Xây dựng tiêu chuẩn niêm yết cho Thị Trường Chứng Khoán Việt Nam giai đoạn 2010 - 2020

LỜI MỞ ĐẦU Thị Trường Chứng Khoán Việt Nam kể từ khi ra đời 7/2000 đến nay đã có nhiều thành tựu, đóng vai trò là một kênh huy động vốn quan trọng cho nền kinh tế. Với giá trị vốn hóa đạt hơn 30% GDP, TTCK Việt Nam ngày càng thể hiện rõ vai trò quan trọng của mình trong thị trường tài chính khu vực. Đặt vấn đề: Hiệu quả hoạt động của thị trường chứng khoán Việt Nam hiện nay ra sao? Chất lượng hàng hóa của thị trường đó như thế nào? Uy tín của thị trường này trên thị trường tài chính thế giới hiện nay ra sao? Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài là TTCK thế giới, khu vực và TTCK Việt Nam, tập trung chủ yếu vào việc đánh giá tiêu chuẩn niêm yết của các sàn chứng khoán này. Xuất phát từ những bất cập trong thực tế đang xảy ra khi sử dụng tiêu chuẩn niêm yết hiện tại và chất lượng của TTCK còn thấp, chưa tìm được chỗ đứng trên thị trường tài chính thế giới nên thông qua đề tài này, chúng tôi đưa ra những phân tích, nhận định và đề xuất những kiến nghị để nâng cao chất lượng hàng hóa cho các sàn nhằm nâng cao vị thế và hiệu quả hoạt động của TTCK Việt Nam hiện tại và trong tương lai. Phương pháp nghiên cứu được sử dụng trong đề tài: Thống kê, Toán tài chính, so sánh và quy nạp. Tuy nhiên, trong đề tài còn vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu và mở rộng hơn, đó là vấn đề định lượng và phương pháp toán học để đưa ra một tiêu chuẩn niêm yết cho các doanh nghiệp một cách khoa học hơn. Giải quyết vấn đề: Đề tài đi vào việc phân tích, đánh giá tiêu chuẩn niêm yết của các sàn giao dịch lớn và có uy tín trên thế giới như Hongkong, Singapore, để có một cái nhìn khái quát về tiêu chuẩn của các sàn này. Sau đó là đánh giá thực trạng hoạt động của sàn HOSE, HaSTC và thị trường OTC. Từ đó, phân tích và nhận định lại tiêu chuẩn niêm yết hiện hành của sàn HOSE cho các doanh nghiệp hiện nay bằng cách đánh giá hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp niêm yết, khả năng đáp ứng tiêu chuẩn hiện tại, . Cuối cùng là việc đưa ra hướng giải quyết phù hợp hơn cho sự phát triển của TTCK Việt Nam hiện tại và tương lai gần, nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động cũng như uy tín của TTCK Việt Nam trong thị trường tài chính khu vực và trên thế giới. Khi đi vào tìm hiểu các tiêu chuẩn niêm yết của một số TTCK trên thế giới, chúng tôi đã tìm hiểu về TTCK của một số nước như Singapore, Hong Kong, London, Sở giao dịch chứng khoán Châu Âu và tìm hiểu tiêu chuẩn dành cho các doanh nghiệp Việt Nam của Malaysia và Thái Lan để có được cái nhìn chung về tiêu chuẩn niêm yết của thế giới. Tuy nhiên, trong giới hạn của nghiên cứu này, chúng tôi chỉ giới thiệu về tiêu chuẩn niêm yết của Singapore và Hong Kong vì đây là hai thị trường khá lớn, rất gần Việt Nam về vị trí địa lý lẫn tình hình kinh tế, tài chính, nhưng phát triển trước chúng ta một bậc, có được sự hoàn thiện về TTCK, là tấm gương để chúng ta học hỏi và đây cũng là cơ sở để chúng tôi đưa ra tiêu chuẩn niêm yết cho TTCK Việt Nam ở phần sau. Chúng tôi tham khảo các thị trường còn lại và sẽ giới thiệu ở phần Phụ lục 1 và Phụ lục 2. MỤC LỤC MỤC LỤC . i DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT iv DANH MỤC CÁC BẢNG VÀ HÌNH vi LỜI MỞ ĐẦU . 1 CHƯƠNG 1: TIÊU CHUẨN NIÊM YẾT CỦA MỘT SỐ TTCK TRÊN THẾ GIỚI 2 1.1. NIÊM YẾT TRÊN TTCK SINGAPORE 2 1.1.1. GIỚI THIỆU VỀ TTCK SINGAPORE . 2 1.1.2. TIÊU CHUẨN NIÊM YẾT . 4 1.1.2.1. NIÊM YẾT TRÊN SGX . 4 1.1.2.2. NIÊM YẾT TRÊN CATALIST 7 1.2. NIÊM YẾT TRÊN TTCK HONG KONG 8 1.1.1. GIỚI THIỆU VỀ TTCK HONG KONG 8 1.1.2. TIÊU CHUẨN NIÊM YẾT . 9 1.1.2.1. NIÊM YẾT TRÊN THỊ TRƯỜNG CHÍNH HONG KONG 9 1.1.2.2. NIÊM YẾT TRÊN THỊ TRƯỜNG DOANH NGHIỆP ĐANG TĂNG TRƯỞNG . 12 KẾT LUẬN CHƯƠNG 1 15 CHƯƠNG 2: PHÂN TÍCH TIÊU CHUẨN NIÊM YẾT TRÊN TTCK VIỆT NAM HIỆN NAY . 16 2.1. TTCK VIỆT NAM . 16 2.1.1. THỊ TRƯỜNG NIÊM YẾT . 16 2.1.2. THỊ TRƯỜNG OTC VÀ CÁC ĐỢT IPO TRONG THỜI GIAN QUA 26 2.2. PHÂN TÍCH TIÊU CHUẨN NIÊM YẾT CỔ PHIẾU TRÊN SỞ GDCK TP.HỒ CHÍ MINH HIỆN NAY 30 2.2.1. TIÊU CHUẨN NIÊM YẾT CỔ PHIẾU . 30 2.2.2. PHÂN TÍCH TIÊU CHUẨN NIÊM YẾT CỦA SỞ GDCK TP.HỒ CHÍ MINH . 31 2.2.2.1. CHỈ TIÊU VỐN ĐIỀU LỆ . 31 2.2.2.2. CHỈ TIÊU VỀ LỢI NHUẬN 32 2.2.2.3. CHỈ TIÊU VỀ CÁC KHOẢN NỢ 33 2.2.2.4. CHỈ TIÊU VỀ TÍNH ĐẠI CHÚNG CỦA DOANH NGHIỆP . 33 2.2.3. MỘT SỐ ĐÁNH GIÁ, NHẬN XÉT KHÁC 34 2.2.3.1. ĐÁNH GIÁ VỀ XẾP HẠNG TÍN DỤNG DOANH NGHIỆP 34 2.2.3.2. VẤN ĐỀ CÔNG BỐ THÔNG TIN 37 2.2.3.3. ĐÁNH GIÁ VỀ CHẤT LƯỢNG CỦA KẾ TOÁN, KIỂM TOÁN VIỆT NAM . 39 KẾT LUẬN CHƯƠNG 2 41 CHƯƠNG 3: XÂY DỰNG TIÊU CHUẨN NIÊM YẾT CHO TTCK VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2010-2020 42 3.1. NÂNG CAO TIÊU CHUẨN NIÊM YẾT CHO SỞ GDCK TP.HỒ CHÍ MINH . 42 3.1.1. NHỮNG CƠ SỞ PHÂN TÍCH ĐỂ ĐƯA RA TIÊU CHUẨN NIÊM YẾT43 3.1.2. TIÊU CHUẨN NIÊM YẾT . 43 3.1.2.1. TIÊU CHUẨN QUY MÔ VỐN ĐIỀU LỆ 44 3.2.2.2. LỊCH SỬ HOẠT ĐỘNG, KHẢ NĂNG SINH LỜI VÀ TIỀM NĂNG TƯƠNG LAI . 45 3.1.2.3. BAN QUẢN LÝ CÔNG TY . 46 3.1.2.4. TỶ LỆ PHÂN BỔ CHO CỔ ĐÔNG . 46 3.1.2.5. THỜI HẠN RÀNG BUỘC CHUYỂN NHƯỢNG 46 3.1.2.6. CHUẨN MỰC KIỂM TOÁN . 46 3.1.2.7. CÔNG BỐ THÔNG TIN CỔ PHẦN 46 3.1.2.8. NHỮNG ĐIỀU KIỆN KHÁC . 46 KẾT LUẬN CHƯƠNG 3 47 KẾT LUẬN . 48 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO . vii PHỤ LỤC viii PHỤ LỤC 1: GIỚI THIỆU THÊM VỀ TIÊU CHUẨN NIÊM YẾT CỦA MỘT SỐ TTCK TRÊN THẾ GIỚI . 49 PHỤ LỤC 2: TIÊU CHUẨN NIÊM YẾT DÀNH CHO CÁC DOANH NGHIỆP VIỆT NAM CỦA TTCK MALAYSIA VÀ THÁI LAN 54 PHỤ LỤC 3: HỆ THỐNG XẾP HẠNG TÍN DỤNG . 57 PHỤ LỤC 4: GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG KẾ TOÁN, KIỂM TOÁN VIỆT NAM VÀ XÂY DỰNG BẢN BÁO CÁO TÀI CHÍNH THEO TIÊU CHUẨN QUỐC TẾ 58 PHỤ LỤC 5: KẾT NỐI GIỮA SÀN CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM VỚI CÁC SÀN TRONG KHU VỰC . 65 PHỤ LỤC 6: TRÍCH LƯỢC NGHỊ ĐỊNH 14 VỀ THI HÀNH LUẬT CHỨNG KHOÁN 72 PHỤ LỤC 7: THÔNG TIN VỀ VỐN, LỢI NHUẬN CÁC DOANH NGHIỆP NIÊM YẾT TRÊN HOSE . 81

pdf59 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 3932 | Lượt tải: 4download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Xây dựng tiêu chuẩn niêm yết cho Thị Trường Chứng Khoán Việt Nam giai đoạn 2010 - 2020, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
trosetco (PET) ở sản HOSE hay Xi măng Sài Sơn (SCJ) ở sàn Hà Nội, ... Điệp khúc “lên sàn – tăng giá” lặp đi lặp lại nhiều lần khiến cho cả thị trường đổ xô đi săn lùng các nhóm cổ phiếu này. Các phiên phục hồi mạnh mẽ vào tháng 10 không cầm cự được lâu và yếu dần qua thời gian, chứng tỏ nhà đầu tư (đặc biệt là đầu tư ngắn hạn) có tâm lý lo ngại về khả năng giảm giá của cổ phiếu trên sàn trong thời gian tới. Trong khi lượng cầu cổ phiếu bị ảnh hưởng bởi án treo 03 đang đến gần thì các doanh nghiệp lại đua nhau tăng cung khiến chênh lệch cung cầu ngày càng lớn. Mặc dù việc tăng cung là phù hợp với từng giai đoạn nhưng sẽ có tác dụng ngược trong giai đoạn điều chỉnh như hiện nay, khi mà các nhà đầu tư đã trở nên “ngán ngẩm” và có cảm giác “khó tiêu” với lượng cung quá lớn. Bỏ qua các giai đoạn thăng trầm của thị trường thì nhìn chung năm 2007, thị trường chứng khoán Việt Nam cũng đạt được khá nhiều thành tựu:  Nhà đầu tư nước ngoài hiện đang nắm giữ từ 25% – 30% cổ phần của các doanh nghiệp niêm yết, và chiếm khoảng 18% giao dịch toàn thị trường. Giá trị danh mục đầu tư của nhà đầu tư nước ngoài trên thị trường chính thức ước đạt 7,6 tỷ USD tăng gấp 3 lần so với năm 2006. Bảng 2.5: Quy mô niêm yết tại HOSE Toàn thị trường Cổ phiếu Chứng chỉ quỹ Trái phiếu Tổng số CK niêm yết 528,00 150,00 3,00 375,00 Tỉ trọng (%) 100,00 28,41 0,57 71,02 KL niêm yết (ngàn CK) 5.110.319,44 4.477.359,56 71.409,63 561.550,25 Tỉ trọng (%) 100,00 87,61 1,40 10,99 GT niêm yết (triệu đồng) 101.345.715,88 44.773.595,58 714.095,30 55.858.025,00 Tỉ trọng (%) 100,00 44,18 0,70 55,12  Kết thúc năm 2007 có 849 công ty đại chúng, 59 công ty được cấp phép niêm yết và đăng ký giao dịch, trong đó trên sở GDCK TP.HCM là 32 công ty và 1 chứng chỉ quỹ, trên trung tâm GDCK Hà Nội là 27 công ty, đưa tổng số công ty trên sàn lên 253. Ngành nghề hoạt động của các công ty tương đối đa dạng, tuy nhiên tỷ trọng lớn vẫn chủ yếu ở các lĩnh vực sản xuất nói chung, xây dựng – bất động sản, thương mại, vận tải – kho bãi. Ngành dịch vụ nhìn chung còn rất mờ nhạt trên sán chứng khoán.  UBCK Nhà nước đã chấp thuận đăng ký chào bán ra công chúng hơn 2.68 tỷ cổ phiếu của 192 công ty, tương ứng khoảng 50 nghìn tỷ đồng; 3.968 triệu trái phiếu qương ứng với 4.250 tỷ đồng cho 4 Ngân hàng thương mại cổ phần; 35 triệu chứng chỉ quỹ tương ứng với 350 tỷ đồng cho Quỹ tăng trưởng Manulife, Quỹ VF4. Tính chung cả hoạt động phát hành, đấu giá trên thị trường chính thức đạt gần 100.000 tỷ đồng (gấp 3 lần so với năm 2006). Còn đối với hoạt động đấu thầu trái phiếu, trong năm qua TTGDCK Hà Nội đã thực hiện 44 đợt với tổng số tiền thanh toán là trên 18.000 tỷ đồng. Hình 2.6: Hình 2.7:  Khung pháp lý cho cổ phần hóa được cải thiện rõ rệt trong năm 2007 với cột mốc quan trọng là Nghị định 109 ban hành ngày 26/06/2007 của Chính phủ về chuyển đổi doanh nghiệp Nhà nước thành công ty cổ phần. Nghị định này đã khơi thông nhiều vấn đề tồn tại của Nghị định 187 về cổ phần hóa. Điểm quan trọng thứ 2 là Thông tư 134 quy định cổ phần hóa được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh từ doanh nghiệp ngày 21/03/2007 sẽ không được hưởng ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp. Quyết định này có thể là một cú sốc với các doanh nghiệp vốn đã quen với việc được nâng đỡ nhưng về lâu dài sẽ giúp các doanh nghiệp tự chủ hơn trong kinh doanh. Đây là hai thay đổi lớn trong chính sách cổ phần hóa của Nhà nước và được dự báo sẽ có tác động đáng kể đến tiến trình cải cách doanh nghiệp Nhà nước. Nhận xét:  Điểm nổi bật của thị trường chứng khoán Việt Nam trong thời gian qua chính là tâm lý của nhà đầu tư. Chính tâm lý bầy đàn này là lực tác động mạnh nhất vào thị trường, nó có thể đưa VN-Index đạt đỉnh nhưng cũng có thể kéo VN- Index xuống đáy.  Quy mô TTCK của Việt Nam vẫn còn nhỏ so với các nước, chỉ chiếm 31% GDP (cập nhật đến ngày 01/10/2007), trong khi mức bình quân của các quốc gia trong khu vực khoảng 40% GDP.  Hệ thống các tổ chức trung gian và hỗ trợ thị trường còn nhiều hạn chế về năng lực tài chính. Mặc dù các Công ty chứng khoán đã phát hành thêm cổ phiếu, trái phiếu để tăng quy mô vốn hoạt động hoặc tăng vốn điều lệ từ các chủ sở hữu vốn (đối với Công ty chứng khoán trực thuộc các Ngân hàng thương mại) nhưng nhìn chung, mức vốn điều lệ vẫn rất thấp so với các nước trong khu vực, điều này làm ảnh hưởng đến khả năng tham gia thị trường của các công ty trong vai trò tạo lập thị trường, hoặc hạn chế năng lực khi thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh phát hành.  Số lượng tài khoản đầu tư gia tăng nhanh, nhưng phần lớn tập trung vào tài khoản cá nhân, mua bán cổ phiếu ngắn hạn và bị chi phối rất lớn từ các nhà đầu tư lớn trên thị trường do thiếu kỹ năng phân tích đầu tư. Một số loại hình tổ chức như công ty quản lý quỹ, quỹ đầu tư đã hình thành nhưng chưa nhiều, tỷ trọng tham gia đầu tư của các tổ chức đầu tư chuyên nghiệp (ngân hàng, bảo hiểm, quỹ đầu tư) còn hạn chế, chiếm khoảng 20% thị phần. Một số nhà đầu tư lớn nước ngoài mở tài khoản giao dịch nhưng chưa tham gia vào đầu tư (JP Morgan, Merryll Lynch…), các quỹ đầu tư nước ngoài tham gia thị trường trong nước thông qua các tài khoản uỷ thác cá nhân và đầu tư tập trung vào cổ phiếu của các doanh nghiệp cổ phần hóa, chưa tham gia đầu tư nhiều trên TTGDCK và Sở GDCK.  Công tác quản lý, giám sát các hoạt động và tuân thủ pháp luật trên TTCK bước đầu đã đi vào nề nếp, nhưng vẫn còn nhiều bất cập. Đặc biệt, trước những diễn biến mới của thị trường, đòi hỏi công tác quản lý, giám sát phải chuyên sâu và có phương tiện giám sát hiện đại (phần mềm giám sát) chứ không thuần tuý giám sát thông qua báo cáo để nắm tình hình, thông tin. 2.1.2. Thị trường OTC và các đợt IPO trong thời gian vừa qua: Nhìn lại toàn cảnh thị trường OTC quí I/2008 trên cơ sở phân tích TTCK niêm yết, từ đó khuyến nghị cần có quy hoạch lại thị trường OTC để có thể giảm thiểu rủi ro không đáng có cho nhà đầu tư, để thị trường phát triển lành mạnh, trở thành kênh thu hút vốn tích cực cho các công ty và nền kinh tế. Đề án thành lập thị trường giao dịch những cổ phiếu chưa niêm yết (OTC) của sàn Hà Nội vừa được Uỷ ban Chứng khoán thông qua và đang được Bộ Tài chính xem xét và xin ý kiến của Thủ tướng Chính phủ. Dự kiến, tháng 6/2008 sẽ chính thức đưa 40 cổ phiếu của các công ty cổ phiếu đại chúng thuộc ngành tài chính, ngân hàng, bảo hiểm lên giao dịch. Theo đề án, tiêu chuẩn niêm yết tại thị trường OTC (còn gọi là thị trường đăng ký giao dịch) rất đơn giản, chỉ cần có dịch vụ quản lý số cổ đông tốt, nắm được tình hình cổ đông, đưa vào lưu ký nhanh và đưa vào hệ thống để sẵn sàng giao dịch. Biên độ điều chỉnh giá lên xuống sẽ là 20% và vẫn tuân thủ quy định T+3. Điểm khác biệt nhất so với thị trường niêm yết là các doanh nghiệp ở thị trường đăng ký giao dịch không cần gửi báo cáo tài chính quý mà chỉ cần gửi báo cáo tài chính năm được kiểm toán bởi công ty kiểm toán độc lập. Ảnh hưởng của Thị trường niêm yết tới Thị trường OTC Thị trường niêm yết giảm mạnh khiến thị trường OTC cũng lao dốc không biên độ, 60% các mã cổ phiếu OTC đóng băng hoàn toàn. Các mã cổ phiếu còn lại giao dịch rất ít nhưng giá rất thấp. Vào thời điểm cuối tháng 2, đầu tháng 3/2008, đã diễn ra một cuộc tháo chạy cổ phiếu OTC của các nhà đầu tư nhưng họ đã không thành công vì lượng dư bán gấp nhiều lần dư mua khiến cho hầu hết các giao dịch không thành công. Ngoài ra, việc IPO của những công ty lớn ào ạt diễn ra như: VCB, SABECO, HABECO, đã khiến thị trường OTC mất cân đối, cung vượt cầu trong khi lượng tiền mặt thì ngày càng khan hiếm và nhà đầu tư có các lựa chọn hấp dẫn khác: Vàng, bất động sản, ngoại tệ… làm cho thị trường OTC càng thê thảm. Một số mã cổ phiếu ngân hàng như: MB, ABB, MSB, VPB… vào cuối năm 2006, đầu năm 2007 được “thổi lên” và được đánh giá là các cổ phiếu có tiềm năng, hơn cả cổ phiếu niêm yết vì cứ đầu tư là có lãi đến vài chục phần trăm ngay, nhưng giờ đây sắp trở về với mệnh giá, giá mua bán hiện chỉ là 1x và 2x. Các mã cổ phiếu khác về bất động sản và khoáng sản thì báo cáo tài chính đầu năm 2008 còn tốt hơn năm 2007 nhưng không hiểu tại sao mà giá trị cổ phiếu lại giảm xuống chưa bằng ½ giá trị năm 2007. Bảng 2.8: Phân loại và thống kê một số ngành trên thị trường OTC tính đến 4/2008 Ngành Số lượng công ty Bất động sản 98 Bưu chính viễn thông 25 Chế biến – Đồ uống 63 Chế tạo – Luyện kim 34 Chứng khoán 41 Cơ khí – Lắp máy 60 Công nghệ 38 Dầu mỏ - khai khoáng 55 Đầu tư 49 Dệt may – da giầy 76 Dịch vụ - cung ứng 42 Điện – điện tử - điện lạnh 41 Du lịch – Khách sạn 51 Dược Phẩm – Mỹ phẩm 51 Gạch – Gốm sứ 51 Giáo dục – đào tạo 33 Giao thông – Vận tải 34 Giấy – Bao bì 63 Theo thống kê của sàn OTC, tính đến 14/4/2008, sàn này có tổng cộng 1626 công ty (được phân loại hơn 42 ngành), cho thấy đây là lượng cung rất lớn cho TTCK Việt Nam. Nhìn lại trước đó, theo kết quả điều tra của Tổng cục Thống kê về thực trạng doanh nghiệp, tính đến cuối năm 2002, cả nước có 2.829 công ty cổ phần. Trong đó 557 công ty nhà nước được cổ phần hoá, 2.272 công ty cổ phần không có vốn nhà nước. Tổng vốn tự có của các doanh nghiệp này là 20.937 tỷ đồng, gấp 20 lần tổng vốn điều lệ và 10 lần vốn hoá của các công ty niên yết tại thời điểm đó. Tính đến thời điểm tháng 6 năm 2005, cả nước có gần 2.000 doanh nghiệp nhà nước cổ phần hoá và trên 3000 công ty cổ phần. Tổng vốn điều lệ của các công ty này cao hơn rất nhiều lần khối lượng vốn hoá trên thị trường chính thức. Đây chính là nguồn cung của thị trường OTC, nói theo cách của một số người thì: thị trường OTC ở Việt Nam rất tiềm năng. Một lượng lớn các công ty đang trong quá trình cổ phần hóa, đồng thời rất nhiều doanh nghiệp đang chờ niêm yết có tiềm lực tài chính lớn và kinh doanh hiệu quả. Do đó, việc so sánh với tiêu chuẩn niêm yết như hiện nay là khá thấp khiến cho việc nâng cao tiêu chuẩn niêm yết càng trở nên quan trọng hơn (đặc biệt cho sàn HOSE) để nâng cao uy tín, thương hiệu cho TTCK Việt Nam. Khi một TTCK phát triển, có uy tín sẽ tạo được lòng tin và thu hút được lượng vốn đầu tư lớn trong nước và nước ngoài. Tuy nhiên, các công ty đang niêm yết trên TTCK Việt Nam cũng chưa phải là những công ty hàng đầu trong nền kinh tế, chưa có mức đóng góp quan trọng cho nền kinh tế nên chất lượng của TTCK Việt Nam được đánh giá chưa cao so với một số nước trong khu vực và thế giới. IPO và đánh giá: Theo thống kê của Ủy ban chứng khoán nhà nước (UBCKNN), năm 2007 đã có đến 179 công ty được cấp phép chào bán cổ phiếu, 3 ngân hàng phát hành trái phiếu, 1 chứng chỉ quỹ của Manulife. Tổng giá trị huy động được khoảng 90.000 tỷ đồng. Nhìn vào con số này quả thật là một sự thành công cho các doanh nghiệp Việt Nam trong vấn đề huy động vốn để đáp ứng nhu cầu đầu tư. Trong năm 2007 có khoảng 56 công ty mới niêm yết (trong đó 24 công ty niêm yết ở HASTC và 32 công ty niêm yết ở HOSE), cũng có nghĩa là có đến 56 hồ sơ cáo bạch được đệ trình lên hội đồng xét duyệt. Tính trung bình thì khoảng 2 ngày phê duyệt một hồ sơ phát hành và 1,5 ngày cho một hồ sơ phát hành và niêm yết. Một hồ sơ phát hành phải công bố ra thị trường trước 20 ngày để các nhà đầu tư nghiên cứu trong khi đó chỉ có 2 ngày cho hội đồng xét duyệt đọc và thẩm tra. Ở đây chúng ta chưa nói đến một thời gian dài trong năm thị trường ảm đạm rất ít doanh nghiệp phát hành và niêm yết. Việc phát hành và niêm yết thường dồn dập vào những thời điểm khởi sắc của thị trường, nên những lúc cao điểm thì số ngày đọc hồ sơ cũng chưa đến 2 ngày. Điều này cho thấy một “nỗ lực” trong việc quản lý và điều hành TTCK của UBCK. Có thể nói, năm 2007 là năm quản lý tất bật của UBCKNN nên họ không đủ thời gian để hoạch định chiến lược phát triển bền vững TTCK trong tương lai là điều hiển nhiên. Theo điều 12 Luật chứng khoán quy định về điều kiện bán chứng khoán ra công chúng của các tổ chức phát hành đều phải có phương án phát hành, phương án đầu tư (đối với quỹ đầu tư) phương án sử dụng và trả nợ vốn thu được (đối với việc phát hành trái phiếu). Nếu điều kiện 2 năm liền trước năm phát hành có lợi nhuận và không có lỗ lũy kế đến năm phát hành là điều kiện mà một doanh nghiệp nào muốn tham gia thì tự mình vượt qua rào cản này. Còn điều kiện về phương án phát hành và sử dụng vốn quả thật là một tiêu chuẩn khó vượt qua trong vấn đề xét duyệt. Bởi lẽ nó không có một tiêu chuẩn nào trong việc xét duyệt. Khó có sự đồng thuận trong việc xác định thế nào là phương án phát hành tối ưu, phương án sử dụng vốn có hiệu quả giữa tổ chức phát hành và UBCKNN. Thêm nữa, việc xét duyệt còn khó khăn hơn đối với mức giá tham chiếu cho việc phát hành và niêm yết lần đầu. Trong điều kiện “bận rộn” như trên, liệu rằng có sự “xuề xòa” trong việc xét duyệt các tiêu chuẩn trên hay không? Quả thật đây là một câu hỏi còn bỏ ngỏ trong việc thẩm tra chất lượng xét duyệt và hoạch định chiến lược phát triển thị trường của UBCKNN. Những ai tham gia thị trường đều canh cánh bên mình những hoài nghi. Tiếp bước năm 2007, năm 2008 dự kiến hoạt động IPO của các đại gia trong nền kinh tế được đẩy mạnh. Khi thị trường sẽ có nhiều hàng hóa hơn. Điều đó cũng có nghĩa là thị trường sẽ tràn ngập các cơ hội đầu tư trong khi việc đẩy mạnh thu hút dòng vốn vào thị trường lại chưa được đẩy mạnh. Kinh nghiệm từ Trung Quốc cho thấy, chính sự ăn nên làm ra của các quỹ đầu tư là lý do chính cho việc thu hút dòng vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài. Vậy liệu rằng trong năm 2007 trước tình hình thị trường không thuận lợi cho những nhà đầu cơ thì việc ăn nên làm ra của các quỹ có khởi sắc không? Điều này cho thấy, nếu không có các giải pháp mạnh trong việc thu hút dòng vốn gián tiếp thì khó có thể nói TTCK Việt Nam năm 2008 sẽ khởi sắc. Trước tình hình lạm phát leo thang, chính sách tiền tệ thắt chặt, khả năng nới lỏng chỉ thị 03 khó thực thi thì việc tăng cung càng đẩy thị trường trong năm mới chẳng gì mới hơn năm cũ. Việc đẩy mạnh thu hút dòng vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài sẽ đẩy lượng tiền trong lưu thông trở nên nhiều hơn, áp lực lạm phát sẽ gia tăng nếu không có một chính sách tỷ giá linh hoạt. Lạm phát gia tăng, chính sách tiền tệ tiếp tục thắt chặt điều này được chỉ ra trong lý thuyết “bộ ba bất khả thi” của Robert Mundel, do đó các nhà đầu tư trong nước tiếp tục gánh lấy thất bại trong đầu tư. Vậy, liệu rằng những giải pháp kích cầu mà UBCKNN đệ trình có khả thi cho hai phía cung và cầu không? Những giải pháp này đang được thị trường kỳ vọng nhưng thị trường còn kỳ vọng hơn vào việc không quá tải trong xét duyệt hồ sơ để đảm bảo chất lượng của cung hàng. 2.2. Phân tích tiêu chuẩn niêm yết cổ phiếu trên Sở giao dịch chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay: 2.2.1. Tiêu chuẩn niêm yết cổ phiếu: a) Là công ty cổ phần có vốn điều lệ đã góp tại thời điểm đăng ký niêm yết từ 80 tỷ đồng Việt Nam trở lên tính theo giá trị ghi trên sổ kế toán. Căn cứ vào tình hình phát triển thị trường, mức vốn có thể được Bộ Tài chính điều chỉnh tăng hoặc giảm trong phạm vi tối đa 30% sau khi xin ý kiến Thủ tướng Chính phủ; b) Hoạt động kinh doanh hai năm liền trước năm đăng ký niêm yết phải có lãi và không có lỗ luỹ kế tính đến năm đăng ký niêm yết; c) Không có các khoản nợ quá hạn chưa được dự phòng theo quy định của pháp luật; công khai mọi khoản nợ đối với công ty của thành viên Hội đồng quản trị, Ban kiểm soát, Giám đốc hoặc Tổng Giám đốc, Phó Giám đốc hoặc Phó Tổng Giám đốc, Kế toán trưởng, cổ đông lớn và những người có liên quan; d) Tối thiểu 20% cổ phiếu có quyền biểu quyết của công ty do ít nhất 100 cổ đông nắm giữ; đ) Cổ đông là thành viên Hội đồng quản trị, Ban kiểm soát, Giám đốc hoặc Tổng Giám đốc, Phó Giám đốc hoặc Phó Tổng Giám đốc và Kế toán trưởng của công ty phải cam kết nắm giữ 100% số cổ phiếu do mình sở hữu trong thời gian 6 tháng kể từ ngày niêm yết và 50% số cổ phiếu này trong thời gian 6 tháng tiếp theo, không tính số cổ phiếu thuộc sở hữu Nhà nước do các cá nhân trên đại diện nắm giữ; e) Có hồ sơ đăng ký niêm yết cổ phiếu hợp lệ theo quy định tại khoản 2 Điều 10 Nghị định này. 2.2.2. Phân tích các tiêu chuẩn niêm yết của Sở GDCK TP.Hồ Chí Minh: 2.2.2.1. Chỉ tiêu về vốn điều lệ: Theo nghị định 14/2007/NĐ-CP, Vốn điều lệ niêm yết trên HOSE là 80 tỷ đồng, căn cứ vào tình hình phát triển thị trường, mức vốn có thể được Bộ Tài chính điều chỉnh tăng hoặc giảm trong phạm vi tối đa 30% (tương đương 24 tỷ đồng) sau khi xin ý kiến Thủ tướng Chính phủ. Theo nhận định của chúng tôi, không chỉ có chỉ tiêu 80 tỷ đồng là chưa hợp lý mà còn phải xem xét lại cả biên độ điều chỉnh của quy định này. Vốn điều lệ 80 tỷ đồng đã là khá thấp so với khu vực, thậm chí nếu được điều chỉnh tăng lên mức tối đa là 104 tỷ đồng thì vẫn còn thấp, lại còn có thể bị điều chỉnh giảm nữa thì e rằng VN-Index sẽ không được đánh giá cao. Bảng 2.9: Thống kê chỉ tiêu vốn điều lệ của một số TTCK trong khu vực TTCK Vốn điều lệ Hàn Quốc 10 triệu USD ~ 160 tỷ VNĐ Thượng Hải 50 triệu RMB ~ 110 tỷ VNĐ Nhật Bản 1 tỷ JPY ~ 158 tỷ VNĐ Thái Lan 300 triệu baht ~ 140 tỷ VNĐ Việt Nam (HOSE) 80 tỷ VNĐ ~ 80 tỷ VNĐ Cập nhật tỷ giá ngày 15/04/2208 Hơn nữa, UBCKNN và Bộ Tài chính căn cứ như thế nào về tình hình phát triển của thị trường chứng khoán để mà điều chỉnh? Cơ sở của căn cứ là gì và sau khoảng thời gian bao lâu thì điều chỉnh một lần? Đó là những câu hỏi mà chúng ta không dễ gì có thể tìm ra lời giải. Trước tình hình thị trường biến động theo chiều hướng xấu của thị trường như hiện nay, liệu rằng chỉ tiêu này có bị điều chỉnh giảm theo quy định hay không? Mỗi lần muốn điều chỉnh, Bộ Tài chính phải xin ý kiến của Thủ tướng và có thể cần có sự thông qua của Quốc Hội mới được điều chỉnh thì liệu rằng việc điều chỉnh này có còn mang tính kịp thời và còn phù hợp nữa không? Như vậy, biên độ này có cần thiết không? 2.2.2.2. Chỉ tiêu về lợi nhuận: Tiêu chuẩn quy định doanh nghiệp muốn niêm yết phải có hoạt động kinh doanh hai năm liền trước năm đăng ký niêm yết phải có lãi và không có lỗ luỹ kế tính đến năm đăng ký niêm yết là một điều không cần thiết. Có nên chăng là quy định rõ về mức lợi nhuận là bao nhiêu, tốc độ tăng trưởng như thế nào để sau khi niêm yết thì giá trị doanh nghiệp cũng như giá cổ phiếu của doanh nghiệp sẽ góp phần làm cho thị trường chứng khoán Việt Nam sôi động hơn và VN-Index ngày một tăng cao. Vấn đề đặt ra là lợi nhuận và tốc độ tăng trưởng của mỗi ngành là khác nhau nên nhiệm vụ của UBCKNN và Bộ Tài chính là thống kê và đưa ra mức lợi nhuận cũng như tốc độ tăng trưởng riêng cho từng ngành, tiêu chuẩn này cần mang tính định lượng để có đươc sự rõ ràng trong các chỉ tiêu. 2.2.2.3. Chỉ tiêu về các khoản nợ: Không có các khoản nợ quá hạn chưa được dự phòng theo quy định của pháp luật; công khai mọi khoản nợ đối với công ty của thành viên Hội đồng quản trị, Ban kiểm soát, Giám đốc hoặc Tổng Giám đốc, Phó Giám đốc hoặc Phó Tổng Giám đốc, Kế toán trưởng, cổ đông lớn và những người có liên quan. Theo quy định, các công ty cổ phần muốn niêm yết bắt buộc phải được kiểm toán báo cáo tài chính ít nhất 2 năm trước khi niêm yết nên các khoản nợ quá hạn không được dự phòng sẽ được thể hiện rõ trong phần loại trừ của kết luận kiểm toán. Nếu vấn đề này không được cải thiện, không chỉ các cổ đông của công ty mà các chủ nợ cũng phát hiện ra, điều này sẽ khiến cho công ty gặp khó khăn cả về tài chính lẫn kinh doanh. Do đó, không có công ty nào lại thể hiện các khoản nợ quá hạn chưa được dự phòng lên các báo cáo tài chính, họ có thể “bùa phép” chúng thành các khoản mục khác nên không dễ gì bị phát hiện nên Nghị định này quy định chỉ mang tính hình thức mà thôi. 2.2.2.4. Chỉ tiêu về tính đại chúng của doanh nghiệp: Nghị định 14 quy định tối thiểu 20% cổ phiếu có quyền biểu quyết của doanh nghiệp do ít nhất 100 cổ đông nắm giữ. Theo Luật Doanh nghiệp 2005, công ty cổ phần bắt buộc phải có cổ phần phổ thông nhưng không bắt buộc phải có cổ phần ưu đãi (cổ phiếu có quyển biểu quyết là một loại của cổ phần ưu đãi) nên việc quy định về tỷ lệ nắm giữ cổ phiếu ưu đãi của Nghị định này là không hợp lý cho lắm, dù rằng trên thực tế, khó có công ty cổ phần đại chúng nào không có cổ phiếu ưu đãi quyền biểu quyết để bảo vệ cho lợi ích của cổ đông sáng lập. Mặt khác, vấn đề cần quan tâm là mức độ đại chúng của công ty sẽ niêm yết bởi nó ảnh hưởng đến tính thanh khoản của cổ phiếu khi niêm yết nên tiêu chuẩn về cổ phiếu có quyền biểu quyết là không cần thiết, mà cần quy định về tỷ lệ nắm giữ tối thiểu cổ phiếu thường của một số lượng nhất định cổ đông mà theo Nghị định này là 100 cổ đông. 20% cổ phiếu thường được nắm giữ bởi ít nhất 100 cổ đông liệu có hợp lý? Ta cứ tính thử, theo quy định hiện nay, vốn điều lệ 80 tỷ, công ty sẽ có ít nhất 500 cổ đông và trung bình mỗi cổ đông thường sẽ nắm giữ số lượng cổ phiếu 160 triệu đồng tương đương 16.000 cổ phiếu mệnh giá 10.000 đồng. Với điều kiện thị trường hiện nay, việc một cổ đông nắm giữ 160 triệu đồng cổ phiếu là một con số không lớn, chưa kể 500 cổ đông đối với một công ty cổ phần là khá ít, ảnh hưởng không nhỏ đến tính thanh khoản của cổ phiếu nếu niêm yết. Con số này còn có khả năng thấp hơn nữa vì theo Luật Doanh nghiệp 2005, các cổ đông sáng lập phải nắm giữ tổng cộng ít nhất 20% số cổ phần thường chào bán. Ngoài ra, để tăng tính thanh khoản cho TTCK, ngoài các chỉ tiêu trên, Luật Chứng khoán nên đề ra các chỉ tiêu về EPS, hiệu quả hoạt động cao và được xếp hạng tín nhiệm từ BB trở lên, từ đó chất lượng của các doanh nghiệp niêm yết sẽ tăng cao. Mặt khác, quy định về việc giám sát việc công bố thông tin của UBCKNN còn khá hạn chế, chưa được tiến hành nghiêm túc và chặt chẽ, làm ảnh hưởng đến kênh thông tin, chiến lược đầu tư và lòng tin của nhà đầu tư vào thị trường. 2.2.3. Một số đánh giá, nhận xét khác: 2.2.3.1. Đánh giá về xếp hạng tín dụng doanh nghiệp: Bảng 2.10: Thống kê số lượng công ty niêm yết theo xếp hạng tín dụng năm 2006 Xếp hạng tín dụng 2006 Số lượng công ty AAA 54 AA 16 A 17 BBB 9 BB 7 B 2 CCC 3 CC 0 C 0  Nhìn vào thực trạng hoạt động của các công ty niêm yết trên sàn, ta có thể đánh giá hiệu quả của tiêu chuẩn niêm yết này. Trong 154 công ty niêm yết trên sàn hiện nay có 1/3 số công ty có vốn điều lệ nhỏ hơn 80 tỷ, hơn 30 công ty có vốn điều lệ nhỏ hơn 40 tỷ. Và với quy định tăng vốn để thoả tiêu chuẩn này thì tổng vốn tất cả các công ty phải tăng khoảng hơn 2.356 tỷ. Trong giai đoạn này việc tăng vốn là rất khó khăn và dường như tiêu chuẩn về vốn điều lệ trên 80 tỷ là không hợp lý cho tất cả các doanh nghiệp. Một số doanh nghiệp có vốn lớn nhưng làm ăn không hiệu quả, trong khi một số doanh nghiệp có vốn điều lệ nhỏ lại làm ăn và hoạt động rất hiệu quả từ khi niêm yết. Tính trung bình, những công ty lớn trên sàn đã tăng vốn điều lệ lên 86,6% kể từ đầu năm 2007. Điều này có nghĩa nếu muốn EPS năm nay sẽ duy trì ở cùng mức so với năm ngoái thì các doanh nghiệp sẽ phải tăng lợi nhuận thực tương đương năm ngoái. Nhưng điều này không phải dễ dàng trong điều kiện nền kinh tế đang có nhiều diễn biến bất lợi. Do đó, khi các doanh nghiệp cùng tăng vốn sẽ làm cho EPS thị trường giảm, sẽ làm thị trường trở nên kém hấp dẫn hơn cho các nhà đầu tư; đặc biệt là với các doanh nghiệp kém hiệu quả EPS sẽ trở nên rất thấp (số lượng doanh nghiệp có EPS dưới 1.000 đồng sẽ rất nhiều nếu tính trên lợi nhuận 2007 và với mức vốn 80 tỷ đồng). Do đó, ta có thể thấy thêm tính không hiệu quả của tiêu chuẩn vốn điều lệ. Ví dụ như MCV (Công ty cổ phần khai thác mỏ và xây dựng Cavico Việt Nam) có vốn điều lệ tính đến cuối năm 2007 là 85 tỷ đồng nhưng theo đánh giá của CIC về xếp hạng tín nhiệm là loại CCC và với lợi nhuận hàng năm không cao, từ năm 2003 đến cuối 2007 lợi nhuận chỉ nằm trong khoảng 3,66 tỷ đến hơn 9 tỷ đồng. EPS năm 2007 chỉ đạt 1.149 đồng. Ngoài ra một số doanh nghiệp khác như HAX (Công ty cổ phần Ô Tô Hàng Xanh) cũng được đánh giá là doanh nghiệp hoạt động với quy mô vừa nhưng xếp hạng tín nhiệm cũng là CCC, hay Công ty cổ phần gạch men Vitaly (VTA) được xếp vào loại hình doanh nghiệp có quy mô hoạt động lớn nhưng hệ số tín nhiệm cũng không cao. Một doanh nghiệp niêm yết khá lâu nhưng tính từ khi niêm yết chưa thực sự thấy hiệu quả hoạt động và gây được niềm tin cho nhà đầu tư có thể nói như BBT, mức giá thị trường luôn duy trì ở mức thấp (dưới 20.000), tính đến ngày 25/4/2008 giá cổ phiếu BBT cũng chỉ là 13.500đ/cổ phiếu (thấp hơn giá của cổ phiếu quỹ VFMVF1 là 13.900đ/cp). EPS duy trì như năm 2007 ở mức dưới 1000đ. Vậy liệu khi doanh nghiệp này đáp ứng nhu cầu tăng vốn như tiêu chuẩn mới ban hành, đồng vốn của nhà đầu tư liệu có đem lại hiệu quả hoạt động cao? Do đó sẽ tác động không tốt đến tâm lý nhà đầu tư khi nhìn nhận về thị trường và chất lượng của sàn, cũng như tiêu chuẩn liệu đã chọn lọc được những doanh nghiệp thực sự có tiềm năng …  Trong khi một số doanh nghiệp khác có quy mô hoạt động nhỏ nhưng hiệu quả hoạt động lại rất tốt và có tiềm năng; EPS ổn định và tương đối tốt trong thị trường Việt Nam như UNI (Công ty cổ phần Viễn Liên), hoạt động với quy mô nhỏ, xếp hạng tín nhiệm AAA, EPS 2007 đạt 5.749 đồng, và duy trì ổn định. Là một cổ phiếu có tính thanh khoản tương đối tốt trên sàn. Hay ST8 (công ty cổ phần Siêu Thanh) có mức vốn nhỏ hơn 40 tỷ, xếp hạng tín nhiệm AAA, mức lợi nhuận tăng trưởng gần gấp đôi sau mỗi năm (2005 – 2007), với EPS (2007) đạt hơn 6.550 đồng, cổ đông nước ngoài nắm giữ tới 48,82% (phần nào cho thấy được chất lượng của doanh nghiệp) … Vậy trong bối cảnh cần phải tăng vốn theo tiêu chuẩn đề ra tại thời điểm khó khăn và nhạy cảm này là không hợp lý. Hoặc nếu những doanh nghiệp tiềm năng này bị loại khỏi sàn, phải chăng chúng ta đang bỏ qua những hàng hóa tốt cho sự phát triển của thị trường? Tính đến ngày 25/04/2007, có 15 công ty (trong tổng số 107 công ty và quỹ) có giá trị thị trường dưới 100 tỷ đồng (tỷ trọng chỉ chiếm từ 0,01% - 0,05% toàn thị trường), tới cuối năm 2007 đầu 2008 có hơn 18 công ty có giá trị thị trường dưới 100 tỷ đồng. Phân tích một số công ty có hiệu quả hoạt động không cao, lượng giao dịch thấp, vốn hóa thấp của thị trường như: LBM, SFN, BTC, VTC, SDN,HBD, BBT,… Không những vậy, quy định về mức có lãi ít nhất 2 năm trước khi niêm yết cũng thực sự không rõ ràng và hiệu quả trong việc sàng lọc doanh nghiệp khi mà Thị trường chứng khoán đã hoạt động được 7 năm và bắt đầu cần phải có những sự sàng lọc khắt khe hơn. Theo tiêu chuẩn của một số sàn có uy tín như Singapore hay Hong Kong, có quy định rõ mức doanh thu hay lợi nhuận cụ thể là bao nhiêu. Điều này sẽ cực kỳ hiệu quả trong việc thúc đẩy doanh nghiệp muốn niêm yết nâng cao hiệu quả hoạt động, trong việc sử dụng vốn, để dòng vốn chảy vào doanh nghiệp được sử dụng có hiệu quả hơn, nhà đầu tư cũng có thêm niềm tin, thị trường trở nên tốt hơn và có uy tín hơn. 2.2.3.2. Vấn đề công bố thông tin: TTCK, hiểu một cách bình dân nhất, chỉ là một cái chợ nơi diễn ra việc mua bán các loại chứng khoán. Mà điều kiện để một cái chợ hoạt động sôi động là cần có nhiều người bán, nhiều hàng hóa và nhiều người mua. Ở đó, người mua và người bán có thể thuận mua vừa bán, nhưng ít ra thì người mua cũng phải biết được mình đang bỏ tiền ra mua cái gì. Về phía người bán, hiện nay cả nước có khoảng 5.000 công ty cổ phần, bao gồm 2.000 DNNN cổ phần hóa và còn lại là các công ty thành lập theo luật doanh nghiệp. Chỉ cần khoảng 10% số công ty trên tham gia bán cổ phần ra chợ thì chúng ta có lượng cung cao gấp 15 lần như hiện nay. Về phía người mua, Việt Nam hiện có tổng số tiền gửi tiết kiệm tại các ngân hàng hơn 400.000 tỷ đồng, cộng với hàng chục ngàn tỷ đồng tiền mua bảo hiểm hàng năm và một lượng tiền không nhỏ đổ vào bất động sản, vàng, ngoại tệ… Nếu những khoản tiền này được đưa vào TTCK, đây là một tiềm năng rất lớn từ phía cầu của thị trường. Giá trị của cổ phiếu ảnh hưởng như thế nào? Nếu lượng tiềm năng thị trường rất lớn về cung và cầu như vậy, tại sao chúng ta chưa có số lượng trao đổi mua bán lớn. Cung và cầu chưa gặp được nhau chính bởi sự ngăn cách của bức tường thông tin. Vấn đề công bố thông tin là một vấn đề rất rộng và chứa đựng nhiều bất cập trên thị trường chứng khoán Việt Nam hiện nay. Đây là một nguyên nhân cũng khá quan trọng làm giảm đi tính hấp dẫn của thị trường chứng khoán Việt Nam trong con mắt của những nhà đầu tư quốc tế. Trong đề tài này, đề cập đến một tiêu chuẩn quan trọng nhưng hiện nay các doanh nghiệp niêm yết trên sàn chưa thực hiện tốt đó là việc công bố thông tin hàng tháng về lượng vốn đang tham gia vào các dự án, tiến độ thực hiện dự án, phần vốn đang nắm giữ tại các dự án đầu tư dài hạn – liên doanh liên kết, việc sử dụng nguồn vốn khi phát hành thêm, các cổ đông lớn hiện tại … Trên thực tế, các nhà đầu tư thường chỉ biết rõ các vấn đề này qua Đại Hội cổ đông thường niên và báo cáo thường niên. Một số doanh nghiệp lại cho rằng vấn đề này là bí mật nên cũng không công bố ra bên ngoài. Yêu cầu chính đáng của các cổ đông bị hạn chế, nhà đầu tư sẽ tiếp nhận thông tin có một độ trễ và ảnh hưởng tới quyết định đầu tư. Bởi trong môi trường tài chính hội nhập và các thị trường lớn, những vấn đề này cần được công bố thường xuyên ra bên ngoài cho nhà đầu tư, tạo điều kiện thuận lợi trong phân tích tài chính và ra quyết định đầu tư. Nguyên nhân người mua rất ít thông tin về cổ phiếu mình mua: - Thứ nhất, rất khó tìm được báo cáo tài chính của một doanh nghiệp, cần phải nhìn nhận vấn đề công khai thông tin như một điều kiện tiên quyết cho một TTCK lành mạnh. - Thứ hai, dù có được thông tin nhưng rất khó tin được là thực hư thế nào. - Thứ ba, không phải ai cũng có khả năng phân tích toàn diện thông tin mình có được. Việt Nam rất cần những tổ chức độc lập có đủ trình độ và uy tín để đánh giá đúng “sức khỏe” của doanh nghiệp. Những đánh giá chính xác và công bằng sẽ giúp cho nhà đầu tư đủ tự tin để quyết định mua hàng. Ví dụ điển hình: Vụ việc của Bà Giao Thị Yến – khi còn là Tổng Giám Đốc Quỹ đầu tư và Phát triển đô thị thành phố trong việc có quyền mua cổ phiếu của Công ty cổ phần Cơ điện lạnh (REE) và Công ty cổ phần Phát triển nhà Thủ Đức (TDH). Bà Giao Thị Yến không chấp hành quy định của Nhà nước và nghị quyết của hội đồng quản lý quỹ, tự quyết định vượt thẩm quyền trong việc bán quyền mua cổ phiếu của Công ty cổ phần Cơ điện lạnh (REE), bỏ quyền mua cổ phiếu của Công ty cổ phần Phát triển nhà Thủ Đức (TĐH); việc mua và bán cổ phần của Công ty cổ phần Chứng khoán TP, kế hoạch phát hành cổ phiếu tăng vốn điều lệ và phân bổ quyền mua cổ phiếu tại công ty này gây thiệt hại nghiêm trọng tài chính của quỹ, đặc biệt là làm giảm tỷ lệ vốn Nhà nước tại các công ty trên. Ngoài ra, do thiếu dân chủ, công khai trong quản lý điều hành của bà Yến nên dẫn đến nội bộ có nghi ngờ tiêu cực, mất đoàn kết. Bên cạnh đó, do thiếu ý thức kỷ luật, bà Yến đã vi phạm Luật Doanh nghiệp Nhà nước khi tự ý tham gia HĐQT Công ty cổ phần Cơ điện lạnh (REE). Hoặc theo báo cáo tài chính công bố của các doanh nghiệp hiện nay phải làm theo mẫu của bộ tài chính cũng thể hiện nhiều bất cập do mỗi ngành có những đặc trưng riêng về các chỉ tiêu tài chính. Trong báo cáo tài chính của Công ty cổ phần Thủy sản số 1 có khoản mục Đầu tư tài chính 30 tỷ, hầu hết các nhà đầu tư đều hiểu rằng đây là khoản mục mua cổ phiếu nhưng thực chất là gửi tiền vào ngân hàng vì ngay cả thuyết minh báo cáo tài chính cũng không được trình bày trong Đại hội cổ đông. Điều này phần nào có trách nhiệm của công ty kiểm toán dù rằng công ty kiểm toán này nằm trong danh mục công ty kiểm toán mà UBCKNN chấp nhận, nên cần nâng cao việc kiểm tra, giám sát và thường xuyên đánh giá chất lượng của các công ty kiểm toán cũng như kiểm toán viên hiện nay. Không chỉ có công ty này, mà nhiều doanh nghiệp khác cũng không công bố thuyết minh báo cáo tài chính cho cổ đông khi mà bảng cân đối kế toán, kết quả kinh doanh chưa phản ánh được hết bản chất của tình hình tài chính, sản xuất kinh doanh trong doanh nghiệp. Cổ đông càng bức xúc hơn khi khoản tiền gửi tiết kiệm này là vốn phát hành thêm từ năm 2007. Doanh nghiệp tăng vốn khi chưa có phương án sử dụng hiệu quả, cổ đông không nắm bắt được thông tin từ doanh nghiệp một cách rõ ràng, … qua đây cũng thấy thêm được bất cập từ tiêu chuẩn niêm yết hiện nay. 2.2.3.3. Đánh giá về chất lượng của kế toán, kiểm toán Việt Nam: Hiện tại, Bộ Tài chính đã ban hành Chuẩn mực kế toán – kiểm toán của Việt Nam. Về cơ bản, các chuẩn mực đã đáp ứng được nhu cầu hướng dẫn trong quá trình lập báo cáo tài chính. Tuy nhiên, với xu thế đầu tư nước ngoài gia tăng trong điều kiện hội nhập, các tập đoàn đa quốc gia có cơ sở tại Việt Nam thường yêu cầu các chi nhánh hoặc công ty con tại Việt Nam trình bày Báo cáo tài chính phù hợp với Chuẩn mực báo cáo tài chính quốc tế (IFRSs). Đây là một điều khó cạnh tranh đối với các công ty kiểm toán Việt Nam so với các công ty kiểm toán nước ngoài bởi:  Hệ thống luật pháp liên quan tới hoạt động dịch vụ kiểm toán và kế toán của Việt Nam chưa thật hoàn chỉnh và đồng bộ; Trình độ tổ chức kinh doanh dịch vụ kiểm toán và kế toán của các công ty kiểm toán còn nhiều hạn chế; sự cạnh tranh giữa các công ty kiểm toán còn mang nặng lợi ích kinh tế cục bộ; Nhà nước chưa có hướng dẫn thống nhất qui trình nghiệp vụ kỹ thuật, chưa thực hiện các biện pháp quản lý và chưa có qui chế về kiểm soát chất lượng hoạt động kiểm toán…  Chuẩn mực kế toán - kiểm toán của Việt Nam vẫn còn nhiều bất cập, có nhiều khác biệt so với chuẩn mực kế toán - kiểm toán quốc tế nên gây khó khăn cho việc báo cáo và quản lý của các công ty nước ngoài.  Qui mô thị trường kiểm toán còn nhỏ, chưa tương xứng với tiềm năng và tốc độ tăng trưởng của kinh tế - xã hội. Trong mấy năm qua, các công ty kiểm toán mới được thành lập nhiều dẫn đến sự cạnh tranh giữa các công ty kiểm toán ngày càng gay gắt, cả về chất lượng dịch vụ và giá phí. Khách hàng kiểm toán là công ty cổ phần, công ty TNHH và tư nhân còn rất ít do Luật Doanh nghiệp chưa qui định bắt buộc phải kiểm toán báo cáo tài chính cùng với sự hiểu biết của các doanh nghiệp về lĩnh vực này còn hạn chế nên khách hàng tìm đến các công ty kiểm toán chủ yếu là bị bắt buộc theo yêu cầu của luật định chứ không phải do tự nguyện.  Một trong những lý do khiến cho hoạt động kiểm toán chưa đạt chất lượng là do công tác kiểm tra vẫn còn một số tồn tại. Nội dung kiểm tra chưa đi vào thực chất, còn mang tính hình thức hành chính, nặng về kiểm tra các loại giấy phép, chứng chỉ; qui trình và nội dung kiểm tra chưa nhất quán do chưa có văn bản về qui chế và qui trình kiểm soát chất lượng dịch vụ kế toán, kiểm toán... KẾT LUẬN CHƯƠNG 2 Quy mô TTCK của Việt Nam vẫn còn nhỏ so với các nước, chỉ chiếm 31% GDP (cập nhật đến ngày 01/10/2007), trong khi mức bình quân của các quốc gia trong khu vực khoảng 40% GDP. Nhìn chung, ngoại trừ một số công ty lớn, lĩnh vực kinh doanh tương đối ổn định, có mức tăng trưởng đều qua các năm (khoảng trên 10 công ty), còn lại phần lớn các công ty niêm yết vẫn chưa phải là đại diện tiêu biểu cho các ngành kinh tế đóng góp tỷ trọng lớn vào GDP của Việt Nam. Chính vì vậy, chỉ số giá cổ phiếu VN-Index tăng, giảm thất thường và chưa trở thành phong vũ biểu của nền kinh tế. TTCK trong thời gian qua vẫn chưa đảm bảo sự tăng trưởng bền vững. Hơn nữa, tiêu chuẩn niêm yết hiện nay còn tồn tại không ít vướng mắc, không ít vấn đề chưa phù hợp và chưa có được một tiêu chuẩn định lượng đối với các chỉ tiêu cần định lượng nên TTCK chưa thể phát triển bền vững được. Như vậy, qua 2 chương vừa nghiên cứu, chúng ta đã thấy được những bất cập của tiêu chuẩn hiện tại, đồng thời cũng nhận ra được những điểm mạnh trong các quy định, tiêu chuẩn niêm yết của một số thị trường trong khu vực, tạo cơ sở để xây dựng nên hệ thống tiêu chuẩn mới cho TTCK Việt Nam ở chương tiếp theo nhằm nâng cao chất lượng cho TTCK Việt Nam và cho các doanh nghiệp niêm yết. CHƯƠNG 3: XÂY DỰNG TIÊU CHUẨN NIÊM YẾT CHO TTCK VIỆT NAM TỪ 2010 – 2020 Trong bối cảnh tình hình Việt Nam hiện nay đang từng bước xây dựng và phát triển thị trường chứng khoán, việc nghiên cứu tiêu chuẩn niêm yết của một số nước trong khu vực và trên thế giới như: Singapore, EURONEXT, London, Hong Kong… đã đem lại những kinh nghiệm bổ ích trong việc xây dựng một hệ thống tiêu chuẩn niêm yết cho Việt Nam nói chung và Sở giao dịch chứng khoán TP.Hồ Chí Minh nói riêng. 3.1. Nâng cao tiêu chuẩn niêm yết cho Sở GDCK TP.HCM (HOSE): Theo mục tiêu của Nhà nước phát triển thị trường vốn đa dạng để đáp ứng nhu cầu huy động vốn và đầu tư của mọi đối tượng trong nền kinh tế. Phấn đấu đến năm 2010 giá trị vốn hoá thị trường chứng khoán đạt 50% GDP và đến năm 2020 đạt 70% GDP. Với đề án này sẽ từng bước hoàn chỉnh cấu trúc của thị trường vốn, đảm bảo khả năng quản lý, giám sát của Nhà nước. Trong đó có phát triển TTCK theo nhiều cấp độ để đáp ứng nhu cầu phát hành cổ phiếu, niêm yết, giao dịch của nhiều loại hình doanh nghiệp và đảm bảo khả năng quản lý, giám sát của Nhà nước theo hướng tách biệt thị trường giao dịch tập trung, thị trường giao dịch phi tập trung (OTC), thị trường đăng ký phát hành, giao dịch cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Từ việc nghiên cứu những mô hình hoạt động của những nước trên thế giới kết hợp với tình hình, điều kiện của TTCK Việt Nam hiện nay, chúng tôi xây dựng cho HOSE 2 khu vực niêm yết: - Khu vực 1 (main board): dành cho những công ty lớn, đáp ứng tốt các yêu cầu khắt khe của sàn này về vốn điều lệ, lợi nhuận hàng năm, tốc độ tăng trưởng, tính minh bạch về thông tin đưa ra công chúng … - Khu vực 2 (second board): có tiêu chuẩn niêm yết ít khắt khe hơn sàn chính (maim board), dành cho những công ty vừa và nhỏ, chưa đáp ứng được đầy đủ yêu cầu đặt ra của sàn chính (main board). 3.1.1. Những cơ sở phân tích để đưa ra tiêu chuẩn niêm yết: - Đánh giá năng lực tài chính của các doanh nghiệp hiện đang niêm yết trên sàn và những doanh nghiệp hiện tại đang có nhu cầu niêm yết. - Đánh giá hiệu quả hoạt động của những doanh nghiệp còn có vốn điều lệ nhỏ hiện đang niêm yết. - Đánh giá hiệu quả hoạt động của sàn giao dịch (quan hệ cung cầu) đặt ra yêu cầu cần phải sàng lọc những doanh nghiệp có hiệu quả hoạt động tốt để nâng cao chất lượng của sàn. - So sánh với các sàn trong khu vực và trên thế giới để đưa ra tiêu chuẩn tương đượng với các sàn có uy tín và hiệu quả thu hút vốn cao. - Phù hợp với những định hướng và chiến lược phát triển TTCK trong tương lai của chính phủ … 3.1.2. Tiêu chuẩn niêm yết: Tính đến tháng 4 năm 2008 trên SGDCK TP.HCM có tổng cộng 154 công ty niêm yết, hầu hết là những doanh nghiệp cổ phần hóa có quy mô vốn nhỏ, chỉ có khoảng 61 công ty có vốn điều lệ trên 100 tỷ đồng. Tuy nhiên, theo thông kê đến tháng 4 năm 2008 có tổng cộng 174 công ty đại chúng có mức vốn điều lệ trên 100 tỷ đồng. Trong đó từ 100 – dưới 500 tỷ có 124 công ty, từ 500 – 1.000 tỷ có 30 công ty, trên 1.000 tỷ có 20 công ty. Những công ty này đang có nhu cầu được niêm yết trên TTCK. Về lâu dài, chứng khoán được niêm yết trên HOSE phải là hàng hóa có chất lượng cao, đảm bảo tính thanh khoản và hấp dẫn nhà đầu. Do vậy, tiêu chuẩn về quy mô vốn được xây dựng bao gồm: 3.1.2.1. Tiêu chuẩn quy mô vốn điều lệ:  Đối với những công ty nhóm 1 niêm yết trên sàn chính (main board): Là công ty cổ phần có vốn điều lệ đã góp tại thời điểm đăng ký niêm yết từ 100 tỷ đồng Việt Nam trở lên tính theo giá trị ghi trên sổ kế toán. Bảng 3.1: Danh sách một số công ty đại chúng có vốn điều lệ trên 1.000 tỷ (chưa niêm yết tính đến 20/04/2008): Tên công ty Vốn điều lệ NHTM CP Đại Dương 1,000,000,000,000 NH TMCP Quốc tế Việt Nam 1,000,000,000,000 CTCP Tập đoàn HANAKA 1,000,000,000,000 NHTM CP An Bình 1,131,950,500,000 CTCP Thuỷ điện miền Trung 1,200,000,000,000 NHTMCP Sài Gòn 1,200,000,000,000 NHTM CP Nhà Hà Nội 1,260,000,000,000 NHTM CP Phương Nam 1,290,789,000,000 NHTM CP Đông Á 1,400,000,000,000 NH TMCP Kỹ Thương Việt Nam 1,500,000,000,000 CTCP Xuất nhập khẩu và Xây dựng Việt Nam 1,500,000,000,000 Tổng CTy XNK & Xây dựng Việt Nam 1,500,000,000,000 Ngân hàng TMCP Xuất nhập khẩu Việt Nam 1,870,124,000,000 Tập Đoàn Bảo Việt 5,730,266,050,000 CTCP Dịch vụ hỗ trợ doanh nghiệp và tư vấn đầu tư 250,000,000,000,000 Nguồn: Ủy ban chứng khoán nhà nước (SSC)  Đối với những công ty nhóm 2 niêm yết trên sàn thứ 2 ( second board): Là công ty cổ phần có vốn điều lệ đã góp tại thời điểm đăng ký niêm yết từ 80 tỷ đồng Việt Nam trở lên tính theo giá trị ghi trên sổ kế toán. Nếu không đủ tiêu chuẩn này thì doanh nghiệp phải đạt chỉ tiêu về lợi nhuận. Do hiện nay trên sàn HOSE vẫn còn tồn tại rất nhiều công ty niêm yết nhưng có kết quả hoạt động kinh doanh quá kém, hầu như không có được sự tăng trưởng như mong đợi trước khi niêm yết dù rằng các công ty này đã có thời gian niêm yết trên sàn HOSE trên 2 năm bởi họ nhận được khá nhiều ưu đãi của Nhà nước khi niêm yết trên sàn này. Nếu tình trạng này cứ kéo dài thì chính sự ưu ái này sẽ làm giảm đi chất lượng của sàn HOSE nói riêng, của TTCK nói chung và ảnh hưởng luôn cả tiêu chuẩn niêm yết của HOSE. Một giải pháp được đưa ra là sắp xếp lại chất lượng của các công ty niêm yết rồi chuyển các công ty không có sự tiến bộ lớn sau khi niêm yết cũng như không có khả năng đáp ứng được các tiêu chuẩn mới của sàn HOSE sau một lộ trình điều chỉnh của UBCKNN sang sàn thứ hai. 3.1.2.2. Lịch sử hoạt động, khả năng sinh lời và tiềm năng tương lai: Tiêu chuẩn này quy định một công ty niêm yết phải có một nền tảng kinh doanh đầy đủ và phát triển trước khi niêm yết. Thông thường để được niêm yết, các doanh nghiệp phải chứng minh được khả năng phát triển của mình trong tương lai qua các phương án hoạt động sản xuất kinh doanh và định hướng phát triển trong các năm tới có triển vọng thực hiện; đồng thời ít nhất một số năm liền trước đó doanh nghiệp luôn đạt được tốc độ tăng trưởng khả quan. Tùy thuộc vào đặc trưng của từng nước và trong từng thời kỳ mà thị trường các nước có những qui định riêng phù hợp. Từ sự nghiên cứu những thị trường khu vực và trên thế giới, kết hợp với tình hình kinh tế của Việt Nam hiện nay, tôi đề xuất tiêu chuẩn niêm yết này như sau:  Đối với những công ty nhóm 1 (main board): Lợi nhuận trước thuế hợp nhất tích luỹ đạt ít nhất 60 tỷ đồng trong vòng 3 năm và lợi nhuận trước thuế hợp nhất tối thiểu mỗi năm là 15 tỷ đồng.  Đối với những công ty nhóm 2 (second board): Yêu cầu các doanh nghiệp trước khi thực hiện niêm yết phải có 3 năm liền trước hoạt động kinh doanh có lãi và có tốc độ tăng trưởng vốn cổ phần tối thiểu là 10% hàng năm. Tiêu chuẩn chung: Ngoài ra doanh nghiệp đó không có các khoản nợ chưa được dự phòng; phải công khai mọi khoản nợ với thành viên hội đồng quản trị, ban giám đốc, cổ đông lớn và những người có liên quan. 3.1.2.3. Ban quản lý công ty: Hội đồng quản trị, Ban giám đốc điều hành, Ban kiểm soát … phải có đủ năng lực điều hành, đảm bảo tính độc lập và không có xung đột về lợi ích Đối với những công ty nhóm 1: Ban giám đốc phải liên tục trong 3 năm Đối với những công ty nhóm 2 : 1 hay 2 năm tùy trường hợp. 3.1.2.4. Tỷ lệ phân bổ cho cổ đông: Để duy trì tính thanh khoản ở một mức độ hợp lý, tỷ lệ phát hành ra bên ngoài phải đạt 30% - 50% vốn cổ phần và cho ít nhất 100 nhà đầu tư. 3.1.2.5. Thời hạn ràng buộc chuyển nhượng: Cổ đông là thành viên hội đồng quản trị, ban giám đốc, ban kiểm soát và kế toán trưởng của công ty phải cam kết nắm giữ 100% số cổ phiếu do mình sở hữu trong thời gian 6 tháng kể từ ngày niêm yết và 50% số cổ phiếu này trong thời gian 6 tháng tiếp theo, không tính số cổ phiếu thuộc sở hữu Nhà nước do các cá nhân trên đại diện nắm giữ. 3.1.2.6. Chuẩn mực kiểm toán: Chuẩn mực áp dụng theo đúng chuẩn mực hiện hành của Việt Nam hoặc theo chuẩn mực của quốc tế. 3.1.2.7. Công bố thông tin vốn cổ phần: Doanh nghiệp cần thường xuyên cung cấp thông tin ra công chúng về: số lượng cổ đông, tỷ lệ sở hữu cổ phần của công ty kịp thời và chính xác để bảo vệ cổ đông công ty cũng như nhà đầu tư. 3.1.2.8. Những điều kiện khác: Nhận định đánh giá của tổ chức bảo lãnh phát hành, tư vấn đối với tổ chức đăng ký niêm yết là có triển vọng tốt. Tổ chức công bố thông tin: có bộ máy công bố thông tin nội bộ hoàn chỉnh và có bộ phận quan hệ với người đầu tư nhằm đảm bảo cũng câp thông tin nhanh chóng, chính xác ra thị trường. KẾT LUẬN CHƯƠNG 3 Tính đến cuối năm 2007, tại sàn HOSE có gần 60 doanh nghiệp có vốn điều lệ nhỏ hơn 80 tỷ, do đó theo luật chứng khoán mới thì các công ty phải chịu thêm áp lực tăng vốn để đảm bảo đủ vốn theo tiêu chuẩn mới là hơn 2.358 tỷ. Mặt khác, một số doanh nghiệp trên OTC cũng chuẩn bị niêm yết như Exim, Hoàng Anh Gia Lai, … để thu hút vốn sẽ hút một lượng vốn rất lớn. Do đó, việc nâng tiêu chuẩn niêm yết là một việc cần thiết để cân bằng hơn trong cung cầu và đưa thị trường dần ổn định, phát triển bền vững hơn. Với tiêu chuẩn niêm yết mới, chúng tôi đã khắc phục một số khuyết điểm của tiêu chuẩn hiện tại như lượng hóa chỉ tiêu về lợi nhuận, tốc độ tăng trưởng của doanh nghiệp, đồng thời đề ra giải pháp để tiêu chuẩn niêm yết mới có thể thực thi tốt đối với tình hình rối rắm các doanh nghiệp niêm yết trên sàn HOSE và HASTC, tạo tiền đề để TTCK phát triển bền vững hơn. Một khi TTCK phát triển mạnh, sẽ có nhiều cơ hội sẽ đến với Việt Nam và thúc đẩy nền kinh tế Việt Nam phát triển mạnh mẽ hơn nữa. Đó là cơ hội thu hút các doanh nghiệp của nước ngoài đến Việt Nam niêm yết, quảng bá hình ảnh một đất nước Việt Nam có một thị trường tài chính phát triển giúp cho dòng vốn gián tiếp vào Việt Nam tăng cao sẽ thúc đẩy các ngành kinh tế khác phát triển. Và một tương lai không xa, VN-Index sẽ có mặt trên các bản tin tài chính uy tín, sánh ngang với những Hang Seng, NIKKEI, S&P … KẾT LUẬN TTCK Việt Nam đang trong giai đoạn chuyển biến để trở thành một bộ phận của thị trường tài chính trong khu vực và trên thế giới. Một TTCK hiện đại và hội nhập phải đi kèm với chất lượng của những công ty niêm yết. Vì nó có ý nghĩa quan trọng trong thúc đẩy tính hiệu quả của việc đầu tư kinh doanh chứng khoán và là lực đẩy cho sự phát triển của TTCK trong tương lai. Trải qua hơn 7 năm vận hành và phát triển, TTCK Việt Nam cũng đã có những thay đổi mang tính bước ngoặt quan trọng. Mục tiêu phát triển của TTCK hiện nay là tăng nhanh qui mô thị trường thông qua tăng cung hàng hóa có qui mô và chất lượng. Như vậy, với đề tài này, chúng ta phải giải quyết được vấn đề: “Làm sao để chọn lựa được những công ty thật sự có chất lượng để niêm yết?”. Với mong muốn nghiên cứu đóng góp, đề xuất những giải pháp nhằm hoàn thiện hệ thống tiêu chuẩn niêm yết, chúng tôi hy vọng rằng đề tài này sẽ góp phần xây dựng TTCK Việt Nam theo định hướng và mục tiêu của Chính phủ đề ra trong giai đoạn hội nhập. Tuy nhiên, vấn đề khó khăn là TTCK Việt Nam hiện nay đang trong quá trình hình thành, phát triển và còn quá nhỏ so với các thị trường chứng khoán trên thế giới, nên việc áp dụng những giải pháp chúng tôi đề ra sẽ gặp nhiều trở ngại. Mặt khác, trong đề tài này không tránh khỏi hạn chế vì chúng tôi chỉ xây dựng tiêu chuẩn niêm yết cho sàn HOSE, còn tiêu chuẩn cho sàn HASTC và thị trường OTC cùng với tiêu chuẩn dành cho các doanh nghiệp nước ngoài niêm yết trên TTCK Việt Nam khi TTCK Việt Nam phát triển mạnh hơn nữa sẽ là hướng nghiên cứu tiếp cho chúng tôi và những người quan tâm. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Bộ Tài chính, Luật Doanh Nghiệp - Những Quy Định Mới Nhất Về Cổ Phần Hoá, Quản Lý Tài Chính, Doanh Thu, Chi Phí Hợp Lý, NXB Lao động Xã hội, tháng 6/2007. 2. Thủ Tướng Chính Phủ - Nguyễn Tấn Dũng, Quyết định: 128/2007/QĐ-TTg – Về việc phê duyệt phát triển thị trường vốn Việt Nam đến năm 2010 và tầm nhìn 2020, Hà Nội, tháng 8/2007. 3. Nguyễn Đình Thiêm, Luật chứng khoán và văn bản hướng dẫn thực hiện, NXB Lao động Xã hội, tháng 3/2007. 4. Ủy Ban Chứng khoán Nhà nước, “Báo cáo hoạt động TTCK năm 2007, giải pháp phát triển TTCK năm 2008”. 5. TS. Trần Xuân Hà, “Phát triển thị trường chứng khoán và những vấn đề về thu hút vốn đầu tư trong và ngoài nước”, Chứng khoán Việt Nam, số 7/2004 6. Vụ Quản lý Phát hành chứng khoán – UBCKNN, “Công tác tạo hàng cho TTCK Việt Nam – Một số tồn tại và kiến nghị”, Chứng khoán Việt Nam, số 7/2004. 7. BIDV Securities Company, “ VietNam Securities Market Report - 2007 Revisited and Outlook for 2008”, 2008. 8. Trung tâm thông tin tín dụng (CIC), “Xếp hạng tín dụng các doanh nghiệp niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam”, Nhà xuất bản Lao Động năm 2007. 9. Sở giao dịch chứng khoán Singapore - Singapore Exchange Limited, internet: www.sgx.com 10. Sở giao dịch chứng khoán London - London Stock Exchange, internet www.londonstockexchange.com 11. Sở giao dịch chứng khoán Hong Kong - The Hong Kong Stock Exchange, internet: www.hkex.com.hk 12. Sở giao dịch chứng khoán Châu Âu – EURONEXT, internet: www.euronext.com 13. Sở giao dịch chứng khoán Tp.Hồ Chí Minh, internet: www.vse.org.vn 14. Trung tâm giao dịch chứng khoán Hà Nội, internet: www.hastc.org.vn 15. Ủy ban chứng khoán Nhà nước, internet: www.ssc.gov.vn 16. Malaysia Stock Exchange, www.biz.thestar.com.my. 17. Thailand Stock Exchange, internet: www.set.org.th. 18. Khoa Tài chính doanh nghiệp – ĐH Kinh Tế Tp.HCM, internet: www.cfo.com.vn …

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfBai hoan chinh.pdf
  • pdfphu luc.pdf
Luận văn liên quan