, nhẫn lại sáng tạo trong lao động. Theo Hồ Chí minh, rèn luyện đạo đức là việc làm suốt đời, rèn luyện bền bỉ, thường xuyên rèn luyện ở mọi nơi, mọi lúc. Phải kết hợp giữ trau dồi những đức tính tốt đẹp với chống sự lười biếng, những thói hư tật sấu, phải thường xuyên tự phê bình và phê bình, nói đi đôi vói làm từ việc lớn đến việc nhỏ. Người cho rằng, kết quả hành động là thước đo đạo đức. Trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, Hồ Chí Minh luôn quan tâm đến công tác giáo dục lý tưởng cách mạng cho thanh niên. Bác thường tập trung vào những nội dung cơ bản: phải dạy cho họ biết yêu nước, thương nòi. Phải dạy cho họ ý thức tự lập tự cường, quyết không chịu thua kém ai,quyết không chịu làm nô lệ, làm cho họ nhận thức rõ về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Phải giúp cho thanh niên có niềm tin tưởng vào tương lai của đất nước, tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng. Giáo dục than h niên, bồi dưỡng thanh niên thấm nhuần chủ nghĩa Mác – Lênin, trang bị cho họ thế giới quan duy vật, phương pháp luận biện chứng và nhân sinh quan cách mạng để thanh niên có cái nhìn đúng đắn về tự nhiên, xã hội, con người, có niềm tin khoa học vào cách mạng và hành động đúng đắn đạt hiệu quả cao, thấm nhuần đường lối quan điểm của Đảng, chính sách của Nhà nước. Với thanh niên còn cần phải giáo dục, bồi dưỡng lý tưởng gắn với việc phát huy vai trò xung kích, giao phó cho họ những   nhiệm vụ góp phần to lớn vào thực hiện mục tiêu cách mạng trong từng giai đoạn, từng thời kỳ. Luôn quan tâm đến việc phát triển Đảng viên trẻ nhằm tăng sinh lực cho Đảng, đảm bảo sự kế thừa qua các thế hệ và tạo điều kiện cơ hội cho thanh niên trưởng thành, cần gắn bồi dưỡng lý tưởng với bồi dưỡng truyền thống dân tộc và cách mạnh. Tấm gương học tập của Hồ Chí Minh và những điều dạy bảo của người là bài học cho thanh niên nước ta noi theo, làm theo. Việc không ngừng học tập để nâng cao trình độ văn hóa, kỹ thuật và nghề nghiệp là một trong những đòi hỏi rất nghiêm ngặt của Hồ Chí Minh đối với thanh niên. Thanh niên là lực lượng quan trọng của xã hội, không những có vai trò tham gia thực hiện tốt các nhiệm vụ hiện tại của đất nước, mà điều quan trọng hơn là lớp người đảm đương xây dựng một xã hội tương lai. Xuất phát từ nhận thức đó, Hồ Chí Minh luôn chủ trương thực hiện giáo dục toàn diện. Người cho rằng việc giáo dục, bồi dưỡng thanh niên phải chú trọng rèn luyện đủ các mặt: đức, trí, thể, mỹ.  Một vấn đề có tính nguyên tắc và đặc biệt quan trọng được người chỉ rõ là: việc chăm lo bồi dưỡng thế hệ trẻ là trách nhiệm của toàn xã hội và phải luôn gắn liền với cuộc đấu tranh chung của xã hội. Sự nghiệp “trồng người’’ đòi hỏi sự quan tâm của cả hệ thống chính trị, sự phối hợp thường xuyên, chặt chẽ và lâu dài từ trung ương đến địa phương. Tư tưởng  “trồng người’’ ở Hồ Chí Minh rất khoa học và toàn diện cả về nội dung và phương pháp. Người nói: “Ta xây dựng con người cũng phải có định hướng rõ  ràng như nhà kiến trúc’’. Để xây dựng con người thì “trong việc giáo dục và học tập phải chú trọng các mặt : đạo đức cách mạng, giác ngộ  xã hội chủ nghĩa, văn hoá kỹ thuật, lao động và sản xuất’’[5]. Giáo dục phải toàn diện: đức, trí, lao động, thể, mỹ, “học để làm việc, học để làm người’’, “học đi đôi với hành’’. Trong “Di chúc’’, phần viết về đoàn viên, thanh niên ta, Người thiết tha dặn lại:    “Bồi dưỡng  thế hệ cách mạng cho đời sau là một việc rất quan trọng và cần thiết’’, tức là Người muốn lưu ý  Đảng, Nhà nước ta và cả hệ thống chính trị, không lúc nào được một phút lơ là nhiệm vụ trọng đại và cấp bách này. Thế hệ trẻ Việt Nam hiện nay đang lớn lên trong những điều kiện hết sức phức tạp của cuộc đấu tranh giải phóng giai cấp và giải phóng dân tộc trên phạm vi toàn thế giới trong bối cảnh mở cửa, hội nhập, toàn cầu hoá về kinh tế hiện nay, do vậy thanh niên Việt Nam hiện nay lại đang lớn lên dưới tác động  của cơ chế thị trường, họ đang suy nghĩ gì, đang hướng về đâu, đó là điều ta phải nắm chắc, phải tìm ra cơ chế điều chỉnh, bởi như Mác  và Lênin đã từng nói: trong các nhân tố tác động đến hoạt động của con người không có gì mạnh bằng các lợi ích kinh tế. Chính vì vậy, Đảng, Nhà nước và nhân dân cần tạo ra một môi trường sống lành mạnh, điều kiện học tập và rèn luyện tốt để thế hệ trẻ có điều kiện phát huy hết vai trò, khả năng và sức sáng tạo của mình, đồng thời giúp cho thế hệ trẻ tự tin hơn trong cuộc sống, trong học tập và lao động, để khi lớn lên trở thành những người đủ đức, đủ tài, sẵn sàng hoàn thành và hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ Tổ Quốc và nhân dân giao phó, xứng đáng là người chủ tương lai của đất nước. Phương hướng bồi dưỡng thế hệ trẻ của Hồ Chí Minh bao hàm một nội dung toàn diện, thông qua các biện pháp tổng hợp và sử dụng sức mạnh tổng hợp của các lực lượng xã hội để tiến hành. Sử dụng dư luận xã hội, luật pháp của Nhà nước, kết hợp các biện pháp hành chính, kinh tế để giáo dục và khuyến khích thanh niên đi vào phương hướng đúng đắn. Bác nhắc nhở: “Giáo dục thanh niên không thể tách rời mà phải liên hệ chặt chẽ với những cuộc đấu tranh của xã hội’’. Những cuộc đấu tranh của xã hội, đó vừa là nội dung giáo dục, vừa là môi trường để rèn luyện, thử thách thế  hệ trẻ. Hồ Chí Minh rất chú trọng việc nêu gương người tốt, cũng như thông qua phong trào thi đua yêu nước để cổ vũ, động viên những thanh niên ưu tú. Như vậy trong nội dung và phương hướng bồi dưỡng thanh niên, Người không chỉ chú ý đến tính toàn diện, tính cụ thể mà còn chú ý đến hiệu quả thiết thực và có sự quan tâm đến đặc điểm tâm lý, lứa tuổi và sự ham thích của thanh niên. Hồ Chí Minh đã nói đến vui chơi như một yêu cầu của thanh niên mà chúng ta cần chú ý. Người nói: “Thanh niên phải chuyên tâm đi học và công tác, nhưng cũng cần có vui chơi. Vui chơi lành mạnh là một bộ phận trong sự sinh hoạt của thanh niên… Trong vui chơi, cũng có giáo dục. Cần có những thứ vui chơi văn hoá, thể dục có tính chất tập thể và quần chúng’’[6] Nghệ thuật giáo dục thanh niên đòi hỏi chúng ta phải tìm hiểu quy luật vận động tư tưởng của thanh niên  để có những biện pháp, hình thức sử dụng cho phù hợp và được họ chấp nhận một cách nhẹ nhàng, tự nguyện. Trong những buổi tiếp xúc của Bác  với thanh niên, Bác đã có những lời nói cử chỉ, cử chỉ đi vào lòng người, để lại những ấn tượng rất sâu sắc nên tính thuyết phục của người được tăng lên gấp bội. Đồng thời tấm gương sống của cả cuộc đời  cách mạng trong sáng và tận tuỵ là một bài học đạo đức vô cùng sâu sắc khiến lời nói và việc làm ở Người trở thành những chân lý đầy sức thuyết phục. Chúng ta không thể tách thanh niên ra khỏi môi trường xã hội hiện nay. Trong xã hội nhiều hiện tượng tiêu cực đang diễn ra, nhưng đồng thời những việc làm đẹp không phải là thiếu. Nhưng cái mới, cái đẹp chưa được biểu dương kịp thời, được khuyến khích để phát triển, át cái sấu tiêu cực. Nguyên nhân không thể chỉ quy cho biện pháp giáo dục mà phải tìm nguyên nhân trong cơ chế tổ chức, cơ chế quản lý kinh tế, xã hội hiện nay. Như vậy việc bồi dưỡng thanh niên có liên quan đến hàng loạt vấn đề lớn lao của đất nước, chiến lượt xây dựng con người mới phải đi đôi với công cuộc đổi mới xã hội. Chiến lược con người rõ ràng chỉ có thể thực hiện được tốt trong mối liên hệ mất thiết với việc tiến hành những chiến lược kinh tế, văn hoá, xã hội thích hợp nhằm làm chuyển biến tình hình nước ta hiện nay. Chúng ta hoàn toàn có thể tin tưởng ở thế hệ thanh niên hiện nay sẽ làm tròn nhiệm vụ được giao phó, khi họ được quan tâm thích đáng và được bồi dưỡng, giúp đỡ như Bác Hồ đã nhận định: “Đảng ta đã đào tạo một thế hệ thanh niên cách mạng, gái cũng như trai, rất hăng hái, dũng cảm trong mọi công tác’’ Một số giải pháp nhằm phát huy vai trò của thanh niên và công tác thanh niên trong thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay. Tăng cường giáo dục lý tưởng đạo đức cách mạng, lối sống văn hoá cho thanh niên. Cần phải đẩy mạnh cuộc vận động “Tuổi trẻ Việt Nam học tập và làm theo lời Bác’’, lấy việc “làm theo lời Bác’’ là trọng tâm. Thường xuyên tổ chức các hình thức tuyên dương, nhân rộng các tấm gương điển hình trong thanh niên làm theo lời Bác. Quan tâm triển khai có hiệu quả việc áp dụng thực hiện bộ tiêu chí rèn luyện, chuẩn mực đạo đức và định hướng giá trị cho thanh niên mà trung ương Đoàn đề ra. Hoạt động “đền ơn đáp nghĩa”, “Uống nước nhớ nguồn”đã được triển khai rộng khắp trong tất cả các cơ sở Đoàn, thu hút đông đảo đoàn thanh niên tham gia chăm sóc các bà mẹ Việt Nam anh hùng, các thương bệnh binh, gia đình liệt sỹ… Các cuộc thi tìm hiểu về Đảng về Bác Hồ, đoàn thanh niên, thu hút hang chục triệu thanh niên tham gia góp phần nâng cao nhận thức của thanh niên trong quá trình phấn đấu thực hiện lý tưởng cách mạng, giúp cho thanh niên tự tìm hiểu, tự giáo dục trong khi dự thi. Nâng cao chất lượng lao động trẻ, giải quyết việc làm, tăng thu nhập và cải thiện đời sống cho thanh niên. Cũng theo Hồ Chí Minh, cần phải quan tân đến tính thiết thực, hữu ích của những điều đã được học. Cái cốt lõi nhất của việc học tập là nâng cao hiểu biết để ứng dụng những kiến thức đó vào làm việc. học mà không làm được, học mấy cũng vô ích. Do đó, công việc giáo dục, bồi dưỡng nghề còn cần chú trọng vào việc định hướng nghề và dạy kỹ thuật nghề cơ bản cho thanh niên. Ngoài ra cần tổ chức các lớp tập huấn, phổ biến kỹ thuật về trồng trọt, chăn  nuôi cho thanh niên thông qua các buổi sinh hoạt Đoàn, sinh hoạt Hội và các buổi toạ đàm câu lạc bộ cho thanh niên. Cần tạo việc làm ổn định cho thanh niên. Đây cũng là một trong những biện pháp quan trọng để giải quyết vấn đề tệ nạn xã hội trong thanh niên hiện nay. Xây dựng môi trường xã hội lành mạnh, tạo điều kiện cho thanh niên nâng cao đời sống văn hoá tinh thần, phát triển toàn diện. Phương thức này thực hiện qua cuộc vận động “hai xây một chống’’ và các loại  hoạt động như : Sinh viên tình nguyệt, hội thi sinh viên thanh lịch, nét đẹp đội viên… Phát huy sự nỗ lực phấn đấu của mỗi thanh niên trong học tập, lao động và cuộc sống; không ngừng rèn luyện đạo đức, lối sống cho thanh niên. Xây dựng đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh vững mạnh thực sự là trường học xã hội chủ nghĩa của thanh niên, đội dự bị tin cậy của Đảng. Cần kịp thời thực hiện tốt việc giáo dục bồi dưỡng đạo đức cách mạng và lối sống lành mạnh cho thanh niên, thực hiện tốt một số nội dung sau: Bồi dưỡng cho thanh niên ý thức tự tu dưỡng, tự rèn luyện bản thân theo những chuẩn mực đạo đức mà Bác Hồ đã đề ra. Bồi dưỡng cho thanh niên ý thức trách nhiệm công dân, trách nhiệm với cộng đồng và tập thể… không chỉ lo cho bản thân mình mà còn tích cực thực hiện nghĩa vụ đối với cộng đồng. Đây chính là cách tốt nhất để giúp thanh niên chống lại những biểu hiện của chủ nghĩa cá nhân, lối sống ích kỷ… ( hệ quả của những tác động tiêu cực trong cơ chế thị trường). Bồi dưỡng cho thanh niên ý thức giữ gìn kỷ cương phép nước,  chống lại lối sống vô kỷ luật, buông thả; ý thức chấp hành chính sách pháp luật của nhà nước, nội quy của tập thể… Những nội dung trên cần được thể hiện qua các cuộc vận động như: vận động thực hiện tiết kiệm, vận động xây dựng nếp sống văn minh, thực hiện tốt văn hoá học đường, gia đình văn hoá,  vận động chống tệ nạn xã hội… Giáo dục lý tưởng, đạo đức, nuôi dưỡng những hoài bão, ước mơ lớn trong thanh niên luôn đi liền với đào tạo nâng cao trình độ về mọi mặt cho thanh niên; học vấn, chuyên môn, tay nghề, khoa học và công nghệ. Trong sự nghiệp đổi mới, phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, sự giao lưu hội nhập quốc tế tác động mạnh đến mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế, chính trị, văn hoá- xã hội, đặc biệt trong đó, đem đến cho thanh niên Việt Nam nhiều cơ hội tích cực và những yếu tố tiêu cực. Ý thức sâu sắc lời căn dặn của Người: “Bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là một việc rất quan trọng và rất cần thiết’’, đảng, Nhà nước và nhân dân ta luôn coi công tác giáo dục đào tạo, bồi dưỡng thế hệ thanh niên là vấn đề sống còn của dân tộc, là một trong những nhân tố quyết định thành bại của cách mạng và đã đặt thanh niên “ở vị trí trung tâm trong chiến lược bồi dưỡng, phát huy nhân tố và nguồn lực con người’’. Trên cơ sở định hướng đó, Đảng và nhà nước ta đã xây dựng một hệ thống chính sách và chương trình hành động cụ thể để tiếp tục giáo dục, bồi dưỡng thế hệ thanh niên thời kỳ mới có đạo đức, nhân cách, tri thức, sức khoẻ, tư duy năng động và hành động sáng tạo, nhằm “hình thành một lớp thanh niên ưu tú trên mọi lĩnh vực, kế tục trung thành và xuất sắc sự nghiệp cách mạng của đảng, của dân tộc; phấn đấu cho mục tiêu dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn minh; góp phần to lớn vào sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước’’ từng bước đưa nước ta bước lên “lên đài vinh quang, sánh vai với các cường quốc năm châu’’ như Hồ chí minh hằng mong muốn. Vì Tổ quốc hôm nay và ngày mai, chúng ta không thể không xem trọng công tác giáo dục, bồi dưỡng thanh niên. Những quan điểm tư tưởng của Hồ Chí Minh trong vấn đề này sẽ mãi mãi là những chỉ dẫn quý báu. Chúng ta không ngừng nghiên cứu, học tập và vận dụng sáng tạo vào công tác giáo dục, bồi dưỡng thanh niên - lớp người tương lai của đất nước. Thực hiện lời dạy của Bác “Vì sự nghiệp trăm năm phải trồng người’’. Tài liệu tham khảo 1.      Hồ Chí Minh: Bàn về công tác giáo dục. Nxb Sự thật, Hà Nội 1972. 2.      Hồ Chí Minh - Tuyển tập, t1, Nxb Sự thật, Hà Nội 1980. 3.       Hồ Chí Minh: Về giáo dục thanh niên, Nxb Thanh niên 1980. 4.      Học viện CTQGHCM: Văn hoá xã hội chủ nghĩa. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội 1994. 5.      Bác Hồ Với sự nghiệp bồi dưỡng thế hệ trẻ, Nxb Thanh niên, Hà Nội 1985.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doctieu luan tthcm.doc
  • docHD lam tieu luan.doc
  • doctuyên ngôn độc lập.doc
  • doctlhcm.doc
Luận văn liên quan